Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHÍ VĂN LIỆU
SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
(1988 - 2005)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHÍ VĂN LIỆU
SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
(1988 - 2005)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988 - 2005), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY TIẾN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lịch sử và
các Giảng viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình
truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Với lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
TS. Nguyễn Duy Tiến - Người thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh
Vĩnh Phúc, Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Lê Xoay và các thầy
cô giáo trong trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Văn
phòng tỉnh uỷ Thái Nguyên, Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên, Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên, Chi cục Thống kê
tỉnh Thái Nguyên … đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số
liệu để hoàn thành Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Phí Văn Liệu
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
ĐB : Đồng bằng
HN : Hà Nội
Nxb : Nhà xuất bản
m, s, th (
’’
’’ ’’
) : Mẫu, sào, thước
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................................................................................................... 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
NỘI DUNG ................................................................................................................................................................................................................ 10
Chương 1: TÌNH HÌNH SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở THÁI
NGUYÊN TRƯỚC NĂM 1988 ...................................................................................................................... 10
1.1. Vài nét về tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................................................. 10
1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất ở Thái Nguyên trước năm 1988 .................... 18
1.3. Phương thức khai thác ruộng đất ............................................................................................................... 46
Chương 2: SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở THÁI NGUYÊN SAU
KHOÁN 10 (1988 – 2005) ..................................................................................................................................... 57
2.1. Những chuyển biến về sở hữu ruộng đất ...................................................................................... 57
2.2. Phương thức khai thác ruộng đất ............................................................................................................... 85
2.3. Một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân .......................................................................................................................................... 99
KẾT LUẬN ...........................................................................................................................................................................................................109
Tài liệu tham khảo ...................................................................................................................................................................................114
Phụ lục
DANH MỤC BIỂU
Biểu 1: Số dân di cư đến Thái Nguyên từ 1930 đến 1938 ......................................................................... 17
Biểu 2: Các đồn điền đầu tiên của người Pháp ở Thái Nguyên ..................................................... 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Biểu 3: Các đồn điền của người Việt ở Thái Nguyên đến năm 1945 21
Biểu 4: Ruộng đất 7 đồn điền của Pháp và Việt gian phản động bỏ chạy
đem tạm cấp cho nông dân năm 1950 .................................................................................................................. 22
Biểu 5: Tỷ lệ số địa chủ phát canh thu tô và thuê mướn nhân công ....................................... 24
Biểu 6: Chiếm hữu ruộng đất của địa chủ và sự chuyển dịch ruộng đất
trước cái cách ruộng đất ...................................................................................................................................................................... 25
Biểu 7: Chiếm hữu ruộng đất của phú nông (năm 1945) ............................................................................... 26
Biểu 8: Biến động ruộng đất của phú nông qua các thời kỳ .................................................................. 26
Biểu 9: Sở hữu ruộng đất của trung nông, bần nông và cố nông (năm
1945) ............................................................................................................................................................................................................................................. 28
Biểu 10: Sở hữu ruộng đất của nông dân qua các thời kỳ .......................................................................... 30
Biểu 11: Số ruộng đất chia cho nông dân 75 xã cải cách ruộng đất ..................................... 32
Biểu 12: Diện tích ruộng đất công tại 75 xã trước cải cách ruộng đất ............................ 33
Biểu 13: Tình hình hợp tác hoá nông nghiệp ở Thái Nguyên qua các năm........... 40
Biểu 14 : Diện tích cây lương thực ở Thái Nguyên qua các năm ............................................. 51
Biểu 15: Diện tích, năng suất và sản lượng chè ở Thái Nguyên qua một số
năm ..................................................................................................................................................................................................................................................... 52
Biểu 16: Tình hình hợp tác hoá nông nghiệp qua các năm ..................................................................... 68
Biểu 17: Tình hình sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên từ 1996- 2005 .............................. 78
Biểu 18: Các loại đất nông nghiệp ở Thái Nguyên năm 2005 ......................................................... 80
Biểu 19: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa ở Thái Nguyên từ 1990 đến
2005 ................................................................................................................................................................................................................................................ 82
Biểu 20: Bình quân lương thực trên đầu người trên năm ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, cả nước và Thái
Nguyên ....................................................................................................................................................................................................................................... 84
Biểu 21: Diện tích đất lúa và lúa màu của huyện Đại Từ năm 2000 ............................................... 86
Biểu 22: Diện tích đất trồng lúa, lúa màu huyện Võ Nhai năm 2000 ............................................ 87
Biểu 23: Diện tích các loại cây trồng ...................................................................................................................................................... 90
Biểu 24: Diện tích cây lương thực có hạt ở Thái Nguyên từ 2000 - 2005 ............. 91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Biểu 25: Diện tích gieo trồng và sản lượng cây lạc, đậu tương ở Thái
Nguyên qua các năm. .................................................................................................................................................................................. 92
Biểu 26: Diện tích và sản lượng chè ở Thái Nguyên từ 1995 đến 2005 ........................ 93
Biểu 27: Diện tích một số loại cây ăn quả ở Thái Nguyên từ 1995 đến 2005 .............. 96
Biểu 28: Số trang trại phân theo huyện thành phố, thị xã .......................................................................... 98
Biểu 29: Đất ruộng lúa, lúa màu ở Thái Nguyên năm 2005 ............................................................ 121
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ruộng đất - tư liệu sản xuất quan trọng, thứ tài sản quý giá của cư dân
nông nghiệp. Ở Việt Nam, tuyệt đại đa số cư dân sống chủ yếu bằng nghề
trồng lúa nước, cho nên ruộng đất càng trở nên quan trọng và quý giá. Trong
thời kỳ phong kiến Việt Nam, Nhà nước phong kiến luôn luôn quan tâm đến
vấn đề ruộng đất. Các vương triều phong kiến Việt Nam đều coi vấn đề ruộng
đất có tầm quan trọng đặc biệt và luôn đề ra được những chính sách để nắm
được ruộng đất. Thông qua việc nắm ruộng đất trong tay, Nhà nước phong
kiến lấy đó làm nguồn thu thuế, làm bổng lộc, lương cho đội ngũ quan lại và
binh lính, đồng thời giải quyết được một phần những đòi hỏi của nông dân -
lực lượng chiếm đông đảo và quan trọng nhất của xã hội nhằm tạo ra sự bình
ổn cho đất nước.
Từ cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã tiến hành xâm lược và đặt ách
cai trị lên đất nước ta. Dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác, bóc lột tàn
bạo của đế quốc Pháp cùng với việc bao chiếm ruộng đất của giai cấp địa chủ
phong kiến đã làm cho sở hữu ruộng đất của người nông dân ngày càng bị thu
hẹp. Nông dân phần lớn rơi vào tình cảnh hoặc là có ít ruộng đất hoặc không
có ruộng đất để canh tác, nên nguồn sống chính của họ phải đi lĩnh canh
ruộng đất, đi làm thuê cho gia đình địa chủ. Bởi vậy, khát vọng có ruộng đất
để làm ăn đi liền với độc lập dân tộc càng trở nên bức thiết với nông dân.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đề ra nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến để giành lại độc lập cho dân tộc và ruộng
đất cho dân cày, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ chống đế quốc. Với đường lối
cách mạng đúng đắn như trên đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nông
dân và các tầng lớp xã hội khác, làm nên thắng lợi của cuộc cánh mạng tháng
Tám 1945, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Sau khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Đảng và Chính phủ
ta rất quan tâm đến vấn đề ruộng đất và từng bước có những chính sách nhằm
đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Thông qua những chính sách ruộng
đất tích cực đó của Đảng và Chính phủ có tác dụng bồi dưỡng sức dân, kích
thích nông dân hăng hái đóng góp nhanh nhất, nhiều nhất sức người, sức của
cho cuộc kháng chiến, làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1954).
Sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Đảng và Chính phủ ta đã
đề ra nhiều chính sách trong lĩnh vực ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn.
Đáng chú ý nhất là từ năm 1958 trở đi, Đảng chủ trương tiến hành tập thể hoá
nông nghiệp. Theo đó, toàn bộ miền Bắc Việt Nam nói chung và tỉnh Thái
Nguyên nói riêng, hầu hết ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều được
tập thể hoá và đặt dưới sự quản lý của hợp tác xã. Với tư cách là đại diện cho
thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã đứng ra quản lý hầu hết đất đai, đặc biệt
là đất nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình tập thể hoá nông nghiệp, bên
cạnh những mặt tích cực còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế, nhất là khâu quản lý
và tổ chức sản xuất. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho năng
suất và sản lượng nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên chưa cao, đời sống nhân
dân gặp rất nhiều khó khăn.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được triệu tập tại
Hà Nội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Kể từ đó, nền kinh tế
nói chung và nền kinh tế nông nghiệp nước ta nói riêng có những bước
chuyển biến mạnh mẽ với mức tăng trưởng hàng năm ngày càng tăng. Một
trong những yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp ở
nước ta trong những năm qua bắt nguồn từ chính sách đổi mới trong quan hệ
sở hữu và sử dụng ruộng đất.
Trước yêu cầu đổi mới và để tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp,
ngày 5/4/1988, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (Khoá VI) về Đổi mới quản lý
nông nghiệp (gọi tắt là Khoán 10) đã ra đời. Theo đó, ruộng đất vẫn thuộc sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
hữu tập thể nhưng người nông dân có quyền sử dụng ổn định, lâu dài tuỳ
theo loại cây canh tác. Người nông dân bên cạnh quyền chủ động sử dụng
ruộng đất vào mục đích sản xuất kinh tế theo quy định của Nhà nước còn có
quyền chuyển đổi, sang nhượng, cho thuê, thế chấp ruộng đất. Như thế, về
thực chất ruộng đất đã chuyển từ chế độ sở hữu tập thể sang chế độ công hữu
tư dụng (tức là sở hữu tư nhân hạn chế).
Thái Nguyên là một trong mười ba tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có
vị trí rất quan trọng, là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị của vùng
Đông Bắc Bắc Bộ, là vùng nối giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với đồng bằng
châu thổ sông Hồng. Kể từ sau Khoán 10 (năm 1988), năng suất lúa ở Thái
Nguyên đã tăng lên gần ba lần so với năm 1990, đưa sản lượng lúa thu được
đạt 322 153 tấn (năm 2005) [34,119]. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự biến
đổi về năng suất và sản lượng lúa ở Thái Nguyên từ sau Khoán 10 đến năm
2005 là bắt nguồn từ sự thay đổi về hình thức sở hữu và quan hệ sử dụng
ruộng đất. Chính sự thay đổi về diện tích, đặc biệt là sự thay đổi về hình thức
sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất là một trong những nhân tố quan trọng
tạo nên sự biến đổi về năng suất và sản lượng lúa ở Thái Nguyên. Nhưng,
hình thức sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên đã thay đổi
như thế nào và nó có tác động gì đối với những chuyển biến trong sản xuất
nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên từ sau Khoán 10 (năm 1988) đến năm 2005
là một vấn đề lớn và rất quan trọng còn đang bỏ ngỏ. Nếu tìm hiểu được vấn
đề này sẽ góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính sách có cái nhìn đúng
đắn và đề ra được những chính sách phù hợp để thúc đẩy nền nông nghiệp
phát triển, đồng thời giúp nông dân Thái Nguyên sử dụng ruộng đất - thứ tài
sản quý giá một cách hợp lý hơn để tăng năng suất và sản lượng cây trồng.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học hay một tài liệu
chuyên khảo nào nghiên cứu một cách chi tiết, hệ thống về vấn đề này.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sở hữu và sử
dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988 – 2005)” làm luận văn thạc sỹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay, vấn đề ruộng đất đã được trình bày trong nhiều tác
phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng ta và các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội.
Về lịch sử chế độ ruộng đất thời kỳ cổ trung đại và cận đại có các
chuyên khảo của các tác giả như: Phan Huy Lê: Chế độ ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1959; Trương Hữu
Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI – XVII, Nxb Khoa học xã hội,
Tập 1, HN, 1982, Tập II, HN, 1983; Vũ Huy Phúc: Tìm hiểu về chế độ ruộng
đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1979; …
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trước hết
phải kể đến tác phẩm: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng
Việt Nam, Nxb Sự Thật, HN, 1965 của đồng chí Lê Duẩn; Vấn đề dân cày,
Đức Cường, xuất bản năm 1937 của Qua Ninh và Vân Đình (Trường Chinh
và Võ Nguyên Giáp); Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nxb Sự Thật,
HN, 1975 của đồng chí Trường Chinh … Bên cạnh đó, có nhiều tác phẩm của
các nhà nghiên cứu như: Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân
trước Cách mạng Tháng Tám, Nxb Sự thật, HN, 1959 của Nguyễn Kiến
Giang; Kinh tế nông nghiệp Đông Dương, HN, 1932 của Yvơ-Hăng Ri; Nông
dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa học xã hội,Tập I, HN,
1990, Tập II, 1992
Về vấn đề ruộng đất và nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đổi mới
có những tác phẩm như: Thực trạng nông nghiệp nông thôn và nông dân Việt
Nam từ 1976 đến 1990, Nxb Thống Kê, HN, 1991 của Nguyễn Sinh Cúc;
Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng
trong thời kỳ đổi mới (qua khảo sát một số làng xã), Nxb Chính trị quốc gia,
HN, 2001 của Nguyễn Văn Khánh; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1999 của Trương Thị Tiến;
Vấn đề sở hữu và sử dụng ruộng đất trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 1999 của Hoàng Việt (Chủ
biên). Ngoài ra, còn có nhiều bài viết trên các Tạp chí như: Một số vấn đề
ruộng đất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp của
Nguyễn Điền, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 238, tháng 3/1998; Mấy suy
nghĩ về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ từ góc độ sở hữu của Trương Hữu
Quýnh, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 năm 1993; Những biện pháp tích cực
nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng đồng bằng sông
Hồng của Vũ Phạm Quyết Thắng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 215 tháng 4
năm 1996; …
Về vấn đề “Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên (1988
– 2005)” mới chỉ được trình bày một cách sơ lược ở các cuốn sách như: “Quá
trình thực hiện quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1945-
1957)”, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2002 của Nguyễn Duy Tiến, “Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Bắc Thái”, Xuất bản 1980; “Lịch sử Đảng bộ huyện Đại Từ”,
Xuất bản năm 1990; “Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ”, Xuất bản năm 1996;
“Lịch sử Đảng bộ huyện Phổ Yên”, Xuất bản năm 1990; “Lịch sử đảng bộ
huyện Phú Bình”, Đảng bộ huyện Phú Bình, …
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã phác hoạ được bức
tranh toàn cảnh về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp ở nước ta thời kỳ phong
kiến tự chủ đến nay. Nhưng vấn đề “Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở tỉnh
Thái Nguyên(1988 – 2005)” vẫn chưa có một công trình khoa học nào được
công bố. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trước đây đã giúp cho
chúng tôi phương hướng và phương pháp tiếp cận để tiếp tục đi sâu nghiên
cứu vấn đề mà chúng tôi đặt ra.
3. ĐỐI TƢỢNG, NHIỆM VỤ, GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA
LUẬN VĂN
* Đối tƣợng nghiên cứu
- Tìm hiểu về hình thức sở hữu ruộng đất ở Thái Nguyên từ sau khi có
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) đến năm 2005.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Tìm hiểu về tình hình sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên,
trong đó nhấn mạnh về phương thức khai thác ruộng đất.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các nguồn tư liệu về ruộng đất ở Thái Nguyên từ 1988
đến năm 2005.
- Xem xét sự thay đổi về tình hình sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất
ở Thái Nguyên dưới tác động của chính sách Khoán 10.
- Xem xét những biến đổi trong sản xuất nông nghiệp ở Thái Nguyên từ
1988 đến năm 2005, trong đó nhấn mạnh những biến đổi về diện tích, năng
suất và sản lượng lúa.
- Tìm hiểu thực trạng về ruộng đất ở Thái Nguyên, đồng thời nêu lên
được một vài giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu ruộng
đất cho nông dân Thái Nguyên.
* Giới hạn nghiên cứu
Vấn đề ruộng đất là một vấn đề rộng, liên quan đến nhiều mặt, do đó,
trong luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu những nội dung cơ bản
như sau:
- Khái quát tình hình sở hữu và sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên trước
khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (năm1988).
- Xem xét những tác động của chính sách Khoán 10 làm cho tình hình sở
hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên thay đổi như thế nào. Đồng
thời tìm hiểu hệ quả của chính sách Khoán 10 đối với sự phát triển của nền
nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm đổi mới.
- Xem xét chế độ sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất trong thời kỳ đổi
mới nhưng tập trung chủ yếu trong lĩnh vực đất sản xuất nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
- Phạm vi địa bàn được nghiên cứu của luận văn là toàn bộ tỉnh Thái
Nguyên hiện nay.
- Phạm vi thời gian được luận văn nghiên cứu là từ khi có chính sách
Khoán 10 (năm1988) đến năm 2005.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
* Nguồn tài liệu
Luận văn đã tham khảo các nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu chuyên khảo: Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Tập I, Tập II, Tập
III; Các tác phẩm thông sử đã được công bố và xuất bản; Các Tạp chí chuyên
ngành; Báo; Tạp chí địa phương.
- Tài liệu lưu trữ: Các Báo cáo về tình hình ruộng đất, Niên giám thống
kê, Tổng kiểm kê đất đai hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc
gia, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Thái
Nguyên, Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên, Sở Tài nguyên và môi trường
Thái Nguyên. Đây là những tư liệu gốc đáng tin cậy.
- Tài liệu điền dã: Để tìm hiểu thực tế các vấn đề có liên quan đến ruộng
đất trong thời kỳ này cũng như để nắm được một số vấn đề mà các tài liệu lưu
trữ không nói rõ, hoặc các tư liệu mâu thuẫn, chúng tôi đã đi thực tế một số
địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, gặp gỡ một số cụ già cao tuổi,
nhân chứng lịch sử để vừa bổ sung, vừa thẩm định các tài liệu lưu trữ.
- Luận văn còn kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
văn từ trước đến nay.
* Phƣơng pháp nghiên cứu
- Từ nguồn tư liệu trên, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch
sử và lôgíc là chủ yếu. Do đó, các khía cạnh liên quan đến vấn đề ruộng đất ở
địa bàn và thời điểm được nghiên cứu được đánh giá dựa trên quan điểm lịch
sử cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Luận văn cũng sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, đối chiếu,
so sánh lịch sử. Trong đó việc phân tích các số liệu thống kê, các Báo cáo
tổng kết được coi trọng.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điền dã. Đặc thù của đề
tài là sử dụng các nguồn tư liệu chính là các Báo cáo và số liệu thống kê nên
nhiều chỗ cần làm rõ. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa một số
nơi để sưu tầm tư liệu mà các Báo cáo, các số liệu thống kê không phản ánh
đầy đủ.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Từ việc thống kê các nguồn tư liệu, luận văn làm rõ được những biến
đổi về sở hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất ở tỉnh Thái Nguyên từ sau Khoán
10 (1988) đến năm 2005 về các phương diện: Sở hữu ruộng đất, phương thức
khai thác ruộng đất.
- Luận văn cũng chỉ ra thực trạng ruộng đất ở Thái Nguyên trong những
năm đổi mới, đồng thời nêu ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân Thái Nguyên. Qua đó, giúp các
nhà hoạch định hiểu rõ và đề ra được những chính sách phù hợp thúc đẩy nền
nông nghiệp của tỉnh phát triển, giúp nông dân Thái Nguyên sử dụng ruộng
đất một cách hợp lý hơn để tăng năng suất cây trồng.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Tình hình sở hữu và sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên
trước năm 1988
Chương 2: Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên sau Khoán 10
(1988 – 2005)
Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Chƣơng 1
TÌNH HÌNH SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở
THÁI NGUYÊN TRƢỚC NĂM 1988
1.1. VÀI NÉT VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1.1 Địa lý hành chính
Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, có diện tích tự
nhiên là 3541,5 km
2, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km về phía Bắc. Thái
Nguyên tiếp giáp với các tỉnh : Bắc Kạn (phía Bắc), Bắc Giang (phía Nam),
Lạng Sơn (phía Đông Nam), Thành phố Hà Nội (phía Nam), Vĩnh Phúc,
Tuyên Quang (phía Tây và Tây Nam). Với một vị trí địa lý như vậy, Thái
Nguyên được coi là cầu nối giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng với các tỉnh
miền núi phía Bắc của Việt Nam.
Thái Nguyên có hai đoạn quốc lộ chạy qua, quốc lộ số 3 chạy theo
hướng Bắc Nam, từ cầu Đa Phúc (thuộc địa phận huyện Phổ Yên) đến Phú
Lương lên tỉnh Bắc Kạn. Bên cạnh đó, Thái Nguyên có hai tuyến đường sắt:
Hà Nội – Quan Triều- Núi Hồng và tuyến đường sắt Lưu Xá (Thái Nguyên)-
Uông Bí (Quảng Ninh), cùng nhiều tuyến đường giao thông nội tỉnh và liên
tỉnh đã tạo ra sự giao lưu thuận tiện giữa Thái Nguyên với các tỉnh đồng bằng
và miền núi phía Bắc. Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì Thái Nguyên
là phên dậu thứ hai về phương Bắc [80, 238]
Địa danh Thái Nguyên xuất hiện từ đầu thời Lý. Khi đó, Thái Nguyên là
một châu tương đương với cấp lộ. Đến thời nhà Trần, vua Trần Thái Tông đổi
24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt giang lộ. Đến năm
1226, nhà Trần lại đổi thành trấn Thái Nguyên bao gồm phần đất của tỉnh
Thái Nguyên, Bắc Cạn và một phần của tỉnh Cao Bằng ngày nay.
Sang thời thuộc Minh (1407 - 1428), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),
trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên, trực thuộc ty Bố Chính,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
lãnh 11 huyện. Năm Vĩnh Lạc thứ 6(1408), thăng làm phủ. Năm thứ 17
nhập huyện Tư Nông vào huyện An Định, huyện Đồng Hỷ vào huyện Phú
Lương, huyện Đại Từ vào huyện Tuyên Hoá.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, năm 1428 vương triều Lê
được thành lập. Bấy giờ, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo gồm: Tây
Đạo, Bắc Đạo, Đông Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Trong đó, Thái Nguyên
thuộc Bắc Đạo. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), để tăng cường sự thống nhất
hành chính, vua Lê Thánh Tông tiến hành chia cả nước thành 12 đạo thừa
tuyên, đổi lộ thành phủ, đổi trấn thành châu. Bấy giờ, vùng đất Thái Nguyên
ngày nay được đổi thành Thái Nguyên thừa tuyên. Đến năm 1469, Thái
Nguyên thừa tuyên được đổi thành Ninh Sóc thừa tuyên. Cho đến năm 1483,
Thái Nguyên ngày nay đổi thành xứ Thái Nguyên với 3 phủ, 7 huyện, 6 châu
[45, 147].
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thì Thái Nguyên gồm 2
phủ (Phú Bình và Tông Hoá), 11 huyện, 2 châu, 79 tổng, 379 xã, thôn,
phường, trang, phố [ 96, 78-82].
Sang thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng tiến hành cải cách hành chính,
chia cả nước thành 12 tỉnh. Dưới tỉnh là các đơn vị phủ, huyện, châu, tổng và
xã. Xứ Thái Nguyên được đổi thành một tỉnh gồm có hai phủ là Phú Bình và
Thông Hoá. Năm 1835, châu Định và ba huyện là Văn Lãng, Đại Từ, Phú
Lương được tách ra thành phủ Tòng Hoá. Do vậy, Thái Nguyên lúc này có 3
phủ, 9 huyện, 2 châu.
- Phủ Tòng Hoá gồm có 1 châu, 3 huyện là châu Định, huyện Đại Từ,
Phú Lương, Văn Lãng.
- Phủ Phú Bình gồm có 5 huyện: Đồng Hỷ, Phổ Yên, Bình Xuyên (nay
thuộc Vĩnh Phúc), Tư Nông và Vũ Nhai.
- Phủ Thông Hoá gồm có 1 huyện, 1 châu là: Cảm Hoá, Bạch Thông
(nay thuộc tỉnh Bắc Cạn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Đến thời thuộc Pháp, sau khi hoàn thành công cuộc bình định ở
tỉnh Thái Nguyên, ngày 20-10-1890, thực dân Pháp tiến hành cắt huyện Bình
Xuyên (thuộc phủ Phú Bình) rồi sáp nhập và tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Vĩnh
Phúc). Các huyện còn lại của phủ Phú Bình và phủ Tòng Hoá tách khỏi tỉnh
Thái Nguyên để góp phần tạo nên Tiểu khu Thái Nguyên (một trong 3 tiểu
khu thuộc đạo Quan binh I Phả Lại thành lập ngày 9/9/1891) [ 75, 356-365].
Châu Bạch Thông tách ra khỏi phủ Thông Hoá tạo thành một bộ phận của
Tiểu quân khu Lạng Sơn. Huyện Cảm Hoá thuộc phủ Thông Hoá trước kia
nay bị tách ra để trở thành bộ phận của Tiểu khu Cao Bằng. Như thế, tính từ
thời điểm tháng10/1890 đến tháng 9/1892, tỉnh Thái Nguyên có sự thay đổi
lớn về hành chính. Tỉnh Thái Nguyên với tư cách là một tỉnh dân sự đã bị xoá
bỏ và được sáp nhập vào các địa bàn khác nhau, đặt dưới sự quản lí của thực
dân Pháp.
Cho đến tháng 10/1892, thực dân Pháp lập lại tỉnh Thái Nguyên gồm
phủ Tòng Hoá, phủ Phú Bình, châu Bạch Thông và huyện Cảm Hoá, đặt dưới
quyền cai trị của một viên công sứ [18, 10] Từ tháng 10/1892 đến hết cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1954), địa lý hành chính của tỉnh
Thái Nguyên không có gì thay đổi.
Sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), miền Bắc nước ta được
giải phóng hoàn toàn và chuyển sang làm cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa
với hai nhiệm vụ: cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, tỉnh Thái Nguyên cũng có sự thay đổi.
Tháng 6/1956, Khu tự trị Việt Bắc được thành lập bao gồm 6 tỉnh (Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên). Thái Nguyên là
một trong 6 tỉnh và cũng trở thành thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc. Cho đến
ngày 21/4/1965, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyết định hợp
nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Cạn thành tỉnh Bắc Thái.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội của nước ta trong thời kỳ đổi mới,
ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX đã chính thức ra Nghị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
quyết về việc phân lại địa giới hành chính của một số tỉnh trong cả nước.
Trên cơ sở đó, ngày 1/1/1997, tỉnh Bắc Thái được tách ra thành hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Cạn. Tỉnh Thái Nguyên sau ngày tái lập tỉnh đến nay gồm có
một thành phố là thành phố Thái Nguyên, một thị xã là thị xã Sông Công và
bảy huyện bao gồm: Đại Từ, Định Hoá, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phú Lương, Phổ
Yên và Võ Nhai.
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc vùng trung du miền núi Bắc
Bộ. Đây là một vùng đệm nối các tỉnh trung du miền núi phía Bắc với đồng
bằng sông Hồng. Thái Nguy._.ên có toạ độ địa lý là: 20020’ - 22025’ vĩ độ Bắc và
105
0
22
’
- 106
0
16 kinh Đông. Phía Bắc của tỉnh Thái Nguyên giáp với Bắc
Cạn, phía Nam của tỉnh giáp với tỉnh Lạng Sơn và thủ đô Hà Nội, phía Tây
giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp với tỉnh Lạng
Sơn. Với một vị trí như vậy, Thái Nguyên xứng đáng là một trong những
trung tâm kinh tế, chính trị của vùng Đông Bắc.
Về mặt địa hình của tỉnh Thái Nguyên bao gồm ba vùng rõ rệt
- Vùng núi bao gồm các dãy núi cao ở phía Bắc tỉnh chạy theo hướng
Bắc Nam và Tây Bắc - Đông Nam, dãy Tam Đảo kéo dài theo hướng Tây
Bắc- Đông Nam. Vùng này bao gồm các huyện: Võ Nhai, Đại Từ, Định Hoá
và một phần của tỉnh Phú Lương. Địa hình cao, chia cắt phức tạp do quá trình
Castơ phát triển mạnh, có độ cao từ 500 đến 1000 mét, độ dốc khoảng 25 - 300.
- Vùng đồi cao, núi thấp: là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi cao phía
Bắc và vùng đồi gò phía Nam thuộc huyện Đại Từ, huyện Đồng Hỷ và phía
Nam của huyện Phú Lương. Vùng này bao gồm các dãy núi thấp đan chéo với
các dãy núi đồi cao tạo thành các bậc thềm lớn và nhiều thung lũng. Vùng đồi
cao, núi thấp có độ cao trung bình từ 100 đến 300 mét, độ dốc khoảng từ 15- 250.
- Vùng đồi gò thường tập trung ở phía Nam của tỉnh, là vùng đồi thấp và
đồng bằng. Địa hình tương đối bằng, xen giữa các đồi bát úp dốc thoải là các
khu đất bằng. Vùng đồi gò phân bố ở các huyện Phú Bình, Phổ Yên, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
phần Đồng Hỷ, Phú Lương, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên.
Độ cao trung bình từ 30 đến 50 mét, độ dốc thấp khoảng dưới 100.
Với địa hình, địa mạo như trên đã tạo cho tỉnh Thái Nguyên có thế mạnh
về quân sự. Trong điều kiện khi có chiến tranh xảy ra, địa hình của tỉnh Thái
Nguyên sẽ phát huy được tác dụng hỗ trợ lẫn nhau, kết hợp giữa tấn công và
phòng ngự. Tuy nhiên, trong thời bình, tỉnh Thái Nguyên sẽ có thế mạnh và
tiềm năng lớn để phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp.
- Về khí hậu, tỉnh Thái Nguyên nằm trong khu vực có tính chất khí hậu
gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 5 đến tháng 10;
mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lý của tỉnh đã phân hoá khí hậu nơi đây thành 3 vùng: phía Tây có khí hậu
nóng và mưa nhiều, phía Đông có khí hậu lạnh và ít mưa, phía Nam có tính
chất trung gian chuyển tiếp giữa phía Tây và phía Đông, giữa các tỉnh miền
núi Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ.
- Tài nguyên đất đai của tỉnh Thái Nguyên khá đa dạng về nhiều loại đất
nhưng chủ yếu là đất Ferarit, đất đá vôi và đất ruộng. Khu vực đất đồi rất
thích hợp với việc trồng cây công nghiệp như: cà phê, chè. Vùng đồi còn
thuận tiện cho việc chăn nuôi đại gia súc như: trâu, bò, dê, … Với tiềm năng
đất như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các đồn điền trồng
các loại cây công nghiệp.
Thái Nguyên nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam, thuộc
vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương, cho nên, trong lòng đất có nguồn tài
nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại và trữ lượng như: than, vàng,
sắt, thiếc, titan,… Trong đó, có nhiều loại khoáng sản rất có ý nghĩa như: sắt,
than, … Ở Thái Nguyên, các mỏ sắt, vàng, chì, kẽm có từ rất lâu đời, đã được
nhiều nhà khai khoáng trong và ngoài nước chú ý đến. Theo Đại Nam nhất
thống chí, chỉ tính riêng trong khoảng thời gian trị vì của 4 triều vua: Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cả tỉnh Thái Nguyên có 139 mỏ được
khai thác (có 4 mỏ chì). Trong đó, có mỏ chì ở Quán Triều là một mỏ lớn. Do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
đó, ở đây đã hình thành một công trường thủ công khai thác mỏ có quy
mô và tập trung hàng trăm công nhân.
Vẫn theo Đại Nam nhất thống chí, thời Nguyễn, thuế mỏ vàng ở Võ
Nhai là 53 lạng/1 năm; thuế sắt ở các mỏ Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Lương là
10 400 cân/1 năm [45, 171]. Về tài nguyên nước, tỉnh Thái Nguyên có nguồn
tài nguyên nước tương đối dồi dào. Do Thái Nguyên có điều kiện địa hình, địa
thế dốc, phân cách mạnh, mặt khác, hiện nay diễn ra một thực tế là thảm thực
vật rừng che phủ thấp, cho nên vào mùa mưa dòng chảy tăng mạnh, thường
gây ra lũ lụt lớn. Ngược lại, khi mùa khô đến, dòng chảy lại rất cạn kiệt nên
thường gây ra tình trạng thiếu nước, hạn hán, nhất là khu vực núi đá vôi thuộc
địa phận các huyện: Võ Nhai, Định Hoá, Đồng Hỷ,…
Như vậy, với những điều kiện tự nhiên thuận lợi trên đây đã khẳng định
Thái Nguyên là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát
triển nền nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp. Trong nền nông nghiệp
của tỉnh Thái Nguyên thế mạnh nhất vẫn là cây công nghiệp trên vùng đồi
như: chè, cà phê,…Trong đó, cây chè là một loại cây rất thích hợp với thổ
nhưỡng Thái Nguyên, trên thực tế, chè Tân Cương đã trở thành đặc sản nổi
tiếng và có thương hiệu.
1.1.3. Điều kiện xã hội
Theo số liệu thống kê dân số toàn tỉnh năm 2004, Thái Nguyên có 1 095
991 người với 246 160 hộ gia đình. Trong đó, dân số thành thị là 251 058
người (22,91 %), dân số nông thôn là 844 933 người (77,09 %). Thái Nguyên
từ lâu là địa bàn cư tụ của nhiều dân tộc. Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên có 8 dân
tộc gồm: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán Dìu, H’mông. Trong
đó, đông nhất vẫn là dân tộc Kinh (75,47%), dân tộc Tày (10,68%), … [2, 22].
Dân tộc Kinh là dân tộc chiếm số lượng đông nhất và mang nguồn gốc bản
địa. Mặt khác, dân tộc Kinh cũng do nhiều bộ phận hợp thành như: dân bản
địa, dân được tuyển mộ vào làm thuê trong các mỏ khai thác, trong các đồn
điền. Ngoài ra, còn có một bộ phận khác di cư từ các vùng đồng bằng lên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Dân tộc Kinh mang tính chất bản địa ở tỉnh Thái Nguyên không nhiều.
Theo Đại Nam nhất thống chí, đến thời Gia Long cả tỉnh có 6700 suất đinh. [45,
157] Tuy nhiên, do những tiềm năng nông, lâm nghiệp, khoáng sản của tỉnh
mà đã thu hút nhiều người ở các tỉnh đến Thái Nguyên để sinh cơ lập nghiệp,
làm ăn sinh sống. Để thấy rõ điều này, chúng tôi căn cứ vào số liệu Báo cáo
của Công sứ tỉnh Thái Nguyên (năm 1938) thì số dân các tỉnh chuyển đến
Thái Nguyên sinh sống là 3165 người, trong đó có người ở các tỉnh là: Lạng
Sơn (989 người), Thái Bình (909 người), Nam Định (807 người), Bắc Ninh
(315 người), Hưng Yên (268 người), Hải Dương(243 người), Hà Nam (217
người), Ninh Bình (151 người), Bắc Giang (132 người), Sơn Tây (122 người),
số còn lại là dân cư của các tỉnh: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Cao Bằng, Hải Dương.
Cũng theo Báo cáo trên thì, hàng năm có một số lượng lớn người các tỉnh đến
Thái Nguyên lập nghiệp. Điều này được thể hiện rõ qua biểu 1
Biểu 1: Số dân di cƣ đến Thái Nguyên từ 1930 đến 1938 [43, 20]
Năm Số hộ Số khẩu
1930 598 2001
1935 1410 5502
1936 1695 6473
1937 2386 6887
1938 (đến 30/6) ? 3165
Cộng 6089 24 028
Địa bàn cư trú của người Kinh rộng khắp các huyện của tỉnh, nhưng tập
trung đông nhất vẫn là ở thành phố Thái Nguyên. Theo niên giám thống kê
năm 1997 tỉnh Thái Nguyên thì số lượng người Kinh sinh sống ở các huyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thị được cụ thể như sau: thành phố Thái Nguyên (171 203 người), Phổ
Yên (35 013 người), Đại Từ (22 272 người) và Võ Nhai (125 279 người). [30,
12] Nhìn chung, người Kinh có rất nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, chăn
nuôi, đồng thời họ cũng tiếp thu nhanh nhẹn những tiến bộ khoa học kỹ thuật
để áp dụng trong sản xuất.
Dân tộc Tày có số lượng là 108 946 (chiếm 10,68%) trong toàn tỉnh
[30, 12]. Dân tộc Tày là một trong những dân tộc có mặt ở Thái Nguyên từ
lâu. Địa bàn cư trú của dân tộc Tày rộng khắp ở các huyện, thị trong toàn tỉnh
nhưng chủ yếu ở những huyện vùng cao của tỉnh như: Võ Nhai, Đại Từ, Định
Hoá, … Nhìn chung, người Tày sống bằng nghề nông là chính và có những
nét văn hoá đặc trưng. Họ đã lưu giữ và phát triển được nhiều bản sắc văn hoá
truyền thống của dân tộc mình. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên còn
có 52 220 người dân tộc Nùng (chiếm 5,12%), 24 997 người dân tộc Sán Dìu,
21 825 người dân tộc Dao và 41 572 người thuộc các thành phần dân tộc khác
như: Hmông, Sán Chỉ, Cao Lan [30, 12]. Các dân tộc này chủ yếu sống bằng
nghề nông, trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Mỗi dân tộc đều có
những nét văn hóa riêng đặc sắc. Các dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
đều hoà nhập thành một cộng đồng đoàn kết, thống nhất, cùng sống xen kẽ
trên một lãnh thổ với một nền văn hoá chung, cùng với những nét văn hoá
riêng biệt của từng dân tộc, tạo nên được những nét văn hoá đa dạng trong sự
thống nhất trong một nền văn hoá Việt.
Như vậy, tỉnh Thái Nguyên là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía
Bắc Việt nam, có vị trí rất quan trọng cả về kinh tế lẫn quân sự, nơi được
đánh giá là “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Đây là tỉnh đệm nối các tỉnh
miền núi phía Bắc với đồng bằng châu thổ sông Hồng. Thái Nguyên cũng là
một tỉnh có nhiều thế mạnh, tiềm năng về đất, khoáng sản, nhân công,… Cho
nên, ngay từ khi đặt ách cai trị ở đây, thực dân Pháp đã cho thành lập nhiều
đồn điền để vơ vét tài nguyên khoáng sản, bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
thu lợi nhuận cao. Trải qua gần một thế kỷ xây dựng và đấu tranh, nhân
dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên đã tô thắm thêm những trang sử truyền
thống, vinh quang của tỉnh Thái Nguyên. Đây chính là cơ sở vững chắc để
nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên vững bước tiến lên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2. TÌNH HÌNH SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở THÁI NGUYÊN TRƢỚC NĂM 1988
1.2.1 Quá trình chiếm đoạt ruộng đất của thực dân Pháp và sự
thành lập các đồn điền
Như đã trình bày ở phần trên ta thấy, Thái Nguyên là một trong những
tỉnh có rất nhiều tiềm năng, lợi thế. Đây là một vùng có vị trí rất quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế và phòng thủ quân sự. “Đây là một tỉnh
nông nghiệp, đây cũng là tỉnh giàu khoáng sản, đây lại là một tỉnh lâm
nghiệp… Khi cuộc khủng hoảng kinh tế chung hiện nay đã qua đi, thì cái tỉnh
đẹp đẽ này, nơi có nhiều chỗ có phong cảnh giống như vùng Nooc- măng- di
của chúng ta nhất định sẽ thịnh vượng lên một cách không lường trước được.
Vì nó có vô vàn phương tiện thuận lợi để trao vào tay những con người dũng
cảm không ngần ngại truớc khó khăn gian khổ”[42, 59-60]. Nhận thấy rõ vị
trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thái Nguyên, vào năm 1887, tức là vào thời
điểm thực dân Pháp chưa hoàn thành công cuộc bình định Thái Nguyên thì
chúng đã cấp giấy phép cho các điền chủ người Pháp chiếm đoạt ruộng đất
của nông dân để lập ra các đồn điền. Các điền chủ người Pháp đã dùng nhiều
thủ đoạn khác nhau để tước đoạt ruộng đất của nông dân tỉnh Thái nguyên.
Việc tước đoạt ruộng đất đối với nông dân của các điền chủ được thực dân
Pháp ủng hộ, khuyến khích. Nghị định ngày 1/5/1900 cho phép Khâm sứ
Trung Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ có quyền cấp cho mỗi
người 300 ha trở xuống, còn Toàn quyền Đông Dương có quyền cấp ít nhất từ
300 ha trở lên [99, 298]. Thông qua Nghị định trên, các điền chủ người Pháp
được phép khai khẩn những vùng đất bỏ trống để lập ra các đồn điền. Bọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
điền chủ người Pháp còn dùng cả những biện pháp cứng rắn, thậm chí
dùng cả vũ lực để xua đuổi hàng trăm gia đình nông dân đi nơi khác, rồi
chiếm đoạt ruộng đất của họ. Biện pháp này của các điền chủ người Pháp
chẳng khác gì cảnh “rào đất cướp ruộng” của tư sản Anh trong thời kỳ tích
luỹ tư bản nguyên thuỷ. Do đó, ngay trong những năm đầu tiên, đã có một
loạt đồn điền của Pháp được thành lập. Số liệu đồn điền được thể hiện rõ qua
biểu 2.
Biểu 2: Các đồn điền đầu tiên của ngƣời Pháp ở Thái Nguyên [42, 19]
STT Tên điền chủ thời gian lập Diện tích (ha) Địa điểm (huyện)
1 Boisđam 4/1887 277 Phú Bình
2 Deraytus (nữ) 8/1897 13679 Phú Bình
3 Decacmailes 6/1898 3650 Đồng Hỷ
4 Reynaud 7/1898 14605 Phổ Yên
5 Commains 1/1903 209 Đồng Hỷ
6 Guilaume 7/1898 10576 Phổ Yên
Tổng cộng 42996
Theo cuốn sách Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884- 1918 của Tạ
Thị Thuý thì tính đến năm 1918, số đồn điền của người Pháp được thiết lập ở
Thái Nguyên từ 1884 là 24 đồn điền. Trong đó có ba đồn điền có diện tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
dưới 50ha, 21 đồn điền có diện tích từ 50ha trở lên, với các ông chủ:
“Dreyfus và Công ty”, “Công ty Văn Gia”, “Reynaud, Blanc và Công ty”,
“anh em Guilaume, Metman, Hermel, Commaille, Darribe, Girard…”[88,
110-111] Ngoài những tên điền chủ người Pháp và diện tích đồn
điền của họ, còn xuất hiện những thành phần địa chủ người Việt. Địa chủ
người Việt được sự che chở, dung dưỡng của bọn thực dân cũng ra sức cướp
đoạt ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền. Tính đến thời điểm năm
1945, trên phạm vi toàn tỉnh có tới 6 đồn điền của người Việt. Số liệu cụ thể ở
biểu 3.
Biểu 3: Các đồn điền của ngƣời Việt ở Thái Nguyên đến năm 1945 [42, 20]
STT Tên điền chủ Địa điểm
Diện tích
(ha)
Số hộ
Năm
thành lập
1 Nguyễn Trọng Thuật Đồng Hỷ 808 20 4/1936
2 Béc Na Hiếu Đồng Hỷ 700 120 ?
3 Nguyễn Kim Lân Phú Bình 5845 478 8/1920
4 Phạm Bá Nhu Đại Từ 115 32 2/1927
5 Nguyễn Đức Mai Đồng Hỷ 300 ? 1/1937
6 Phạm Bá Oanh Định Hoá 125 35 11/1911
Nhìn chung, hoạt động kinh doanh trong các đồn điền của người Pháp
chủ yếu là theo lối tư bản chủ nghĩa. Còn hoạt động kinh doanh trong các điền
chủ của người Việt vẫn theo lối truyền thống “phát canh thu tô”. Thành phần
lĩnh canh ruộng đất của các điền chủ người Việt là những người nông dân địa
phương, thậm chí còn có cả nông dân phiêu bạt từ nơi khác đến. Số dân phiêu
bạt đến đây phần lớn là những người nghèo khổ, bị phá sản từ các tỉnh đồng
bằng lên, số khác là người của các dân tộc thiểu số ở các tỉnh lân cận. Việc
đóng tô thuế của người đi lĩnh canh ruộng đất cũng được quy định rõ: “mức tô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
bình quân của các đồn điền người Việt được áp dụng là 7 nồi thóc một
mẫu, tuỳ ruộng tốt hay xấu mà có thể tăng giảm, mỗi nồi là 22 kg. Như vậy,
mỗi một mẫu ruộng người lĩnh canh phải nạp 154 kg, một sào là 15,4 kg. Nếu
năng suất một sào chỉ có 40 kg- như báo cáo của Công sứ Thái Nguyên năm
1938 thì mức tô ở đây là trên dưới 40%” [81, 37] Từ sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, diện tích đồn điền của người Pháp và người Việt có nhiều
chuyển biến và bị thu hẹp. Từ năm 1948 trở đi, Chính phủ ta đã tiến hành tịch
thu một loạt các đồn điền vắng chủ để cấp cho nông dân. Để nắm được sơ bộ
về vấn đề này, chúng tôi đưa ra biểu 4.
Biểu 4: Ruộng đất 7 đồn điền của Pháp và Việt gian phản động bỏ
chạy đem tạm cấp cho nông dân năm 1950 [4, 4]
STT Tên đồn điền Huyện
Diện tích
(m,s,th)
Sồ ngƣời
đƣợc cấp
1 Đinh Huy Quang Đồng Hỷ 49’’ 4’’ 13 61
2 Gari (Yên Thuận) Đại Từ 299’’ 5’’ 05 257
3 Képle Đồng Hỷ 2584’’ 1’’ 10 2418
4 Ghiôm Phổ Yên 2482’’ 0’’ 00 3716
5 Reynaud Phổ Yên 1027’’ 0’’ 00 1156
6 Feraud Phổ Yên 676’’ 0’’ 00 523
7 Nông Kinh Giầu Phú Bình 68’’ 0’’ 00 ?
Cộng 7186
’’
1
’’
13 8131
1.2.2 Chiếm hữu ruộng đất của địa chủ ngƣời Việt
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ở Việt Nam, địa chủ chiếm khoảng
5% dân số nhưng chúng có trong tay tới hơn 50% diện tích ruộng đất canh
tác. Ở tỉnh Thái Nguyên trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vẫn chưa có
tư liệu và số liệu chính thức về tình hình chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa
chủ. Tuy nhiên, để từng bước làm sáng tỏ điều này, chúng tôi phải dựa vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Báo cáo tổng kết cải cách ruộng đất và tài liệu điều tra điển hình của 5 xã
và 28 xã (thuộc 6 huyện). Trên cơ sở đó, tình hình chiếm hữu ruộng đất của
giai cấp địa chủ ở Thái Nguyên từng bước được thể hiện rõ.
Cũng như trong phạm vi cả nước, giai cấp địa chủ Thái Nguyên đều
được sự giúp đỡ của chính quyền thực dân để ra sức cướp đoạt ruộng đất của
nông dân bằng mọi thủ đoạn khác nhau, thậm chí địa chủ còn dùng cả vũ lực.
Vì nghèo đói, bần cùng, cuộc sống khó khăn đói khổ, người nông dân đành
phải bán phần ruộng đất của mình và trở thành người bị phá sản.
Để thấy được những thủ đoạn chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ
đối với nông dân Thái Nguyên, chúng tôi dựa vào Báo cáo sơ kết tình hình
nông dân của tỉnh Thái Nguyên [15, 3]. Trên cơ sở đó, chúng tôi thấy, thủ
đoạn chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ lớn thường là:
- Địa chủ dựa vào sự nâng đỡ của chính quyền thực dân để cướp đoạt
ruộng đất hoặc bắt dân địa phương đi khai phá đất đai. Bao chiếm, tức là mua
xung quanh, không cho dân địa phương vào khu vực đồn điền rồi tiến tới bắt
ép dân ở đây phải bán rẻ hoặc chiếm đoạt cả vùng, sau đó đuổi hẳn dân từng
làng đi nơi khác.
- Hình thức mở sòng bạc, buôn thuốc phiện, cho vay nặng lãi để đưa dân
vào bẫy rồi buộc họ phải đem gán ruộng để trả nợ.
- Bỏ tiền mua ngôi thứ cho nông dân rồi bắt nông dân phải hoàn nợ bằng
cách gán ruộng.
- Sau khi Phát xít Nhật nhảy vào xâm chiếm nước ta, nhiều tên địa chủ
đã đầu cơ thầu dầu, vừng, lạc. Lợi dụng chính quyền Nhật bắt chẹt dân khi
dân cần mua để nộp cho Nhật.
- Bán chịu các thứ hàng tạp hoá cho nông dân rồi thành nợ nần, đương
nhiên nông dân phải thế chấp ruộng đất cho địa chủ.
- Ngoài ra, một số trường hợp còn dựa vào chính quyền thực dân và bản
đồ sổ sách không rõ ràng để cướp đoạt ruộng đất của nông dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Cũng dựa vào Báo cáo điều tra 5 xã điển hình và 28 xã (thuộc 6
huyện), chúng tôi đã thấy rõ được hình thức bóc lột của giai cấp địa chủ ở
Thái Nguyên. Trong đó, hình thức bóc lột theo kiểu phát canh thu tô kết hợp
với thuê mướn nhân công là hình thức bóc lột chủ yếu của các địa chủ ở đây.
Để thấy rõ được điều này, chúng tôi đưa ra những số liệu ở biểu 5.
Biểu 5: Tỷ lệ số địa chủ phát canh thu tô và thuê mƣớn nhân công [6, 25]
Hình thức bóc lột
5 xã điển hình 28 xã của 6 huyện
Số địa chủ Tỷ lệ (%) Số địa chủ Tỷ lệ (%)
Phát canh thu tô 18 23,08 22 13,17
Thuê muớn nhân công là
chính kết hợp với thu tô
39
50,00
101
60,48
Kết hợp cả hai hình thức và
cho vay nặng lãi
21
26,92
44
26,35
Cộng 78 100,00 167 100,00
Từ Biểu 5 cho thấy, hình thức thuê mướn nhân công là chính kết hợp với
thu tô là hình thức bóc lột chủ yếu của địa chủ ở Thái nguyên. Tại 5 xã điển
hình có tới 39 trên tổng số 78 địa chủ áp dụng hình thức này (chiếm Tỷ lệ
50%), ở 28 xã của 6 huyện có tới 101 trên tổng số 167 địa chủ áp dụng hình
thức này (chiếm 60,48%). Ngoài hình thức thuê mướn nhân công và thu tô,
các chủ ruộng còn làm giàu bằng cách cho vay nặng lãi theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi
con. Với hình thức này, địa chủ giàu lên rất nhanh, ngược lại nông dân chính
là người phải chịu hậu quả. Cuộc sống của họ thực là khó khăn, bần hàn.Từ
sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, ruộng đất chiếm hữu của địa chủ cũng
có sự chuyển biến lớn. Để thấy rõ được sự chuyển biến này, chúng tôi xin đưa
ra biểu 6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Biểu 6: Chiếm hữu ruộng đất của địa chủ và sự chuyển dịch ruộng đất
trƣớc cái cách ruộng đất [89, 1]
Địa bàn
Hộ Khẩu Diện tích
chiếm hữu
(S-m-th)
Diện tích
chuyển dịch
(S-m-th)
% diện tích
chuyển dịch Hộ % Khẩu %
6 xã thí điểm 97 3,66 352 5,39 1577’’4’’10’’ 1258’’0’’12’’ 81,5
47 xã đợt I 696 3,21 4589 4,86 10808’’4’’07’’ 9095’’0’’00’’ 84,1
22 xã đợt II 393 3,1 2908 4,55 4271’’0’’7’’ 3500’’0’’00’’ 81,9
(Ghi chú: Tỷ lệ % hộ, khẩu so với hộ, khẩu ở các xã; tỷ lệ % ruộng đất so
với tỷ lệ ruộng đất chiếm hữu)
1.2.3. Chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp phú nông
Phú nông là một bộ phận trong giai cấp nông dân Việt Nam gồm: phú
nông, trung nông, bần nông và cố nông. Tầng lớp phú nông trên phạm vi cả
nước nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng là người có tương đối nhiều
ruộng đất. Cách thức làm giàu của phú nông có nhiều nét tương đồng với cách
làm giàu của giai cấp địa chủ như: vừa thuê mướn nhân công, vừa phát canh
thu tô vừa kết hợp cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, hình thức thuê mướn nhân
công vẫn là chính. Trong điều kiện làm nông nghiệp như ở nước ta thì gianh
giới giữa địa chủ và phú nông là rất khó để phân biệt một cách rạch ròi.
Về tình hình chiếm hữu của tầng lớp phú nông, chúng tôi lại dựa vào Báo
cáo tổng kết cải cách ruộng đất ở 5 xã điển hình và 28 xã trong 6 huyện thì
đến 1945, tình hình chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp phú nông được thể hiện
rõ. Điều này được phản ánh qua biểu 7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Biểu 7: Chiếm hữu ruộng đất của phú nông (năm 1945) [6,12]
Địa bàn
Diện tích
chiếm hữu
Tỷ lệ % so với
tổng số diện tích
Bình quân
nhân khẩu
28 xã của 6 huyện 18’’ 9 ’’12’’ 8,68 2’’ 4’’ 0’’
5 xã 333
’’
4
’’
13
’’
8,53 1
’’
8
’’
0
’’
Qua bảng số liệu trên ta thấy rõ, diện tích chiếm hữu ruộng đất của phú
nông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là không lớn. Diện tích chiếm hữu ruộng
đất của phú nông chưa được 10% so với tổng diện tích của 28 xã của 6 huyện
và 5 xã. Mức độ sở hữu ruộng đất của phú nông không lớn, bình quân một
nhân khẩu khoảng 2 mẫu ruộng, con số này nhỏ hơn nhiều so với diện tích
chiếm hữu ruộng đất của địa chủ.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Đảng và Chính phủ
thực hiện nhiệm vụ dân chủ, từng bước đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông
dân. Điều này làm cho tình hình chiếm hữu ruộng đất của phú nông có sự
chuyển biến. Diện tích chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp phú nông đã giảm.
Mức độ giảm được thể hiện qua biểu 8.
Biểu 8: Biến động ruộng đất của phú nông qua các thời kỳ [6, 12]
Loại xã Thời gian
Diện tích chiếm hữu
m- s- th
Tỷ lệ (%)
Bình quân
nhân khẩu
28 xã (6 huyện)
1945 1883
’’
9
’’
12
’’
8,68 2
’’
4
’’
0
’’
1953 1201
’’
1
’’
5
’’
5,53 0
’’
1
’’
6
’’
5 xã (điển hình)
1945 333
’’
4
’’
13
’’
8,53 1
’’
8
’’
6
’’
1953 141
’’
2
’’
0
’’
3,62 1
’’
5
’’
0
’’
(Ghi chú: Tỷ lệ % so với tổng số ruộng đất ở 28 xã và 5 xã)
Bảng số liệu trên cho ta thấy rõ diện tích chiếm hữu ruộng đất của tầng
lớp phú nông ngày một giảm. Nếu như diện tích chiếm hữu của phú nông ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
28 xã của huyện năm 1945 là 1883’’ 9’’12’’ thì đến năm 1953 giảm xuống
còn 1201
’’
4
’’
13
’’
và bình quân một nhân khẩu còn 1 sào 6 thước. Trong 5 xã
điển hình, chúng tôi cũng thấy diện tích chiếm hữu từ 333’’ 4’’ 13’’ (1945)
giảm xuống còn 141’’ 2’’ 01’’. Còn về phương thức bóc lột của phú nông từ sau
1945 đến 1953 vẫn là hình thức thuê mướn nhân công là chính.
1.2.4. Sở hữu ruộng đất của các tầng lớp nông dân
Nước ta là một nước nông nghiệp, cho nên nông dân chiếm một số
lượng khá lớn. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, số lượng nông dân của Việt
Nam chiếm tới hơn 90% dân số. Mặc dù giai cấp nông dân chiếm số lượng
lớn nhưng họ lại có trong tay diện tích ruộng đất khá ít ỏi, cá biệt còn có một
số bộ phận trong giai cấp nông dân “không có một tấc đất cắm dùi”, nguồn
sống của họ chỉ là đi làm thuê, làm mướn, đi ở cho gia đình địa chủ.
Thái Nguyên là một tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp, lâm nghiệp, nhưng
diện tích ruộng đất trong tay giai cấp nông dân trước năm 1945 là tương đối
ít. Khẳng định được điều này là chúng tôi căn cứ vào số liệu điều tra 5 xã điển
hình. Từ đó, chúng tôi nắm được sơ bộ tình hình sở hữu ruộng đất của bộ
phận trung nông, bần nông và cố nông trong toàn tỉnh.
Từ biểu 9 ta thấy, nông dân của các dân tộc tỉnh Thái Nguyên trước năm
1945 đều không có hoặc có rất ít ruộng đất. Vì thế, để sống và tồn tại, nông
dân phải đi lĩnh canh ruộng đất hoặc đi làm thuê cho gia đình địa chủ, cho chủ
đồn điền. Nhiều khi, người nông dân phải biếu xén, đút lót mới nhận được
ruộng lĩnh canh. Khi được lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, nông dân phải “đổ
mồ hôi”, quần quật sớm hôm để canh tác ruộng đất, rồi sau đó nộp tô cho
địa chủ.
Biểu 9: Sở hữu ruộng đất của trung nông, bần nông và cố nông
(năm 1945) [6,12]
Thời gian Sở hữu ruộng đất Sở hữu ruộng đất Sở hữu ruộng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
của trung nông của bần nông của cố nông
Năm 1945 1453’’ 0’’ 8’’ 388’’ 5’’ 08’’ 57’’ 2’’ 05’’
Tỷ lệ % so với
tổng diện tích của
5 xã
37,35
9,97
1,46
Bình quân nhân
khẩu
0
’’
5
’’
13
’’
0
’’
2
’’
02
’’
0
’’
0
’’
08
’’
Trong khi canh tác ruộng đất được lĩnh canh, người nông dân thiếu đủ
thứ, trăm thứ “bà giằng” khiến họ phải đi vay lãi gia đình địa chủ. Tuy nhiên,
đi vay gia đình địa chủ lãi suất rất cao. Nếu vay thóc gia đình địa chủ, thường
thì vay 1 phải trả 2 (tức là gấp đôi). Đến khi thu hoạch được sản phẩm đem
đến trả cho gia đình địa chủ thì địa chủ lại dùng mọi thủ đoạn để “kiếm chác”
thêm sản phẩm hoa lợi mà nông dân “năm nắng mười sương” mới làm ra như:
“khi cho nông dân vay thóc, địa chủ tiến hành tiểu xảo dùng thùng nhỏ và
đong nhẹ gạt nặng, đến khi thu tô của nông dân lại dùng thùng to và đong
mạnh gạt nhẹ” [81,49]. Với tiểu xảo này, địa chủ đã lợi lại càng lợi thêm. Còn
nông dân chính là người “thiệt đơn thiệt kép”.
Trong các đồn điền, nông dân làm thuê ở đây cũng cơ cực chẳng kém.
Các đồn điền đã thành lập bộ máy cai trị riêng và rất hà khắc. Chủ đồn điền
coi tá điền làm thuê chẳng khác gì nô lệ của họ như: đồn điền Chã, đồn điền
Thác Nhái (Phổ Yên) … [81, 49]. Thậm chí, chủ đồn điền còn đặt ra những
quy định riêng rất hà khắc và bắt tá điền phải tuân theo. Một khi tá điền không
tuân theo thì chủ đồn điền sẽ đánh đập tàn nhẫn hoặc đem bỏ tù.
Bằng những phương thức và thủ đoạn như trên, địa chủ và chủ đồn điền
đã bóc lột nông dân một cách tàn nhẫn đến tận xương tuỷ, đẩy nông dân vào
cảnh đường cùng ngõ tận. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
giai cấp giữa nông dân tá điền với địa chủ và chủ đồn điền ngày càng trở
nên sâu sắc.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đặc biệt là trong
thời kỳ tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, để bồi dưỡng sức dân, Đảng
và Chính phủ ta từng bước đem lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân.
- Trong giai đoạn từ 1945 đến 1949, Đảng chủ trương tịch thu ruộng đất
của thực dân Pháp và bọn tay sai phản động đem chia cho nông dân, chia lại
ruộng đất công một cách công bằng hơn (cho cả nam và nữ, xoá bỏ hoặc tước
bớt những đặc quyền, đặc lợi của các tầng lớp trên trong làng), thực hiện giảm
tô 25% so với mức tô trước Cách mạng Tháng Tám. Trong những năm đầu
kháng chiến, chính quyền cách mạng còn đem ruộng đất vắng chủ tạm giao
cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng.
- Trong giai đoạn 1949 đến 1953, chính sách ruộng đất của Đảng được
đẩy lên một mức cao hơn nhằm bồi dưỡng sức dân, dốc sức vào cuộc kháng
chiến ngày càng gay go, quyết liệt. Trong giai đoạn này, Đảng còn chủ trương
tạm cấp ruộng đất vắng chủ, ruộng bỏ hoang, ruộng hiến cho nông dân. Từ
năm 1951, Chính phủ còn ban hành chính sách thuế nông nghiệp và thu theo
hình thức biểu luỹ tiến. Bằng cách này có tác dụng to lớn, một mặt sẽ hạn chế
được sự bóc lột của giai cấp địa chủ, mặt khác sẽ thoả mãn được với mức cao
hơn về yêu cầu ruộng đất của nông dân. Tính đến thời điểm năm 1953, nông
dân đã giành được quyền lợi rất to lớn về ruộng đất. Cũng thời điểm đó, chính
quyền cách mạng đã tịch thu được 56,8% ruộng đất của địa chủ đem chia cho
nông dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến và quyền sở
hữu ruộng đất của nông dân có sự thay đổi lớn.
- Trong giai đoạn từ 1953 đến 1957, Đảng chủ trương triệt để giảm tô và
Cải cách ruộng đất nhằm xoá bỏ hoàn toàn chế độ chiếm hữu và bóc lột
phong kiến, chia ruộng đất cho nông dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Ở Thái Nguyên, việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân từ
năm 1945 đến năm 1957 được thực hiện qua nhiều bước và qua từng giai
đoạn như trên, trong đó bước cao nhất là Cải cách ruộng đất.
Thông qua những chính sách ruộng đất tích cực của Đảng và chính phủ,
tình hình sở hữu ruộng đất của nông dân ở Thái Nguyên đã có sự chuyển biến
rõ rệt. Để thấy rõ sự chuyển biến này, chúng tôi xin lấy số liệu ở 5 xã điều tra
điển hình để minh họa.
Biểu 10: Sở hữu ruộng đất của nông dân qua các thời kỳ [6, 13]
Thành phần Thời gian
Sở hữu ruộng
đất (m- s- th)
Tỷ lệ
(%)
Bình quân một
nhân khẩu
m-s-th
Trung nông
1945 1453
’’
0
’’
08
’’
37,35 0
’’
5
’’
13
’’
1945- 1949 1864
’’
0
’’
12
’’
47,91 0
’’
6
’’
05
’’
1953 2013
’’
4
’’
09
’’
51,74 0
’’
5
’’
13
’’
Sửa sai 1831’’ 9’’ 4’’ 47,06 0’’ 6’’ 03’’
Bần nông
1945 388
’’
5
’’
08
’’
9,97 0
’’
2
’’
02
’’
1945- 1949 642
’’
5
’’
08
’’
16,50 0
’’
3
’’
03
’’
1953 913
’’
7
’’
10
’’
23,46 0
’’
3
’’
06
’’
Sửa sai 1239’’ 9’’ 04’’ 30,84 0’’ 4’’ 10’’
Cố nông
1945 57
’’
2
’’
05
’’
1,46 0
’’
0
’’
08
’’
1945- 1949 112
’’
6
’’
07
’’
2,87 0
’’
1
’’
01
’’
1953 304
’’
9
’’
07
’’
7,81 0
’’
2
’’
03
’’
Sửa sai 575’’ 4’’ 03’’ 14,77 0’’ 4’’ 03’’
Qua biểu thống kê trên ta thấy rõ, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến trước khi Cải cách ruộng đất (1953), tỷ lệ sở hữu ruộng đất của
nông dân ngày càng tăng lên rõ rệt. Đây chính là những thành quả ruộng đất
mà cách mạng đã đem lại cho nông dân Thái Nguyên. Trong số các bộ phận
của giai cấp nông dân thì tỷ lệ sở hữu ruộng đất của bần, cố nông là tăng lên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
nhanh. Bần nông là một bộ phận của giai cấp nông dân có rất ít ruộng đất
trong tay. Nếu như năm 1945 bần nông ở Thái Nguyên chỉ có 388’’ 5’’ 08’’
ruộng._.cách cụ thể những diện tích đất lúa, lúa màu chỉ trồng cấy được một vụ trên
một năm. Trên cơ sở đó, nếu diện tích đất nào địa hình trũng khó tiêu nước thì
tốt nhất chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình trang trại. Ngược lại,
diện tích đất trồng lúa, lúa màu mà địa hình quá cao có thể chuyển sang trồng
các loại cây công nghiệp ngắn ngày như: lạc, đậu tương, vừng, … Đây là
những loại cây có khả năng chịu hạn, phù hợp với những diện tích đất cao.
Bằng những biện pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng như trên, chúng ta có thể
khai thác tốt hơn tiềm năng đất nông nghiệp, khắc phục được tình trạng để
lãng phí tiềm năng đất đai, tạo thu nhập cho nông dân, góp phần vào công
cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Là một trong những tỉnh miền núi nên diện tích đất đồi, gò, đất vườn ở
tỉnh Thái Nguyên chiếm số lượng tương đối lớn. Loại đất này rất thích hợp
cho các loại cây công nghiệp hàng năm, nhất là cây đậu tương, lạc, vừng, …
Đây là loại cây có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu. Tuy nhiên, một
thực tế ở Thái Nguyên là diện tích trồng các loại cây này còn rất khiêm tốn,
lại không ổn định, phụ thuộc vào thị trường nông sản. Sự không ổn định về
diện tích của loại cây trồng này chúng tôi đã trình bày ở phần trước. Do đó,
vấn đề đặt ra là tỉnh Thái Nguyên phải tìm ra những giải pháp để khắc phục
tình trạng này. Theo chúng tôi, trước mắt tỉnh Thái Nguyên cần phải đẩy
mạnh xây dựng hệ thống giao thông thuỷ lợi đồng bộ để đáp ứng được nhu
cầu tưới tiêu cho nông nghiệp, bên cạnh đó, tỉnh cũng phải phối hợp với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội, trường Đại học Nông- Lâm
Thái Nguyên để giúp bà con nghiên cứu ra những giống cây mới có năng suất
cao, phù hợp với thổ nhưỡng ở Thái Nguyên để khai thác tốt hơn tiềm năng
và lợi thế đất sản xuất nông nghiệp ở đây. Đặc biệt, tỉnh Thái Nguyên cũng
phải có những quy hoạch mang tính chất chiến lược, phải tính toán đầu ra cho
sản phẩm để tránh được tình trạng “được mùa mất giá”. Trong những năm
trở lại đây, huyện Võ Nhai, nông dân đang đẩy mạnh trồng cây công nghiệp
ngắn ngày, nhất là cây đậu tương. Trong đó, bà con nông dân đã mạnh dạn
đưa các loại giống đậu tương mới như: DT80, DT84 vào trồng đại trà và trên
thực tế giống đậu tương này đã cho năng suất cao. Do đó, để khai thác tốt hơn
tiềm năng và lợi thế của diện tích đất trồng các loại cây hàng năm của tỉnh,
hướng đẩy mạnh trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như: đậu tương, lạc,
… chính là một trong những giải pháp tối ưu để đưa nền nông nghiệp của tỉnh
Thái Nguyên từng bước phát triển.
Cũng như nhiều tỉnh khác, trong những năm trở lại đây, do tác động của
cơ chế thị trường làm xuất hiện hiện tượng tập trung, tích tụ ruộng đất một
cách tự do đang có xu hướng gia tăng. Trên thực tế, xu hướng này nó đã phản
ánh đúng xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, quá
trình tập trung, tích tụ ruộng đất một cách tự do lại nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp. Thực tế này đòi hỏi Nhà nước mà trực tiếp là tỉnh Thái Nguyên phải có
những biện pháp cụ thể và kiên quyết hơn nhằm kiểm soát và chi phối chiều
hướng hoạt động của thị trường đất đai nói chung, ruộng đất nói riêng, tạo điều
kiện cho nền nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên phát triển lành mạnh và nhanh
chóng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
* Tiểu kết chƣơng 2
Từ những năm 80 của thế kỷ trước đến năm 2005, Đảng và Nhà nuớc ta
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng có tác động trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước nói chung và Thái Nguyên nói
riêng, nhất là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về Đổi mới quản lý kinh tế nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
nghiệp, gọi tắt là “Khoán 10”, Luật đất đai năm 1988, Luật đất đai năm 2003
… Những chủ trương, chính sách trên của Đảng và Nhà nước không những
đáp ứng được nguyện vọng của nông dân mà còn phù hợp với đặc điểm sản
xuất nông nghiệp với trình độ của lực lượng sản xuất nông nghiệp hiện nay ở
nước ta. Được Nghị quyết 10 của Bộ chính trị soi sáng, tỉnh Thái Nguyên
cũng có nhiều Chỉ thỉ, Nghị quyết để triển khai theo đúng tinh thần của Bộ
chính trị. Trong đó, đáng chú ý nhất là Nghị quyết số 08- NQ/BT Về một số biện
pháp chủ yếu thực hiện Nghị quyết Bộ chính trị “Đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp”.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp,
nông thôn như trên đã có tác động trực tiếp đến nền kinh tế nông nghiệp Thái
Nguyên, làm chuyển biến chế độ sở hữu và tình hình sử dụng ruộng đất… Từ
năm 1988 trở lại đây, chế độ sở hữu ruộng đất tập thể được thay thế bởi chế
độ sở hữu tư nhân hạn chế. Người nông dân từ chỗ là người làm công cho hợp
tác xã đến chỗ là người chủ sở hữu thực tế trên mảnh ruộng được giao. Do đó,
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người nông dân được phát huy một cách
cao độ, khắc phục được tình trạng ruộng đất “vô chủ” trong thời kỳ tập thể
hoá nông nghiệp.
Từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988), tình hình sản xuất
nông nghiệp ở phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã
có bước chuyển biến to lớn và đạt được những kết quả đáng kể. Ở Thái
Nguyên, từ năm 1888 đến năm 2005, diện tích, năng suất và sản lượng lúa
cũng như một số loại cây trồng khác được mở rộng và tăng lên, đời sống nhân
dân được ổn định. Đây chính là một thực tế chứng tỏ đường lối đổi mới của
Đảng ta trong lĩnh vực nông nghiệp là đúng đắn và phù hợp.
Về phương thức khai thác ruộng đất ở Thái Nguyên trong giai đoạn này
có những chuyển biến tích cực nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng đất nông
nghiệp của tỉnh. Phương thức khai thác ruộng đất ở Thái Nguyên trong nhiều
năm trở lại đây là việc đẩy mạnh thâm canh, mạnh dạn đầu tư những tiến bộ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
khoa học kỹ thuật trong sản xuất, chú trọng công tác thuỷ lợi, ra sức
phát triển một số cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, mở rộng diện tích
trồng cây ăn quả nhằm tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp tỉnh Thái
Nguyên phát triển toàn diện và mang tính chất bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
KẾT LUẬN
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, tiếp giáp với vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng. Đây là một tỉnh có một vị trí địa lý rất quan trọng cả về kinh
tế lẫn quân sự, điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi, nhân dân các dân tộc
tỉnh Thái Nguyên lao động cần cù, sáng tạo. Do đó, Thái Nguyên có nhiều
tiềm năng để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Dưới chế độ phong kiến, tuyệt đại đa số nông dân các dân tộc tỉnh Thái
Nguyên chịu nhiều khổ cực. Bởi vì, họ không có hoặc có quá ít ruộng đất để
làm ăn, do đó, nguồn sống chính của họ là phải đi lĩnh canh ruộng đất hay đi
làm thuê, làm mướn cho địa chủ. Không phải tất cả nhưng có lẽ phần lớn
nông dân suốt đời và truyền đời chịu cảnh tô cao sưu nặng.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách cai trị lên
đất nước ta, biến nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Khi đến
cai trị và khai thác xứ Thái Nguyên, tư bản Pháp đã thẳng tay chiếm đoạt
ruộng đất của nông dân Thái Nguyên để lập ra hệ thống đồn điền, triệt để khai
thác nguồn lợi về đất đai, lao động để thu lợi nhuận bằng cách sử dụng các
hình thức bóc lột phong kiến. Đồng thời, thực dân Pháp còn nâng đỡ, che chở,
dung dưỡng cho giai cấp địa chủ phong kiến để chúng thả sức tước đoạt ruộng
đất của nông dân. Sự câu kết giữa đế quốc và phong kiến nhằm chiếm đoạt
ruộng đất và việc duy trì các hình thức bóc lột cổ truyền đã làm cho nông dân
Thái Nguyên ngày càng bị bần cùng hoá cao độ. Do đó, vấn đề ruộng đất gắn
liền với vấn đề độc lập dân tộc cho nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên là
vấn đề cấp bách.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (2/1930), Đảng ta đã sớm
nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất và mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến trong cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Do đó, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến để giành lại độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Theo quan điểm của Đảng ta là:
dân tộc giành lại độc lập thì dân cày sẽ có ruộng đất. Với đường lối đúng đắn,
sáng tạo đó của Đảng ta đã tập hợp được đông đảo nhân dân cùng các lực
lượng yêu nước khác làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, mở
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ta.
Về mặt sở hữu ruộng đất, trước năm 1945, ở Thái Nguyên còn tồn tại
chế độ chiếm hữu và phương thức khai thác, bóc lột phong kiến về ruộng đất.
Giai cấp địa chủ là người chiếm nhiều ruộng đất, bóc lột bằng hình thức thuê
mướn nhân công. Ngược lại, giai cấp nông dân nhất là bần, cố nông là những
người không có hoặc có ít ruộng đất phải đi lĩnh canh ruộng đất của địa chủ
và làm thuê. Khi thực dân Pháp tiến hành cai trị xứ Thái Nguyên, chúng đã
thiết lập ở Thái Nguyên một hệ thống đồn điền đa canh và chuyên canh để
khai thác triệt để tiềm năng đất nông nghiệp của tỉnh. Mặt khác, thực dân
Pháp đã duy trì phương thức sản xuất phong kiến đối với ruộng đất. Hậu quả
của chính sách khai thác, bóc lột theo kiểu kết hợp giữa tư bản và phong kiến
đã đẩy nông dân vào con đường phá sản không lối thoát, trở thành nguồn
nhân công rẻ mạt phục vụ cho công cuộc khai thác của chúng, kìm hãm nền
nông nghiệp và nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên vào vòng lạc hậu
Từ sau ngày cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Đảng và Chính
phủ ta luôn coi trọng và rất quan tâm đến vấn đề ruộng đất, nông dân, nông
nghiệp và nông thôn. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc Đảng ta đã thực hiện
cuộc Cải cách ruộng đất (1953 – 1956) để đem lại ruộng đất cho dân cày, thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Kết quả do cuộc cải cách ruộng đất
đem lại đã biến “giấc mơ” ngàn đời của nông dân miền Bắc nước ta thành
hiện thực.
Từ năm 1958 đến đầu những năm 80, toàn miền Bắc nước ta (trong đó
có tỉnh Thái Nguyên), hầu hết ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều
được tập thể hoá và đặt dưới sự quản lý của hợp tác xã. Theo đó, hợp tác xã
đứng ra quản lý hầu hết đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp. Vì thế, về mặt sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
hữu ruộng đất có sự thay đổi. Trong đó, chế độ sở hữu tập thể về ruộng
đất hoàn toàn chiếm ưu thế và ngày càng được củng cố. Với hình thức sở hữu
tập thể về ruộng đất có mặt tích cực là chúng ta có thể làm nhanh và tốt hơn
các khâu thuỷ lợi, quy hoạch đồng ruộng. Tuy nhiên, với hình thức sở hữu tập
thể về ruộng đất lại tồn tại nhiều mặt hạn chế trong quản lý và sử dụng đất
đai. Một thực tế là trong thời kỳ tập thể hoá nông nghiệp, đất sản xuất nông
nghiệp lại rơi vào tình trạng lãng phí, nông dân không thiết tha với ruộng đất,
do đó không tạo ra động lực vật chất để thúc đẩy người nông dân tích cực sản
xuất. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất nông nghiệp ở
Thái Nguyên gặp nhiều khó khăn. Tình trạng này không chỉ có riêng ở Thái
Nguyên mà là tình trạng chung trên phạm vi cả nước.
Từ những tồn tại của tình hình ruộng đất trong thời kỳ tập thể hoá khiến
Đảng ta đã dần dần nhận thấy rằng, cần phải khắc phục những hạn chế của
mô hình hợp tác xã kiểu cũ, tìm tòi các bước đi và hình thức thích hợp để
từng bước đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển đi lên. Trên cơ sở đó, Đảng
ta đề ra những chủ trương đúng đắn để khắc phục. Đáng chú ý nhất là Nghị
quyết 10 của Bộ chính trị ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, có tác
dụng khuyến khích hàng triệu nông dân mạnh dạn bỏ công sức, tiền của để
phát triển sản xuất, tạo nên bước chuyển biến tích cực trong nông nghiệp,
nông thôn. Có thể khẳng định Nghị Quyết 10 của Bộ chính trị là mốc đánh
dấu bước chuyển biến mang tính chất đột phá trong nông nghiệp và nông thôn
ở nước ta. Tuy nhiên, Nghị quyết 10 chưa khắc phục được tình trạng ruộng
đất manh mún, phân tán, khó tập trung theo hướng tích cực và cũng chưa thúc
đẩy phân công lao động, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu ở nông
thôn.
Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị soi sáng, tỉnh Thái Nguyên
tiến hành khoán gọn ruộng đất đến từng hộ nông dân. Điều này đã khắc phục
được tình trạng ruộng đất “vô chủ” như thời kỳ tập thể hoá nông nghiệp, có
tác dụng kích thích tính tự lực, tự cường, sự sáng tạo và có trách nhiệm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
nông dân, làm cho nông dân thêm gắn bó với đồng ruộng. Trên cơ sở
đó làm cho diện tích, năng suất và sản lượng nông nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên
ngày càng được mở rộng và tăng nhanh.
Dưới tác động của chính sách khoán 10 làm cho tình hình sở hữu ruộng
đất ở tỉnh Thái Nguyên đã có sự chuyển biến. Trong đó, sở hữu ruộng đất tập
thể đã được thay thế bởi hình thức sở hữu tư nhân hạn chế, người nông dân
chính là người chủ sở hữu thực tế trên mảnh ruộng được giao khoán. Chính sự
chuyển biến về hình thức sở hữu ruộng đất đã làm cho nông dân rất yên tâm
sản xuất, mạnh dạn đầu tư tiền của, công sức để khai thác ruộng đất, tạo ra
nhiều sản phẩm để làm giàu cho chính bản thân mình, làm giàu cho xã hội. So
với thời kỳ tập thể hoá nông nghiệp (1958 - 1988), phương thức khai thác
ruộng đất ở Thái Nguyên trong thời kỳ từ năm 1988 đến năm 2005 có những
bước tiến bộ hơn mà chủ yếu là khai thác theo hướng đẩy mạnh thâm canh, áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trên đồng ruộng, phát triển công tác
thuỷ lợi.
Ở tỉnh Thái Nguyên từ 1988 đến 2005 đã đạt được nhiều thành tựu nổi
bật về năng suất và sản lượng lương thực. Thành tựu này đều được bắt nguồn
và là hệ quả trực tiếp từ những thay đổi trong quan hệ sở hữu, sử dụng ruộng
đất và phương thức quản lý nông nghiệp theo đường hướng đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta từ những năm 80. Tuy nhiên, thực trạng ruộng đất ở Thái
Nguyên đang đặt ra nhiều vấn đề mới và phức tạp, cần được xem xét và giải
quyết kịp thời. Trước hết là tình trạng ruộng đất bị manh mún do chính sách
giao khoán ruộng đất theo nguyên tắc “có tốt, có xấu, có xa, có gần” tạo nên.
Thực trạng này làm cản trở việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
đồng ruộng, làm hạn chế tính chất hàng hoá trong nền nông nghiệp. Bên cạnh
đó, việc khai thác và sử dụng ruộng đất ở Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới
còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Đáng chú ý nhất là tình trạng để lãng phí tiềm
năng đất đai, nhất là đất sản xuất nông nghiệp. Trong nhiều năm trở lại đây, ở
Thái Nguyên còn xuất hiện hiện tượng mua bán, tập trung, tích tụ ruộng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
diễn ra một cách tự do không thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, hiện tượng lợi dụng chiếm đất công, tình trạng tranh chấp đất đai. Tất
cả thực trạng trên đã và đang trở thành vấn đề bức xúc của tỉnh Thái Nguyên
nhưng vẫn còn bỏ ngỏ. Tất nhiên, lời giải cho những bài toán này không phải
là các nhà nông học hay các hộ nông dân, mà trước hết thuộc về trách nhiệm
của các cơ quan xây dựng chính sách và những người thực thi chính sách
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn trên phạm vi cả nước nói
chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá,
Huế.
[2]. Báo cáo thuyết minh tổng hợp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất
đai tỉnh Thái Nguyên đến năm 2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái
Nguyên.
[3] Báo cáo sơ kết công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao
động, người lao động trong sản xuất nông nghiệp, Hồ sơ 104, Phông
số 02, Mục lục 4, Lưu trữ Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[4]. Báo cáo về vấn đề tạm cấp ruộng đất trong tỉnh Thái Nguyên, Hồ sơ 3,
cặp 40, Lưu trữ Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[5]. Báo cáo tình hình giảm tô, giảm tức tỉnh Thái Nguyên, Đơn vị bảo quản
298, Cặp số 22, Lưu trữ Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[6]. Báo cáo tổng kết cải cách ruộng đất tỉnh Thái Nguyên, Đơn vị bảo quản
298, Cặp số 22, Lưu trữ Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[7]. Báo cáo của Bộ Canh nông về việc tạm cấp ruộng đất năm 1950, Hồ sơ
1311, Trung tâm lưu trữ quốc gia III.
[8]. Báo cáo tình hình địa chủ, dân số, dân tộc, thành phần tôn giáo năm
1951 của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái Nguyên, Hồ sơ
01, Phông Bộ Nội vụ, Trung tân lưu trữ quốc gia III.
[9]. Báo cáo số 10/BC-TP về Kiểm kê tình hình triển khai công tác khoán
sản phẩm và những chủ trương biện pháp thực hiện cải tiến
khoán sản phẩm nhằm củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất và
đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp trong hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp, Hồ sơ 044, Phông số 02, Mục lục số 05, Lưu trữ Văn
phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
[10] Báo cáo đánh giá thực hiện cơ chế khoán sản phẩm năm 1988,
Hồ sơ 271, Phông số 01, Mục lục số 01, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái
Nguyên.
[11] Báo cáo tình hình tranh chấp ruộng đất ở tỉnh Bắc Thái, Hồ sơ 108,
phông số 02, Mục lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[12] Báo cáo về tình trạng tranh chấp đất đai ở huyện Định Hoá, Hồ sơ
171, Phông số 02, Mục lục 06, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[13] Báo cáo số 76-BC/HU về kết quả thực hiện chương trình kiên cố
hoá kênh mương huyện Đại Từ từ năm 1999 đến ngày 30/6/2003,
Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[14] Báo cáo kiểm điểm việc lãnh đạo kinh tế xã hội từ Đại hội VI đến
nay của tỉnh Bắc Thái, Hồ sơ 044, phông số 02, Mục lục số 05, Văn
phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[15]. Báo cáo sơ kết tình hình nông thôn tỉnh Thái Nguyên, Hồ sơ 48, Phông
Bộ nội vụ, Trung tâm lưu trữ quốc gia III
[16]. Báo cáo tổng quát về doanh nghiệp chè Tân Cương Hoàng Bình,
Lưu trữ Văn phòng Công ty chè Tân Cương Hoàng Bình.
[17].Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mang
tên thương hiệu, Lưu trữ Văn phòng Công ty chè Tân Cương
Hoàng Bình.
[18]. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên (1999), Thái Nguyên Lịch sử đấu
tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941- 1954).
[19]. Chỉ thị về việc sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết 05 của Ban thường
vụ tỉnh uỷ và nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế nông nghiệp, Hồ sơ 109, Phông số 02, Mục lục 05, Văn
phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[20]. Chỉ thị về việc tích cực khẩn trương tập trung sửa chữa sai sót trong
khoán sản phẩm và cải tiến công tác khoán để thực hiện tốt chỉ thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hồ sơ 017, Phông số 02,
Mục lục số 03, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[21]. Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về công tác mở rộng khoán sản
phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp, Hồ sơ 016, Phông số 02, Mục lục 03,
Lưu trữ Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[22]. Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tập trung chỉ đạo sản xuất, thu
mua lương thực, nông sản quyết tâm giành vụ mùa 1984 thắng lợi
toàn diện, vượt bậc, Lưu trữ Tỉnh uỷ Thái Nguyên. Hồ sơ 026, Phông
số 02, Mục lục 03, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[23]. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nxb, Sự
thật, Hà Nội.
[24]. Nguyễn Sinh Cúc (1997), Thực trạng nông nghiệp nông thôn và nông
dân Việt Nam từ 1976 đến 1995, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
[25]. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam từ 1945 đến 1995, Nxb
Thống Kê, Hà Nội.
[26]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên, Số liệu kinh tế xã hội tỉnh Thái
Nguyên 1955-1970.
[27]. Cục thống kê tỉnh Bắc Thái, Số liệu thống kê kinh tế xã hội tỉnh Bắc
Thái 1976-1985.
[28]. Cục thống tỉnh Bắc Thái, Số liệu kinh tế xã hội tỉnh Bắc Thái 1986-
1990.
[29]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (1997), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên 1990- 1996 tỉnh Thái Nguyên, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
[30]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2000), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên 1996- 1999, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
[31]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2004), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên 2003, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
[32]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2005), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên 2004, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
[33]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2008), Niên giám thống kê
tỉnh Thái Nguyên năm 2007, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[34]. Chi cục thống kê tỉnh Thái Nguyên (2009), Niên giám thống kê tỉnh Thái
Nguyên năm 2008, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[35]. Chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về công tác mở rộng khoán sản
phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp, Hồ sơ 106, Phông số 02, Mục lục
04, Văn Phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[36]. Chỉ thị về việc sơ kết tình hình thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ và Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế nông nghiệp, Hồ sơ 074, Phông số 02, Mục lục 05, Văn
phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[37]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập II. 1930,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[38]. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Hà Nội.
[39]. Nguyễn Điền (1998), Một số vấn đề ruộng đất trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số
238, Tháng 3.
[40]. Nguyễn Xuân Minh (2000) Lịch sử Việt Nam 1945 – 2000, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
[41]. Lê Duẩn (1965), Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng
Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[42]. Echinard, Tiểu chí tỉnh Thái Nguyên, Hồ sơ 10, cặp 44, Lưu trữ Ban
Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[43]. Echinard, Lịch sử chính trị và quân sự tỉnh Thái Nguyên xuất bản năm
1934, Hồ sơ 3, cặp 24, Lưu trữ Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[44]. Nguyễn Kiến Giang (1959), Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống
nông dân trước Cách mạng Tháng Tám, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[45]. Đại Nam Nhất Thống Chí (1971), Nxb, Khoa Học Xã Hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
[46]. Đất Bắc Thái, Uỷ ban nông nghiệp Bắc Thái, xuất bản năm
1975.
[47]. Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư (1998), Đại cương lịch sử
Việt Nam, tập III (1945- 1995), Nxb, Giáo Dục, Hà Nội.
[48]. Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới (qua khảo
sát một số làng xã), Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[49]. Luật đất đai năm 2003, Đơn vị bảo quản 295, Lưu trữ tỉnh uỷ Thái
Nguyên.
[50]. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê
sơ, Nxb Văn- Sử - Địa, Hà Nội.
[51]. Lịch sử Đảng bộ huyện Đại Từ, Đảng bộ Đại Từ, xuất bản năm 1991.
[52]. Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái
Nguyên, Đảng bộ Đồng Hỷ, xuất bản năm 1996.
[53]. Lịch sử Đảng bộ huyện Phổ Yên, Đảng bộ Phổ Yên, xuất bản năm 1990.
[54]. Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Bình, Đảng bộ Phú Bình, xuất bản năm
2005.
[55]. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bắc
Thái, xuất bản năm 1980.
[56]. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập I (1936- 1965), xuất bản năm
2005.
[57]. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập II (1965 - 2000), xuất bản năm
2005.
[58]. Phạm Xuân Nam (2001), Nhìn lại những bước thăng trầm của nông
nghiệp, nông thôn nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, số 5 (318). 2001.
[59]. Qua Ninh và Vân Đình (Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp), Vấn đề
dân cày, Đức Cường, Xuất bản năm 1937.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
[60]. Những đồn điền của Pháp và Việt gian ở Thái Nguyên, Hồ sơ 4,
Cặp 24, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[61]. Nghị quyết của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá IV kỳ họp thứ 4 và
phương hướng nhiệm vụ kinh tế nhiệm vụ năm 1984, Hồ sơ 114,
Phông số 02, Mục lục 04, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[62]. Nghị quyết của ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Thái họp từ ngày 15-
20 tháng 12 năm 1980 về “Nắm vững quan điểm của Đảng, tăng
cường tổ chức quản lý hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất nông lâm
nghiệp đưa phong trào hợp tác xã tiến lên vững chắc”, Hồ sơ 016,
Phông số 02, Mục lục 03, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[63]. Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 14 về phương hướng công tác
nhiệm vụ năm 1990, Hồ sơ 045, Phông số 02, Mục lục 05, Văn phòng
Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[64]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc
Thái (khoá V) về tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế xã hội năm 1989, Hồ
sơ 020, Phông số 02, Mục lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[65]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc
Thái về nhiệm vụ công tác năm 1991, Hồ sơ 118, Phông số 02, Mục
lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[66]. Nghị quyết về hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông
nghiệp, Hồ sơ 044, Phông số 02, Mục lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái
Nguyên.
[67]. Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI diễn ra từ ngày 10 đến
ngày 18/3/1961, Hồ sơ 006, Phông số 01, Mục lục 01, Văn phòng
Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[68]. Nghị quyết của Ban chấp hành Thường vụ Tỉnh uỷ về hoàn thiện cơ chế
khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp, Hồ sơ 054, Phông số
02, Mục lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
[69]. Nghị quyết về việc thực hiện xây dựng kiên cố hoá kênh mương ở
huyện Võ Nhai năm 2000, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[70]. Nghị quyết về một số biện pháp chủ yếu thực hiện Nghị quyết Bộ chính
trị “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, Hồ sơ 044, Phông số 02,
Mục lục 05, Văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên.
[71]. Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục cải tiến đổi mới công tác
quản lý và hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm trong các hợp tác xã
nông nghiệp, Hồ sơ 227, phông số 02, Mục lục 04, Văn phòng Tỉnh
uỷ Thái Nguyên.
[72]. Phùng Hữu Phú (1990), Mấy suy nghĩ về việc giải quyết vấn đề ruộng
đất- nông dân- nông nghiệp hiện nay- nhìn từ góc độ lịch sử, Tạp chí
Thông tin lý luận số 10.
[73]. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XIX, Nxb, Khoa Học xã hội.
[74]. Trần Phương (chủ biên), Hoàng Ước- Lê Đức Bình (1968), Cách mạng
ruộng đất ở Việt Nam, Nxb, Khoa Học Xã Hội.
[75]. Dương Kinh Quốc (1982), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858 – 1945,
Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[76]. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-
XVII, Nxb, Khoa Học Xã Hội, Tập I, Hà Nội.
[77]. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-
XVII, Nxb, Khoa Học Xã Hội, Tập II, Hà Nội.
[78]. Trương Hữu Quýnh (1993), “Mấy suy nghĩ về nông thôn đồng bằng Bắc
Bộ từ góc độ sở hữu”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 4.
[79]. Minh Tranh (1961), Một số ý kiến về nông dân Việt Nam, Nxb Sự Thật,
Hà Nội.
[80]. Nguyễn Trãi (1960), Dư Địa Chí, Nxb Sử Học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
[81]. Nguyễn Duy Tiến (2002), Quá trình thực hiện quyền sử dụng ruộng
đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1945- 1957), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[82]. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ cấu quản lý kinh tế nông nghiệp ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[83]. Trương Thị Tiến (1995), “Đường lối đổi mới của Đảng đối với vấn đề
ruộng đất trong nông nghiệp”, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 1.
[84]. Bùi Quang Toản (1976), Quy hoạch sử dụng ruộng đất, Nxb nông
nghiệp, Hà Nội.
[85]. Lê Đình Thắng (chủ biên) (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
[86]. Tổng cục thống kê (2004), Niên giám thống kê 2003, Nxb Thống Kê, Hà
Nội.
[87]. Tài liệu về việc quản lý công điền công thổ ở các huyện Đại Từ, Định
Hoá, Phổ Yên, Phú Bình tỉnh Thái Nguyên (năm 1949- 1951), Hồ sơ
1208, cặp 128, Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
[88]. Tạ Thị Thuý (1996), Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ từ 1884 đến
năm 1918, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
[89]. Thống kê tổng hợp kết quả chia ruộng đất qua các đợt Cải cách ruộng
đất tỉnh Thái Nguyên, Phông số 1, Mục lục 12, Đơn vị bảo quản 1290,
Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
[90]. Tài liệu về quản lý công điền công thổ ở các huyện Đại Từ, Định Hoá,
Phổ Yên, Phú Bình tỉnh Thái Nguyên (năm 1949-1951), Hồ sơ 1208,
Cặp 128, lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
[91]. Thống kê tổng hợp kết quả chia ruộng đất qua các đợt Cải cách ruộng
đất tỉnh Thái Nguyên, Phông số 01,Mục lục 12, Đơn vị bảo quản
1290, Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
[92]. Sở địa chính, Tổng kiểm kê đất đai năm 2000 tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
[93]. Sở tài nguyên và môi truờng, kết quả kiểm kê đất đai năm 2005
tỉnh Thái Nguyên.
[94]. Bạch Hồng Việt (1996), “Mấy vấn đề phát triển kinh tế xã hội nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 216,
Tháng 5.
[95]. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1990), Viện thông tin khoa học xã
hội, Nông nghiệp- Nông dân- Nông thôn trên thế giới, Hà Nội.
[96]. Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tên làng xã Việt Nam.
[97]. Việt Nam con số và sự kiện 1945- 1989 (1990) , Nxb Sự Thật, Hà Nội.
[98]. Viện sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời Cận đại,
Tập I, Nxb Khoa Học Xã Hội.
[99]. Viện sử học (1992), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời Cận đại,
Tập II, Nxb Khoa Học Xã Hội.
[100]. Hoàng Việt (Chủ biên) (1999), Vấn đề sở hữu ruộng đất trong nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
Mô hình trang trại ở huyện Võ Nhai
Cơ giới hoá nông nghiệp ở huyện Phổ Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
124
Canh tác chè đặc sản Tân Cƣơng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9469.pdf