Sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Huỳnh Trường Giang SẢN XUẤT VỤ BA VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 Chuyên ngành: Địa lý học Mã số: 603195 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐẶNG VĂN PHAN DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT - : Giảm +: Tăng /: Trên DT: Diện tích ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐX: Đông Xuân GR: Doanh thu Ha: Hectare HT: Hè Thu HTX:

pdf126 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hợp tác xã MRCR: Tỷ số doanh thu/chi phí biên MRR : Tỷ suất lợi tức/chi phí biên N: Đạm Nông Nghiệp & PTNN: Nông nghiệp và phát triển nông thôn NS: Năng suất QL: Quốc lộ RAVC: Lợi nhuận. RB: Tỷ số lợi nhuận mô hình sản xuất tiên tiến/phổ biến SL: Sản lượng TCLTNN: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp TĐ: Thu Đông TVC: Tổng chi phí TVCE: Hiệu quả đồng vốn UBND: Ủy Ban Nhân Dân. LỜI CẢM ƠN Đề tài tốt nghiệp là kết quả của nhiều năm học tập tiếp thu kiến thức trong nhà trường. Trong quá trình thực hiện đề tài Tôi được sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy Cô, các bạn hữu, và các Anh Chị em của nhiều cơ quan. Xin chân thành biết ơn! - PGS.TS. Đặng Văn Phan đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ, hỗ trợ Tôi trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn này. - Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng Khoa Học – Công Nghệ & Sau Đại Học, Khoa Địa lý - Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ, trang bị những kiến thức quý báu cho Tôi. - Sở Giáo dục & Đào tạo An Giang, Ban Giám Hiệu trường THPT Chuyên Thoại Ngọc Hầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho Tôi học tập để nâng cao trình độ chuyên môn. - Ks. Huỳnh Thị Minh Trang và các Anh Chị em phòng Hành chánh tổng hợp - Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh An Giang . - Bạn Trần Huỳnh Khanh - Giảng viên Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ. - Sở Tài nguyên và Môi Trường tỉnh An Giang. - Cục thống kê tỉnh An Giang. Thân gởi về, Các Anh Chị và các bạn cùng lớp cao học Địa lý học Khóa 18 lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt. Xin nhận lời cảm ơn sâu sắc nhất! Huỳnh Trường Giang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài An Giang là tỉnh nông nghiệp hàng đầu vùng đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và cả nước với nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp. Nhiều năm liền tỉnh luôn dẫn đầu cả nước về sản lượng lúa, thủy sản nước ngọt,…Và ngành nông nghiệp An Giang luôn là ngành chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế của tỉnh. Là người con của An Giang, những điều đó đã cho tôi rất đỗi kiêu hãnh và niềm tự hào để giới thiệu về quê hương mình mỗi khi có dịp trò chuyện với bạn bè. Đó là những cánh đồng lúa bát ngát, vàng mơ những làng bè cứ nối nhau trên sông xa ngút. Và những hình ảnh đó cũng gần như là một thương hiệu cho những ai coi mình là người con của quê hương An Giang. Với những tiềm năng to lớn cho phát triển nông nghiệp là thế, nhưng An Giang lại là tỉnh có dân số rất đông, đứng đầu ĐBSCL và thứ sáu so với cả nước. Năm 2008, toàn tỉnh có khoảng 2,25 triệu người với hơn 460 ngàn hộ, trong đó có gần 80% dân số sống bằng nghề nông (tương đương 318 ngàn hộ, với khoảng 1,67 triệu người). Diện tích đất hẹp người lại đông nên số hộ nông dân có diện tích đất sản xuất dưới 1 hectare (ha) chiếm tỉ lệ cao trên 75,8%, trong đó số hộ có diện tích dưới 0,5 ha chiếm tỉ lệ 47,1%. Tôi cảm nhận được rằng, đất nước mình đang đổi mới và giàu có lên từng ngày. Song đó, tôi cảm thấy chạnh lòng và xót thương cho những người nông dân lam lũ trên quê hương mình. Họ sinh sống ngay trên mãnh đất màu mỡ, họ sản xuất ra lương thực thực phẩm để đảm bảo cuộc sống ấm no cho hàng triệu triệu đồng bào cả nước và là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia. Nhưng đại bộ phận nông dân lại sống trong cảnh nghèo khó, nhất là mỗi khi trong nhà không còn hạt gạo để ăn trong những ngày giáp hạt. Cái nghèo khó, túng thiếu thường kéo theo cái thất học, rồi cái thất học lại kéo tiếp cái nghèo khó, cái vòng luẩn quẩn đó cứ đeo đuổi theo họ qua bao đời từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong những năm gần đây, ngoài việc sản xuất hai vụ chính trong năm là Đông Xuân (ĐX) và Hè Thu (HT) thì bà con nông dân tại các địa phương có hệ thống đê bao kiểm soát lũ triệt để đã phát huy và khai thác lợi thế tiềm năng của đất, tiến hành thâm canh tăng hệ số sử dụng đất bằng cách tăng thêm một vụ nữa trong năm, là vụ Thu Đông (TĐ) mà thường được gọi là vụ ba. Sản xuất vụ ba mà chủ yếu là độc canh cây lúa trong những năm đầu mới được đê bao triệt để đã đạt hiệu quả kinh tế khả quan. Sản lượng lương thực của tỉnh tăng nhanh, góp phần giải quyết công ăn việc làm, giảm bớt thất nghiệp nông thôn và tăng thêm thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, việc sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua đã nảy sinh những hạn chế nhất định như: làm giảm độ phì nhiêu của đất, thoái hóa đất, chi phí đầu tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ngày càng cao nhưng năng suất lại có chiều hướng giảm, làm giảm nguồn thu của nông dân. Đặc biệt, sản xuất 3 vụ lúa liên tục trong năm còn gặp rất nhiều khó khăn khi giá lúa trong giai đoạn hiện nay thường không ổn định. Từ thực trạng trên, đòi hỏi chúng ta cần phải xem xét, đánh giá đúng tầm hơn về vị trí, vai trò và ý nghĩa của sản xuất vụ ba. Bởi lẽ, qua những lợi thế so sánh cho thấy rằng, việc sản xuất vụ ba không những đơn thuần chỉ tận dụng được quỹ đất đai sẵn có để tăng thêm hệ số sử dụng mà sản xuất vụ ba còn giữ vị trí tiên phong trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ nhằm cải tạo và bảo vệ tài nguyên môi trường, làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên cùng một đơn vị diện tích, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân và góp phần đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,…. Chính từ những lý do trên, nên tôi đã quyết định chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp Cao học của mình là “Sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang (Xét từ góc độ Địa lý kinh tế - xã hội)”. Và trong khuôn khổ đề tài này tôi sẽ : (1) Phân tích ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của vùng nghiên cứu; (2) Nêu lên hiện trạng sản xuất vụ ba và đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong quá trình sản xuất; (3) Đề ra định hướng và các giải pháp để khắc phục những khó khăn, hạn chế trước mắt và lâu dài. Đồng thời, phát huy những lợi thế so sánh nhằm đưa sản xuất vụ ba nói riêng và nền nông nghiệp tỉnh An Giang nói chung phát triển nhanh và bền vững. 2. Mục đích của đề tài Trên cơ sở so sánh, phân tích, tổng hợp và đánh giá tiềm năng phát triển nông nghiệp của tỉnh và hiện trạng của sản xuất vụ ba, luận văn sẽ làm rõ vai trò và ý nghĩa của “sản xuất vụ ba đối với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang”. Nhằm: - Khai thác tối đa lợi thế sản xuất vụ ba, đề ra định hướng và các giải pháp cho sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang. - Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp tài liệu tham khảo cho giáo viên phổ thông và sinh viên khi tìm hiểu và nghiên cứu về Địa lí địa phương. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Tìm hiểu về “sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang (Xét từ góc độ Địa lý kinh tế - xã hội)” là nội dung cơ bản của đề tài. Trong đó, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu sâu về hiện trạng sản xuất vụ ba, ảnh hưởng của vụ ba đối với chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng và ở mức độ nhất định đề tài sẽ đi tìm hiểu về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo lãnh thổ. Tài liệu và các số liệu nghiên cứu sẽ tập trung vào giai đoạn 2003 – 2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Việc thực hiện đề tài này cần phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó có một số phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp khai thác thông tin: Tìm hiểu những nội dung cần thể hiện trong đề tài, tiến hành sưu tập tài liệu có liên quan để tập hợp lại, phân tích và chọn lọc ra những thông tin cần thiết cho bài viết. - Phương pháp thống kê và xử lý số liệu thống kê: Từ những số liệu thu thập được từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, cần phải có quá trình thống kê, xử lý, nhận xét và phân tích lại số liệu để phục vụ đúng mục đích của bài, nhằm làm cho bài viết mang tính thuyết phục hơn. - Phương pháp thực địa và phỏng vấn: Đi khảo sát thực tế những địa phương đang sản xuất vụ ba và một số nơi có quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trong tỉnh. Gặp trực tiếp và phỏng vấn bà con nông dân tại các địa phương đó, trao đổi, thảo luận, xin ý kiến từ đó đúc kết ra những thuận lợi, khó khăn, kinh nghiệm trong sản xuất. Đồng thời trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các anh chị đang công tác tại sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn (Nông Nghiệp & PTNN) để hiểu rõ hơn về thuật ngữ chuyên môn và hiện trạng ngành nông nghiệp của tỉnh nhà trong những năm qua, nhằm phục vụ cho bài viết mang tính khoa học và thực tế hơn. - Phương pháp sử dụng các công cụ tin học: Khai thác thông tin, tranh ảnh, bản đồ nhằm giúp cho bài viết đảm bảo được tính trực quan và cập nhật được những thông tin mới nhất. 5. Quan điểm nghiên cứu - Quan điểm lãnh thổ: Đối với đề tài nghiên cứu là “Sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang” thì việc sử dụng quan điểm lãnh thổ là rất quan trọng. Bởi vì, trong một tỉnh không phải mỗi huyện hay mỗi vùng đều có những tiềm năng tự nhiên và kinh tế - xã hội giống nhau. Vì vậy, dựa vào quan điểm lãnh thổ sẽ giúp ta xác định và phân biệt được các loại địa hình, đất đai cũng như các yếu tố tự nhiên và xã hội,….Qua đó sẽ đúc kết được những ưu thế riêng của từng vùng hay của từng huyện trong tỉnh mà đề ra hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho phù hợp. - Quan điểm tổng hợp: Các yếu tố tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nói riêng không thể tách rời nhau mà chúng luôn luôn có sự hỗ trợ hoặc tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một quá trình chuyển dịch cơ cấu nhất định. Cũng như khi tìm hiểu về sản xuất vụ ba với sự phát triển nông nghiệp bền vững tỉnh An Giang, ta không chỉ xét riêng lẽ về hiện trạng của sản xuất vụ ba là đủ, mà ta cần phải đặt sản xuất vụ ba trong mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ và bổ sung cho nhau với các vụ sản xuất khác như Đông Xuân, Hè Thu và các yếu tố, tiềm năng ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp chung của tỉnh,….Từ đó phát hiện ra những yếu tố trội, đặc trưng tích cực tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong sản xuất vụ ba nói riêng và nền nông nghiệp toàn tỉnh nói chung. Để có định hướng đầu tư phát triển hợp lý nhằm làm cho nền nông nghiệp của tỉnh nhà phát triển theo hướng bền vững. - Quan điểm viễn cảnh: Dựa vào quan điểm này để dự báo một số vấn đề nào đó. Chẳng hạn như khi nghiên cứu về hiện trạng sản xuất vụ ba tỉnh An Giang trong giai đoạn 2003 – 2008, qua quá trình này sẽ giúp ta dự đoán được tình hình phát triển sau này của ngành nông nghiệp tỉnh nhà, từ đó có thể đề ra mục tiêu và định hướng phát triển tiếp theo. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông nghiệp bền vững 1.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp 1.1.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế Hiện nay, có rất nhiều quan niệm về cơ cấu kinh tế, nhưng nhìn chung có thể quan niệm về cơ cấu kinh tế như sau: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế của mỗi nước. Các bộ phận đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các mối quan hệ tỉ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. “Nguyễn Thị Bích Hường (2005)” Tất cả các nước trên thế giới đều xây dựng cho mình một mục tiêu chung là phát triển kinh tế cao, ổn định và bền vững. Để thực hiện được mục tiêu đó thì cần phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lí. Do đó, việc phân chia và đánh giá cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét cấu trúc bên trong của nền kinh tế, biểu hiện ở mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận đó trong hệ thống kinh tế, những mối quan hệ đó ràng buộc lẫn nhau và được biểu hiện về mặt lượng và chất. Cơ cấu kinh tế còn phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của nền kinh tế, đó là kết quả của quá trình phân công lao động. Một cơ cấu kinh tế hợp lí thì các yếu tố bên trong cơ cấu kinh tế đó phải kết hợp một cách hài hòa, sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực tài nguyên của đất nước, làm cho nền kinh tế của đất nước đó phát triển lành mạnh có nhịp độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu đó phải phản ánh được các yêu cầu của quy luật khách quan: quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cần phải nhận thấy vai trò rất quan trọng của nhân tố chủ quan là con người. Lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại đã cho thấy rằng, cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến mà luôn ở trạng thái vận động và không ngừng biến đổi, phát triển. Do tác động của khoa học kĩ thuật, ứng dụng những công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh tế - xã hội, làm cho cơ cấu kinh tế ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Theo sự phát triển đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ. Để xác lập được một cơ cấu kinh tế hợp lí, đòi hỏi con người phải nghiên cứu các quy luật tự nhiên và kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra cho các nhà lý luận và những người quản lí là hoạch định và dự báo cơ cấu kinh tế hiện tại và tương lai. Cơ cấu kinh tế của một nước được xét trên tổng thể các bộ phận hợp thành nền kinh tế nước đó như: các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế. Ở mỗi ngành, mỗi vùng lại có những cơ cấu kinh tế riêng của mình tùy thuộc vào những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, có thể xét cơ cấu kinh tế ở ba phương diện cấu thành: - Cơ cấu ngành kinh tế. - Cơ cấu thành phần kinh tế. - Cơ cấu vùng lãnh thổ. Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỉ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của một quốc gia. Cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành bởi việc bố trí sản xuất theo không gian địa lí. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Tùy theo điều kiện và tiềm năng phát triển mà có thể phát triển tổng hợp hay ưu tiên một vài ngành kinh tế nào đó. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế biểu hiện hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu khác nhau có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội. Ba loại hình cơ cấu trên đặc trưng cho cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được hình thành và phát triển trên phạm vi vùng lãnh thổ và trên phạm vi cả nuớc. Đồng thời, việc phân bố sản xuất trên những vùng lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành và các thành phần kinh tế trên vùng lãnh thổ.[6], [7], [9] 1.1.2 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Như trên đã phân tích, cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh mà luôn biến đổi. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. “Nguyễn Trần Quế (2004)” Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: quy mô kinh tế, mức độ mở cửa của nền kinh tế bên ngoài, dân số của quốc gia, các lợi thế về tự nhiên, nhân lực, điều kiện kinh tế, văn hóa, chính sách,…Nhưng nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyên môn hóa trong phạm vi quốc gia và mở rộng ra quốc tế, hoặc sự thay đổi công nghệ, tiến bộ khoa học kĩ thuật. Thực chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự phát triển không đồng đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ trung bình của nền kinh tế thì sẽ tăng tỉ trọng và ngược lại ngành có tốc độ phát triển thấp hơn sẽ giảm tỉ trọng. Nếu tất cả các ngành có cùng tốc độ tăng trưởng thì tỉ trọng sẽ không thay đổi, nghĩa là không có sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Từ đó, có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân là sự vận động phát triển của các ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỉ lệ và mối quan hệ, tương tác giữa chúng theo thời gian, dưới tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội nhất định của đất nước và quốc tế. Cơ cấu kinh tế ngành thường được xét gồm 3 ngành cấu thành: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Do đó, sự biến đổi cơ cấu kinh tế ở tầm vĩ mô là kết quả của quá trình vận động, phát triển của ba ngành này hoặc từng phân ngành của chúng làm thay đổi trong tương quan tỉ lệ đã hình thành trước đó cũng như mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế thay đổi nhiều trong thời kì kinh tế tăng trưởng nhanh do sự chênh lệch về tốc độ giữa các bộ phận sẽ lớn. Ngược lại tăng trưởng thấp sẽ làm giảm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.[6], [7], [9], [13] 1.1.3 Cơ cấu nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp 1.1.3.1 Khái niệm cơ cấu nông nghiệp Nông nghiệp là một hệ thống nên sự tương quan giữa các thành phần của nó rất chặt chẽ. “Cơ cấu nông nghiệp chính là tỉ lệ cân đối giữa các ngành, thành phần nông nghiệp bao gồm tỉ lệ cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, tỷ lệ cân đối giữa các loại cây trồng (cơ cấu cây trồng) và các loại vật nuôi (cơ cấu vật nuôi), tỉ lệ cân đối giữa các hệ thống canh tác, các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp,…” “Được trích dẫn từ Trần Thị Xuân Thùy (2006)”. 1.1.3.2 Một số kiểu hệ thống canh tác nông nghiệp Hệ thống canh tác: để chỉ các hoạt động sản xuất được sắp xếp phù hợp với điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất, tiền vốn, vật tư, sức người và lưu thông phân phối của từng địa phương. Cũng có định nghĩa cho rằng, hệ thống canh tác là một nhóm các phần tử (con người, động vật, cây cỏ,…) cùng tác động để sản xuất ra lương thực, thực phẩm, tiền,….nó có khả năng phản ứng lại như một thể thống nhất với những thay đổi của môi trường bên ngoài. Trong trồng trọt có một vài hệ thống canh tác phổ biến sau: a) Luân canh Hệ canh tác này gồm việc trồng luân phiên các loại cây trồng khác nhau theo vòng tròn trên cùng một mãnh đất. Nó làm giảm độ thoái hóa độ phì, hiện tượng thiếu dinh dưỡng, vi lượng và các dịch bệnh đặc biệt xảy ra. Để xây dựng một kế hoạch luân canh tốt, ta cần phải nghiên cứu tính chất của từng loại cây trồng. Có hai nhân tố cần nghiên cứu: Một là, mức độ tiêu thụ chất dinh dưỡng, hai là tính chất chống chịu được dịch bệnh. Thí dụ: Lúa (Đông Xuân) - Đậu, Bắp, Mè (Hè Thu) – Lúa (Thu Đông); Lúa (Đông Xuân) – Lúa (Hè Thu) – Rau, Đậu (Thu Đông),… b) Độc canh Thuật ngữ để chỉ trên khu ruộng quanh năm ta chỉ trồng có một loại cây trồng duy nhất. Thí dụ: Lúa (Đông Xuân) – Lúa (Hè Thu) – Lúa (Thu Đông) và năm nào cũng vậy. c) Canh tác kết hợp Hệ thống canh tác kết hợp là một biến dạng của kiểu canh tác nhiều loài gồm việc trồng nhiều loại cây khác nhau trên cùng một lô đất. Thí dụ: trồng bắp xen với đậu. Bắp là loại cây cao có rễ ăn sâu và yêu cầu dinh dưỡng cao, còn đậu là loài thấp cây hơn, rễ ăn cạn, ít yêu cầu dinh dưỡng lại có khả năng cung cấp đạm trở lại cho đất. Không có sự cạnh tranh nào giữa bắp và đậu, vì vậy tổng sản lượng của bắp và đậu cộng lại sẽ cao hơn là sản phẩm riêng lẻ của việc trồng bắp hay đậu. Lợi ích của canh tác kết hợp là giảm được sâu bệnh, đồng thời sử dụng đất, ánh sáng mặt trời và lượng mưa tốt hơn.[1], [12], [21] 1.1.3.3 Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Xét theo nghĩa rộng thì nông nghiệp bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp. Ở mặt này sự chuyển dịch về ngành nông nghiệp được xét trong sự tương quan giữa 3 lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Trên thực tế sự chuyển dịch ngành này của các nước chủ yếu là chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng nông, lâm nghiệp và tăng tỉ trọng trong thủy sản. Còn nếu xét theo nghĩa hẹp thì nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Sự chuyển dịch trong lĩnh vực này là tăng lên về chăn nuôi và giảm xuống trong trồng trọt. Có thể thấy nông nghiệp được chuyển dịch theo xu hướng sau: Chuyển dịch của cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch từ nền nông nghiệp tự cấp, tự túc, thuần nông, độc canh sang phát triển đa dạng, bền vững về sinh thái và phát triển nông nghiệp hàng hóa hướng ra xuất khẩu. Chuyển từ một nền nông nghiệp mất cân đối giữa chăn nuôi và trồng trọt sang phát triển cân đối giữa hai ngành này. Xuất phát từ nguồn lực và yêu cầu xã hội, từ sự tác động qua lại giữa chăn nuôi và trồng trọt mà cần phải tăng trưởng nhanh hai ngành đó. Chăn nuôi phải tăng trưởng nhanh hơn trồng trọt để đáp ứng kịp nhu cầu đòi hỏi của thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngành chăn nuôi ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Xu hướng chính vẫn là chăn nuôi theo hướng trang trại, hình thành những mô hình chăn nuôi lớn, những giống có năng suất cao ngày càng được đầu tư phát triển. Trên cơ sở phát triển lương thực đẩy mạnh phát triển các loại rau, đậu các cấp. Cây ăn quả và cây công nghiệp trở thành nhiều vùng chuyên môn hóa có quy mô lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa và trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn. Tỷ trọng các ngành này ngày càng lớn lên và tỷ trọng ngành lương thực trong trồng trọt sẽ giảm đi tương ứng. Việc sản xuất rau sạch ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đây là xu hướng chung trong trồng trọt hiện nay. Ứng dụng màng phủ nông nghiệp để trồng cây ăn quả, rau củ cũng được phổ biến rộng rãi và sử dụng ngày càng nhiều. Phát triển từ một nền nông nghiệp theo nghĩa hẹp sang một nền nông nghiệp theo nghĩa rộng có sự kết hợp chặt chẽ giữa nông, lâm, ngư nghiệp nhằm khai thác và sử dụng tốt tiềm năng của đất nước. Đồng thời phải khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã tác động mạnh mẽ đến cơ cấu nông nghiệp. Vì vậy, mà một xu hướng chuyển dịch nữa là kết hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí. Hình thành nên một dây truyền sản xuất, chế biến trong nông nghiệp nhằm hạn chế tổn hao kinh phí bảo quản tốt sản phẩm. Bên cạnh đó nông nghiệp cũng cần phải liên kết với dịch vụ để nắm bắt thông tin giá cả thị trường và điều tiết sản xuất cho hợp lí. Trong nông nghiệp ngày càng xuất hiện nhiều nông trại gia đình, sản xuất hàng hóa, hình thành các quy mô hợp tác xã nông nghiệp với quy mô lớn và các vùng chuyên canh sản xuất theo hướng hàng hóa ngày càng được phát triển cao. Nhìn chung xu hướng chính của chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là chuyển từ một nền nông nghiệp lạc hậu sang nền nông nghiệp cơ khí hóa, cơ giới hóa cao, áp dụng nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật để tăng năng suất nâng cao chất lượng sản phẩm. Tiến đến một nền nông nghiệp hàng hóa hướng ra xuất khẩu. Trong định hướng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi qua một số văn bản của chính phủ cũng thể hiện: Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là đòi hỏi búc xúc của nông dân và của Nhà nước. Đây cũng là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển bền vững mà theo lý thuyết phát triển kinh tế thì phát triển bao gồm tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phải nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả của nền nông nghiệp hàng hóa của nước ta, trước hết phải bảo đảm hai yêu cầu cơ bản: - Nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị ha đất. - Tăng thu nhập cho nông dân, nghĩa là giá trị sản xuất ra một ha phải lớn, đồng thời phải có lãi thỏa đáng, từ đó sẽ nâng cao thu nhập cho người nông dân. Cùng với quan điểm định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL nói chung và tỉnh An Giang nói riêng thì: - Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phải phát huy lợi thế của vùng và từng khu vực nhưng phải phù hợp với điều kiện thị trường, tập trung các loại cây trồng, vật nuôi, hàng hóa có thị trường tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện làm ra sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của thị trường, tiêu thụ đạt giá cao. - Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp do nông dân và các thành phần kinh tế thực hiện. Nhà nước hướng dẫn và tạo điều kiện thông qua việc quy hoạch các vùng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và chuyển giao kĩ thuật, ban hành chính sách ưu đãi, tổ chức cung cấp giống và vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng và dễ dàng tiêu thụ. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải bảo đảm các yêu cầu phát triển bền vững an toàn về mặt kĩ thuật trong điều kiện lũ lụt, thiên tai dịch bệnh có thể xảy ra, phản ứng linh hoạt trước biến động của thị trường, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Kết lại, mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là xây dựng một vùng phát triển nông nghiệp hàng hóa, phát triển bền vững các loại nông sản là thế mạnh, có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân.[1], [6], [7] 1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta 1.1.4.1 Nhóm điều kiện tự nhiên Qua những đặc điểm nêu trên của sản xuất nông nghiệp. Chúng ta thấy rằng, để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đạt hiệu quả, cần phải nhận thấy sự tác động của các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nông nghiệp. Từ đó, vận dụng các nhân tố này vào để chuyển dịch có hiệu quả. Một trong những nhân tố đó là điều kiện tự nhiên. Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm: đất, nước, khí hậu, vị trí địa lí,…Các nhân tố này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Vì sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp gắn bó chặt chẽ với các điều kiện tự nhiên, dựa trên đó mà cây trồng, vật nuôi có thể phát triển. Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với lượng nhiệt và độ ẩm cao tạo điều kiện cho cây trồng và vật nuôi phát triển quanh năm. Điều này là cơ sở để lai tạo ra các giống mới, thực hiện sản xuất cơ cấu mùa vụ quanh năm. Từ chổ chỉ có thể trồng một vụ bấp bênh thì nay đã trồng 2-3 vụ/năm. Bên cạnh đó còn có thể xen 2 vụ lúa 1 vụ màu, hai vụ lúa 1 vụ cá, tôm,….. Quỹ đất nước ta cũng rất phong phú, đặc biệt là hệ thống đất phù sa ở các đồng bằng. Trong đó, đồng bằng Sông Cửu Long được xem là một trong những đồng bằng phì nhiêu nhất Châu Á. Điều này, sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển lúa nước năng suất cao. Bên cạnh đó còn có các loại đất khác có thể trồng cây công nghiệp, cây ăn quả tạo nên cơ cấu nông nghiệp đa dạng. Việt Nam vốn có nguồn nước phong phú do hệ thống kênh rạch chằng chịt. Các hệ thống sông này ngoài cung cấp nước cho nông nghiệp còn bồi đắp một lượng phù sa màu mỡ làm phân bón cho lúa, cây trồng. Với nguồn nước dồi dào, là điều kiện để cây trồng có thể phát triển quanh năm, cơ cấu mùa vụ được chuyển đổi dễ dàng. Tuy nhiên, vào mùa khô một số nơi vẫn bị thiếu nước. Vì vậy, cần phải đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, cải tạo đất phèn, mặn để khai thác tối đa nguồn tài nguyên đất, nước. Do có đường hải giới dài cho nên nhân tố tác động mạnh đến chuyển dịch nông nghiệp là biển. Tài nguyên về biển rất phong phú vì vậy mà việc phát triển ngành ngư nghiệp chiếm tỉ trọng cao sẽ là một lợi thế cho nước ta. Ngoài ra, kết hợp với tài nguyên nước, Việt Nam sẽ phát triển mạnh nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản với năng suất và sản lượng ngày càng cao. Vị trí địa lí cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Bởi vì vị trí địa lí sẽ là điều kiện để ta nắm bắt thông tin, trao đổi kĩ thuật và tiếp cận thị trường, xem xét nên sản xuất sản phẩm nào để thích ứng với thị trường, tiêu thụ nhanh. Như vậy, điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp. Muốn chuyển dịch cơ cấu đem lại hiệu quả cao thì phải biết tận dụng các nhân tố đó và tránh những tác động tiêu cực của chúng vào nền kinh tế. 1.1.4.2 Nhóm điều kiện kinh tế - xã hội Nhóm này gồm có: thị trường, cơ vật chất, đường lối – chính sách, lực lượng lao động,….Trong đó, thị trường là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Dưới tác động của cơ chế thị trường cơ cấu nông nghiệp nói chung đã và đang chuyển dịch theo hướng phá vỡ cơ cấu kinh tế khép kín tự cung, tự cấp, chuyển sang sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Xu hướng này phản ánh đặc trưng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường thống nhất và mở cửa. Nó vừa là kết quả vừa là động lực của những thay đổi trong cơ cấu và phương thức sản xuất, kể cả trong trồng trọt lẫn chăn nuôi, sản xuất lương thực lẫn trồng cây công nghiệp và rau đậu thực phẩm. Việc thay thế các giống lúa cũ bằng các giống lúa mới có giá trị hàng hóa và hàng hóa xuất khẩu cao, việc phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và cây nguyên liệu cho công nghiệp cũng như phát triển mạnh ngành chăn nuôi đều thể hiện rất rõ của thị trường đối với chuyển dịch cơ cấu theo hướng phát triển một nền nông nghiệp thương phẩm. Từ đó không chỉ dẫn tới sự xuất hiện một ngành hàng sản xuất chủ lực, mũi nhọn trong nông nghiệp mà còn dẫn tới sự hình thành bước đầu của nhiều ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tập trung, chuyên canh có tỷ suất hàng hóa cao, tạo cơ chế cho việc đẩy mạnh giao lưu, trao đổi hàng hóa trong nước và mở rộng với giao lưu kinh tế bên ngoài. Nhân tố tiếp theo là chính sách, đường lối phát triển kinh tế cũng tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Bởi vì đây sẽ là định hướng cho sự chuyển dịch mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước. Nguồn lực lao động sẽ là nguồn lực cần thiết để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Dưới tác động của đội ngũ lao động có trình độ sản xuất, nông nghiệp sẽ chuyển dịch theo hướng thích hợp nhất, ngày càng phát triển. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp còn chịu tác động của cơ sở hạ tầng,._. vật chất kĩ thuật. Bởi vì nhân tố này là tiền đề thúc đẩy việc hình thành những vùng chuyên canh đòi hỏi kĩ thuật cao, quy mô lớn.[18] 1.1.5 Hiện trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn, nông- lâm nghiệp và thủy sản nói riêng vừa là vấn đề cơ bản có tầm chiến lược đối với nước ta, một nước đi lên từ nông nghiệp, vừa là vấn đề cấp bách trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản đã chuyển đổi theo xu hướng công nghiệp hóa. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành đã tăng đáng kể, từ 2,6% năm 2001 lên 7,9% năm 2008, sản lượng toàn ngành cùng kì đã tăng từ 114.989 tỷ đồng lên 156.682 tỷ đồng, nhưng tỷ trọng đóng góp của toàn ngành trong GDP nền kinh tế đã giảm liên tục, từ 27,76% năm 1996, xuống còn 22,1% năm 2008. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Bảng 1.1: Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp (Đơn vị: %) “Nguồn: Niên giám thống kê, 2008” Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm xuống, nhưng sản lượng và tốc độ tăng trưởng vẫn tăng, đã bắt đầu phát triển nông nghiệp theo hướng nền nông nghiệp hàng hóa và hướng vào xuất khẩu. Ngành nông nghiệp đã bắt đầu chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao, đảm bảo an toàn vệ sinh. Sự chuyển đổi cây trồng (lúa gạo đặc sản, gạo hạt dài, gạo thơm, nếp đặc sản, ngô lai cho năng suất cao…), thời vụ đã cho kết quả tăng nhanh không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng lương thực - thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Năm Hạng mục 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Trồng trọt 75,4 76,3 73,5 73,7 73,9 71,5 Chăn nuôi 22,4 21,6 24,7 24,5 24,4 27,0 Dịch vụ 2,2 2,1 1,8 1,8 1,7 1,5 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Đến năm 2001, Việt Nam đã vượt qua “cửa ải lương thực”, đảm bảo an ninh lương thực trên phạm vi cả nước và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới. Năm 2008, sản lượng lương thực có hạt ước đạt 43,258 triệu tấn đã đưa sản lượng lương thực đầu người lên 459 kg/người/năm. Sự phát triển của ngành nông nghiệp và sự thay đổi trong cơ cấu của nó đã tạo cơ hội và điều kiện mới cho sự phát triển của ngành công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung. Sự phát triển nông nghiệp đã đi vào chiều sâu, việc tăng sản lượng lúa gạo từ năm 2002 đến nay không còn thuần túy do tăng diện tích, tăng lao động mà bắt đầu chuyển sang tăng sản lượng nhờ vào tăng năng suất. Kể từ năm 1996 đến năm 2001, sản lượng lúa tăng lên chủ yếu do tăng diện tích và tăng lao động. Năng suất lúa đã tăng cao là nhờ chuyển dịch cây lúa bấp bênh, năng suất thấp, chi phí cao sang nuôi thủy sản và các cây trồng khác có hiệu quả, dành vốn và lao động chăm sóc diện tích lúa còn lại. Cùng với cây lương thực, nhiều cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày cũng được chuyển mạnh theo hướng đa canh để tăng hiệu quả sử dụng đất, sắp xếp lại, tăng năng suất và sản lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Như vậy, ngành trồng trọt đã phát triển theo hướng đa dạng hóa, không chỉ cây lúa mà các cây màu và cây công nghiệp ngắn, dài ngày cũng được phát triển mạnh, đã và đang hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.[6], [7], [9], [21] 1.2 Phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.1 Phát triển bền vững 1.2.1.1 Khái niệm Vào nửa cuối của thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước loài người đã phải đương đầu với những thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường. Trong tình hình đó, quan niệm mới về sự phát triển mới đã được đặt ra, đó là phát triển bền vững. Phát triển bền vững là khái niệm mới của sự phát triển. Nó lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn về môi trường: đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của tương lai. Các thế hệ hiện tại sử dụng các nguồn tài nguyên cho sản xuất ra của cải vật chất không thể để cho thế hệ mai sau phải gánh tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và nghèo đói. Cần phải cho các thế hệ tương lai được thừa hưởng các thành quả lao động của thế hệ hiện tại dưới dạng giáo dục, kĩ thuật, kiến thức và các nguồn lực khác ngày càng được tăng cường. Tăng thu nhập kết hợp với các chính sách môi trường và thể chế vững chắc có thể tạo cơ sở cho việc giải quyết cả hai vấn đề môi trường và phát triển. Trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedie có nêu khái niệm về phát triển bền vững như sau: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà phải vẫn bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa vào đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lí, văn hóa,…riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Điều then chốt đối với sự phát triển bền vững không phải là sản xuất ít đi mà sản xuất khác đi, sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm các nguồn lực tài nguyên và bảo vệ môi trường. Các chính sách môi trường có thể tăng cường hiệu suất trong sử dụng tài nguyên và đưa ra những đoàn bẩy để tăng cường những công nghệ và phương pháp ít gây hại và không gây giảm cấp môi trường và nguồn lực. Các đầu tư tạo ra nhờ các chính sách môi trường sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất các sản phẩm và dịch vụ, có thể có trường hợp đầu ra thấp hơn nhưng tạo ra những lợi ích làm tăng phúc lợi lâu dài của con người. Trong thực tế khi thu nhập tăng lên, nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường cũng sẽ tăng lên và các nguồn lực có thể sử dụng cho đầu tư sẽ tăng lên. Chương trình của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã đề xuất 5 nội dung của phát triển bền vững gồm: - Tập trung phát triển ở các vùng nghèo đói, nhất là những vùng rất nghèo mà ở đó con người không có lực chọn nào khác ngoài làm giảm cấp nguồn lực và môi trường. - Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập của cộng đồng trong điều kiện có hạn về nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên. - Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên kĩ thuật và công nghệ thích hợp, kết hợp với khai thác tối đa kĩ thuật truyền thống. - Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương thực, cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khỏe chống suy dinh dưỡng thông qua các công nghệ thích hợp. - Xây dựng và thực hiện chiến lược có người dân tham gia. Để có sự phát triển bền vững cần phải có các yếu tố sau (theo Mal Com Gillis): - Một hệ thống chính trị đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người dân vào việc ra quyết định. - Một hệ thống kinh tế góp phần tạo sản phẩm thặng dư và kĩ thuật công nghệ dựa trên tính tự lập và bền vững. - Một hệ thống sản xuất đảm bảo phục hồi hệ sinh thái cho sự phát triển. - Một hệ thống công nghệ làm nền tảng chọn xây dựng các phương pháp bền vững, lâu dài. - Một hệ thống quốc tế đẩy mạnh mối quan hệ bền vững về thương mại và tài chính.[12] 1.2.1.2 Cơ sở của phát triển bền vững Giảm đến mức thấp nhất việc khánh kiệt Tài nguyên Môi trường: đất, nước ngọt, các thủy vực, khoáng sản,… đảm bảo sử dụng lâu dài các dạng Tài nguyên không tái tạo lại được bằng cách tái chế, tránh lãng phí, sử dụng ít hơn hoặc thay thế chúng. Bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn tính di truyền của các loài động vật, thực vật nuôi trồng cũng như hoang dã. Đảm bảo việc sử dụng lâu bền bằng cách quản lý phương thức và mức độ sử dụng, làm cho các nguồn tài nguyên đó vẫn còn có khả năng hồi phục. Duy trì các hệ sinh thái thiết yếu, đảm bảo cho cuộc sống cộng đồng và nên nhớ rằng sức chịu đựng của các hệ sinh thái trên trái đất là có hạn. Nếu có điều kiện thì duy trì các hệ sinh thái tự nhiên. Hoạt động trong khả năng chịu đựng của trái đất. Phục hồi lại môi trường đã bị suy thoái, giữ gìn sự cân bằng các hệ sinh thái.[3] 1.2.1.3 Các chỉ tiêu phát triển bền vững Để so sánh, nhận xét, đánh giá mức độ phát triển bền vững có thể sử dụng một số chỉ tiêu mang tính định lượng. Có thể phân thành hai nhóm chỉ tiêu: a) Chỉ tiêu đo lường chất lượng cuộc sống: Đó là chỉ tiêu phát triển con người (Human Development Indexes – HDI), bao gồm: - Thu nhập quốc dân tính theo đầu người, biểu thị bằng chỉ số GDP - Tuổi thọ bình quân đối với nam giới và nữ giới - Học vấn biểu thị bằng tỉ lệ mù chữ, tỉ lệ người có trình độ trung học, Đại học và trên Đại học - Tự do trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội - Chất lượng môi trường, mức độ ô nhiễm nặng, vừa và không ô nhiễm. b) Chỉ tiêu về tính bền vững sinh thái: Một xã hội được coi là bền vững sinh thái khi: - Nó bảo tồn hệ sinh thái phụ trợ cuộc sống và đa dạng sinh học. - Bảo đảm rằng việc sử dụng tài nguyên tái tạo được là bền vững và giảm thiểu việc làm suy thoái tài nguyên không tái tạo được. - Nằm trong khả năng chịu tải của các hệ sinh thái phụ trợ.[3] 1.2.1.4 Những mục tiêu, nguyên tắc chính và lĩnh vực cần ưu tiên để phát triển bền vững ở Việt Nam a) Mục tiêu Quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 đã được khẳng định: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng cường kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. b) Những nguyên tắc chính - Con người là trung tâm của phát triển bền vững. - Phát triển kinh tế là nhiệm vụ của trung tâm - Bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. - Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. - Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. - Phát triển bền vững là sự nghiệp của các cấp chính quyền, của các bộ ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. - Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - kết hợp chặt phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. c) Những lĩnh vực hoạt động cần ưu tiên Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam xác định 19 lĩnh vực ưu tiên: Lĩnh vực kinh tế (5); lĩnh vực xã hội (5); lĩnh vực tài nguyên môi trường (9). Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên: - Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học – công nghệ và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường. - Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện hơn với môi trường. - Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch” - Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. - Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương phát triển bền vững. Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên: - Tập trung nỗ lực để xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm. - Tiếp tục hạ thấp tỉ lệ tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số và tình trạng thiếu việc làm. - Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm phân bố hợp lí dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương, trước hết là các đô thị. - Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân chí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. - Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng về dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường. Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên: - Sử dụng hợp lí, bền vững và chống thoái hóa tài nguyên đất. - Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả bền vững tài nguyên khoáng sản. - Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước. - Bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, ven biển, hải đảo. - Bảo vệ và phát triển rừng. - Giảm ô nhiễm không khí tại các đô thị và khu công nghiệp. - Quản lí chất thải rắn và chất thải nguy hại. - Bảo tồn đa dạng sinh học. - Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những thiệt hại.[12] 1.2.2 Phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.2.1 Nền tảng lý thuyết về phát triển nông nghiệp bền vững Trong hai thập niên gần đây, định nghĩa về nông nghiệp bền vững đã được hình thành và rất khác nhau. Một vài định nghĩa được phổ biến như sau: - Trong những năm đầu thập niên 80, Douglass G.K phân loại 3 nhóm khác nhau về định nghĩa. Nhóm 1: nông nghiệp bền vững được nhấn mạnh chủ yếu vào khía cạnh kinh tế - kĩ thuật. Năng suất lao động tăng và duy trì trong dài hạn là bằng chứng cho sự tăng trưởng của nông nghiệp theo con đường bền vững Nhóm 2: nông nghiệp bền vững được nhấn mạnh chủ yếu vào khía cạnh sinh thái. Một hệ thống nông nghiệp mà làm suy yếu, ô nhiễm, phá vỡ cân bằng sinh thái của hệ thống tự nhiên một cách không cần thiết thì hệ thống đó không bền vững. Nhóm 3: nông nghiệp bền vững được nhấn mạnh vào khía cạnh môi trường con người. Một hệ thống nông nghiệp mà không cải thiện được trình độ giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng của người dân thì hệ thống đó không được xem là bền vững. - Vào giữa thập niên 80, Ủy ban Phát triển và Môi trường thế giới (1987), đã đưa ra định nghĩa như sau: phát triển bền vững là phát triển mà đáp ứng được những nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương năng lực đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Định nghĩa này được phổ biến nhanh chóng và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên định nghĩa này không được ủng hộ lắm bởi các nước mà vấn đề nghèo đói còn nghiêm trọng và thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp. Trong cùng thời điểm này, cũng còn một số định nghĩa khác. Ropetto (1987) cho rằng một trong những điều kiện cơ bản của phát triển nông nghiệp bền vững trong một thế giới mà tình trạng suy dinh dưỡng và nghèo đói còn phổ biến, và sản xuất nông nghiệp gia tăng đủ để đáp ứng nhu cầu lương thực - thực phẩm tăng nhanh và đảm bảo cho giá giảm dần. Ủy ban tư vấn kĩ thuật của Liên Hợp Quốc (Technical Advisory Committee – TAC, 1989) nhấn mạnh rằng, mục tiêu của nông nghiệp bền vững là duy trì sản xuất nông nghiệp ở trình độ cần thiết để đáp ứng nhu cầu gia tăng của việc mở rộng về dân số thế giới mà không làm suy thoái môi trường. Trong những năm 90, một vài định nghĩa khác xuất hiện. Nijkamp, Bergh và Soetoman (1990) cho rằng, sự bền vững được xem như là một cân bằng được đảm bảo giữa phát triển kinh tế và bền vững sinh thái. Pearce và Turner (1990) cho rằng, sự phát triển nông nghiệp bền vững được định nghĩa như là tối đa hóa lợi ích của sự phát triển kinh tế trên cơ sở ràng buộc việc duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian và tuân thủ các quy luật sau: (a) đối với những tài nguyên có thể phục hồi (rừng, đất, lao động), việc sử dụng phải đảm bảo ở mức thấp hơn so với khả năng tái sinh tự nhiên của chúng; (b) đối với tài nguyên không phục hồi (máy móc, vật tư nông nghiệp), việc tối ưu hóa hiệu quả sử dụng chúng phụ thuộc vào khả năng thay thế của các nguồn lực này (Vì dụ: sử dụng phân bón để tăng sản lượng thay thế cho việc tăng sản lượng bằng diện tích) và tiến bộ kĩ thuật. Mollison (1994), Khái niệm về nông nghiệp bền vững còn đề cập đến vai trò của đa dạng hóa cây trồng: nông nghiệp bền vững là một hệ thống được thiết kế để chọn môi trường bền vững cho cuộc sống con người. Mục đích của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống ổn định về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người mà không bóc lột đất đai, không làm ô nhiễm môi trường,… áp dụng một hệ thống canh tác đa canh (chống độc canh), hệ thống này tạo ra tính ổn định và giúp ta dễ dàng chuyển hướng trước những biến động về môi trường và xã hội. Mục tiêu đầu tiên của sự phát triển nông nghiệp bền vững là phải đảm bảo việc ổn định và thỏa mãn liên tục nhu cầu con người trong thế hệ hôm nay và mai sau (FAO,1998). Qua các định nghĩa trên, cho thấy rằng, chưa có sự đồng nhất về định nghĩa của nông nghiệp bền vững giữa các nhà kinh tế học. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế học đều nhận định rằng, phát triển nông nghiệp bền vững là mô hình phát triển mà trong đó sự ràng buộc giữa tăng trưởng nông nghiệp với môi trường tự nhiên, sự nghèo đói và môi trường con người ở nông thôn. Do đó, để nắm được bản chất của nông nghiệp phát triển bền vững, những mối quan hệ ràng buộc này cần được xem xét.[1], [12] 1.2.2.2 Bản chất của phát triển nông nghiệp bền vững a) Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường tự nhiên Theo Haen (1991), tất cả các dạng hình thức của sản xuất nông nghiệp đều liên quan đến sự biến đổi của hệ thống sinh thái. Mong muốn rằng nông nghiệp nên tiến hành sản xuất như tình trạng nguyên thủy của tự nhiên là không thực tế. Sự thách thức ở đây là, sự can thiệp vào tự nhiên theo cách nào đó để thực hiện một cân bằng có thể chấp nhận được giữa lợi ích mang lại từ việc sử dụng, khai thác các nguồn tự nhiên cho sản xuất với lợi ích từ việc giữ các chức năng sinh thái của nó. Nhấn mạnh vào khía cạnh cân bằng sinh thái là phản ánh mong muốn của xã hội đối với việc giữ gìn môi trường tự nhiên, đồng thời nó cũng là lợi ích dài hạn của sản xuất nông nghiệp vì sản xuất lệ thuộc vào độ màu mỡ của đất, chất lượng của nguồn nước và khí hậu. Nhiều nước phát triển trên thế giới đã và đang định hướng lại sản xuất nông nghiệp hướng tới một sự nhấn mạnh hơn về sinh thái. Chắc chắn rằng không phải vì nhu cầu nông sản giảm mà vì thực tiễn của việc sản xuất nông nghiệp hiện đại đã dẫn tới sự phá hỏng sinh thái, hủy diệt nhiều sinh vật, suy thoái hệ thống đất - nước, thay đổi về khí hậu. Theo dự báo FAO, trong những thập niên tới, 80% tổng sản lượng nông sản sẽ được sản xuất trên diện tích được tưới tiêu chủ động. Do đó, vấn đề cốt lõi của sự mất cân bằng sinh thái không phải là do tốc độ phát triển nông nghiệp hoặc tăng trưởng nông nghiệp mà là do phương thức để thực hiện sự tăng trưởng. b) Tăng trưởng nông nghiệp và sự nghèo đói nông thôn Rao C.H.H và Chopa K. (1991) đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng nông nghiệp – suy thoái môi trường – nghèo đói nông thôn như sau: Trong quá trình tăng trưởng nông nghiệp, hai phương thức được thực hiện là quảng canh: tăng sản lượng chủ yếu do mở rộng diện tích, và thâm canh: tăng năng suất trên một đơn vị diện tích bằng cách tăng cường sử dụng các yếu tố đầu vào do ngành công nghiệp hóa chất cung cấp. Đối với phương thức quảng canh, do bóc lột chất dinh dưỡng tự nhiên của đất, mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu bởi phá rừng. Nông nghiệp sẽ tăng trưởng trong ngắn hạn, nhưng một khi môi trường tự nhiên suy thoái, năng suất sẽ giảm rồi thu nhập sẽ thấp trong khi dân số tăng thêm, và hệ quả thất nghiệp và nghèo đói xuất hiện. Đối với phương thức thâm canh, để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng nhanh, tình trạng lạm dụng hóa chất (phân bón, thuốc trừ sâu) sẽ xuất hiện. Điều này sẽ làm suy thoái tài nguyên đất và nước, và một khi sự suy thoái xuất hiện, năng suất và thu nhập của nông dân sẽ giảm dần, trong khi dân số nông thôn tăng và môi trường nông thôn không thu hút việc làm, tình trạng thất nghiệp sẽ tăng và nghèo đói sẽ xuất hiện. Shephered A. (1998) cũng tranh luận sự xuất hiện nghèo đói ở khía cạnh khác. Ông ta cho rằng, ngay cả việc áp dụng các kĩ thuật sản xuất mà đảm bảo được công bằng sinh thái vẫn dẫn đến tình trạng nghèo đói. Do đặc điểm tiềm năng của từng vùng địa lí khác nhau, hiệu quả của việc ứng dụng các kĩ thuật mới khác nhau. Bắt đầu giai đoạn ứng dụng kĩ thuật mới, vì đòi hỏi tăng đầu tư (giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, cải tạo mặt bằng đồng ruộng và hệ thống thủy nông đồng) và rủi ro trong đầu tư, phần lớn nông dân có khả năng áp dụng chính là những hộ nông dân giàu trong các vùng có lợi thế tiềm năng tự nhiên. Và chính họ nhận được lợi ích từ việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật mới, sau đó với sự hỗ trợ của chính phủ thông qua trợ giá đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất và tín dụng ưu đãi, nhiều nông dân kể cả nông dân nghèo trên các vùng tiềm năng tự nhiên khác nhau có thể áp dụng kĩ thuật mới. Tuy nhiên, khi đại bộ phận nông dân có thể áp dụng được tổng sản lượng sẽ tăng nhanh, giá nông sản sẽ rơi xuống nhanh và hệ quả là thu nhập của nông dân sẽ bị giảm, nhất là nông dân nghèo trong các vùng có tiềm năng thấp. Nếu quá trình này tiếp tục, họ sẽ lỗ và mang gánh nặng về nợ nần và họ sẽ từ bỏ việc đầu tư, trong khi dân số tiếp tục tăng trưởng, thất nghiệp sẽ gia tăng và tình trạng nghèo đói sẽ trầm trọng. Một khi bộ phận nông dân nghèo đói gia tăng, thì đối với họ, việc đáp ứng nhu cầu tồn tại ở hiện tại là quan trọng nhất còn đáp ứng nhu cầu cho tương lai sẽ không thật sự có ý nghĩa. Do thu nhập thấp và tỉ lệ thất nghiệp cao, chi phí cơ hội của lao động sẽ thấp. Họ sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng hàng hóa với nguyên liệu chính từ tự nhiên (gỗ, da thú,…) của bộ phận dân cư có thu nhập cao bằng cách khai thác nguồn tự nhiên để kiếm thêm thu nhập (phá rừng, săn bắn, đánh bắt mọi loại sinh vật với bất kể kích thước). Hệ quả là môi trường tự nhiên tiếp tục suy thoái lần nữa, thu nhập của họ tiếp tục giảm và rơi xuống cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Như vậy, một hệ thống nông nghiệp mà không đảm bảo được sự sinh kế bền vững trên mức nghèo đói cho người dân nông thôn thì không thể nào là một hệ thống nông nghiệp bền vững được. Do đó, nông nghiệp bền vững có thể đánh giá bởi một số chỉ tiêu liên quan đến xu hướng việc làm và tình trạng nghèo đói ở vùng nông thôn: tỷ lệ hộ nghèo đói, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở nông thôn. c) Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường ở nông thôn Theo Braun J.V (1991), quan tâm đến sự cân bằng của môi trường tự nhiên vẫn chưa đủ, mà còn phải quan tâm đến môi trường mà trong đó người dân nông thôn sinh sống, đó là: những điều kiện về nơi ở, chất lượng nước và thực phẩm, chăm sóc sức khỏe và bệnh tật, vệ sinh, văn hóa. Nói chung là tình trạng về sức khỏe, dinh dưỡng và giáo dục của nguồn nhân lực nông thôn. - Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường sức khỏe – dinh dưỡng. Strauss (1986), Haddad và Bouis (1991) cho rằng, tăng trưởng nông nghiệp và cải thiện môi trường sức khỏe – dinh dưỡng thường có ảnh hưởng tương hỗ. Tăng trưởng nông nghiệp tạo ra việc làm và thu nhập và do đó làm thuận tiện cho việc cải thiện tình trạng sức khỏe – dinh dưỡng của nông dân. Mặt khác, tình trạng sức khỏe - dinh dưỡng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của nguồn lao động và năng suất lao động, và như vậy sẽ ảnh hưởng trở ngại đối với tăng trưởng nông nghiệp. Nhưng nếu tăng trưởng nông nghiệp được thực hiện bằng phương thức có thể ảnh hưởng làm suy thoái môi trường tự nhiên, thì điều này sẽ làm nông nghiệp tăng trưởng chậm và theo đó sẽ giảm đi ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng nông nghiệp đối với việc cải thiện tình trạng sức khỏe – dinh dưỡng. Braun (1991) cũng tìm thấy rằng, nếu tăng trưởng nông nghiệp được thực hiện bởi phương thức mà ảnh hưởng tới suy thoái môi trường thì tình trạng sức khỏe - dinh dưỡng của người dân nông thôn cũng bị ảnh hưởng một cách trực tiếp. Trong trường hợp áp dụng phương thức thâm canh nhưng do thiếu hoàn chỉnh về số lượng cũng như chất lượng của các công trình thủy lợi sẽ làm suy thoái chất lượng nước, gia tăng muỗi, ruồi và các côn trùng khác và điều này sẽ dẫn tới sự phát triển các bệnh như sốt rét, dịch tả đường ruột. Do sử dụng lượng thuốc trừ sâu không thích hợp đã ảnh hưởng tới ngộ độc (nghiên cứu của Bull (1982) cho thấy rằng 10.000 người chết vì ngộ độc thuốc trừ sâu hàng năm trong các nước đang phát triển). Trong trường hợp áp dụng phương thức quảng canh, do mở rộng diện tích bởi phá rừng sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái về nguồn nước và hệ quả là khô hạn, lũ, thay đổi về khí hậu. Điều này dẫn đến tình trạng không an toàn về sản xuất lương thực, suy thoái dinh dưỡng, nạn đói, và hàng loạt bệnh tật liên quan đến lũ lụt, hạn hán sẽ xuất hiện. - Tăng trưởng nông nghiệp và trình độ văn hóa của nông dân. Theo Alves (1991), rõ ràng rằng con đường phát triển nông nghiệp qua phương thức thâm canh. Phương thức này đòi hỏi việc sử dụng các kĩ thuật sinh học với giống mới, nhiều phân bón hơn, thay đổi về cơ cấu cây trồng trên đất, kết hợp nông – lâm - nuôi trồng thủy sản, các kĩ thuật hóa – sinh để chống lại sâu - dịch bệnh. Nếu các kĩ thuật này có thể đảm bảo không làm suy thoái môi trường thì tăng trưởng nông nghiệp sẽ đảm bảo bền vững. Nhưng nếu trình độ của nông dân thấp kém (tỉ lệ mù chữ cao) thì rất khó khăn đối với họ để hiểu biết về các khái niệm bền vững, suy thoái môi trường và hiểu được các kĩ thuật mà có thể làm giảm suy thoái môi trường. Và điều này sẽ trở thành rào cản đối với việc áp dụng các tiến bộ kĩ thuật mới vừa đem lại lợi ích cho họ và gìn giữ môi trường. Vì vậy, một hệ thống nông nghiệp mà không đảm bảo được sự bền vững trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe – dinh dưỡng và trình độ văn hóa cho nông dân thì không thể nào là một hệ thống nông nghiệp bền vững được. Nông nghiệp bền vững có thể đánh giá bởi một số chỉ tiêu liên quan đến xu hướng về tình trạng sức khỏe – dinh dưỡng và trình độ văn hóa của người dân nông thôn: tỉ lệ trẻ em, người lớn suy dinh dưỡng, mù chữ; tỉ lệ tử vong của trẻ em sơ sinh; tỉ lệ nông dân bị các bệnh chủ yếu liên quan đến môi trường. Qua phân tích ba mối quan hệ chủ yếu trên, phát triển nông nghiệp bền vững có thể khái quát như sau: phát triển nông nghiệp bền vững là mô hình phát triển mà đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên và con người, đồng thời đảm bảo được kinh tế bền vững trên mức nghèo đói cho người nông dân. Suy thoái về môi trường ở hiện tại là hệ quả của việc áp dụng các phương thức sản xuất trước đây, do đó để đạt tới trình độ nông nghiệp bền vững (khắc phục hậu quả trước đây và áp dụng các phương thức sản xuất mới gắn với giữ gìn môi trường sinh thái) đòi hỏi một quá trình lâu dài. Trong ngắn hạn, phát triển nông nghiệp hướng tới bền vững sẽ là mục tiêu cho các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn.[12] 1.2.2.3 Nội dung của phát triển nông nghiệp bền vững Mục tiêu chiến lược của các nước có nền nông nghiệp là xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Nội dung của sự phát triển nông nghiệp bền vững bao gồm các mặt cơ bản sau đây. a) Tăng năng suất nông nghiệp một cách bền vững và ổn định Chỉ có năng suất mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của con người về sản phẩm nông nghiệp. Việc tăng năng suất này phải được thực hiện một cách ổn định, bền vững và nông nghiệp không bị trao đảo trước các “cú sốc” của kinh tế thị trường. Tăng năng suất nông nghiệp trước hết phải tăng hiệu quả sử dụng đất, lao động và vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của sản phẩm nông nghiệp. b) Phân phối công bằng sản phẩm và tài nguyên nông nghiệp Sự phát triển nông nghiệp bền vững bao gồm các biện pháp thực hiện sự công bằng về phân phối, chia sẻ sản phẩm nông nghiệp và tài nguyên nông nghiệp. Một hệ thống nông nghiệp càng công bằng bao nhiêu thì sự phân phối tài nguyên dân cư, trong cộng đồng, vùng và quốc gia càng công bằng bấy nhiêu. Đạt được sự công bằng thường là điều khó. Cách mạng xanh thuộc thế giới thứ ba đã làm cho nông dân sản xuất quy mô lớn có lợi hơn là nông dân sản xuất nhỏ, đặc biệt là các vùng nghèo. Vì vậy chiến lược phát triển thủy lợi, phân bón, giống phải tính đến yếu tố công bằng cho sự phát triển của nền nông nghiệp. c) Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Nông nghiệp chỉ có thể phát triển bền vững khi tài nguyên thiên nhiên, đất, nước, rừng, biển được sử dụng đúng đắn không bị giảm cấp, không bị tàn phá bởi những kĩ thuật canh tác không phù hợp. Trong chiến lược phát triển nông nghiệp cần phải có các nội dung bảo vệ, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên kết hợp với việc phát triển nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. d) Làm tăng sự công bằng giữa các thế hệ và hoàn thiện chất lượng cuộc sống Sự phát triển nông nghiệp được gọi là bền vững khi mà các hoạt động hiện tại về nông nghiệp không ảnh hưởng xấu mà chỉ làm tốt hơn các khả năng phát triển của thế hệ mai sau. Vì thế việc giải quyết các vấn đề hôm nay sẽ làm cơ sở hạn chế và giải quyết các vấn đề nẩy sinh trong tương lai. Thực trạng nghèo đói là nguyên nhân cơ bản của sự tàn phá và giảm cấp tài nguyên rừng và đất. Vì thế, cần có chiến lược giải quyết tốt những khó khăn, nhất là các vùng điều kiện sản xuất khó khăn. Để làm được điều đó, sự tham gia của nhóm người hưởng lợi, sự phân bố công bằng lợi ích và khả năng tự lập là những yếu tố cơ bản của mọi chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn. e) Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững trong “chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam” đã định hướng các nội dung sau - Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách đồng bộ về phát triển nông nghiệp; bảo vệ tài nguyên và môi trường nông nghiệp, nông thôn. - Quy hoạch phát triển nông thôn, khuyến khích đô thị hóa nông thôn một cách hợp lý. Đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại kinh tế, giống cây trồng, vật nuôi và sử dụng nguồn lao động ở nông thôn. Phát triển công nghiệp chế biến. Mở rộng sản xuất và thị trường nông nghiệp sạch. - Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh mún. Xây dựng và thực hiện những chương trình nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai và sử dụng hợp ._. Myanma,… đã làm cho thị trường lúa gạo thế giới ngày càng cạnh tranh gây gắt, giá cả thiếu ổn định, rủi ro cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đầu tư sản xuất cũng như thu nhập của nông dân. Và với An Giang là tỉnh có hơn 92,6% diện tích đất nông nghiệp được gieo trồng là cây lúa và gần 80% dân số toàn tỉnh là nông dân thì mối lo ngại trên càng nhân lên gấp bội. Tuy nhiên, nếu so sánh các quốc gia nhập khẩu gạo lớn như: Philippin, Indonesia, Negieria, Iran,…thì thị phần gạo nhập khẩu từ nước ta tại các quốc gia này luôn cao hơn Thái Lan, nhưng trong khi đó Thái Lan lại là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với số lượng hơn ta rất nhiều. Và điều này cho thấy việc xuất khẩu gạo nước ta còn lệ thuộc quá nhiều vào các thị trường lớn hiện nay. Các doanh nghiệp thường xuyên cạnh tranh không lành mạnh trong việc thu mua nông sản trong nước cũng như việc vượt rào phá giá trong xuất khẩu. Và điều này đã làm cho nông sản trong nước bị khủng hoảng thiếu giả tạo và giá trị nông sản xuất khẩu của ta thường bị ép giá hơn so với các mặt hàng nông sản của các nước trong khu vực. Trong thời gian qua số phận của hạt gạo, cây mía,…là ví dụ điển hình. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là cần phải nêu cao vai trò và trách nhiệm trong việc liên kết ngang giữa các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề với nhau, cũng như liên kết dọc với nông dân. Để mặt hàng nông sản Việt Nam nói chung và tỉnh nhà nói riêng ngày càng nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hơn trong tiêu thụ và điều tiết giá cả thị trường. - Liên kết giữa Nhà nước với nhà doanh nghiệp và nhà nông: Trong việc hỗ trợ của chính phủ đối với nông nghiệp và nông dân hiện nay còn quá chung chung, cào bằng trong nông dân. Cần phải xem xét đánh giá lại là nông dân đã được hưởng lợi ở mức nào từ nguồn hỗ trợ của chính phủ. Cho nên chính phủ và Nhà nước cần phải hỗ trợ mang tính định hướng, trọng tâm, đúng đối tượng hơn mới đem lại lợi ích từ chính sách hỗ trợ. Ví dụ: cần phải đẩy mạnh hỗ trợ cho nông dân trong vùng đã được quy hoạch chuyển đổi cụ thể, những đối tượng tổ chức, hộ nông dân nào làm tốt mới có thể tiếp cận được với gối hỗ trợ để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp có quá nhiều bất cập, chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn. Nhà nước cần phải tạo ra một luật chơi bình đẳng để các doanh nghiệp tham gia thu mua xuất khẩu, tiêu thụ phải có trách nhiệm với nông dân. Vì thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ năng lực tài chính, không đủ năng lực thu mua, xuất khẩu nông sản vẫn cứ lao vào tham gia tranh thủ lợi dụng hỗ trợ từ Nhà nước gây rối loạn giá cả và thị trường. Mặt khác, những sản phẩm tốt do nông dân thực hiện theo các quy trình an toàn chất lượng và những sản phẩm kém chất lượng do những người lạc hậu lâu nay vẫn được đánh đồng lẫn lộn, khó lòng giữ vững để giúp nông dân sản xuất hàng hóa một cách bài bản. Nhà nước cần phải nâng cao vai trò chủ đạo hơn nữa trong việc quản lý, xử lý các hợp đồng kí kết giữa doanh nghiệp với nông dân. Tóm lại, từ trước đến nay trong sản xuất nông nghiệp ta vẫn áp dụng theo phương thức cũ, làm ra sản phẩm rồi sau đó mới loay hoay tìm thị trường hoặc chạy theo lợi nhuận phong trào mà ít chú ý đến đầu ra cho nông sản. Chính vì thế mà cái vòng luẩn quẩn, điệp khúc “được mùa lại mất giá” cứ lặp đi lặp lại, nông dân lên líp trồng màu khi cây màu được giá, rồi nông dân lại sang líp trồng lúa lại khi lúa có giá cao mà nguyên nhân mấu chốt là do quá trình liên kết giữa “4 nhà” còn quá nhiều lỏng lẻo và bất cập. Vì vậy, để đưa nền nông nghiệp tỉnh nhà phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, quy mô lớn, ổn định và bền vững mà trước mắt là trong sản xuất vụ ba đòi hỏi ta cần phải khắc phục những tồn tại hạn chế từ phương thức sản xuất cũ, nhanh chóng chuyển sang phương thức sản xuất mới. Khi đó, thị trường đầu ra được đặt lên hàng đầu, vai trò của Nhà nước là tiên phong và quan trọng nhất trong chuỗi liên kết “4 nhà”. Làm cho mối liên kết này ngày càng chặt chẽ hơn, dung hòa lợi ích hơn. Trong đó: - Dự báo thị trường: là nhiệm vụ chung của Nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà nông. Trong đó Nhà nước và nhà doanh nghiệp sẽ giữ vai trò chủ đạo. - Chọn đối tượng chuyển đổi sản xuất: Một khi đã dự báo được thị trường và đã có được thị trường rồi thì dựa vào đặc điểm của từng tiểu vùng đã được quy hoạch mà chọn đối tượng sản xuất cho phù hợp. Lúc này, nhà khoa học (khuyến nông), Nhà nước sẽ hướng dẫn, cung cấp giống, các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ trong canh tác để nông dân áp dụng sản xuất, hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho doanh nghiệp và nông dân, giám sát quá trình sản xuất,…. - Đầu ra cho sản phẩm: đây là khâu cuối cùng của chuỗi sản xuất. Thông qua các hợp đồng kí kết giữa nông dân với các doanh nghiệp chế biến trong nước và xuất khẩu, khi đó các nông sản của nông dân sẽ được bao tiêu đầu ra và nông dân sẽ hưởng lợi nhuận từ bằng đến cao hơn mức lợi nhuận đã thỏa thuận trong hợp đồng và các nhà doanh nghiệp chế biến khi đó sẽ có đủ nguồn lực nhất định để giao hàng cho đối tác thông qua các hợp đồng đã được kí kết. 3.3.4 Tích lũy ruộng đất đi đôi với chuyển đổi tư liệu sản xuất Nhằm đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh, cần phải xây dựng cơ cấu kinh tế “dịch vụ - thương mại, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp” cho hợp lý, theo hướng chuyển dịch tăng nhanh tỷ trọng khu vực II và khu vực III; từng bước chuyển dịch dần lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, theo hướng giảm lao động khu vực nông nghiệp từ 66,75% (2008) còn 59% (2010) đến năm 2020 là 50%, tăng lao động các ngành công nghiệp - xây dựng tương ứng là 11,5% - 14% - 20%, tăng lao động các ngành dịch vụ tương ứng là 21,75% - 25% - 30% để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động đang dôi dư trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Để thực hiện được mục tiêu trên đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ như: đạo tạo, dạy nghề nâng cao trình độ, năng lực cho dân cư nông thôn, đưa lao động nông thôn đi làm việc ngoài huyện, ngoài tỉnh ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài,...mà trong đó xây dựng các dự án và kêu gọi các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư cơ sở sản xuất, công nghiệp chế biến, kinh doanh trên địa bàn huyện liên quan đến các mặt hàng nông sản chủ lực của tỉnh, đặc biệt là thủy sản, rau màu để thu hút lao động giải quyết việc làm tại chổ được coi là tối ưu nhất. Một khi có được cơ cấu lao động hợp lý, tỉ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm là điều kiện quan trọng để thực hiện việc tích tụ ruộng đất. Đây là mục tiêu cao nhất để tiến đến một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Bởi vì, để thực hiện Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, chính sách tích tụ ruộng đất sẽ tạo ra các trang trại sản xuất nông sản hàng hóa qui mô lớn, hợp thành vùng sản xuất tập trung chuyên môn hơn, gắn kết với công nghiệp chế biến và mạng lưới phân phối tiêu thụ, thông qua hình thức “sản xuất theo hợp đồng” và chính sách giáo dục - đào tạo, khuyến nông để hình thành một đội ngũ nông dân trẻ có học thức. Khi đó, một số doanh nghiệp chế biến nông sản, để có nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng, cũng đã áp dụng hình thức tổ chức trang trại dự phần. Doanh nghiệp thuê đất của các hộ nông dân, đầu tư giống, phân bón, khuyến nông và khoán lại cho các hộ nông dân thực hiện quá trình sản xuất, tạo ra nông phẩm cung cấp cho nhà máy. Đó cũng là một hình thức thuê đất để tích tụ ruộng đất tới qui mô đủ lớn và sản xuất theo hợp đồng. Hoặc ruộng đất sẽ không còn xé nhỏ, manh mún nữa nếu những nông hộ sở hữu ruộng đất nhiều có điều kiện sản xuất tốt hơn sẽ mua hoặc thuê đất từ những hộ có diện tích sản xuất ít, kém hiệu quả để lập ra các trang trại sản xuất với quy mô lớn và tất nhiên là hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn. Còn những nông hộ đã nhường đất thì cũng không phải sợ thất nghiệp vì họ có thể làm “công nhân nông nghiệp” ngay trên mãnh ruộng trước kia của mình hay trở thành công nhân làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy. Kết quả là thu nhập của cư dân nông thôn sẽ tăng cao, đời sống người dân được cải thiện nhanh chóng, tốc độ của quá trình đô thị hóa nông thôn sẽ nhanh và hợp lý. Điều này hoàn toàn phù hợp với “chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam” về Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng bền vững. [8], [17], [23], [24] KẾT LUẬN Tóm lại, với diện tích đất canh tác gần phân nửa quỹ đất nông nghiệp gieo trồng cây hàng năm toàn tỉnh, chiếm khoảng 20% sản lượng lương thực cả năm, trong đó sản lượng hoa màu thực phẩm chiếm khoảng 40% sản lượng hoa màu thực phẩm cả năm của tỉnh cộng với những lợi thế so sánh vô cùng thuận lợi. Vụ ba đã trở thành một trong ba vụ sản xuất chính trong năm. Và trong chủ trương, đường lối phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng đã xác định, vụ ba là vụ đóng vai trò tiên phong, có vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Đang mở ra bước ngoặt, hướng đi mới cho nền nông nghiệp tỉnh nhà phát triển ngày càng bền vững hơn. Từ thực tế sản xuất vụ ba trong những năm qua cũng đã chứng minh được rằng: - Sản xuất vụ ba đã phát huy được lợi thế tiềm năng đất đai, sản xuất theo hướng thâm canh tăng vụ, nâng hệ số sử dụng đất nông nghiệp của tỉnh lên gần 2,5 lần trong năm. - Quy hoạch được vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, quy mô lớn kết hợp với việc phát triển ngành công nghiệp chế biến đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ngày càng hợp lý hơn, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa nông thôn. - Ảnh hưởng mạnh mẽ đến chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp của tỉnh. Và những thành công bước đầu trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp đầu tư theo chiều sâu các nông sản hàng hóa có lợi thế cao với đa dạng hóa các nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế, phục vụ cho xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất nông nghiệp trên cùng một đơn vị diện tích, nâng cao thu nhập cho nông dân đã khẳng định là hướng đi đúng, cần được tiếp tục phát huy và đẩy nhanh hơn nữa trong những năm tới. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành nông sản hàng hóa; tăng cường khả năng liên kết “4 nhà” ngày càng chặt chẽ hơn cũng như phát triển mạnh công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn, mở rộng ổn định thị trường tiêu thụ, tăng cường kết cấu hạ tầng và xây dựng nông thôn mới. Đó là những giải pháp quan trọng để góp phần đưa nông nghiệp – nông dân – nông thôn An Giang chuyển sang giai đoạn mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Võ Tòng Anh (2005), Quyết định của nông dân trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh An Giang, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội. 2. Võ Tòng Anh, Dương Văn Nhã và CTV (2002), Nghiên cứu mối quan hệ lũ lụt, phù sa, dinh dưỡng đất và năng suất lúa, Dự án Bắc Vàm Nao II. 3. Lê Huy Bá (2006), Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 4. Cục Thống kê An Giang (2008), Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2008. 5. Nguyễn Minh Đông (2006), Hiệu quả luân canh lúa ba vụ với cây trồng cạn trong cải thiện khả năng cung cấp đạm liên quan đến thành phần chất hữu cơ trong đất tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ khoa học đất, Đại học Cần Thơ. 6. Ngô Đình Giao (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia. 7. TS. Nguyễn Thị Bích Hường (2005), Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. PGS. TS Vũ Trọng Khải (2008), “ Tích tụ ruộng đất – Trang trại và nông dân”, Báo Nông Nghiệp, Đọc từ: 9. Đỗ Hoài Nam (1996), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành mũi nhọn ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. 10. Huỳnh Đào Nguyên (2008), Hiện trạng canh tác và biện pháp cải thiện độ phì nhiêu đất, năng suất lúa canh tác 3 vụ trong đê bao tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Luận văn thạc sĩ khoa nông nghiệp, Đại học Cần Thơ. 11. Dương Văn Nhã (2006), Nghiên cứu tác động của đê bao đến đời sống KT – XH và môi trường tại một số khu vực có đê bao tại An Giang, Chương trình nghiên cứu Việt Nam – Hà Lan. 12. PGS.TS Đặng Văn Phan (2007), Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, NXB Giáo dục. 13. TS. Nguyễn Trần Quế (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ 21, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 14. Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh An Giang (2007), Đánh giá môi trường tại các vùng đê bao khép kín trên địa bàn tỉnh An Giang. 15. Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh An Giang (2008), Báo cáo chính thức về diện tích, năng suất, sản lượng cây trồng hàng năm; vụ Thu Đông từ 2003 – 2008. 16. Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn tỉnh An Giang, Báo cáo kết quả hoạt động ngành nông nghiệp từ năm 2003 đến 2008. 17. Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh An Giang (2006), Điều chỉnh quy hoạch nông - lâm nghiệp tỉnh An Giang năm 2010, Dự đoán đến năm 2020. 18. Bùi Tất Thắng, Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội. 19. Trần Thị Mai Thi (2005), Điều tra và đánh giá tình hình kinh tế hộ của xã viên Hợp Tác Xã nông nghiệp Hòa Thuận, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát triển nông thôn, Đại học An Giang. 20. Lê Thông (2001), Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 21. Trần Thị Xuân Thùy (2006), Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Kiên Giang trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Luận văn tốt nghiệp đại học ngành Sư phạm địa lý, Đại học Cần Thơ. 22. Tổng cục thống kê (2008), Niên giám thống kê 2008, NXN Thống kê. 23. Cổ Hoài Tới (2009), Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của mô hình canh tác 3 vụ lúa so với 2 vụ lúa – 1 vụ màu tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát triển nông thôn, Đại học An Giang 24. Phạm Danh Tướng (2009), “Cải thiện độ phì đất lúa 3 vụ trong đê bao An Giang”, Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh An Giang, Đọc từ: 25. Ủy Ban Nhân Dân tỉnh An Giang (2008), Đề án nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh An Giang đến năm 2020. 26. VTV2 online (2010), Định hướng thị trường nông sản Việt Nam. PHỤ LỤC 1. Các chỉ tiêu phân tích: * Lợi nhuận: (RAVC: Return Above Variable Cost) thu nhập trên biến phí RAVC = GR – TVC Trong đó: GR = Sản lượng x Đơn giá; (GR: Gross Revenue) TVC = Phí vật tư + Phí lao động; (TVC: Total Variable Cost) Mục đích: tính lợi nhuận của các mô hình sản xuất tiên tiến, đánh giá được các mô hình này có lợi nhuận cao hơn hay thấp hơn so với các mô hình phổ biến. * Hiệu quả đồng vốn: (TVCE: Total Variable Cost Efficiency) TVCE = RAVC/TVC Mục đích: tính được một đồng vốn biến phí mang lại bao nhiêu đồng lãi. * Lợi tức/nhân tố đầu tư: GR - TVC FACTOR….A Trong đó: nhân tố A (Factor A) là lao động hoặc vật tư. Mục đích: đánh giá mức sử dụng đồng vốn và công lao động so với lợi nhuận thu được từ các mô hình sản xuất. * Tỷ số lợi nhuận mô hình sản xuất tiên tiến/phổ biến RACV2 RB = (RB: Rate of Benefit) RAVC1 Trong đó: RACV2: lợi nhuận mô hình sản xuất tiên tiến RACV1: lợi nhuận mô hình sản xuất phổ biến * Tỷ số lợi tức/chi phí biên: (Marginal Benefit Cost Rate) là tỷ số giữa lợi nhuận tăng thêm và chi phí tăng thêm trên một đơn vị diện tích 1 ha. RACV2 - RACV1 MRR = TVC2 – TVC1 Trong đó: RACV2 : lợi nhuận mô hình sản xuất tiên tiến RACV1: lợi nhuận mô hình sản xuất phổ biến TVC2: tổng chi phí mô hình sản xuất tiên tiến TVC1: tổng chi phí mô hình sản xuất phổ biến Mục đích: tính được lợi nhuận tăng thêm khi chi phí gia tăng của các mô hình tiên tiến so với mô hình phổ biến. * Tỷ doanh thu/chi phí biên: (MRCR: Marginal Revenue Cost Rate): là tỷ số giữa mức thu tăng thêm và mức chi tăng thêm trên một đơn vị diện tích 1 ha của mô hình tiên tiến so với mô hình phổ biến. GR2 – GR1 MRCR = TVC2 – TVC1 Trong đó: GR2: tổng thu mô hình sản xuất tiên tiến GR1: tổng thu mô hình sản xuất phổ biến TVC2: tổng chi phí mô hình sản xuất tiên tiến TVC1: tổng chi phí mô hình sản xuất phổ biến Mục đích: so sánh doanh thu tăng thêm giữa các mô hình sản xuất tiên tiến với mô hình sản xuất phổ biến: Nếu MRCR > 1 thì doanh thu mô hình sản xuất tiên tiến hiệu quả hơn mô hình sản xuất phổ biến. Nếu MRCR = 1 thì hiệu quả đầu tư không thay đổi. Nếu MRCR < 1 thì doanh thu mô hình sản xuất tiên tiến không hiệu quả bằng mô hình sản xuất phổ biến. - Các tỷ số RAVC, TVCE, lợi tức/nhân tố đầu tư: phản ánh hiệu quả kinh tế của bản thân mô hình đó. - Các tỷ số RB, MRCR, MRR: dùng để so sánh hiệu quả kinh tế của mô hình tiên tiến so với mô hình phổ biến. Khi các tỷ lệ này bằng nhau thì tiếp tục xét đến các tỷ số RAVC, TVCE, lợi tức/nhân tố đầu tư để xác định mô hình nào hiệu quả hơn. 2. Ảnh hưởng tiêu cực của việc sản xuất liên tục ba vụ lúa trong năm qua nhiều năm. Ảnh hưởng đến năng suất Nghiên cứu của Olk và Cassman (2002), năng suất ban đầu của lúa đạt đến tiềm năng tối đa, sau đó giảm khoảng 35% khi canh tác hai, ba vụ liên tục 20 - 30 năm. Kết quả thí nghiệm trên đất lúa ba vụ ở Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế Philippines, năng suất lúa giảm khi canh tác liên tục 24 năm khoảng 3 tấn/ha (mùa khô) tương ứng 38% và 2 tấn/ha vào mùa mưa tương ứng giảm 50% so với năng suất ban đầu (Cassman et al., 1995). Năng suất hạt có liên quan đến lượng N hữu dụng trong đất và khả năng hấp thu N của cây trồng (Cassman et al., 1997). Giảm dần khả năng cung cấp N của đất, hiệu quả hấp thu N và sử dụng phân N chưa hiệu quả có thể là nguyên nhân làm giảm năng suất (Cassman et al., 1995; Dawe et al., 2000; Dobermann et al., 2000). Ở 30 thí nghiệm dài hạn vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới của Châu Á, với hệ thống độc canh cây lúa nước cho thấy tất cả năng suất đều giảm, tuy nhiên năng suất vào mùa khô có thuận lợi hơn (Dawe et al., 2000). Trong thí nghiệm dài hạn của Ladha et al. (2003) có 22% trường hợp năng suất lúa giảm, là do sự suy giảm C tổng số, N, Zn và P hữu dụng trong đất làm giảm sự phát triển của cây trồng, giảm bức xạ mặt trời và tăng nhiệt độ tối thiểu là những tiềm năng làm cho năng suất lúa giảm. Theo Schmidt-Rohr et al. (2004), tăng vụ lúa nước trong thời gian dài dẫn đến giảm năng suất một cách ý nghĩa, là do giảm sự hữu dụng của nitrogen trong đất, mà phần lớn bị giữ ở chất hữu cơ trong đất. Qua phân tích lượng tăng trong đất canh tác ba vụ lúa, nitrogen amide có cấu trúc vòng thơm trong thành phần acid humic ở đất lúa ba vụ ngập liên tục, vì nitrogen liên kết trong hợp chất hữu cơ không hữu dụng cho cây trồng, điều này có thể giải thích làm cho năng suất giảm. Nhiều nghiên cứu về nguyên nhân của giảm năng suất lúa trong điều kiện canh tác ba vụ liên tục cho thấy do cây trồng giảm sự hấp thu lượng đạm hữu cơ trong đất, do giảm sự khoáng hóa đạm trong suốt mùa vụ (Cassman et al., 1995; Dobermann et al., 2000). Theo Olk et al. (2006) là do sự thiếu N, làm giảm sự hấp thu N từ đất vào giữa vụ, ức chế sự khoáng hóa N liên quan đến sự tích lũy N xãy ra đồng thời với sự tích lũy phenol trong đất. Nghiên cứu ở Philippines cho thấy canh tác lúa nước liên tục trong thời gian dài năng suất giảm là do cây trồng giảm sự hấp thu nitrogen khoáng hóa từ chất hữu cơ trong đất. Kết quả phân tích đất cho thấy có sự tích lũy hợp chất phenolic lignin trong chất hữu cơ. Qua phân tích nuclear magnetic resonance spectroscopy về lượng lignin - liên quan đến nitrogen được tìm thấy ở đất lúa ba vụ trong các thí nghiệm dài hạn ở Philippines. Phân hũy yếm khí của tồn dư thực vật là điểm đặc trưng của cây trồng trong điều kiện yếm khí thúc đẩy sự tích lũy hợp chất phenolic lignin và kết hợp với N trong đất (Olk et al., 2006). Ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), trên đất phù sa không phèn, yếu tố giới hạn năng suất chính là chất dinh dưỡng và bón phân sẽ làm gia tăng năng suất cây trồng rõ rệt. Trong điều kiện trồng lúa ba vụ nhiều năm, tầng đế cày sẽ dày lên theo thời gian là yếu tố giới hạn bộ rễ phát triển, làm ảnh hưởng đến khả năng hút dinh dưỡng của đất (Dương Văn Nhã, 2006). Trồng ba vụ lúa liên tục trong năm sẽ dẫn đến kết quả là: đạm tổng số, chất hữu cơ, lân tổng số có khuynh hướng giảm dần theo thời gian (Trần Quang Tuyến, 1997). Với việc độc canh cây lúa, sản xuất hai hay ba vụ lúa trong năm thì cả lượng phân bón sử dụng, thời gian đất ngập nước và tổng lượng chất hữu cơ để lại từ rễ lúa và gốc rạ đều tăng. Do đó dưới điều kiện yếm khí, hoạt động của vi sinh vật giảm, tồn dư của cây trồng tích lũy dần trong chất hữu cơ của đất lúa. Duy trì độ phì nhiêu của đất dưới điều kiện tăng vụ là vấn đề được đặt ra, cây trồng canh tác liên tục trong thời gian dài là nguyên nhân làm thay đổi đặc tính đất (Cassman et al., 1995). Theo Cassman et al. (1995, 1997), canh tác lúa liên tục sau 10 năm năng suất giảm được xác định do các nguyên nhân: (1) giảm đặc tính di truyền của giống lúa, (2) do thay đổi khí hậu, (3) thời gian dài làm thay đổi hóa tính của đất ngập nước ảnh hưởng đến khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất, (4) thay đổi chất lượng chất hữu cơ của đất làm giảm khả năng cung cấp N của đất, (5) vi sinh vật trong đất ngập nước thay đổi, (6) thiếu N hoặc ngộ độc do các dinh dưỡng khác như Zn, B, (7) giảm sự hấp thu N từ rễ, (8) giảm số lượng, mật số rễ, (9) canh tác liên tục làm tăng áp lực sâu bệnh hại. Thí nghiệm dài hạn của Cassman và Pingali (1995b), cây lúa được trồng liên tục dưới điều kiện ngập nước, dịch hại được quản lý tốt nhưng năng suất giảm, cho thấy chất lượng đất bị giảm. Ảnh hưởng khả năng cung cấp đạm hữu dụng ở đất lúa Đất bị ngập nước làm thay đổi lý, hoá, sinh học ảnh hưởng lớn đến động thái của độ phì nhiêu đất và sự phát triển của cây lúa nước (Sahrawat, 2004). Đạm là yếu tố giới hạn năng suất chủ yếu trên đa số loại đất và cây trồng ở ĐBSCL, ở đất phù sa có hàm lượng đạm từ trung bình đến khá. Cây lúa hấp thu 2/3 tổng lượng N từ đất, còn lại 1/3 từ phân vô cơ (Koyama, 1975; Patrick và Reddy, 1976). Sự mất N từ phân vô cơ và hiệu quả sử dụng phân kém, vì vậy nguồn N cung cấp từ đất quan trọng cho sự phát triển của lúa (Vo Thi Guong et al., 1994). Nghiên cứu của Olk et al. (2007), một lượng lớn nitrogen trong đất sẽ phóng thích từ từ dưới dạng hữu dụng cho cây trồng. Ở Châu Á nhiệt đới, năng suất hạt và cây trồng hấp thu lượng N phóng thích giảm dài hạn đối với canh tác lúa nước hai – ba vụ trong năm. Khả năng cung cấp N của đất cao cũng có liên quan đến chứa nhiều C hữu cơ và sự khử Fe (Sahrawat và Narteh, 2003). Sự tăng vụ có liên quan đến tình trạng đất ngập liên tục. Trong một số thí nghiệm, canh tác lúa liên tục 20 – 30 năm sự sinh trưởng của cây giảm, cây thiếu N vào giai đoạn từ giữa đến cuối chu kỳ sinh trưởng, do lượng N hữu dụng trong đất giảm, lượng N tổng số trong đất thì không thay đổi, thậm chí còn tăng (Cassman et al., 1995). Trong thời gian dài, cây trồng hấp thu đạm từ nguồn chất hữu cơ của đất giảm dưới điều kiện sản suất lúa nước (Oryza sativa L.) liên tục. Giảm sự hữu dụng thì có liên quan đến sự tích lũy hợp chất phenolic lignin trong chất hữu cơ của đất, hợp chất này sẽ kiềm giữ đạm. Có giả thuyết cho rằng giảm lượng N hữu dụng nguyên nhân chủ yếu từ phân hũy yếm khí của tồn dư cây trồng trong đất, phân 15N- đánh dấu được sử dụng ba lần trong một vụ để so sánh phân hũy yếm khí với phân hũy háo khí đối với mô hình lúa – lúa và lúa – bắp. Kết quả cho thấy có sự ức chế N khoáng hóa đối với mô hình lúa – lúa khi tồn dư thực vật được phân hũy yếm khí, cả N15 và N tổng số đều bị cố định từ giữa giai đoạn sinh trưởng của cây (Olk et al., 2007). Ở mô hình lúa – lúa, số lượng hợp chất phenolic chiếm 35% với điều kiện phân huỷ yếm khí cũng như phân huỷ háo khí. Sự tích luỹ hợp chất phenol làm ức chế sự khoáng hoá N ở mô hình lúa – lúa với sự phân huỷ yếm khí của tồn dư thực vật, giả thiết cho rằng hợp chất phenolic lignin kết hợp với N hữu cơ khi canh tác lúa liên tục, canh tác ba vụ lúa trong thời gian dài (Schmidt - Rohr et al., 2004). Đất ngập nước thường xuyên thuận lợi cho sự tích lũy các hợp chất lignin trong đất và sự phân hũy mùn ở đất ngập nước xãy ra với tốc độ chậm hơn đất không ngập nước (Nguyễn Xuân Cự, 2005). Khi ngập nước thường xuyên, thiếu oxy làm hạn chế hoạt động của vi sinh vật đất, là nguyên nhân chính làm trì hoãn sự phân hũy lignin, dẫn đến tích lũy các nhóm phenolic, có nguồn gốc từ lignin vào thành phần mùn của đất (Olk và Cassman, 2002). Sự tích lũy của tồn dư lignin phenolic làm giữ chặt lượng N trong đất (Olk et al., 1998; 2006). Canh tác lúa hai vụ lúa trong năm trong thời gian dài ở vùng nhiệt đới làm giảm N hữu dụng trong đất và năng suất hạt, trong đất tích lũy phenols. Trong suốt 4 năm, điều kiện phân hũy yếm khí dẫn đến làm giàu hợp chất phenolic và giảm sự khoáng hóa N từ chất hữu cơ (22 kg N/ha) so với phân hũy thoáng khí. Sự ức chế khoáng hóa N có liên quan đến giàu hợp chất phenol vào giữa đến cuối vụ, sinh khối của chất thải thực vật đạt cao nhất. Phân hũy yếm khí của chất thải thực vật ức chế sự khoáng hóa N trong suốt giai đoạn sinh trưởng và làm tích lũy hợp chất phenol, trong thời gian dài giảm năng suất hạt (Olk và Cassman, 2002). Phân huỷ yếm khí của tồn dư thực vật thường xãy ra khi canh tác lúa nước ở Châu Á, là nguyên nhân làm giảm sự hấp thu N từ đất của cây trồng xãy ra khi canh tác lúa liên tục, không chỉ đơn thuần là số lượng N khoáng hoá mà còn liên quan đến thời gian khoáng hoá N, liên quan đến nhu cầu N của cây trồng (De Datta, 1981). N hữu dụng bị kiềm giữ ở đất lúa ngập nước thì cao hơn so với trong đất thoáng khí (Ponnamperuma, 1976; Dobermann và Fairhurst, 2000). Sự khoáng hoá chất hữu cơ và sự bất động nitrogen ở đất ngập nước ít hơn đất thoáng khí (Borthakur và Mazunda, 1968). Ở vùng thâm canh lúa ba vụ trong năm, độ phì nhiêu đất thấp, đất bị nén dẽ, vì thế yếu tố vật lý đất có ảnh hưởng bất lợi cho sự phát triển của bộ rễ và giảm tiến trình sinh học trong đất: giảm sự khoáng hoá và sự cung cấp N trong đất thông qua sự khoáng hoá N hữu cơ (Trần Bá Linh và ctv, 2002). Phân 15N được sử dụng cho lúa để so sánh rơm rạ phân huỷ trong điều kiện yếm khí và háo khí. Kết quả cho thấy sự phóng thích 15N dưới dạng hữu dụng khi rơm rạ phân huỷ trong điều kiện háo khí nhiều hơn là phân huỷ ở điều kiện ngập nước (Olk et al., 2007). Ảnh hưởng đến tình trạng khử của đất Đất ngập nước làm thay đổi hàng loạt tính chất lý – hoá – sinh học đất và các chất dinh dưỡng quan trọng của cây lúa. Khi ngập nước, rễ chịu ảnh hưởng điển hình bởi sự thiếu oxy và hàng loạt những thay đổi do tình trạng khử, giữa đất và không khí cản trở (Ponmamperuma, 1981). Ở lúa ngập nước, gần chóp rễ tiềm thế oxy hoá khử tăng đáng kể. Sự khử ở vùng rễ xảy ra khác nhau, mạnh nhất ở 1 mm trở lại, đất khử đến 4 mm, sự khử yếu dần. Tiến trình oxy hoá xãy ra ở vùng rễ phụ thuộc vào lượng oxygen cung cấp đến rễ (Flessa và Fischer, 1992). Tiềm thế oxy hóa khử (redox potential: Eh) chỉ tình trạng oxy hoá hay tình trạng khử trong đất, là một trong nhiều tiêu chuẩn chất lượng khó của đất đặc biệt trên đất lúa (Tanji et al., 2003). Cây trồng cạn sẽ không phát triển bình thường trong điều kiện khử kéo dài. Cây lúa thì ngược lại, phát triển bình thường trong điều kiện ngập nước vì có một hệ thống chuyển vận oxy từ thân lá đến rễ (Đặng Thị Thanh Loan, 2007). Tình trạng khử ở đất lúa ngập nước được đo bằng tiêu chuẩn, quá trình oxy hóa khử ở đất lúa xảy ra nhanh và thay đổi lớn ở điều kiện ngập yếm khí (De Laune et al., 1981). Trong đất lúa giàu chất hữu cơ ngập nước, đất khử cao, bộ rễ có triệu chứng phát triển rất kém có liên quan đến các hợp chất giảm sự tăng trưởng được sinh ra trong tiến trình khử (acid hữu cơ, sulfide, CO2). Trong đất lúa bị ngập lâu ngày, điều kiện khử mạnh, các chất khử: Mn2+, Fe2+, H2S có thể tích luỹ cao đến mức gây độc cho sự phát triển của lúa (Đặng Thị Thanh Loan, 2007; Nguyen Bao Ve et al., 2002). Và sự thay đổi nhanh xảy ra ở đất lúa là do sự phân huỷ chất hữu cơ bao gồm rơm rạ (Tanji et al., 2003). Ảnh hưởng đến chất hữu cơ trong đất Chất hữu cơ đóng vai trò chủ yếu ở đất ngập nước. Chất hữu cơ trong đất là nguồn cung cấp N ở đất lúa nước (Ponnamperuma, 1984) và là chỉ số của N hữu dụng ở đất lúa nước. Mối quan hệ giữa chất hữu cơ và sự khoáng hóa N là điều kiện để xác định nhu cầu N ở đất lúa nước. Cả số lượng và chất lượng chất hữu cơ ảnh hưởng đến sự khoáng hóa N ở đất lúa nước (Sahrawat, 2006). Sự thay đổi khí hậu và cách sử dụng đất có ảnh hưởng ý nghĩa đến động thái chất hữu cơ trong đất, đặc biệt quan tâm đến tỉ lệ vòng quay của đất (Rustad et al., 2001; West và Marland 2002). Tính hoá học tự nhiên của chất hữu cơ trong đất trở nên kém mùn hơn với sự tăng canh tác lúa nước và đất bị ngập nước (Olk et al., 1996; 1998). Theo Howeler và Bouldin (1971), ở đất ngập nước tỉ lệ phân hũy chất hữu cơ thấp do thiếu oxygen . Ở đất lúa, sự phân huỷ chất hữu cơ thường giới hạn nên dẫn đến tích luỹ chất hữu cơ ở điều kiện ngập, làm tăng nồng độ phosphorus và làm giảm potassium (Chen-Ming et al., 1994). Với các sản phẩm phân huỷ, chất hữu cơ được chia làm 2 dạng: (1) dạng hữu dụng chiếm 10 – 20% tổng số chất hữu cơ trong đất, (2) dạng khó phân huỷ có cấu trúc đa phân tử, đây là thành phần chính liên kết với các khoáng sét tạo nên đất hữu cơ (Brady và Well, 1996). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5291.pdf
Tài liệu liên quan