LỜI NÓI ĐẦU
Để bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế đang diễn ra nhanh chóng trên toàn thế giới đặc biết là việc nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển của các Ngân hàng thương mại.
Tại NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội, kể từ khi bắt đầu triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh số. Do đó, việc cải tiến quy trình ngh
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Rủi ro và quản trị rủi ro đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (L/C) trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng theo hướng ngày một hoàn thiện để có thể đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro là rất cần thiết.
Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ đã đạt được trong hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh Nam Hà Nội thời gian qua, khó tránh khỏi tránh khỏi một số tồn tại nhất định nhưng điều quan trọng là phải tìm ra được những tồn tại đó để có thể sớm đưa ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán thư tín dụng nói riêng.
Với mục đích đó, trong khuôn khổ Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, em chọn đề tài: “Rủi ro và quản trị rủi ro đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội”
Phương pháp nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong chuyên đề là phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp so sánh... cùng với việc tham khảo các tài liệu tạp chí, báo cáo tổng kết của NHNo & PTNT Nam Hà Nộị và những cố gắng tìm hiểu độc lập trong suy nghĩ. Em mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán thư tín dụng tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội với hy vọng NHNo & PTNT Nam Hà Nội sẽ tìm được một vài ý kiến có giá trị trong chuyên đề này.
Chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về rủi ro trong hoạt động tín dụng chứng từ của ngân hàng
Chương II. Thực trạng kinh doanh tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng chứng từ tại chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Chương III. Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Với sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, thời gian nghiên cứu viết chuyên đề cũng có hạn , bởi vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Giới thiệu chung về tín dụng chứng từ
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.1.1.1. Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ (TDCT)
Theo điều 2 UCP500 do ICC xuất bản 1993 thì thuật ngữ " tín dụng chứng từ" có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào cho dù được gọi hay mô tả như thế nào do đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu phát hành thư tín dụng) nhân danh chính mình:
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã được quy định, đảm bảo rằng các điều kiện và điều khoản của tín dụng phải phù hợp.
- Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng) hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng phát hành.
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu đó.
Nói một cách khác:Thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thoả thuận, trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
1.1.1.2. Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ
a) Phương thức TDCT được thực hiện theo UCP500
Trong thanh toán quốc tế nói chung thì hình thức thanh toán bằng L/C được sử dụng phổ biến và an toàn nhất. Tuy nhiên, trong thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy việc áp dụng phương thức TDCT tại các quốc gia khác nhau cũng có sự khác biệt. Chính vì thế, bản "Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ" ấn bản số 500 năm 1993 (gọi tắt là UCP500) do Phòng thương mại quốc tế (ICC) nghiên cứu, soạn thảo và sửa đổi, có hiệu lực từ 01/01/1994, đã có những chỉ dẫn cụ thể, chi tiết về nội dung giao dịch của phương thức này.
b) TDCT là một sự thoả thuận
Khi áp dụng Bản UCP500, có nghĩa là : các bên tham gia phải thoả thuận ghi vào văn bản của hợp đồng và có dẫn chiếu trong L/C. TDCT là một thoả thuận, là một cam kết trả tiền có điều kiện: người hưởng lợi phải xuất trình bộ chứng từ đúng hạn và các nội dung trong bộ chứng từ phải phù hợp với các điều kiện trong L/C. Sự cam kết trả tiền của Ngân hàng phải căn cứ vào bộ chứng từ chứ không chỉ dựa vào thực tế giao hàng.
c) TDCT dựa trên chứng từ
Hiện nay trong phương thức thanh toán TDCT, Ngân hàng chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu mở thư tín dụng của người mua gửi đến để lập thư tín dụng cam kết trả tiền cho người bán chứ không căn cứ vào hợp đồng thương mại. Khi người bán cam kết giao hàng, nếu xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản, điều kiện quy định trong thư tín dụng thì Ngân hàng phát hành sẽ trả tiền mà không căn cứ vào việc bộ chứng từ đó có phù hợp với hợp đồng hay không =>điều đó có nghĩa là việc chi trả của Ngân hàng có liên quan mật thiết với việc thể hiện chứng từ mà không xét đến thực trạng của hàng hoá. Nguyên tắc này được quy định trong Điều 4 của UCP 500: "Các nguyên tắc và cách sử dụng thích hợp liên quan tới tín dụng thư kèm chứng từ".
Tuy nhiên dù được thực hiện dưới hình thức nào, hay bản chất của nó là gì,có những chủ thể nào tham gia thì một yếu tố không thể không nhắc đến trong phương thức này là thư tín dụng. Đây chính là yếu tố căn bản cho việc xác lập cũng như thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
1.1.2.Thư tín dụng chứng từ (Letter of Credit - L/C)
1.1.2.1. Khái niệm thư tín dụng
Thư tín dụng (L/C) là một cam kết thanh toán của Ngân hàng cho người xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C.
Vì thư tín dụng có tính chất hết sức quan trọng nên nó được hình thành trên cơ sở của hợp đồng ngoại thương, tuy nhiên sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Tính chất độc lập của thư tín dụng được thể hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi (nhà xuất khẩu) hoàn toàn không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người bán và người mua . Khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với những nội dung của L/C đã được mở, Ngân hàng phát hành L/C phải trả tiền vô điều kiện cho nhà xuất khẩu mà không phụ thuộc vào tình hình cũng như thực trạng của hàng hoá. Nếu thực trạng của hàng hoá không khớp với chứng từ thì hai bên mua bán phải trực tiếp giải quyết với nhau. Trong trường hợp người mua từ chối thanh toán tiền cho Ngân hàng thì Ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả tiền cho người bán, thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã được quy định trong L/C.
Đặc trưng này thể hiện nghĩa vụ của Ngân hàng là không thay đổi. Khi hợp đồng ngoại thương thay đổi mà không sửa đổi thư tín dụng thì Ngân hàng vẫn căn cứ vào thư tín dụng để thanh toán mà không cần biết đến sự thay đổi của hợp đồng. Ngược lại, khi thư tín dụng đã được sửa đổi mà không sửa đổi hợp đồng thì khi xuất trình bộ chứng từ thanh toán, tuy phù hợp với hợp đồng nhưng trái với thư tín dụng thì Ngân hàng phát hành vẫn có quyền từ chối thanh toán.
1.1.2.2. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng
* Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C
- Số hiệu L/C: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng để thuận lợi trong việc trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện thư tín dụng, hoặc để ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu hay các chứng từ cần thiết khác.
- Địa điểm phát hành L/C: là nơi Ngân hàng mở L/C viết cam kết thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc chọn pháp luật áp dụng khi giải quyết những tranh chấp về L/C.
- Ngày phát hành L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của Ngân hàng mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C, là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng không.
* Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C
- Các thương nhân: bao gồm người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C và người nhập khẩu là người yêu cầu mở L/C.
- Các Ngân hàng tham gia : bao gồm Ngân hàng mở L/C, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng trả tiền, Ngân hàng xác nhận và các Ngân hàng khác (nếu có).
* Số tiền của thư tín dụng
Số tiền này được ghi bằng số và được ghi bằng chữ, thống nhất với nhau, tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng. Trên thư tín dụng không nên ghi số tiền tuyệt đối vì người xuất khẩu khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C quy định, khi đó khó có thể được thanh toán vì Ngân hàng sẽ đưa ra lý do chứng từ không phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng. Nên ghi số tiền theo một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được hoặc là một giới hạn chênh lệch hơn kém % của tổng số tiền.
* Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng
- Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà Ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu người này xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn này được tính từ ngày mở L/C đến hết ngày hiệu lực của L/C.
- Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau, tuỳ thuộc theo quy định trong hợp đồng. Nếu thực hiện đòi tiền bằng hối phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
- Thời hạn giao hàng: Được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
* Những nội dung về hàng hoá
Bao gồm tên hàng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã ký hiệu,số lượng, trọng lượng…
* Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá
Bao gồm điều kiện cơ sở giao hàng (FOB,CFR,CIF), nơi gửi, nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng…
* Những chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình
Chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình được coi là 1 trong những nội dung then chốt của thư tín dụng, bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều quy định trong thư tín dụng. Nếu bộ chứng từ phù hợp với những quy định trong thư tín dụng, Ngân hàng mở L/C sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu.
Bộ chứng từ thường bao gồm:
- Giấy tờ bảo hiểm
- Bản kê khai hàng hoá
- Vận đơn
- Hóa đơn thương mại
- Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ
Và một số giấy tờ khác theo yêu cầu của người nhập khẩu.
1.1.2.3. Các loại thư tín dụng
a) Căn cứ theo công dụng của thư tín dụng:
* L/C có thể huỷ ngang
Là loại L/C có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người hưởng lợi. Nó chứa đựng những rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi hay huỷ thư tín dụng có thể xảy ra khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển hoặc trước khi việc thanh toán được thực hiện. Thư tín dụng huỷ ngang tạo cho người mua sự chủ động tối đa vì nó có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho người bán.
Thư tín dụng huỷ ngang chỉ được sử dụng trong các trường hợp:
- Giữa người mua và người bán có quan hệ tín dụng rất tốt.
- Việc giao hàng được thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con.
* L/C có điều khoản đỏ
Là loại L/C đặc biệt, trong đó có một điều khoản ghi rõ Ngân hàng phát hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng thông báo (hay Ngân hàng xác nhận, Ngân hàng chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người hưởng lợi một số tiền nhất định, thông thường tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị L/C. Người hưởng lợi phải xuất trình chứng từ tại Ngân hàng mà họ đã nhận tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếu không xuất trình đủ chứng từ hợp lệ trong thời hạn quy định. Số tiền ứng trước được thực hiện theo yêu cầu của người mở L/C.
Rủi ro trong thanh toán L/C có điều khoản đỏ là tiền ứng trước có thể bị sử dụng không đúng mục đích, chứng từ do nhà xuất khẩu trình có thể không phù hợp hoặc người xuất khẩu không hoàn thành được việc sản xuất hàng hoá mà cũng không hoàn lại được tiền ứng trước cho Ngân hàng.
* L/C không thể huỷ ngang
Là loại L/C sau khi đã được Ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó nếu chưa có sự thoả thuận của các bên tham gia. Như vậy, nếu không có sự nhất trí của bên bán, của Ngân hàng xác nhận thì Ngân hàng mở L/C không được phép thực hiện theo yêu cầu của bên mua, do đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
* L/C chuyển nhượng
Là một L/C mà người hưởng đầu tiên có thể chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. Trong L/C chuyển nhượng, người hưởng lợi thứ nhất không tự động cung cấp được hàng hoá, mà chỉ là trung gian môi giới giữa người cung cấp hàng hoá và người mua cuối cùng. L/C này cũng chỉ đuợc chuyển nhượng một lần, có nghĩa là người hưởng lợi thứ hai không được chuyển nhượng cho người hưởng lợi thứ ba.
Các bên tham gia trong phương thức L/C chuyển nhượng bao gồm:
- Nhà nhập khẩu
- Nhà xuất khẩu/ Người hưởng lợi thứ nhất
- Ngân hàng phát hành
- Ngân hàng thông báo/ chuyển nhượng (NH chấp nhận hoặc chiết khấu)
- Người cung cấp/ Người hưởng lợi thứ hai.
L/C chuyển nhượng thường được sử dụng khi người hưởng lợi thứ nhất là đại lý cho nhà nhập khẩu, khi đó họ không cần phải giữ bí mật về người cung cấp hàng hoá, còn trong trường hợp người hưởng lợi chỉ là người trung gian cung cấp hàng hoá cho nhà nhập khẩu thì họ rất muốn giữ bí mật về người cung cấp.
* L/C giáp lưng
Khi người hưởng nhận được một L/C (L/C gốc) không phải L/C chuyển nhượng song không thể tự mình cung cấp hàng hoá, khi đó họ có thể thoả thuận với Ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai (L/C giáp lưng) với nội dung tương tự cho người cung cấp hàng hoá.
Các bên tham gia trong L/C gốc :
- Nhà nhập khẩu
- Ngân hàng trung gian (Ngân hàng thông báo)
- Người trung gian (Người hưởng lợi thứ nhất).
- Ngân hàng nhập khẩu
* L/C tuần hoàn
Là loại L/C không thể huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần mở L/C mới. Quy trình nghiệp vụ giống như L/C không thể huỷ ngang.
L/C tuần hoàn có thể khống chế việc thực hiện tuần hoàn theo hai cách:
- Theo thời gian: là khống chế thời hạn hiệu lực của L/C trong mỗi lần tuần hoàn và tổng giá trị L/C. Theo cách này có thể là L/C tích luỹ hoặc không tích luỹ. L/C tuần hoàn không tích luỹ không cho phép cộng số tiền của L/C trước để tăng giá trị của L/C sau nếu L/C trước chưa sử dụng hết.
- Theo giá trị: là L/C được phép khôi phục lại giá trị ngay khi giá trị cũ đã được sử dụng. Loại L/C này ít được sử dụng vì nó tạo ra một cam kết vô hạn của Ngân hàng phát hành. Do đó thông thường khi phát sinh nhu cầu thanh toán L/C tuần hoàn, các Ngân hàng thường phát hành L/C khống chế theo thời gian hoặc vừa khống chế số tiền vừa khống chế thời gian.
Có ba cách tuần hoàn:
- Tuần hoàn tự động: nghĩa là L/C tiếp sau tự động có giá trị, không cần sự thông báo của Ngân hàng phát hành L/C.
- Tuần hoàn không tự động: nghĩa là chỉ khi nào Ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người bán thì L/C mới có giá trị hiệu lực.
- Tuần hoàn hạn chế (bán tự động): nghĩa là nếu sau vài ngày kể từ ngày L/C cũ hết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của Ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực.
* L/C dự phòng
Là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được gọi hay miêu tả bằng cách nào, theo đó Ngân hàng phát hành cam kết với người thụ hưởng:
- Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thực hiện được nghĩa vụ của chính mình.
- Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặc nhận ứng trước.
L/C dự phòng cũng là cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành cho người hưởng lợi. Song khác với thư tín dụng truyền thống, là phương tiện thanh toán của người mua cho người bán theo hợp đồng thương mại, thì thư tín dụng dự phòng chỉ được sử dụng để phòng ngừa phía đối tác vi phạm nghĩa vụ hoặc cam kết, gây hậu quả xấu cho người hưởng, và việc thanh toán sẽ được thực hiện khi người hưởng xuất trình được những bằng chứng nêu lên những điều kiện cam kết không được tôn trọng.
Như vậy, thực chất L/C dự phòng giống như một thư bảo lãnh của Ngân hàng. Riêng trong xuất nhập khẩu hàng hoá, thư tín dụng dự phòng là L/C mà trong đó Ngân hàng mở cam kết với người hưởng lợi (nhà nhập khẩu) là sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra.
* L/C xác nhận
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một Ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là ngoài cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành còn có thêm sự cam kết thanh toán của Ngân hàng xác nhận. Ngân hàng xác nhận có thể là Ngân hàng thông báo hoặc là một Ngân hàng thứ ba tuỳ theo thoả thuận giữa người mua, người bán và Ngân hàng phát hành. Trong thực tế, việc yêu cầu xác nhận L/C không xuất phát từ mong muốn của người mở L/C mà xuất phát từ yêu cầu của người hưởng khi họ nghi ngờ khả năng thanh toán và uy tín của Ngân hàng phát hành, hoạc họ lo lắng về tình hình chính trị và khả năng an toàn của nước người mua. Khi Ngân hàng xác nhận đã thanh toán cho người hưởng theo đúng quy định của L/C, nó có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán từ Ngân hàng phát hành. Để đảm bảo an toàn, Ngân hàng xác nhận có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành ký quỹ theo tỷ lệ nhất định. Ngược lại, để đảm bảo quyền lợi của mình, Ngân hàng phát hành sẽ thoả thuận với khách hàng để chọn Ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu làm Ngân hàng xác nhận, tránh những rủi ro về vốn ký quỹ tại Ngân hàng xác nhận.
Hiện tại có một số Ngân hàng xác nhận L/C mà không cần có sự uỷ quyền của Ngân hàng phát hành, loại L/C này được coi là xác nhận ngầm và Ngân hàng xác nhận chịu hoàn toàn rủi ro trong trường hợp này mà không được phép dẫn chiếu theo các điều khoản của UCP500.
b) Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng
* L/C trả chậm
Là loại L/C trong đó Ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng một số ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau ngày giao hàng.
Loại thư tín dụng này có hai dạng:
- L/C có kỳ hạn: Là loại L/C không huỷ ngang trong đó Ngân hàng phát hành sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn do người hưởng lợi ký phát khi họ xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩu có thể giữ cho đến thời hạn thanh toán và lúc ấy trình nộp Ngân hàng để nhận tiền hoặc bán/chuyển nhượng trên thị trường. Các Ngân hàng phát hành có thể mua hối phiếu hoặc chấp nhận thanh toán cho chính mình.
- L/C trả dần: Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó quy định người hưởng sẽ được thanh toán dần toàn bộ số tiền của L/C theo những thời hạn đã quy định rõ trong L/C đó. Khác với loại thư tín dụng có kỳ hạn, loại L/C này không đòi hỏi hối phiếu do người bán ký phát. Do đó, người bán không có quyền lợi pháp lý đối với hối phiếu và quyền truy đòi liên quan đến hối phiếu đó.
* L/C trả ngay
Là loại L/C không thể huỷ ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được xuất trình.
Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng nhập cảng
1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng chứng từ tại ngân hàng
1.2.1. Rủi ro là gì?
Hiểu một cách chung nhất: Rủi ro là những sự việc xảy ra ngoài ý muốn của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được. Rủi ro có thể gặp bất cứ lúc nào ngoài ý thức của con người, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro ra khỏi môi trường xã hội nói chung và môi trường kinh doanh nói riêng, mà chỉ có thể nghiên cứu, nhận biết, đo lường và hạn chế nó tới mức thấp nhất.
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, đó là tiền tệ. Do vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với bản chất của nó luôn chịu tác động của nhiều loại rủi ro đi cùng với các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của Ngân hàng. Thông thường, một Ngân hàng hiện đại thường phải đối mặt với các loại rủi ro sau:
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro ngoại hối
- Rủi ro thanh khoản
- Các loại rủi ro khác.
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ ngoại bảng quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện TTQT liên quan đến các giao dịch quốc tế, nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán như: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, các Ngân hàng, các tác nhân trung gian… hoặc do các nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị… Vì phạm vi hoạt động lớn, có nhiều bên tham gia nên rủi ro trong hoạt động TTQT xuất hiện tại nhiều thời điểm, gây thiệt hại cho các bên nói chung và cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng.
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ và nguyên nhân của rủi ro
Có thể nói rằng, tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trong Thanh toán quốc tế với những ưu thế của nó so với các phương thức khác. Để điều chỉnh phương thức này, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã ban hành văn bản "Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ" nhưng việc vận hành phương thức L/C vẵn ẩn chứa nhiều nguy cơ rủi ro cho các bên tham gia.
Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ xảy ra khi quyền lợi của một hay một số bên bị vi phạm. Rủi ro không chỉ là việc chứng từ không được thanh toán mà còn là bất kỳ một khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán.
Các loại rủi ro thường gặp khi áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng
Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia vào phương thức thanh toán L/C.
a) Rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu
Thực chất của L/C chính là việc Ngân hàng dùng uy tín của mình để thay mặt nhà nhập khẩu cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong L/C. Do vậy, nếu L/C được ký quỹ 100% thì rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Nhưng trên thực tế, phần lớn các nhà nhập khẩu đều đề nghị Ngân hàng tài trợ cho mình dưới hai hình thức: cho mượn uy tín (ký quỹ <100%, khi đến hạn thanh toán mới nộp đủ) và cho vay để nhập khẩu. Chính vì thế, khi nhà nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của mình bị vỡ nợ, phá sản, mất khả năng thanh toán sẽ gây ra rủi ro cho Ngân hàng phát hành L/C, làm Ngân hàng gặp không ít khó khăn, tổn thất. Để giảm thiểu rủi ro loại này, các Ngân hàng mở L/C thường yêu cầu vận đơn phải được ký phát cho Ngân hàng và thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp về ký quỹ, thế chấp tài sản… Tuy nhiên, việc giải toả và thu hồi vốn cũng không phải là việc đơn giản cho các Ngân hàng.
b) Rủi ro tín dụng từ phía nhà xuất khẩu
Rủi ro này thường xảy ra trong trường hợp Ngân hàng thực hiện chiết khấu chứng từ đối với hàng xuất khẩu, sự thiếu sót trong khâu kiểm tra chứng từ, gây tình trạng sai sót trong hồ sơ thanh toán nên bị từ chối thanh toán. Có hai loại chiết khấu chứng từ hàng hoá xuất khẩu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi. Để giảm thiểu rủi ro, hiện nay các Ngân hàng chiết khấu thường áp dụng biện pháp thứ hai. Tuy nhiên, nếu nhà xuất khẩu không còn khả năng thanh toán thì sẽ gây rủi ro tín dụng cho Ngân hàng chiết khấu.
c) Rủi ro tín dụng từ phía Ngân hàng phát hành
Loại rủi ro do phía Ngân hàng mang lại tuy rất hiếm khi gặp phải nhưng không phải là chưa từng xảy ra. Nếu Ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán vì một lý do nào đó, hoặc bị đóng cửa, hoặc bị vỡ nợ phá sản… sẽ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng chiết khấu và người xuất khẩu, điều này phụ thuộc vào mức độ tín nhiệm của Ngân hàng phát hành. Do đó, để tránh loại rủi ro này, các nhà xuất khẩu nên đề nghị các nhà nhập khẩu chọn những Ngân hàng thương mại lớn, có uy tín để phát hành L/C.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
- Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng thương mại phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối lớn của các quan hệ cung - cầu, quy luật cạnh tranh, giá cả thị trường… nên thường xuyên phải đối mặt với rủi ro từ mọi phía. Có khi do giá cả thay đổi, công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý và điều hành yếu kém, khủng hoảng tài chính… đã gây phản ứng dây chuyền khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí phá sản, vỡ nợ…
- Do thông tin tín dụng không đầy đủ, nếu một bên không nắm vững tình hình tài chính, uy tín và khả năng thanh toán của đối tác, cũng như không am hiểu, không kiểm tra được các thông số kỹ thuật và hiệu quả dự án mà mình tài trợ, thì rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi. Đây chính là thông tin không cân xứng, thể hiện ở khả năng áp dụng quy chế và năng lực của cán bộ trong quá trình thẩm định món vay xuất - nhập khẩu trước khi thực hiện nghiệp vụ L/C. . Vì vậy, việc lựa chọn khách hàng và Ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng tốt là điều vô cùng quan trọng trong thanh toán quốc tế, và các cán bộ nhân viên Ngân hàng cần nâng cao năng lực thẩm định cũng như phân tích khả năng tài chính , khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng…
1.2.2.2. Rủi ro đạo đức
Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn đuợc hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác tham gia thương vụ thường ở rất cách xa nhau, thậm chí không hề gặp mặt nhau trong quá trình thực hiện thương vụ.
a) Rủi ro đạo đức từ phía nhà nhập khẩu
Nếu khách hàng nhập khẩu không phải là bạn hàng lâu năm, có tín nhiệm thì rất dễ có những hành vi lừa người bán xếp hàng lên tầu, rồi trì hoãn, từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho mình. Trong nhiều trường hợp, nhà xuất khẩu đành chịu bán lỗ còn hơn thuê tàu chở hàng về. Cũng có khi do giá cả hàng hoá nhập khẩu giảm, người mua sợ thua lỗ trong kinh doanh nên cố tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn không thanh toán nên đẩy Ngân hàng vào tình thế khó khăn trong việc xử lý vốn, đặc biệt trong nghiệp vụ trả chậm.
b) Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở
Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo, nhận hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó, Ngân hàng vẫn phải thực hiện thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn việc kiện hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau. Việc chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán.
c) Rủi ro đạo đức từ phía Ngân hàng
Trong nhiều trường hợp, Ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết của mình, như trì hoãn, chây ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược lại, đối với sự thiếu trung thực của Ngân hàng chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn để đòi tiền Ngân hàng phát hành, Ngân hàng phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại được tiền rất khó khăn.
b) Rủi ro đạo đức từ phía nhà xuất khẩu
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với các điều khoản ký kết của hợp đồng thương mại, hoặc nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng), Ngân hàng theo bộ hồ sơ hoàn hảo vẫn buộc phải thanh toán cho người hưởng lợi, khi đó nhà nhập khẩu phải gánh chịu mọi rủi ro. Nếu Ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này Ngân hàng cũng phải chịu đựng. Bởi vậy, người mua phải có những biện pháp kiểm tra thông tin qua các hãng vận tải xem hàng hoá có thực sự được giao lên phương tiện vận tải hay không, nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo thì cần kết hợp với Ngân hàng đưa ra những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Trường hợp giá cả hàng hoá quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng cho người mua hàng nữa, điều này gây thiệt hại cho người mua, vì kế hoạch sản xuất kinh doanh bị phá vỡ. Tất cả những vi phạm trên của nhà xuất khẩu đều được coi là rủi ro đạo đức.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức
Nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ, không cân xứng. Vì thiếu những thông tin chính xác về khả năng tài chính của đối tác, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực của đối tác nên đã đưa ra những quyết định sai lầm, gây nên những rủi ro trong thanh toán. Đặc biệt, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo quy định của UCP 500 thì việc thanh toán chỉ hoàn toàn dựa vào chứng từ hồ sơ thanh toán mà không căn cứ vào thực trạng hàng hoá. Chính sự tách biệt đó đã tạo ra khe hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo, vì thế rủi ro đạo đức vẫn còn cơ sở tồn tại.
1.2.2.3. Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, vì chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng, nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá.
a) Rủi ro quốc gia từ phía nước nhập khẩu
Rủi ro này thường xảy ra khi người mua hoàn toàn có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những sự biến động, hoặc những biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế… khiến cho Chính phủ nước đó cấm các công ty của nước mình thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài, hoặc hàng hoá nhập về thuộc diện cấm không được làm thủ tục thông quan nên không thể thanh toán.
b) Rủi ro quốc gia từ phía nước xuất khẩu
Là những rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi về chính sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã chuẩn bị giao hàng, song do biểu thuế xuất khẩu tăng, hoặc hàng hoá đó bị cấm xuất khẩu nên gặp rủi ro không thể chuyển hàng đi. Đôi khi do quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia có biến cố không bình thường, nên khó khăn trong việc nhận tiền hàng của nhà xuất khẩu.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro quốc gia:
Đó chính là những nguyên nhân gây ra biến cố chính trị, xã hội, kinh tế… tại một nước.
- Chính sách q._.uản lý ngoại hối của nước nhập khẩu đột ngột thay đổi, thực hiện chính sách ngoại hối thắt chặt hay cấm vận trong thanh toán gây ra rủi ro cho nhà nhập khẩu và Ngân hàng của họ.
- Mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái, tôn giáo đe doạ sự ổn định nội bộ của một nước.
- Vấn đề nợ nước ngoài chồng chất khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu buộc phải đưa ra biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại tệ, ngoại hối ra nước ngoài
.- Xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến tranh.
- Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia bị thâm hụt nặng nề, khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu buộc phải đưa ra biện pháp cấp bách dừng thanh toán với nước ngoài.
- Sự cấm vận về kinh tế của quốc tế đối với nước nhập khẩu khiến cho mọi hoạt động thương mại quốc tế và các tài khoản NOSTRO của nước đó ở nước ngoài bị kiểm soát gắt gao, thậm chí bị phong toả nên Ngân hàng không thể thanh toán tiền hàng ra nước ngoài.
1.2.2.4. Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu kiện giữa các bên tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là toà án nước nào thụ lý, và xử lý vụ án trên cơ sở luật pháp nước nào? Cho dù trong hợp đồng ngoại thương đã đề cập đến vấn đề này, song không phải là không có phức tạp. Bởi vì không có một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp quốc gia của bên đối tác.
* Nguyên nhân của rủi ro pháp lý
Nguyên nhân này là do môi trường pháp lý và luật pháp của các bên là khác nhau, dù cho thanh toán quốc tế lựa chọn phương thức tín dụng chứng từ theo UCP 500 nhưng ở nhiều nước khác nhau, giao dịch này cũng bị điều chỉnh, chi phối bởi hệ thống pháp luật quốc gia. UCP và luật pháp quốc gia tạo thành hành lang pháp lý cho giao dịch L/C của các Ngân hàng thương mại khi tham gia thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của các nước khác nhau tuỳ thuộc vào pháp luật nước đó. Nếu có sự khác biệt giữa luật quốc gia với UCP thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Quan điểm của ICC (Phòng thương mại quốc tế) là UCP không thể làm thay đổi luật pháp quốc gia, những tranh chấp nếu có tốt nhất là để cho tòa án xem xét và phán quyết,vì vậy, rủi ro pháp lý là không tránh khỏi.
1.2.2.5. Rủi ro ngoại hối
Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được xác định bằng ngoại tệ nào đó,có thể là đồng tiền của các bên đối tác cũng có thể là đồng tiền của một nước thứ 3. Khi tỷ giá biến động sẽ gây tổn thất cho một trong hai phía đối tác tham gia thanh toán. Nếu ngoại tệ được lựa chọn trong thanh toán lên giá sẽ gây tổn thất cho người nhập khẩu, ngược lại ngoại tệ đó mất giá lại gây thiệt hại cho bên xuất khẩu. Trong giao dịch thanh toán L/C, các Ngân hàng cũng gặp phải rủi ro về ngoại hối, những rủi ro này xuất hiện khi ngoại tệ này lên giá, và ngược lại, ở trạng thái "trường" khi ngoại tệ này mất giá. Khi đó, Ngân hàng sẽ phải gánh chịu tổn thất.
* Những nhân tố gây ảnh hưởng đến sự biến động tỷ giá, tác động đến rủi ro hối đoái
Tỷ giá biến động chịu tác động trên hai phương diện
- thứ nhất là ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài: đó là thị trường tài chính quốc tế ,tình hình kinh tế và chính sách can thiệp của các nước, các chính sách này không nằm trong tầm khống chế, can thiệp của một quốc gia.
- thứ hai là sự tương tác nhiều chiều của chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ ở mỗi nước. Hình thức biểu hiện tổng hợp về sự tương tác từ hai phương diện trên chính là quan hệ cung - cầu ngoại hối trên thị trường. Nói chung có rất nhiều yếu tố tác động lên tỷ giá, một số yếu tố cơ bản đó là:
+Một số các nhân tố khác như các cú sốc về chính trị, xã hội hay các ảnh hưởng về thiên tai, chiến tranh, sự nhạy cảm về tâm lý.
+Trạng thái của Cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung - cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động trực tiếp lên tỷ giá.
+Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tiền tệ nội địa và thị trường tiền tệ quốc tế.
+Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.
1.2.2.6. Rủi ro về tác nghiệp
Đó là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây nên, rủi ro này được thể hiện trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo, không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và điều kiện của L/C hoặc hành động không đúng theo UCP 500 và các thông lệ, tập quán quốc tế khác.
Do đặc thù của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là các Ngân hàng chỉ làm việc trên bề mặ t các chứng từ, vì vậy, phương thức này đòi hỏi một cách khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Một sự khai thác nhỏ cũng có thể bị người mua và Ngân hàng phát hành L/C bắt lỗi và từ chối thanh toán. Đây là trở ngại lớn đối với nhà xuất khẩu , họ gặp phải khó khăn trong việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu khắt khe đó. Nếu như các sai sót liên quan đến chứng từ hồ sơ do nhà xuất khẩu lập (các sai sót trong hoá đơn thương mại, bảng kê chi tiết hàng hoá,, phiếu đóng gói…) thì họ có thể chủ động sửa chữa sai sót nhưng có những chứng từ không phải do người bán lập mà có những sai sót như sai sót trong vận đơn, xuất xứ hàng hoá, phiếu kiểm định hàng hoá… hoặc các chứng từ do bên thứ ba lập thì người bán không thể khắc phục được.
Trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ không phát hiện ra sai sót, hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh toán, hoặc chiết khấu cho nhà xuất khẩu, Ngân hàng đó sẽ chịu mọi rủi ro nếu Ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng chiết khấu L/C đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì nó sẽ không có quyền truy đòi lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
Đối với Ngân hàng thông báo L/C, cần thiết phải xác định tình trạng mã khoá của Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong L/C thông báo cho nhà xuất khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác thực của L/C này, nếu trong việc này không cẩn trọng sẽ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng thông báo và cho nhà xuất khẩu
Rủi ro có thể xảy ra đối với ngay cả Ngân hàng phát hành L/C, khi trong việc kiểm tra chứng từ mở L/C, đối với loại L/C không thể huỷ ngang khi đã phát hành thì Ngân hàng không thể tự ý huỷ bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông báo sai sót trong vòng 07 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu quá thời gian đã quy định đó, Ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro.
* Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp xảy ra chủ yếu do trình độ thanh toán quốc tế,ngoại thương của các bên tham gia còn yếu, chưa nắm bắt được yêu cầu rất khắt khe của L/C, của "Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ" (UCP500), dẫn đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng ngoại thương cho đến khi lập chứng từ và thanh toán. Ngoài ra cũng phải kể dến trình độ nghiệp vụ, ý thức thực hiện nghiệp vụ của các thành viên tham gia thiết lập hồ sơ thanh toán và các văn bản có liên quan.
1.3. Chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ
Trong phương thức thanh toán TDCT, mối quan hệ của Ngân hàng với nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phát sinh khi bắt đầu mở L/C. Từ đó cũng phát sinh những rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp phải. Để đánh giá được mức độ của những rủi ro đó, người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu về Định mức ký quỹ, Nợ quá hạn và Cho vay bắt buộc:
1.3.1. Chỉ tiêu về định mức ký quỹ
Ký quỹ là quy định của Ngân hàng đối với khách hàng khi họ xin được bảo lãnh phát hành L/C. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại Ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó sẽ được phong toả cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng chấm dứt..
Mức ký quỹ có thể là 100% hoặc dưới 100% tuỳ đối tượng khách hàng cụ thể, và cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Đối tượng khách hàng: uy tín của khách hàng với Ngân hàng càng lớn thì mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
- Loại hàng hóa nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả hàng hoá trên thị trường: những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn định, giá cả ít biến động thì mức ký quỹ có thể thấp và ngược lại
- Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán càng cao thì mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, Ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ cụ thể. Tỷ lệ ký quỹ càng thấp thì nguy cơ đối mặt với rủi ro của Ngân hàng càng cao.
1.3.2. Chỉ tiêu về cho vay bắt buộc
Tỷ lệ cho vay bắt buộc = Giá trị cho vay bắt buộc/ Tổng giá trị thanh toán
Khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán tiền hàng cho Ngân hàng thì Ngân hàng buộc phải ghi nợ tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng. Nhưng nếu tài khoản này không đủ số dư để thanh toán, Ngân hàng sẽ buộc phải cho doanh nghiệp vay với lãi suất quá hạn. Số tiền cho vay đó là cho vay bắt buộc, Ngân hàng không muốn cho vay nhưng chỉ có cách đó mới có thể đòi tiền doanh nghiệp trong thời gian tới.
Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng giá trị L/C thanh toán thì số cho vay bắt buộc, nghĩa là giá trị thư tín dụng không được doanh nghiệp thanh toán mà Ngân hàng không thể thu hồi được ngay, chiếm tỷ lệ là bao nhiêu.
1.3.3. Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Giá trị nợ quá hạn/ Tổng giá trị thanh toán
Khi Ngân hàng đã cho vay bắt buộc, nếu sau một thời gian, doanh nghiệp có khả năng thanh toán cả gốc và lãi thì coi như Ngân hàng đã đòi được số tiền trước đây. Còn nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, không có khả năng thanh toán thì số cho vay đó sẽ được kết chuyển nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị Ngân hàng không thể thu hồi so với tổng giá trị cho vay hay tổng giá trị thanh toán chiếm tỷ lệ bao nhiêu.
Từ những chỉ tiêu cơ bản trên, ta có thể thấy khái quát về tình hình rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại một Ngân hàng, từ đó có biện pháp để quản lý rủi ro trong Ngân hàng một cách hiệu quả.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH DOANH TÍN DỤNG CHỨNG TỪ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT NAM HÀ NỘI
2.1.Vài nét về hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT
2.1.1.Giới thiệu về hệ thống NHNo&PTNT
Được thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam(NHNo) là Ngân hàng Thương mại Quốc doanh không chỉ giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mọi lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt Nam.
NHNo là ngân hàng lớn nhất Việt nam cả về tổng vốn, tài sản,bao gồm đội ngũ CBNV, mạng lưới hoạt động rông khắp và số lượng khách hàng lớn. Đến cuối 2001, NHNo có 2.275 tỷ VNĐ vốn tự có (theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đến 7/02 vốn tự có là 3.775 tỷ VNĐ và đến tháng 1/2004 là 5.865 tỷ VNĐ); trên 70 ngàn tỷ VNĐ tổng tài sản có; 1568 chi nhánh toàn quốc; 24.000 CBNV và có quan hệ với trên 7.500 doanh nghiệp, 8 triệu hộ sản xuất kinh doanh và trên năm mươi triệu khách hàng giao dịch các loại.
Là ngân hàng đầu tư tích cực vào đổi mới và ứng dụng công nghệ khoa học ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. Hiện NHNo đã kết nối trên diện rộng mạng máy tính từ trụ sở chính đến hơn 1.500 chi nhánh; và một hệ thống các dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Đến nay, NHNo hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước.
Là ngân hàng có mạng lưới ngân hàng đại lý lớn với trên 700 ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế ở gần 90 quốc gia khắp các châu lục. Là thành viên Hiệp hội Tín dụng Nông Nghiệp Nông thôn Châu Á Thái Bình Dương (APRACA) và Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Quốc tế(CICA); đã đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn như Hội nghị FAO năm 1991, Hội nghị APRACA năm 1996 và năm 1998, được đăng cai tổ chức Hội nghị tín dụng nông nghiệp quốc tế CICA lần thứ 31, tháng 11 năm 2001 tại Hà Nội. Tiếp nhận và triển khai có hiệu quả các dự án của các tổ chức tài chính tín dụng ngân hàng quốc tế đặc biệt là các dự án của WB,ADB,AFD... với 53 dự án, tổng số vốn 1.645 triệu USD.
Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt nam, NHNo đã nỗ lực hết mình, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ qua đó đóng góp to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2.Hoạt động kinh doanh của hệ thống NHNo&PTNT
Năm 2006 là năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, là năm cần có nhiều nỗ lực hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngay từ đầu năm, được sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN Việt Nam, các Bộ, ngành có liên quan, với định hướng đúng đắn của HĐQT và năng động trong điều hành của Ban Tổng giám đốc, Giám đốc các chi nhánh, Công ty trực thuộc, sự phấn đấu của toàn hệ thống và sự ủng hộ của khách hàng với phương châm “AGRIBANK mang sự phồn thịnh đến với khách hàng”.
Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 của AGRIBANK đã tăng trưởng tốt và phát triển ổn định. Tổng nguồn vốn tăng 22,7% so đầu năm, vượt 3,7% so mục tiêu Hội đồng quản trị đề ra năm 2006. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng phù hợp tạo sự ổn định trong kinh doanh. Trong đó, tiền gửi của khách hàng tăng 24,3% so với đầu năm và chiếm tỷ trọng 96,4% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn huy động từ dân cư chiếm tỷ trọng 46,2% tổng nguồn vốn (tăng 5,2% so năm trước) và chiếm 47,9% nguồn tiền gửi khách hàng; Nguồn vốn vay NHNN giảm 53% so đầu năm, chiếm tỷ trọng 0,5% tổng nguồn vốn; Nguồn vốn UTĐT chiếm tỷ trọng 3,1% tổng nguồn vốn. Với số vốn huy động được NHNo&PTNTVN đã đáp ứng cơ bản vốn cho vay nông nghiệp, nông thôn và luôn đảm bảo khả năng chi trả đối với khách hàng.
Tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn tăng 17,6% so với đầu năm. Trong đó Dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 15,7% so đầu năm, vượt 0,7% so mục tiêu của HĐQT đề ra năm 2006. Các khoản đầu tư tăng 58,2%. Dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 17,0%, chiếm tỷ trọng 57,0% dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay trung, dài hạn tăng 13,9%, chiếm tỷ trọng 43,0% dư nợ cho vay. Phân theo thành phần kinh tế: Dư nợ DNNN chiếm tỷ trọng 11,1% dư nợ cho vay; Dư nợ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 31,7% dư nợ cho vay. Trong đó 13,5% là doanh nghiệp nông thôn, chiếm trên 40% Dư nợ DNNQD, dư nợ hộ sản xuất chiếm tỷ trọng 56,9% và dư nợ hợp tác xã:chiếm tỷ trọng 0,3%/dư nợ cho vay. Như vậy khu vực nông nghiệp nông thôn vẫn chiếm hơn 70% tổng dư nợ của AGRIBANK. Tuy hoạt động tín dụng có tăng trưởng cao và liên tục nhưng nợ xấu theo chuẩn mực mới phù hợp với thông lệ quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,9%/tổng dư nợ thấp hơn dự kiến 5%.
Về kết quả tài chính, năm 2006 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch tài chính, đảm bảo trích đủ nguồn dự phòng rủi ro, đồng thời lợi nhuận vẫn tăng hơn 50% và tiền lương người lao động tăng hơn 25,3%, hệ số an toàn vốn đạt 7,6% gần tới mức quy định 8%.
Là một trong những ngân hàng kinh doanh đa năng, ngoài lĩnh vực tín dụng truyền thống NHNo&PTNTVN còn mở rộng nhiều sản phẩm dịch vụ mới của một ngân hàng hiện đại, từng bước mở rộng kinh doanh đối ngoại như: Nhận làm uỷ thác đầu tư 98 dự án với tổng số vốn gần 3,6 tỷ USD, số vốn qua AGRIBANK là 2,7 tỷ USD, đã giải ngân được 1,1 tỷ USD. Có quan hệ đại lý với 950 ngân hàng tại 113 quốc gia và vùng lãnh thổ, không ngừng đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu kinh doanh, coi trọng việc đào tạo cán bộ và đầu tư vốn để hiện đại hoá công nghệ tin học…
Như vậy, trải qua gần 20 năm xây dựng và trưởng thành, dù phải trải qua rất nhiều khó khăn, thách thức nhưng với các nỗ lực đầy sáng tạo của nhiều thế hệ, đến nay AGRIBANK đã vươn lên đứng vững, không những ngày càng phát triển mà còn trở thành một trong những NHTM Nhà nước hàng đầu ở Việt nam: Quy mô hoạt động lớn nhất với hơn 2000 chi nhánh, phòng giao dịch, ngoài ra còn có 9 công ty kinh doanh độc lập, biên chế trên 30 ngàn cán bộ nhân viên, vốn tự có hơn 12.000 tỷ. Phục vụ trên 10 triệu hộ sản xuất, tư nhân cá thể và hàng vạn doanh nghiệp trên khắp mọi miền đất nước thực hiện chức năng của một ngân hàng thương mại quốc doanh là kinh doanh có lợi nhuận và phục vụ có hiệu quả nền kinh tế đất nước.
Với những đóng góp tích cực, hiệu quả đó, trong năm 2006 AGRIBANK đã nhận thêm được nhiều giải thưởng như: Chứng nhận của Wachovia, N.Y về xử lý xuất sắc các điện thanh toán; Giải thưởng Sao vàng đất Việt, giải thưởng vàng “3 chữ A”…Những giải thưởng này đã khẳng định sự đánh giá cao của các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức trong nước đối với AGRIBANK trong tiến trình đổi mới hoạt động và phát triển theo hướng hội nhập quốc tế. Với kết quả trên khẳng định AGRIBANK vẫn giữ vững danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới mà Đảng và nhà nước đã phong tặng.
2.2.Thực trạng tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
2.2.1.Tình hình hoạt động tín dụng chứng từ
Trong các phương thức TTQT được sử dụng tại Việt Nam hiện nay thì phương thức được áp dụng phổ biến nhất tại các NHTM nói chung và tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng là phương thức tín dụng chứng từ. Phương thức TDCT là phương thức bảo đảm được quyền lợi một cách tương đối cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam là một nước đang phát triển, chính sách mở cửa mới được thực hiện nên tình trạng thiếu thông tin đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đang từng bước thâm nhập vào thị trường quốc tế là không tránh khỏi. Đối với các nhà xuất khẩu, họ chưa có điều kiện để tìm hiểu kỹ về đối tác, do vậy lựa chọn phương thức TDCT là có thể an tâm rằng sẽ thu được tiền nếu xuất trình được bộ chứng từ đúng như quy định. Còn đối với các nhà nhập khẩu, việc áp dụng phương thức L/C sẽ đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như tạo uy tín với đối tác nước ngoài trong quan hệ mua bán lâu dài.
Thông qua bảng số liệu dưới đây chúng ta có thể thấy được kết quả TTQT bằng phương thức TDCT :
Bảng 1: Doanh số TTQT theo phương thức TDCT
tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2003 - 2005)
Đơn vị: USD
Nghiệp vụ
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng số
Tổng số
Tăng so 2003 (%)
Tổng số
Tăng so 2004 (%)
1. L/C nhập
1.1. Mở L/C
- Số món
- Doanh số
1.2. TT L/C
- Số món
- Doanh số
241
17,867,666
218
12,735,254
416
28,789,743
405
27,034,552
72.6
61.1
85.8
112.3
569
47,748,444
567
46,484,406
36.8
65.9
40.0
71.9
2. L/C xuất
- Số món
- Doanh số
8
152,349
6
1,325,996
-25.0
770.4
7
858,907
16.7
-35.2
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 2003 - 2005)
Sau cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, cùng với nỗ lực của Chính phủ trong việc đề ra và thi hành các chủ trương, chính sách để hội nhập nền kinh tế, hoạt động xuất nhập khẩu cũng sôi động hơn rất nhiều. Doanh số L/C qua các năm có sự tăng trưởng ổn định, đặc biệt trong L/C nhập khẩu: năm 2004 tăng 112.3% so với năm 2003, từ 12,735,254 USD lên 27,034,552 USD, đạt 146% so với kế hoạch; năm 2005, doanh số L/C nhập khẩu tiếp tục tăng 71.9% so với năm 2004, từ 27,034,552 USD lên 46,484,406 USD, đạt 123% so với kế hoạch. Điều này đã phản ánh sự hoạt động hiệu quả trong TTQT của Chi nhánh, uy tín của Ngân hàng tăng nhanh và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng: từ 41 khách hàng trong năm 2003 đã tăng lên 60 trong năm 2004, và đến năm 2005, tăng lên con số 72. Tính riêng trong năm 2005, những khách hàng chủ yếu của Chi nhánh thực hiện mở L/C phải kể đến: Công ty CP XNK & HTĐT Vilexim (VILEXIM): 284 món; Công ty TM & XNK Tổng hợp HN (GENEXIM): 36 món; Công ty XNK & ĐT Hà Nội (UNIMEX): 18 món… hay Tổng công ty Công nghiệp Ô tô (VINAMOTOR) với doanh số nhập khẩu lên đến 2,860,720 USD trong năm 2005. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là thiết bị máy móc, sắt thép, linh kiện điện tử hay các loại hoá chất…
Doanh số thanh toán L/C xuất mới dừng lại ở con số khiêm tốn và tăng trưởng không ổn định: năm 2003: 152,349 USD; năm 2004: 1,325,996 USD, năm 2005: 858,907 USD, chỉ chiếm khoảng dưới 1% tổng doanh số TTQT (trừ năm 2004 lên được 2%). Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ (1997) trong khu vực kéo dài ảnh hưởng khiến sức mua của các thị trường trong khu vực giảm đáng kể. Mặt khác, do kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế của nước ta còn ít nên thị trường XK còn hạn chế, chủ yếu là các nước trong khu vực như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore... Tuy nhiên khách hàng của Chi nhánh phần lớn là các Công ty TNHH, chưa có kinh nghiệm và thế mạnh trong xuất khẩu, tính cạnh tranh chưa cao nên chưa thu hút được nhiều hợp đồng trong xuất khẩu. Vì vậy, nếu so sánh tỷ trọng doanh số mà L/C xuất đóng góp vào tổng doanh số thanh toán L/C thì tỷ trọng thanh toán xuất khẩu vẫn còn quá khiêm tốn:
Bảng 2: Tỷ trọng thanh toán các loại L/C trong TTQT (2003 - 2005)
Danh mục
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Doanh số (USD)
Tỷ trọng (%)
Doanh số (USD)
Tỷ trọng (%)
Doanh số (USD)
Tỷ trọng (%)
L/C nhập
12,735,254
98.8
27,034,552
95.5
46,484,406
98.2
L/C xuất
152,349
1.2
1,325,996
4.5
858,907
1.8
Tổng
12,887,603
100.0
28,360,548
100.0
47,343,313
100.0
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại 2003 - 2005)
Bảng trên cho ta thấy tỷ trọng giữa doanh số L/C nhập và doanh số L/C xuất chênh lệch nhau khá lớn: năm 2003, doanh số L/C nhập lên tới gần 13 triệu USD, gấp tới hơn 83 lần doanh số L/C xuất (chỉ có hơn 150 nghìn USD), đến năm 2004, tỷ trọng L/C xuất có tăng lên một chút (chênh lệch hơn 20 lần) thì đến năm 2005 thì sự chênh lệch này lại tăng lên 54 lần (L/C nhập: 46,484,406 USD, trong khi L/C xuất: 858,907 USD chiếm 1,84%):
Biểu đồ 1: Tỷ trọng L/C NK và L/C XK trong TTQT
tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội(2003 - 2005)
(Đơn vị: nghìn USD)
Từ biểu đồ ta thấy tỷ trọng doanh số mà L/C nhập đóng góp vào tổng doanh số còn quá ít so với doanh số thanh toán của L/C xuất khẩu. Sở dĩ có điều này là do các chi nhánh vẫn chưa thu hút được các doanh ngiệp xuất khẩu lớn, có uy tín., các doanh nghiệp xuất khẩu cũng chỉ mới phát triển trong những năm gần đây, còn ít kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương .Thêm vào đó tính cạnh tranh chưa cao nên tỏ ra yếu thế với các bạn hàng nước ngoài, chưa ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu. Chính điều này đã gây nên sự mất cân đối trong thu chi ngoại tệ của Chi nhánh, nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu thấp hơn rất nhiều so với nguồn phải thanh toán nhập khẩu.
Loại L/C được sử dụng phổ biến nhất hiện nay tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội là L/C không huỷ ngang. Ngoài ra còn có một số loại L/C khác như L/C không huỷ ngang có xác nhận, L/C chuyển nhượng… nhưng không đáng kể. Thị trường thanh toán lớn nhất của Chi nhánh chủ yếu tập trung ở khu vực Châu á như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore…
Từ những kết quả trong thanh toán L/C tại Chi nhánh trong những năm qua, chúng ta có thể thấy rằng L/C là phương thức được sử dụng nhiều nhất và đống vai trò quan trong trong hoạt động TTQT tại Ngân hàng. Do đó, hấu hết những rủi ro phát sinh và tranh chấp đều rơi vào phương thức này.
2.2.2.Thực trạng rủi ro tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Chúng ta cần hiểu rủi ro cho ngân hàng, đó không chỉ đơn thuần là sự mất vốn mà còn có thể là: đọng vốn trong thanh toán, kéo dài thời hạn thanh toán, thanh toán trả chậm, nợ quá hạn, uy tín bị suy giảm... Trong TTQT, mặc dù được đánh giá là phương thức tối ưu nhất nhưng phương thức TDCT vẫn luôn tiềm ẳn những rủi ro. Các rủi ro này có thể phát sinh trong bất cứ giai đoạn nào trong quy trình thanh toán kể từ khi phát hành L/C, thông báo L/C, xác nhận cho đến giai đoạn thanh toán. Không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế, những rủi ro này còn làm tổn hại đến uy tín của Ngân hàng, từ đó gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chung. Trong những năm qua, mặc dù đã áp dụng những phương pháp tối ưu nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro nhưng hoạt động thanh toán TDCT của NHNo & PTNT Nam Hà Nội vẫn còn gặp phải những rủi ro sau:
a. Rủi ro tác nghiệp
Đây là loại rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy trình thanh toán L/C, như sự khác nhau giữa bộ chứng từ thanh toán với nội dung quy định trong L/C hay việc các bên tham gia thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán… Đặc thù của phương thức TDCT là các Ngân hàng chỉ làm việc trên bề mặt chứng từ nên nó có sự đòi hỏi rất khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Vì vậy, những tranh chấp, kiện tụng xảy ra do sai sót trong quá trình lập chứng từ hay quy trình nghiệp vụ… của các bên có liên quan là không thể tránh khỏi. Theo số liệu thống kê, hiện nay tỷ lệ sai sót trong các bộ chứng từ được xuất trình tại Chi nhánh là rất lớn, khoảng 30%. Những rủi ro loại này không những ảnh hưởng lớn tới uy tín mà đôi khi còn mang lại cả những tổn thất về vật chất cho Ngân hàng.
* Rủi ro trong thanh toán L/C nhập khẩu
Ngân hàng tham gia nghiệp vụ này với tư cách là Ngân hàng phát hành. Vì L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong thanh toán TDCT nên những rủi ro tác nghiệp cũng xảy ra ở nghiệp vụ này là chủ yếu.
Rủi ro từ phía khách hàng thường là những sai sót trong bộ chứng từ trình Ngân hàng. Đó có thể là những sai sót nhỏ như sai tên, địa chỉ của các bên có liên quan, mô tả hàng hoá…như trường hợp của Công ty CP xe buýt Thăng Long đề nghị Ngân hàng mở L/C trị giá 108,174.00 USD để nhập khẩu thiết bị mạng từ Công ty TORY LTD nhưng trong bộ chứng từ do bạn hàng nước ngoài lập khi gửi về đã ghi sai tên Ngân hàng phát hành. Hoặc cũng có thể là sai sót lớn như thiếu loại chứng từ, nội dung chứng từ khác biệt so với L/C… Đó là trường hợp Công ty TNHH Hoá chất và Vật tư kỹ thuật Sông Lam mở L/C để nhập Axit stearic từ Singapore, trị giá L/C là 8,662.50 USD, trong L/C có quy định về quy cách hàng hoá là: Nồng độ: 33%, nhưng trong bộ chứng từ do bên bán xuất trình tại Ngân hàng lại ghi là: Nồng độ: 38%, NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã từ chối chấp nhận chứng từ do có điểm không ăn khớp. Sau đó, Ngân hàng nước ngoài đã phải gửi bộ chứng từ có sự chứng nhận lần thứ hai của Công ty giám sát về quy cách hàng hoá đúng như yêu cầu nhưng đã làm chậm trễ quá trình thanh toán, gây thiệt hại cho cả bên mua và bên bán. Bên cạnh đó những sai sót của bộ chứng từ có thể được người bán chủ động sửa chữa như sai sót trong hoá đơn thương mại, bảng kê chi tiết hàng hoá… nhưng cũng có những sai sót trong chứng từ do bên thứ ba lập mà người bán không thể khắc phục được như sai sót trong vận đơn, xuất xứ hàng hoá, phiếu kiểm định hàng hoá… Nói chung, đối với những sai sót loại này, Ngân hàng thường từ chối thanh toán để bảo vệ cho quyền lợi của khách hàng nhập khẩu trong nước nhưng nhiều khi không đước nhà xuất khẩu chấp nhận dẫn đến tranh chấp gây ra nhiều thiệt hại cho Ngân hàng cả về tài chính lẫn uy tín đối với khách hàng.
Ngoài những sai sót do nguyên nhân từ phía khách hàng, rủi ro trong thanh toán L/C nhập khẩu còn bắt nguồn từ bản thân Ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng có nhiệm vụ mở L/C, tu chỉnh L/C, kiểm tra chứng từ và thanh toán. Do vậy ở bất kỳ khâu nào, sai sót cũng có thể xảy ra nhưng thường gặp nhất là trong nghiệp vụ kiểm tra chứng từ. Quá trình xem xét và kiểm tra chứng từ, nếu phát hiện có sai sót thì Ngân hàng phải thông báo ngay cho bên mua, nếu họ vẫn chấp nhận thanh toán thì Ngân hàng sẽ tiến hành thanh toán và thu phí bất hợp lệ của bộ chứng từ. Trong trường hợp ngược lại, Ngân hàng phải gửi điện thông báo sai sót cho Ngân hàng nước ngoài trong vòng 7 ngày. Tại Chi nhánh đã xảy rủi ro trong thanh toán bộ chứng từ do bên xuất khẩu là Công ty HEESUNG CABLE LTD của Hàn Quốc lập khi xuất khẩu dây cáp điện cho Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đại Liên. Khi phát hiện ra có sự sai sót trong chứng từ, Ngân hàng không gửi điện từ chối thanh toán ngay cho Ngân hàng nước ngoài là KOREA EXCHANGE BANK mà lại thông báo cho Công ty Đại Liên trước làm cho điện từ chối đến chậm, quá thời hạn 7 ngày nên Ngân hàng nước ngoài đã bác bỏ lời từ chối, gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng. Cũng có trường hợp Công ty CP xây lắp Công nghiệp yêu cầu Chi nhánh mở L/C để nhập khẩu thiết bị máy móc từ Công ty CPC CORP. Khi nhận được bộ chứng từ từ phía nhà xuất khẩu, Ngân hàng đã không phát hiện ra sai sót nhỏ trong mô tả hàng hoá rất phức tạp mà vẫn tiến hành thanh toán. Nhưng doanh nghiệp nhập khẩu đã căn cứ vào sai sót đó để trì hoãn việc thanh toán, gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng.
* Rủi ro trong thanh toán L/C xuất khẩu
Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thanh toán TDCT nhưng những rủi ro phát sinh trong nghiệp vụ này cũng không phải hiếm. Nguyên nhân của rủi ro cũng có nguồn gốc từ phía khách hàng và từ chính Ngân hàng, ngoài ra còn có những nguyên nhân khách quan khác.
Bộ chứng từ do khách hàng của Ngân hàng, nhà nhập khẩu lập cũng gặp nhiều sai sót. Đó cũng có thể là những sai sót đơn giản, hoặc những sai sót khá nghiêm trọng, ảnh hưởng tới qua trình thanh toán. Ví dụ như trường hợp Công ty HATRAPACO xuất khẩu tủ gỗ sang Công ty HOME DECOR của Italia với giá trị L/C là 25,145.00 USD, trong L/C quy định chuyển tải qua Hồng Kông, nhưng vì không thuê được tàu nên Công ty đã giao hàng chuyển tải qua Singapore, do đó bị nhà nhập khẩu từ chối thanh toán. Hay trong bộ chứng từ của Công ty AZIZ MOHAMMED TRADING lập để thanh toán L/C cho UNIMEX khi công ty này nhập khẩu gạo khi gửi sang NHNo & PTNT Nam Hà Nội chỉ có hai bản vận đơn gốc (trong UCP 500 quy định chứng từ phải có đủ 3 bản vận đơn gốc). Nói chung, số chứng từ có sai sót chiếm một tỷ lệ lớn, mà chứng từ không phù hợp với L/C thì việc thanh toán không thể thực hiện được, làm cho thời gian thanh toán luôn bị kéo dài do phải sửa chữa nhiều lần. Phần lớn những sai sót này được Ngân hàng phát hiện, thông báo cho nhà xuất khẩu để kịp thời sửa chữa, xử lý. Nhưng cũng có những lỗi không thể sửa chữa được mà phải chờ sự đồng ý của bên mua, làm kéo dài thời gian thanh toán, khiến cho nhà xuất khẩu không thể đáp ứng yêu cầu vòng quay của vốn. Hơn nữa, bên bán còn phải chịu phạt sai sót chứng từ theo quy định của L/C. Và những sai sót dù nhỏ trong chứng từ cũng có thể là lý do để người mua giảm giá hoặc từ chối thanh toán. Trong trường hợp này thì người bán phải chịu rủi ro lớn nhất, song với tư cách là người cố vấn và bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, uy tín của Ngân hàng cũng bị ảnh hưởng khi quá t._.ệu quả kinh doanh và mặt khác, góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và trong TTQT nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của Marketing, trong thời gian qua, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã có những chiến lược nhằm thu hút khách hàng như tuyên truyền quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay thực hiện các chương trình khuyến mại hấp dẫn, cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao... Tuy nhiên, các chiến lược này mới được thực hiện một cách riêng biệt mà chưa có sự phối hợp đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, Chi nhánh vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về Marketing mà chỉ có tổ bộ phận về quan hệ khách hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, đặc biệt để nâng cao doanh số thanh toán cũng như hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán TDCT, Ngân hàng nên có sự tập trung xây dựng một chiến lược kinh doanh với các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối, khuếch trương và chính sách khách hàng phù hợp theo hướng:
* Chính sách khách hàng
Trong cơ chế thị trường hiện nay, bất cứ một ngành nghề kinh doanh nào cũng tồn tại rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Trước sức ép của một hệ thống Ngân hàng đa dạng, phức tạp, để có thể tồn tại và phát triển, NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng và thiết lập quan hệ chặt chẽ với khách hàng của mình.
Ngân hàng đảm bảo thực hiện phục vụ khách hàng ở tất cả các khâu. Cụ thể trong thanh toán xuất nhập khẩu, Chi nhánh không chỉ đóng vai trò là Ngân hàng phát hành hay trung gian thanh toán, mà còn có thể cho vay, chiết khấu chứng từ để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh... Chính điều đó đã gắn bó lợi ích của Ngân hàng với khách hàng, rủi ro của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng phải luôn thận trọng trong việc xử lý nghiệp vụ, đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng trong tất cả các khâu từ ký kết hợp đồng đến thanh toán. Chỉ khi nào Ngân hàng coi lợi ích của khách hàng thực sự là lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng mới trở nên tin cậy đối với khách hàng và giữ được mối quan hệ bền vững, lâu dài với khách hàng.
* Chính sách sản phẩm và giá cả
Chi nhánh nên mở rộng và đa dạng hoá các loại thư tín dụng để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, song song với đó là công tác tư vấn cho khách hàng về tính năng, tác dụng của từng loại để khách hàng có sự lựa chọn đúng đắn, hạn chế được các rủi ro thường gặp và thu hút được nhiều khách hàng hơn. Cùng với việc đưa ra các sản phẩm mới thì việc thực hiện nhanh chóng, chính xác quy trình nghiệp vụ cũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Còn đối với chính sách giá cả, do Ngân hàng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi suất các khoản tiền gửi, tiền vay... Riêng trong TTQT, giá cả chính là các khoản thu phí thực hiện nghiệp vụ, do đó, Ngân hàng cần xây dựng một biểu phí hợp lý để vừa có tác dụng thu hút khách hàng đến với Ngân hàng vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có hiệu quả.
* Chính sách quảng cáo khuyếch trương
Mục tiêu của chính sách này là tuyên truyền rộng rãi làm cho khách hàng hiểu rõ về các hoạt động, dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp nói chung và về nghiệp vụ thanh toán TDCT nói riêng. Đây là một dịch vụ đã trở nên khá phổ biến trong TTQT, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi tham gia thương mại quốc tế đều có ít nhiều sự hiểu biết về lĩnh vực này. Do đó, Chi nhánh có thể giới thiệu trực tiếp với khách hàng những điểm ưu việt trong thanh toán TDCT so với các Ngân hàng khác thông qua đội ngũ thanh toán viên trong quá trình giao dịch. Và trong quá trình đó, thanh toán viên cũng cần ghi chép lại những vướng mắc, sai sót mà khách hàng thường gặp để báo cáo cho Ban lãnh đạo, tìm cách hạn chế những sai sót, nhằm góp phần cải thiện chất lượng thanh toán.
* Chính sách phân phối
Trước hết, Ngân hàng cần xem xét mật độ dân cư trên địa bàn, tình hình kinh tế của dân cư có phù hợp với những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp không để bố trí mạng lưới chi nhánh cho phù hợp và hiệu quả.
Ngoài ra, việc phân loại khách hàng theo từng đối tượng khách hàng truyền thống hay khách hàng mới cũng phải thường xuyên thực hiện để có các chính sách phù hợp, đảm bảo quy trình thanh toán có hiệu quả và tránh được rủi ro.
Thêm vào đó, Chi nhánh cũng cần thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, sự biến động của thị trường để nắm bắt được tâm lý, thấy được những khó khăn của khách hàng để có những ứng xử đúng đắn.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với dịch vụ khách hàng
a. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng
Từ những phân tích trên ta thấy rằng, những rủi ro kỹ thuật do sai sót trong khâu lập chứng từ trong phương thức TDCT tại Ngân hàng bắt nguồn chủ yếu từ khách hàng, nguyên nhân là sự hạn chế về kiến thức, về kinh nghiệm trong lĩnh vực ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tài chính cũng như uy tín của Ngân hàng. Chính vì thế, Chi nhánh cần tích cực hơn nữa trong vai trò tư vấn cho khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro do nguyên nhân này gây nên.
Đối với khách hàng là người nhập khẩu, Ngân hàng đóng vai trò là Ngân hàng phát hành nên cần phải tư vấn cho khách hàng về những vấn đề như: nên lựa chọn loại thư tín dụng nào cho phù hợp, để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu; trong thư tín dụng nên đưa những điều khoản nào cho hợp lý; khi mở cũng như sửa đổi L/C cần chấp nhận những yêu cầu gì của bên xuất khẩu để không tổn hại đến lợi ích của mình; thời gian mở L/C như thế nào là phù hợp nhất để hạn chế thời gian ký quỹ mà vẫn đảm bảo đúng hợp đồng... Những tư vấn của Ngân hàng cho khách hàng về các điều kiện trong hợp đồng ngoại thương hay trong L/C nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người nhập khẩu, tránh hiện tượng người bán giao hàng thiếu hay giao hàng không đúng quy định, đồng thời các điều khoản cũng phải tạo điều kiện cho người bán hoàn thành được nghĩa vụ của mình, để việc thanh toán diễn ra suôn sẻ, tránh được rủi ro cho các bên cũng như cho bản thân Ngân hàng.
Đối với khách hàng là người xuất khẩu, với tư cách là Ngân hàng thông báo, chiết khấu bộ chứng từ, Chi nhánh cần tư vấn cho khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng ngoại thương, nên đồng ý với những điều khoản nào trong L/C, còn những điều khoản nào cần chỉnh sửa hay bác bỏ do gây bất lợi cho người xuất khẩu trong việc giao hàng hay lập chứng từ... Ngân hàng cũng cần phải hướng dẫn cho khách hàng trong việc chuẩn bị bộ chứng từ hoàn hảo để xuất trình cho Ngân hàng phát hành, tránh trường hợp nhà nhập khẩu từ chối thanh toán do thiếu thiện chí đồng thời trừ phí sai sót gây khó khăn cho khách hàng xuất khẩu, từ đó có thể dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng, đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng đã thực hiện chiết khấu bộ chứng từ.
Công tác tư vấn cho khách hàng được thực hiện có hiệu quả sẽ tạo cơ hội cho Ngân hàng cải thiện mối quan hệ với khách hàng, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng có nghĩa là đảm bảo an toàn cho Ngân hàng.
b. Tăng cường công tác giám sát các khoản cho vay, bảo lãnh cho khách hàng
Sau khi thẩm định, phân tích phương án kinh doanh của khách hàng, Ngân hàng quyết định thực hiện bảo lãnh, cho vay để khách hàng thanh toán L/C hoặc chiết khấu bộ chứng từ cho khách hàng thì Ngân hàng lại phải tiếp tục tăng cường công tác giám sát, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng để tránh trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, bên cạnh việc Ngân hàng theo dõi sát sao hoạt động nhập khẩu của khách hàng, tình hình thanh toán hàng hoá giữa người mua và người bán có xảy ra tranh chấp hay không, theo dõi sự biến động của giá cả hàng hoá, Ngân hàng còn phải xem xét, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng tháng, hàng quý, theo dõi nguồn thu cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, khi Chi nhánh tiến hành chiết khấu bộ chứng từ để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sản xuất kinh doanh cũng như để tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng thì để đảm bảo cho sự an toàn của mình, Ngân hàng cần phải thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt có phương pháp kiểm tra xem doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn có đúng như thoả thuận hay không, đồng thời có kế hoạch thu nợ ngay khi lô hàng được xuất khẩu...
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản cho vay, bảo lãnh để Ngân hàng có những biện pháp xử lý kịp thời khi khách hàng có nguy cơ không trả được nợ như thu hồi tài sản thế chấp, cầm cố... Điều đó cũng có nghĩa là một mặt Ngân hàng đã chủ động nhằm giảm thiểu một cách tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của Ngân hàng, mặt khác vẫn đảm bảo sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
c. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá và phân loại khách hàng
Thẩm định và đánh giá khách hàng là một công tác hết sức quan trọng khi Ngân hàng quyết định cho vay hay bảo lãnh mở L/C, nhằm giúp cho Ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng từ phía khách hàng. Để công tác thẩm định được thực hiện một cách hiệu quả, Ngân hàng cần phải thu thập thông tin đầy đủ về khách hàng. Bởi vì thẩm định khách hàng không chỉ dựa vào việc phân tích đánh giá năng lực tài chính, công nợ của khách hàng, hay phân tích phương án kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ, tình trạng cũng như giá trị tài sản thế chấp, cầm cố và mặt hàng nhập khẩu của khách hàng mà Ngân hàng còn phải đặc biệt quan tâm đến tư cách của khách hàng mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của khách hàng. Trên cơ sở những thông tin thu thập được một cách chính xác, đầy đủ, Chi nhánh mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho việc mở L/C với những điều kiện cụ thể phù hợp với Ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán vừa đảm bảo thực hiện đuợc chính sách khách hàng.
Việc xác định khách hàng theo các phân nhóm của Ngân hàng trong thanh toán TDCT là việc làm thường xuyên và bắt buộc để có chính sách thích hợp khuyến khích, ưu đãi phù hợp với từng đối tượng khách hàng về lãi suất, mức ký quỹ, mức phí... cũng như quản lý khách hàng có hiệu quả khi Ngân hàng tiến hành cho vay hay bảo lãnh mở L/C. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay để thanh toán L/C thì có thể khách hàng hoàn trả vốn và lãi theo đúng cam kết, nhưng cũng có những trường hợp khách hàng không hoàn trả được món vay do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Chính vì thế, Ngân hàng cần phải có phương pháp phân loại để lựa chọn khách hàng khi cho vay hoặc bảo lãnh L/C, nhằm hạn chế tối đa những rủi ro cho Ngân hàng, đặc biệt là rủi ro đạo đức.
d. Xây dựng chính sách lãi suất và phí dịch vụ hợp lý
Việc phân loại khách hàng chính là cơ sở để Ngân hàng xây dựng chính sách hợp lý về lãi suất và phí dịch vụ, để có chính sách ưu đãi cụ thể về vật chất cho từng nhóm khách hàng, phù hợp với chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ của Ngân hàng. Ví dụ như đối với những khách hàng truyền thống, khách hàng có uy tín và giao dịch thường xuyên với Ngân hàng... có thể được giảm phí dịch vụ, giảm mức ký quỹ L/C hay được ưu tiên trong việc cung ứng ngoại tệ... căn cứ vào tình hình hoạt động kinh doanh ở từng thời kỳ cụ thể.
Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần phải giữ vững và ngày càng nâng cao cơ chế chăm sóc khách hàng như có phong cách phục vụ tận tình, thái độ giao tiếp văn minh lịch sự... nhằm duy trì khách hàng truyền thống, phát triển khách hàng mới cả về số lượng và chất lượng, mang lại nhiều lợi ích như tạo được sự hấp dẫn của Ngân hàng đối với khách hàng mới thông qua sự quảng bá và các mối quan hệ của khách hàng, tăng cường khả năng thấu hiểu và thoả mãn mong muốn của khách hàng, còn khách hàng có điều kiện sử dụng nhiều sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hơn thông qua sự tư vấn của nhân viên Ngân hàng.
Tóm lại, do đặc điểm hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phụ thuộc vào khách hàng nên sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của Ngân hàng là tuỳ thuộc vào khách hàng. Xây dựng được những chính sách khách hàng hiệu quả vừa giúp Ngân hàng phòng tránh, hạn chế rủi ro có thể xảy ra, vừa nâng cao hình ảnh của Ngân hàng và giúp cho Ngân hàng có những khả năng cạnh tranh cần thiết trên thị trường.
e. Duy trì mối quan hệ thường xuyên, lâu bền với khách hàng
Có thể thấy ngay rằng, thiết lập mối quan hệ tốt và lâu dài với khách hàng sẽ tạo ra sự gắn bó chặt chẽ và có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng. Để đạt được điều đó, Ngân hàng cần phải tiếp xúc thường xuyên với khách hàng, ngoài việc tư vấn trực tiếp cho khách hàng đến giao dịch, Ngân hàng nên tổ chức các buổi hội thảo, gặp gỡ các khách hàng đang sử dụng dịch vụ của Ngân hàng và cả những khách hàng tiềm năng để trao đổi kinh nghiệm, phổ biến quy trình kỹ thuật nghiệp vụ hay các quy định mới có liên quan đến TTQT, hoạt động xuất nhập khẩu... cũng như nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng khi được cải thiện sẽ giúp cho Ngân hàng đánh giá đúng chất lượng khách hàng, là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin cũng như các chi phí giám sát khách hàng. Do tiết kiệm được nguồn chi phí đó, Ngân hàng có thể hạ lãi suất cho vay nói chung và giảm được tỷ lệ phí dịch vụ nói riêng, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm khách hàng gắn bó hơn với Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng có thể khai thác được những nhu cầu tiềm năng của khách hàng, đồng thời khắc phục những hạn chế bất cập trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, tạo nên sức cạnh tranh cho Ngân hàng.
Như vậy, duy trì mối quan hệ thường xuyên, lâu bền với khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin liên quan đến khách hàng, từ đó có đối sách thích hợp để hạn chế những rủi ro có nguyên nhân từ phía khách hàng, đồng thời có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
3.3.Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước, Chính phủ
Từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ quản lí tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN cho đến nay thì nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, đời sống nhân dân cũng từng bước được cải thiện.
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức to lớn. Lúc này, định hướng của Nhà nước lại càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết nhằm đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN. Chính vì vậy, TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng rất cần đến những chính sách trực tiếp cũng như các chính sách hỗ trợ phù hợp để ngày càng mở rộng, phát triển đồng thời hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra cho các Ngân hàng, cho các đơn vị xuất nhập khẩu.
a. Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động TTQT và thanh toán TDCT của các NHTM
Hiện nay, TTQT có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong kinh tế đối ngoại nói riêng. Có thể nói rằng, nếu không có TTQT thì kinh tế đối ngoại không phát triển hay chỉ phát triển trong phạm vi hẹp và mức độ nhỏ. Tuy nhiên, do các chủ thể tham gia TTQT ở các nước khác nhau nên cũng có sự khác nhau về luật pháp, văn hoá, phong tục... Do đó, việc thực hiện TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng phải tuân theo các quy tắc chung do Phòng thương mại quốc tế ban hành, đồng thời cũng phải chịu sự chi phối của luật pháp của từng nước có chủ thể tham gia.
Trong những năm qua, cùng với kim ngạch xuất nhập khẩu, hoạt động TTQT ở nước ta đã có sự tăng trưởng mạnh, tạo lập được uy tín trên thị trường quốc tế. Nhưng bên cạnh đó, các tranh chấp thương mại cũng phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp, từ đó dẫn đến nguy cơ xảy ra rủi ro cho các NHTM và cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do Việt Nam chưa có quy định riêng về TTQT cũng như thanh toán TDCT trong một Bộ luật, Pháp lệnh hay Nghị định nào của Chính phủ mà cho đến nay, các quy định của pháp luật về TTQT vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau nên chưa có sự thống nhất, chặt chẽ.
Trên thực tế, hoạt động thanh toán TDCT tại Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn được thực hiện theo quy định của UCP500. Nhưng UCP500 chỉ là một thông lệ quốc tế và trong mọi trường hợp vẫn phải tuân thủ luật pháp quốc gia, nên trong một số trường hợp, khi xảy ra tranh chấp giữa các bên có liên quan, giữa phía Việt Nam với phía nước ngoài thì phía Việt Nam sẽ phải chịu thiệt thòi; còn trong thường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên Việt Nam với nhau thì UCP 500 lại không thể thay thế được Luật quốc gia. Chính vì thế, việc ban hành những văn bản pháp luật quy định nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của các bên có liên quan và hướng dẫn các giao dịch TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng một cách cụ thể của Nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng vẫn phải đảm bảo sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP500.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng và cụ thể hoá các văn bản luật điều chỉnh các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến TTQT như luật hối phiếu, quy chế quản lý ngoại hối, hay các chính sách thương mại liên quan đến biểu thuế, danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu... để quy trình thanh toán được tiến hành một cách hiệu quả, hạn chế được rủi ro.
b. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Trong những năm vừa qua, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam luôn nằm trong tình trạng thâm hụt và khan hiếm ngoại tệ, gây khó khăn cho công tác TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng. Nguyên nhân của tình trạng này là do nước ta luôn ở trạng thái nhập siêu, sản xuất trong nước không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, nguyên vật liệu sản xuất chủ yếu được nhập từ nước ngoài trong khi số lượng hàng hoá xuất khẩu rất hạn chế, ngoài ra cũng do một nguyên nhân khác là đầu tư nước ngoài giảm. Để khắc phục tình trạng này, nhằm mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững cho nền kinh tế, Chính phủ cần thực hiện những giải pháp sau:
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như chính sách thuế, chính sách về lãi suất cho vay để sản xuất hàng xuất khẩu, trợ giá cho những mặt hàng nông sản... nhằm tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, tạo nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, cần phải có biện pháp quản lý nhập khẩu, có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được.
- Chính sách tỷ giá hối đoái mềm dẻo, linh hoạt nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, không gây nên những cú sốc lớn và làm thiệt hại đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Tiếp tục phát triển quan hệ thương mại với các nước trong khu vực, mở rộng thị trường truyền thống với các nước Đông Âu, duy trì và phát triển thị trường các nước Tây Âu... nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như tạo thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam.
3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
a. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là thị trường trao đổi, cung cấp ngoại tệ nhằm giải quyết các mối quan hệ về ngoại tệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các Ngân hàng Thương mại và giữa các Ngân hàng Thương mại với nhau. Để các Ngân hàng có điều kiện mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và tài trợ ngoại thương nhằm phục vụ tốt cho hoạt động TTQT thì việc hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là một yếu tố hết sức quan trọng. Hiện nay, khó khăn đối với các NHTM Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng là tỷ trọng thanh toán hàng xuất chênh lệch qua nhiều so với hàng nhập nên tính trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên xảy ra. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng:
- Đa dạng hoá các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán trên thị trường. Ngoài USD, các loại ngoại tệ khác như EUR, GBP, JPY... cũng cần tăng cường sử dụng. Và các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, hối phiếu ngoại tệ cũng nên áp dụng để đáp ứng như cầu của khách hàng.
- Đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để có thể đa dạng hoá các hình thức thanh toán đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng như thu đổi séc du lịch, chiết khấu chứng từ có giá, thư tín dụng điện tử, nhờ thu bù trừ tự động..., cần tiến tới mở rộng và phát triển các nghiệp vụ hoán đổi (Swap), kỳ hạn (Forward), kỳ hạn (Option)... để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
- Mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngoài NHNN, các NHTM quốc doanh, cần tạo điều kiện để các Ngân hàng cổ phần, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, các nhà môi giới, các tổ chức phi Ngân hàng tham gia để tạo tính sôi động cho thị trường.
b. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra Ngân hàng
Trong thời gian qua, công tác thanh tra Ngân hàng đã đạt được những kết quả rất quan trọng, góp phần làm lành mạnh hệ thống Ngân hàng, ngăn ngừa những tiêu cực xảy ra đồng thời hạn chế những rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng. Công tác thanh tra cần đảm bảo nhanh nhạy trong phát hiện và kiên quyết trong xử lý, nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động nói chung và trong hoạt động nghiệp vụ thanh toán L/C nói riêng. Để thực hiện được yêu cầu đó, công tác thanh tra Ngân hàng cần phải:
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, quy chế phục vụ quản lý, giám sát và thanh tra, trong đó chú trọng tính đồng bộ, khả thi, tính phù hợp và từng bước hoà nhập với thông lệ quốc tế.
- Bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết và ứng dụng công nghệ tin học vào các hoạt động giám sát, thanh tra để các thông tin có liên quan đến Ngân hàng được nắm bắt thường xuyên, chính xác hơn, để có thể cảnh báo sớm tình hình rủi ro của Ngân hàng.
- Nâng cao trình độ của cán bộ thanh tra, đảm bảo phải có trình độ ngoại ngữ giỏi, có nghiệp vụ Ngân hàng chuyên sâu, am hiểu pháp luật, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh trong công tác. Mặt khác cúng phải có chế độ điều kiện làm việc và đãi ngộ đúng mức đối với cán bộ thanh tra Ngân hàng.
- Các Ngân hàng cũng phải chủ động làm tốt công tác kiểm tra và tự chịu trách nhiệm về rủi ro hoạt động, từ đó nâng cao ý thức chấp hành các quy định của pháp luật.
c. Xây dựng chế độ tỷ giá linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể
Nói chung, việc điều chỉnh tỷ giá là một vấn đề hết sức nhạy cảm bởi nó không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương, hoạt động xuất nhập khẩu mà còn có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sau nhiều lần can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào chính sách tỷ giá, hiện nay, Việt Nam đang áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện nước ta còn mới mở cửa, chưa thực sự hoà nhập với nền kinh tế thế giới thì đây được coi như một sự lựa chọn hợp lý nhất. Nhưng xét về lâu dài, vẫn cần đổi mới cơ chế điều chỉnh tỷ giá theo hướng tự do hoá dần. Để thực hiện được điều đó, chúng ta cần phải có những bước đi hết sức thận trọng theo hướng:
- Xác định một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh, không nên neo giứ đồng Việt Nam vào dồng Đôla Mỹ; khuyến khích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại.
- Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng quỹ dự trữ ngoại tệ cần thiết tương ứng với nhịp độ phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu, mục đích của quỹ này là có thể can thiệp kịp thời vào thị trường hối đoái quốc tế khi tỷ giá trong nước có sự biến động nhằm giữ ổn định đồng tiền, giảm tối đa những tác động xấu đến nền kinh tế.
- Số liệu tổng hợp của các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán... phải chính xác, rõ ràng nhằm giúp Nhà nước lựa chọn phương thức điều chỉnh tỷ giá thích hợp.
3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
a. Hiện đại hoá công nghệ trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp.
Sự quá tải của phần mềm SWIFT nội bộ trong hệ thống NHNo không còn đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng mạnh như hiện nay. Hơn nữa, việc thanh toán qua đầu mối duy nhất là Sở Giao dịch cũng làm giảm tính chủ động trong TTQT của Chi nhánh. Chính vì vậy, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần có kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam nhanh chóng nghiên cứu và ứng dụng phần mềm mới để đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày một tăng cũng như giảm bớt những rủi ro do lỗi mạng gây nên khi chuyển điện. Đồng thời, Chi nhánh cũng nên đề nghị NHNo cho phép được tiến hành thanh toán trực tiếp với nước ngoài nhằm tạo tính chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, cũng cần sớm hoàn thiện mạng nội bộ giữa các Chi nhánh với Hội sở chính, với trung tâm phòng ngừa rủi ro để có thể thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất, trên cơ sở đó có các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro.
b. Kiến nghị về nguồn ngoại tệ để thanh toán L/C
Hiện nay, NHNo & PTNT Việt Nam quy định số dư tài khoản ngoại tệ tối đa tại các Chi nhánh là 300,000 USD làm cho Ngân hàng nhiều khi rơi vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán cho những L/C giá trị lớn. Để tránh khỏi tình trạng đó, Chi nhánh cần kiến nghị với Ban Tổng giám đốc NHNo cho phép có quyền chủ động hơn trong các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, chẳng hạn như cho phép Chi nhánh mua bán ngoại tệ với các Ngân hàng khác ngoài hệ thống để có thể chủ động trong việc cân đối thu chi ngoại tệ tại Ngân hàng nhưng để tránh gặp phải rủi ro, NHNo cũng cần thiết lập một quy định cụ thể giới hạn trạng thái ngoại tệ căn cứ vào thực tế doanh số TTQT tại Chi nhánh.
c. Mở rộng quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài
Trong thời gian qua, Ngân hàng đã có mối quan hệ đại lý với nhiều Ngân hàng lớn, có uy tín trên thế giới. Nhưng với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay, thị trường của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không ngừng được mở rộng sang các nước và các khu vực mới, do vậy, Chi nhánh cần tiếp tục mở rộng mạng lưới đại lý của mình nhằm đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Tuy nhiên, mạng lưới đại lý chỉ thực sự phát huy hiệu quả của nó khi giữa các Ngân hàng có sự liên hệ thường xuyên, thường xuyên cung cấp thông tin và giao dịch. Bởi thực chất quan hệ đại lý là quan hệ giữa một Ngân hàng với một Ngân hàng nước ngoài trong việc làm đại lý TTQT cho nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi, hai bên sẽ trao đổi các tài liệu mật để phục vụ các giao dịch như mẫu chữ ký, mật mã Telex, mã SWIFT... Trong TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng, hệ thống mạng lưới Ngân hàng đại lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc triển khai có hiệu quả nghiệp vụ này, đặc biệt nhằm hạn chế các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình lập chứng từ hay đòi tiền các Ngân hàng có liên quan. Chính vì thế, việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với Ngân hàng các nước cả về số lượng và chất lượng có ý nghĩa chiến lược để phát triển nghiệp vụ thanh toán TDCT tại Chi nhánh.
KẾT LUẬN
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Tiến trình hội nhập một mặt mở ra rất nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế nhưng mặt khác cũng tạo ra những thách thức đối với mọi lĩm vực trong nền kinh tế. Các ngân hàng nước ngoài sẽ mở rộng mạnh lưới hoạt động tại Việt Nam và cũng được thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng. Với thế mạnh về vốn, kinh nghiệm, kỹ thuật các ngân hàng nước ngoài sẽ là những đối thủ cạnh tranh lớn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Để có đủ năng lực và tự tin đối mặt với sự cạnh tranh này, một mặt NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần phải đẩy mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán quốc tế để có thể theo kịp với tốc độ phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế. tạo điều kiện thuận lợi và hạn chế rủi ro cho khách hàng. Với đà tăng trưởng mạnh mẽ như hiện nay, NHNo & PTNT Nam Hà Nội sẽ tiếp tục phát huy được vai trò và thế mạnh của mình trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đóng góp vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ Nguyễn Mai Thu đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em xin cảm ơn tập thể cán bộ và dặc biệt là các anh chị phòng Thanh toán Quốc tế NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã hướng dẫn và tạo điều kiện cho em tiếp xúc và tham gia thực tế công việc trong thời gian em thực tập tại đây, những kinh nghiệm thực tế này đã giúp ích cho em rất nhiều để có thể hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân nói chung, khoa Thương mại nói riêng đã tận tình giảng dạy trong thời gian em học tập tại truờng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của NHNNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, năm 2004 và 2005.
2. Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính – Edward S. Mishkin
3. Thời báo Ngân hàng các năm 2003-2004-2005
4. Tạp chí Thị trường Tài chính- tiền tệ
5.Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đối ngoại (2003-2005) – Phòng TTQT – NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
6.Báo cáo doanh số thanh toán quốc tế (2003-2005) -Phòng TTQT – NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
7.Báo cáo kết quả thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ -Phòng TTQT – NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
8.Báo cáo thường niên (2003-2005) - NHNo&PTNT Việt Nam
9.Website:
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG. BIỂU ĐỒ
1. BẢNG
Bảng 1: Doanh số TTQT theo phương thức TDCT tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2003 - 2005) 30
Bảng 2: Tỷ trọng thanh toán các loại L/C trong TTQT (2003 - 2005) 31
Bảng 3: Doanh số L/C chưa thanh toán (2003 - 2005) tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội 38
Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn thanh toán L/C nhập (2003 - 2005) tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội 40
Bảng 5: Tình hình cho vay bắt buộc thanh toán L/C nhập tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2003 - 2005) 42
2. BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tỷ trọng L/C NK và L/C XK trong TTQT tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội(2003 - 2005) 32
Biểu đồ 2: Nợ quá hạn và Cho vay bắt buộc trong TT L/C nhập tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội (2003 - 2005) 42
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31957.doc