MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3
1.1.Rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại 3
1.1.1.Khái niệm rủi ro tín dụng 3
1.1.2.Bản chất rủi ro tín dụng 4
1.2.3.Phân loại rủi ro tín dụng 4
1.1.4.Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 6
1.1.4.1.Nguyên nhân chủ quan 6
1.1.4.2.Nguyên nhân khách quan 9
1.1.5.Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động ngân hàng thương mại 13
1.2.Quản lý
50 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại 14
1.2.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng 14
1.2.2.Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng 15
1.2.2.1.Giảm lợi nhuận 15
1.2.2.2.Giảm khả năng thanh toán 15
1.2.2.3.Giảm uy tín của ngân hàng 16
1.2.2.4.Phá sản ngân hàng 16
1.2.3.Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng 17
1.2.3.1.Nguyên tắc chấp nhận rủi ro 17
1.2.3.2.Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép 18
1.2.3.3.Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt 18
1.2.3.4.Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập 18
1.2.3.5. Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính 19
1.2.3.6.Nguyên tắc hợp lý về thời gian 19
1.2.3.7.Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép 19
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 20
2.1.Thực trạng rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay 20
2.1.1.Xem xét theo nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng 20
2.1.1.1.Rủi ro tín dụng xuất phát từ đạo đức của các cán bộ ngân hàng 20
2.1.1.2. Rủi ro tín dụng xuất phát từ chính sách của nhà nước 22
2.1.1.3. Rủi ro tín dụng xuất phát từ việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước 23
2.1.1.4.Rủi ro tín dụng do môi trường kinh tế không ổn định 24
2.1.2.Xem xét qua một số chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro tín dụng 25
2.1.2.1.Tổng quát tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại 25
2.1.2.2.Tỷ lệ an toàn vốn 27
2.1.2.3.Hệ số nợ quá hạn 29
2.1.2.4.Hệ số rủi ro tín dụng 29
2.1.2.5.Tỷ lệ nợ xấu 30
2.2.Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay 31
2.3.Đánh giá rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay 34
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 38
3.1.Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng 38
3.1.1.Chú trọng công tác giáo dục, đào tạo cán bộ 38
3.1.2.Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý 38
3.1.3.Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng 39
3.1.4.Lập quỹ dự phòng rủi ro 40
3.1.5.Thực hiện các biện pháp phân tán rủi ro 40
3.1.6.Sử dụng các hình thức đảm bảo tín dụng ( Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh...) 41
3.1.7.Tăng cường công tác kiểm toán, kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng 42
3.1.8.Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin ứng dụng (CIC) 42
3.2.Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền 43
3.2.1.Với ngân hàng nhà nước 43
3.2.2.Với chính phủ, nhà nước và các bộ ngành 44
Kết luận 46
Danh mục tài liệu tham khảo 47
Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển và tiến bộ của con người. Lênin đã coi sự ra đời ngân hàng như
“sự phát minh ra lửa” hay “sự phát minh ra bánh xe”. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, đây là đặc thù của ngân hàng – điểm khác biệt xa với các doanh nghiệp khác. Với vị trí là kênh dẫn vốn chủ yếu, ngân hàng đóng vai trò là cầu nối trung gian cung cấp vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp một số các dịch vụ hay các tiện ích đa dạng khác, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Trong thời đại ngày nay, hoạt động ngân hàng ngày càng khẳng định vai trò trọng yếu của mình đối với sự phát triển kinh tế của từng quốc gia nói riêng và của thế giới nói chung. Cùng với sự phát triển này, nhu cầu vốn cho nền kinh tế ngày càng tăng cao, đó là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, mặt trái của sự tăng trưởng tín dụng là kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tín dụng là hoạt động quan trọng và có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại, nhưng nó lại tiềm ẩn đầy những rủi ro cho nên vấn đề về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng luôn được các nhà quản trị ngân hàng quan tâm. Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài : “Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu làm đề án môn học của mình.
2.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng : Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
- Phạm vi : Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
3.Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung, yêu cầu, mục đích của đề tài đề ra, phương pháp được thực hiện trong quá trình nghiên cứu gồm phương pháp so sánh, phân tích kết hợp với phương pháp điều tra chọn mẫu và hệ thống hoá
4.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thông qua nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại để thấy được nguyên nhân, thực trạng rủi ro tín dụng, từ đó đề xuất các giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng và các kiến nghị để không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng
5.Kết cấu của bài viết
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, hệ thống bảng biểu, đề tài được chia thành 3 chương :
- Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
- Chương 2 : Thực trạng rủi ro tín dụng và công tác quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay
- Chương 3 : Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1.Rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm rủi ro tín dụng
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán ... phục vụ cho phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực đặc biệt – kinh doanh tiền tệ. Vì vậy hoạt động của ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được. Nguyên nhân của những tiềm ẩn rủi ro này là do ngân hàng là một trung gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi xuất thấp, sau đó cho các tổ chức kinh tế cá nhân vay lại với lãi suất cao để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động đủ vốn nhưng không có thị trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro. Rủi ro của Ngân hàng thương mại là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Rủi ro của Ngân hàng thương mại gắn liền với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội ...Hơn nữa ngân hàng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như hoạt động huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán ...Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng thương mại nên rủi ro của ngân hàng thương mại là rất đa dạng : rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro ngoại bảng ...Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng chiếm tỷ lệ đáng kể nhất và phức tạp nhất.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
1.1.2.Bản chất rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất và có quy mô lớn nhất của Ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại bỏ hoàn toàn. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng bao gồm nhiều hình thức khác nhau : cho vay, chiết khấu thương phiếu, cho thuê tài sản (leasing), bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh...Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài, chỉ đề cập tín dụng là hoạt động cho vay và rủi ro tín dụng là rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
1.1.3.Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau :
Rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập trung
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro lựa chọn
* Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
- Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
- Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
- Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
* Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
- Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
- Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.4.Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Hai đối tượng tham gia trong quan hệ tín dụng là ngân hàng cho vay và người đi vay. Người đi vay dùng tiền vay với điều kiện không gian và thời gian cụ thể đồng thời chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố nhất định, đó là môi trường kinh doanh. Với rủi ro được gây ra từ ngân hàng được gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Rủi ro xuất phát từ môi trường kinh doanh và khách hàng vay gọi là rủi ro do khách quan.
1.1.4.1. Nguyên nhân chủ quan
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức.
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và thiếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ cán bộ còn thấp, chưa cao được thể hiện ở hiệu quả việc làm. Nếu như với kiến thức ít, kinh nghiệm làm việc còn thiếu thì việc phân tích khách hàng, thẩm định dự án đầu tư của khách hàng, xác định lãi suất cho vay, nhu cầu cho vay...sẽ không chính xác. Rủi ro tín dụng là chắc chắn xảy ra. Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể trau dồi kiến thức, bồi dưỡng thêm, đào tạo lại, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Nhiều cán bộ tín dụng làm trái quy trình tín dụng để mưu lợi cá nhân, định giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do thông đồng với khách hàng, lập hồ sơ vay vốn giả, tẩy xóa sửa chữa chứng từ...
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các Ngân hàng thương mại chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà Ngân hàng thương mại yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại quá lỏng lẻo. Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt, huy động vốn để cho vay hay nói cách khác là đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho một khách hàng vay đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Ngân hàng dồn dập tín dụng quá mức. Khi đó sự lựa chọn khách hàng một cách ồ ạt mà không chú trọng đến công tác phân tích, thẩm định trước khi cho vay tạo ra sự lựa chọn không chính xác. Với lượng khách hàng lớn, ngân hàng không thể đảm bảo được sự giám sát của cán bộ tín dụng đối với khách hàng là chặt chẽ được. Đây là cơ hội tốt cho những khách hàng muốn thực hiện ý đồ xấu của mình, rủi ro đạo đức từ phía người đi vay xảy ra. Khả năng thu hồi vốn của ngân hàng giảm xuống, ngân hàng dần dần mất vốn. Do đó, ngân hàng sẽ quyết định giảm hoạt động cho vay đồng thời tăng cường chặt chẽ quy trình cho vay. Thị phần của ngân hàng mất đi và trở nên ít hơn. Với tình trạng như vậy, ngân hàng tìm mọi cách để mở rộng điều kiện vay vốn góp phần tăng thị trường. Các hoạt động này tạo thành vòng quay khép kín, tổn thất cho tín dụng là khó tránh khỏi.
Do quy chế tín dụng chưa chặt chẽ. Các quy định trong quy chế tạo điều kiện cho ngân hàng và khách hàng thực hiện hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, thiếu sự logic, chặt chẽ trong quy chế tạo lỗ hổng, khe hở cho những hành động không tốt.
Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các ngân hàng. Việc xác định lãi suất của ngân hàng làm sao để có được nhiều khách hàng hơn các ngân hàng khác trở nên đơn giản hơn, có thể chấp nhận lãi suất thấp hơn mặc dù không đủ để bù đắp chi phí khác. Do đó, trong một khoảng thời gian dài, lợi nhuận ngân hàng không những giảm xuống mà kèm theo là rủi ro tín dụng.
Do ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận. Theo nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận, khi lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Vì vậy ngân hàng khi cho vay cần phải cân nhắc kĩ giữa lợi nhuận và rủi ro.
1.1.4.2.Nguyên nhân khách quan
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
Sử dụng vốn vay sai mục đích, không đúng với hợp đồng tín dụng, không có thiện trí trong việc trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Mặc dù, số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản là không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, đem lại hậu quả không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng, và còn làm liên lụy đến các khách hàng khác.
Tình hình tài chính của khách hàng yếu kém và thiếu tính minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các báo cáo tài chính, sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, những thông tin, số liệu mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức,đối phó, không phản ánh được thực chất, thực tế. Vì thế, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của khách hàng dựa trên những số liệu đó thường không chính xác, thiếu tính xác thực. Đây cũng là lý do vì sao hầu hết các ngân hàng vẫn luôn coi trọng tài sản thế chấp là căn cứ cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Sự yếu kém trong quản lý kinh doanh. Khi các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Rủi ro do biến động của môi trường thiên nhiên
Những biến động về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Vì vậy, khi có thiên tai địch họa xảy ra thì nguy cơ tổn thất của khách hàng cùng ngân hàng cho vay sẽ rất lớn, phương án kinh doanh sẽ không có nguồn thu. Ở Việt Nam, thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên được coi là một trong nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những năm gần đây, Quốc Hội, Chính Phủ, Ngân hàng nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Điều này dẫn đến tình trạng các ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Do chịu ảnh hưởng của các chính sách. Mỗi một chính sách đưa ra nhằm tác động đến những đối tượng nhất định. Sự thay đổi các chính sách nhanh chóng và sự mâu thuẫn của các chính sách làm ngân hàng cũng như doanh nghiệp không dễ dàng để tuân thủ đúng và kịp thời. Dẫn đến hoạt động của họ mất ổn định, gặp khó khăn.
Sự thanh tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng nhà nước còn chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu...
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, ở Việt Nam còn chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả.
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
Do sự thay đổi của nền kinh tế, chính trị, xã hội. Chỉ cần một trong ba yếu tố này biến động thì sẽ tác động ngay đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Với xã hội phát triển, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng thì nhu cầu đầu tư tăng lên, hoạt động tín dụng diễn ra thuận lợi. Ngược lại, nền kinh tế có lạm phát có thể làm cho tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ, thua lỗ, khả năng trả nợ của khách hàng giảm, hoạt động tín dụng gặp rủi ro.
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và dầu thô...vốn rất nhạy cảm với thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị ảnh hưởng khi thị trường thế giới biến động xấu.
Rủi ro xuất phát từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế. Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt khiến hầu hết các doanh nghiệp, những ngân hàng thường xuyên của khách hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong môi trường hội nhập kinh tế khiến cho các ngân hàng trong cước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên. Bởi vì hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài với sức mạnh lớn về vốn, công nghệ, trình độ quản lý hơn hẳn thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu. Hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
Sự phân bổ giữa các ngành chưa được hợp lý dẫn tới một số ngành bị khủng hoảng thừa về đầu tư và lãng phí tài nguyên quốc gia. Nói đến nền kinh tế thị trường là nói tới sự cạnh tranh, trong đó các nhà kinh doanh từ bỏ những ngành đem lại lợi nhuận ít và sẽ tìm đến đầu tư những nơi nào có lợi nhuận cao hơn, do đó hiện tượng dòng vốn chuyển từ ngành này sang ngành khác là tất yếu khách quan. Nhưng với sự cạnh tranh diễn ra một cách tự phát, thiếu phân công lao động cũng như phân bổ hợp lý, chuyên môn hóa lao động, vai trò điều tiết, quản lý của nhà nước và các tổ chức, hiệp hội chưa phát huy hết tác dụng sẽ dẫn đến ở một số ngành có vốn đầu tư tăng lên quá mức.
1.1.5.Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động ngân hàng thương mại
Trong những rủi ro mà ngân hàng thương mại phải đối mặt : rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất ... thì rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động ngân hàng, biểu hiện :
* Lợi nhuận của ngân hàng giảm sút. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng gặp khó khăn trong thu hồi và/hoặc lãi, ngoài ra còn phải trả những khoản chi phí để thực hiện hợp đồng tín dụng : chi phí tìm hiểu khách hàng, trả lãi cho nguồn huy động vốn, chi phí quản lý tài sản đảm bảo, chi phí giám sát ...Do đó, làm ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xóa nợ ; ngoài một phần ngân sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên thu nhập bị giảm. Tức là ngân hàng có sự mất cân đối thu chi, lợi nhuận giảm, nguồn vốn không có hoặc tiền lương cho cán bộ công nhân viên giảm. Mặt khác, thu nhập giảm sút thì việc tích lũy để đầu tư hiện đại hóa công nghệ và đầu tư đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ gặp nhiều khó khăn về kinh phí.
* Rủi ro tín dụng có thể kéo theo rủi ro về thanh toán. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ vốn để trả lại cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ mất khách hàng ; dần dần sự sụt giảm về lợi nhuận sẽ xảy ra. Ngân hàng tìm cách để có nguồn huy động : trên thị trường liên ngân hàng, tiền gửi của người dân nhưng tất nhiên sẽ kèm theo lãi suất cao, chi phí phát sinh cao. Nếu ngân hàng không có phương án giải quyết kịp thời, tính toán cẩn thận mà để tình hình này kéo dài, ngân hàng sẽ bị phá sản và buộc phải đóng cửa.
* Sức mạnh cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thị trường bị ảnh hưởng. Khách hàng mất đi niềm tin vào ngân hàng, số tiền của khách hàng có ý định gửi hoặc đang gửi tại ngân hàng sẽ chuyển sang gửi tại ngân hàng khác. Những người đi vay cũng không muốn vay tại những ngân hàng đó để đi đầu tư cho các dự án tốt. Hoạt động của ngân hàng trở nên phức tạp và biến động rất mạnh.
* Ngoài ra, phản ứng dây chuyền (hiệu ứng domino) trong hệ thống ngân hàng khi có một ngân hàng sụp đổ là rất dễ xảy ra.
Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm nếu vượt ra ngoài dự kiến. Nó có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể quản lý được loại rủi ro này.
1.2.Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khách quan và luôn tồn tại trong từng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ. Do đó, các nhà quản lý ngân hàng cần dự kiến và lường trước rủi ro tín dụng. Và đó chính là xuất phát điểm hình thành nên quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
Hơn nữa, rủi ro tín dụng chỉ là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng và điều đó không phải bao giờ cũng xảy ra, tuy nhiên do tính lặp lại của rủi ro nên trong nhiều trường hợp người ta nhận thức được quy luật của rủi ro tín dụng. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.
Vậy quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra, bao gồm các hoạt động : nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, đo lường phân tích rủi ro, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro và báo cáo về rủi ro.
1.2.2.Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại, bao gồm hai mặt : Sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Song ở đây không có cách gì để loại trừ rủi ro tín dụng hoàn toàn mà phải quản lý cẩn thận. Đứng trước quyết định cho vay, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng được coi là nội dung quản lý quan trọng của ngân hàng thương mại.
Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng thì sẽ gây nên nhiều bất lợi cho ngân hàng như :
1.2.2.1.Giảm lợi nhuận
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm phát sinh các khoản nợ khó đòi, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay đồng thời lại phát sinh thêm các chi phí quản lý và chi phí giám sát thu nợ. Các chi phí này thực tế còn cao hơn các khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất các khoản nợ quá hạn bởi vì đây là khoản thu nhập ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi. Thế nhưng ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi khi đến hạn cho các khoản tiền gửi. Vì thế ngân hàng bị giảm lợi nhuận và bị mất cân đối thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả.
1.2.2.2.Giảm khả năng thanh toán
Các ngân hàng thương mại thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả gốc và lãi, cho vay, đầu tư ...) và dòng tiền vào (thu nợ gốc và lãi, thu nhập từ các hoạt động đầu tư ...) tại các thời điểm trong tương lai. Các món vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các món cho vay lại không được hoàn trả đúng hạn. Do đó, nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị han chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
1.2.2.3.Giảm uy tín của ngân hàng
Nếu tình trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng diễn ra nhiều lần hay những thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng thì uy tín của ngân hàng đó trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút. Hậu quả là ngân hàng sẽ khó khăn trong việc huy động nguồn vốn từ dân cư và thiết lập giao dịch với các doanh nghiệp và các ngân hàng khác. Các ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế thị trường khi đã để mất niềm tin của khách hàng thì việc khôi phục lại là rất khó khăn.
1.2.2.4.Phá sản ngân hàng
Nếu doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những món vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng là một lĩnh vực hoạt động hết sức nhạy cảm, chỉ cần một tin đồn nhỏ về việc ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán lập tức sẽ tạo ra làn sóng rút tiền ồ ạt tại ngân hàng. Nếu ngân hàng không chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như vậy, không đáp ứng nổi nhu cầu rút tiền quá lớn sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán và nếu ngân hàng trung ương không thế can thiệp kịp thời thì sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng. Hiệu ứng dây chuyền này gây ra sự hoảng loạn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trường hợp xấu nhất có thể dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng và các tổ hức tín dụng khác. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế mỗi khu vực và thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở các mức độ khác nhau : nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi ngân h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22881.doc