lời mở đầu
Thị trường ngân hàng tài chính ngày một trở nên mang tính toàn cầu hoá cao độ. Sự chu chuyển dòng tiền ngày càng gia tăng không chỉ về tốc độ, số lượng mà còn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Những biến động về kinh tế, chính trị ngày càng lớn và khó dự doán. Cơ chế thị trường cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nhưng để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải đối mặt với cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt.Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên cũng không
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm - Giải pháp phòng ngừa & hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nằm ngoài quy luật đó.
Hoạt động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại là đòn bẩy cho các hoạt động kinh doanh khác. Tín dụng ngân hàng là một trong những hoạt động chính và tạo ra thu nhập lớn nhất cho các ngân hàng thương mại. Với vai trò là người dẫn vốn lớn nhất trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đang ngày càng phát huy hiệu quả. Bên cạnh những thành công đạt được thì trong xu thế hội nhập, ngân hàng thương mại đang phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài. Thêm vào đó là các rủi ro như biến động tỷ giá, giá vàng tăng mạnh, các loại hình kinh doanh còn nhiều hạn chế đã và đang làm hiêụ quả hoạt động của ngân hàng chưa cao.
Trong bối cảnh đó, việc các ngân hàng duy trì và quản lý một cách tích cực cũng như tăng cường đa dạng hoá hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro đã trở thành vấn đề nóng bỏng.
Trong quá trình quản rủi ro tín dụng ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, việc nhìn nhận lại, đánh giá và đưa ra và đưa ra những ý tưởng mới luôn được quan tâm. Chính vì vậy, Sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, dưói sự hướng dẫn của cô giáo Lê Phong Châu và sự giúp đỡ của các anh chị trong Phòng khách hàng số 1 cũng như sự quan tâm của ban lãnh đạo ngân hàng, em đã chọn đề tài: “rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thương hoàn kiếm-giảI pháp phòng ngừa và hạn chế” để làm chuyên đề tốt nghiệp, phục vụ mục đích học tập và nghiên cứu của bản thân.
Chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm trong thời gian qua
Chương III: GiảI pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro TD tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
Với sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế, do đó sẽ không tránh khỏi những thiếu sót; mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiều hơn nữa từ cô giáo để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương i:Rủi ro tín dụng của NHTM
NHTM trong nền kinh tế thị trường
KháI niệm
Ngân hàng ra đời gắn kiền với sự phát triển của sản xuất, trao đổi hàng hoá và sự xuất hiện của tiền tệ. Sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia với các loại tiền khác nhau đã gây ra những khó khăn trong việc mua bán, thanh toán, chuyển đổi và bảo quản tiền tệ. Vì vậy, trong số các thương gia thời bấy giờ, một số người đã từ bỏ việc buôn bán hàng hoá để trở thành các thương gia về tiền tệ thực hiện công việc đổi tiền. Việc đổi các loại tiền của các vùng, khu vực khác nhau, giúp cho các thương gia giao lưu hàng hoá thuận tiện hơn.
Khi các thương gia hàng hoá thực hiện buôn bán hai chiều, sẽ xuất hiện những khoảng thời gian trễ giữa lúc bán hàng hoá này và mua tiếp hàng hoá khác, lúc này họ không sử dụng đến số tiền hàng. Để đảm bảo an toàn, các thương gia này muốn nhờ ai đó đáng tin cậy bảo quản hộ. Để đáp ứng nhu cầu đó, các thương gia tiền tệ đã thực hiện công việc thứ hai là nhận gửi và bảo quản hộ tài sản có thu lệ phí.
Khi nhận gửi, các thương gia tiền tệ viết cho khách hàng một tờ giấy chứng nhận. Sau nhiều lần gửi và rút thuận tiện, các thương gia tiền tệ được tín nhiệm và để cho việc mua bán diễn ra nhanh chóng, người mua đã sử dụng tờ giấy chứng nhận khi thanh toán tiền hàng, sau đó người bán sẽ tới rút tiền ở chỗ các thương gia tiền tệ. Như vậy, các thương gia tiền tệ đã thực hiện công việc chi trả hộ cho khách hàng.
Trong quá trình nhận gửi và chi trả hộ, một số tiền lớn luôn đọng lại ở chỗ các thương gia tiền tệ. Điều này đã làm nảy sinh các khả năng có thể sử dụng số tiền này. Trong khi đó, các thương gia khi hoạt động kinh doanh luôn có nhu cầu mua hàng đột xuất đồng thời cũng cần những khoản đầu tư lớn cho phát triển. Từ đó các thương gia tiền tệ bắt đầu hoạt động cho vay đối với nền kinh tế.
Khi cho vay, các thương gia tiền tệ đã thu được lãi nhiều hơn là lệ phí nhận gửi. Để tăng thêm lợi nhuận qua lãi cho vay, các thương gia tiền tệ đã bỏ không thu phí tiền gửi, hơn nữa còn trả lãi cho tiền gửi với mục đích thu hút được số lượng lớn tiền gửi để có thể tăng các hoạt động cho vay. Lúc này các thương gia tiền tệ được gọi là các nhà ngân hàng, chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Theo thời gian các tổ chức ngân hàng đã phát triển nhanh chóng và mở rộng thêm nhiều nghiệp vụ mới như: chiết khấu, bảo lãnh, tư vấn, uỷ thác, đầu tư, mua bán chứng khoán,...
Dựa vào tính chất, mục đích, đối tượng hoạt động của các NHTM chúng ta có một định nghĩa về NHTM như sau:
“ NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, chiết khấu, đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tư vấn, môi giới và một số dịch vụ khác cho khách hàng ”
Vai trò, chức năng
Vai trò
Trung gian tàI chính: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần kinh tế khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ( như bằng cách phát hành và bù trù séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
Bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán( chẳng hạn phát hành thư tín dụng).
Đại lý: Thay mặt khách hàng quản lí và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán ( thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
Thực hiện chính sách của NN: Thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
Chức năng
Trung gian tàI chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi dự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, thứ nhất là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; thứ hai là những cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên là hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng.
Tuy nhiên quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian...Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá mà trung gian tài chính có thể giảm chi phí giao dịch xuống, từ đó mà làm tăng thu nhập của người tiết kiệm, đồng thời giảm chi phí cho người vay tiền xuống. Trung gian tài chính đã tập hợp những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian tài chính sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng cá kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Hầu hết các lí thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia nhỏ để mọi người có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc chia nhỏ chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ hơn phục vụ cho hàng triệu người. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lí do nữa để chức năng này phát triển là khả năng thẩm định thông tin, do khắc phục được yếu tố thông tin không cân xứng, ngân hàng có thể thẩm định được khách hàng của mình một cách tốt nhất, vì vậy mà giảm được rủi ro trong tín dụng.
Tạo phương tiện thanh toán
Tiền có một chức năng quan trọng là phương tiên thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã nhanh chóng trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế dần dần giấy nợ do ngân hàng phát hành đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền giấy mang lại lợi nhuận lớn, đồng thời với nhu cầu về một đồng tiền duy nhất của quốc gia đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền in tiền giấy vào một tổ chức nhất định hoặc là Ngân hàng Trung ương hoặc là Bộ Tài chính. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại phát hành các giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhân thấy nếu họ có số dư trên tài khoản tièn gửi thanh toán ở ngân hàng, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng nó để mua hàng hoá và dịch vụ, như vậy là ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng tư ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng tiền vay để thanh toán thí sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiên thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp các tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lí tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến thanh toán qua ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trong và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Các nghiệp vụ chính
Huy động vốn
Đây là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM và chính là thực hiện chức năng tạo tiền, chức năng này được thực hiện thông qua hoạt đông tín dụng và đầu tư của các NHTM trong mối quan hệ với hệ thống liên hàng, và đầu tư của các NHTM nhằm tạo tiền mang ý nghĩa kinh tế to lớn.
Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chắc, nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền đề để mở ra những điều kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không thực hiện được. Nguồn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn nữa các đơn vị sản xuất có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển không được sử dụng trong quá trình sản xuất. Một thực tế như thế có thể không mang lại hiệu quả trong khi xuất hiện tình trạng vốn không được sử dụng vào giai đoạn cụ thể của quá trình sản xuất. Nhưng trong các thời kỳ cao điểm mang tính chất thời vụ và các hoạt động doanh nghiệp lại không trả vốn để thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Sự ra đời của NHTM đã tạo ra bước phát triển về chất trong quá trình kinh doanh tiền tệ và hoạt động bằng cách “ đi vay để cho vay”. Khoản chênh lệch lãi suất sau khi đã trừ đi những chi phí khác là lợi nhuận của ngân hàng. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân với các mức lãi suất khác nhau như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra khi cần thêm vốn ngân hàng có thể huy động thêm bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của Ngân hàng Trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Cho vay
Cho vay thương mại
Ngay ở thời kì đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ II, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào bất động sản.
Bảo quản hộ tàI sản
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ...
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
Mua bán, trao đổi ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ: mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh có những sự cố, những tai hoạ, tai nạn bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản không thể dự báo trước, những tình huống bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ đến điều không tốt lành, hoặc một thiệt hại, tổn thất nào đó về vật chất hữu hình hoặc vô hình bất ngờ mang đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây nên
Như vây- Rủi ro là sự việc xảy ra ngaòi ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự doán được
Phần lớn nguồn tiền của ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Quá trình gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các thể chế tài chính khác dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá thị trường tài chính, nguồn tiền cuả các NHTM đang có thay đổi mạnh mẽ. Các nguồn tiền gửi của cá nhân và doanh nghiệp trở lên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn, tạo thuận lợi cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm các nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống.Sau đây là một số loại rủi ro phổ biến:
Rủi ro tín dụng
Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc trả không đầy đủ vốn và lãi. khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất, tuy nhiên mọi khoản vay luôn hàm chứa rủi ro.
Rủi ro hối đoái
Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỉ giá thay đổi vượt quá thay đổi mà ngân hàng đã dự tính. Trong cơ chế thị trường thì điều này là luôn xảy ra, nó có thể tạo ra thu nhập hoặc tổn thất cho ngân hàng, nhưng có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
Các tỷ giá và các mức lãi suất giữa các quốc gia có mối tương quan không chặt chẽ với nhau. Do đó, NH có thể tận dụng đặc điểm này bằng cách đa dạng hoá cơ cấu tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ nhằm giản rủi ro hối đoái.
Rủi ro thanh khoản
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Ngày nay, thị trường tiền tệ phát triển với nhiều công cụ phong phú, đa dạng, tiện dụng và hiệu quả. Chính vì vậy, nhiều Nh cho rằng, có thể đi vay một lượng vốn lớn bất cứ thời điểm nào để đáp ứng nhu cầu thanh khoản khi cần thiết. Do đó, đã coi nhẹ việc duy trì một lượng tài sản có thanh khoản nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản thường xuyên của NH. Nhà quản lý cần lưu ý rằng, NH có thể bị đóng cửa nếu như không tăng đủ và kịp thời nguồn thanh khoản cho dù khả năng thanh toán cuối cùng của NH là tốt. Điều này hàm ý, không thể thờ ơ với rủi ro thanh khoản trong kinh doanh NH.
Rủi ro lãi suất
Là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến. Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Nếu NH duy trì tài sản có và tài sản nợ với những kỳ hạn không cân xứng nhau, thì phải chịu rủi ro lãi suất trong việc tái tài trợ tài sản có và tài sản nợ. Rủi ro lãi suất gắn liền với rủi ro tín dụng.
Việc làm cho các kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ cân xứng với nhau là giải pháp tốt nhất để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, nó lại đối lập với chức năng chuyển hoá tài sản của NH. Nghĩa là, tại cùng một thời điểm, NH không thể vừa là người trực tiếp phòng ngừa rủi ro cho bảng cân đối tài sản của mình, vừa là người chuyển hoá tài sản. Khi đó, giảm được rủi ro lãi suất đồng nghĩa với việc giảm khả năng sinh lời của NH, bởi lẽ nó làm cho các cơ hội đầu tư vào những lĩnh vực có rủi ro song khả năng sinh lời lớn.
Rủi ro hoạt động ngoai bảng
Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của các NH hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng
Các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng tháI tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng
Xuất phát từ tính chất của cá hoạt động ngoại bảng là nh thu được phí trong khi không phảI sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, những hoạt động này cũng tiềm ẩn rủi ro, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho NH có thể đI đến phá sản.
Rủi ro công nghệ và hoạt động
Đổi mới công nghệ nh đã trở thành chủ đề được các ngân hàng quan tâm hơn bao giờ hết trong những năm gần đây. Trong những năm 80 và 90 các ngân hàng đã tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động bằng những khoản đầu tư khổng lồ vào lĩnh vực như vi tính, thông tin, cơ sở hạ tầng, công nghệ. Mục tiêu phát triển công nghệ ngân hàng là nhằm giảm chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm.
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và nguyên nhân của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Ngược lại, lợi ích từ việc đầu tư công nghệ tạo cho ngân hàng một sức bật quan trọng trong cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép các ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, tiên tiến, hiện đại, giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động.
Rủi ro quốc gia và các rủi ro khác
Rủi ro quốc gia: Một trong những đảm bảo cho việc thu hồi được vốn gốc và lãI khi đầu tư ở nước ngoài là việc phải kiểm soát được trạng thái cung cầu vốn và tín dụng trong tương lai của quốc gia mà ngân hàng có ý định đầu tư. Ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng sẵn sàng hoàn trả vốn vay nhưng cũng có thể thực hiên được, bởi vì, chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lý do chính trị
Những rủi ro khác: thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay đổi không thể dụư tính trước được, sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, trộm cắp, lừa đảo
Các rủi ro bắt nguồn từ yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát gia tăng, sự biến động giá cả hàng hoá, thất nghiệp đều có ảnh hưởng đến sự biến động lãI suất, bộc lộ rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.
Tín dụng Ngân hàng
Khái niệm
“ Tín dụng ngân hàng phản ánh quan hệ vay mượn vốn tiền tệ giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế ”
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các tổ chức trung gian khác)- ví dụ như ngân hàng- thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng.
Các nghiệp vụ tín dụng
Theo hình thức cấp TD
Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. người bán ( hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặ mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
Cho vay
Thấu chi
Là hoạt động cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đên một giới hạn nhất định và trong thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Số lãi mà khách hàng phải trả = lãi suất thấu chi * thời gian thấu chi * số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính sác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức này nhìn chung chi sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thương xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức của kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không, tuỳ vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng và quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiêp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nhưng nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần dược tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của đự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền ngay sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của khách hàng. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là._. lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức này rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ…). Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất cho vay, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
Cho thuê tài sản
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là cho khách hàng vay tiền để mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ(hoặc chưa đủ) điều kiện để vay. để mở rộng tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hòi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả được nợ. Điều này góp phần giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng.
Hoạt động cho thuê bắt nguồn từ doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp thiết bị, nhà cửa có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Do người mua không đủ tiền mua, hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản .. đã làm nảy sinh nhu cầu thuê. Các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp có nhu cầu tiêu thụ để tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản. Từ đó nảy sinh nhu cầu cho thuê - đi thuê.
Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, người đi thuê không có dự định mua tài sản đó để sử dụng lâu dài, ví dụ cho thuê phòng trong khách sạn, cho thuê ô tô ngắn ngày … Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi kết thúc hợp đồng thuê. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê tài chính.
Bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện được đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên bão lành, và bên được bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh; và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín , ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
Có nhiều hình thức bảo lãnh khác nhau:
Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu
Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các qui định trong hợp đồng dự thầu. Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiét bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà đầu tư có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế... Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không dúng hạn, không đúng chất lượng cam kết...đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước
Là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua ( người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp ( người được bảo lãnh) không trả.
Nhiều nhà cung cấp yêu cầu khách hàng phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc trả tiền ứng trước.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay
Là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng không trả được. Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hoá, chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của người thứ ba... Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu song nếu uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao, việc phát hành sẽ rất khó khăn. Điều đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh vay vốn.
Theo thời gian
TD ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu đọng hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không có bảo đảm, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Tín dụng ngắn hạn trong những trường hợp sau:
Cho vay đối với tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng, các công ty tài chính, các quỹ tín dụng... nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh, cho nhu cầu dự trữ cho thời vụ hoặc tăng chi phí sản xuất, tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu, cho vay đối với các công ty xây dựng. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các ngân hàng thương mại. Phần lớn các khoản cho vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản.
TD trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho các nhu cầu vay có thời hạn trên một năm. Các tổ chức vay bao gồm cả nhà nước để đầu tư phát triển, doanh nghiệp để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ. Người tiêu dùng để mua sắm các tài sản lâu bền như nhà cửa, xe hơi...
Các hình thức tài trợ trung và dài hạn như mua trái phiếu, cho vay theo dự án, cho vay trả góp đối với người tiêu dùng.
Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Luân chuyển vốn
Với sự có mặt cua ngân hàng, vốn được chuyển từ người tạm thời dư thừa tới người cần vốn.
Vốn còn được luân chuyển từ những vùng có dư thừa vốn cao như các vùng nông thôn chưa có cơ hội đầu tư, ra các trung tâm kinh tế, các vùng kinh tế mở.
Trong sự hội nhập kinh tế cao như hiện nay, vốn không chỉ luân chuyển trong một quốc gia mà còn trên toàn thế giới. Tận dụng hiệu quả nguồn vốn của quốc tế với chi phí thấp là một thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế.
Tạo cơ hội kinh doanh
Trong nền kinh tế có rất nhiều các cơ hội kinh doanh khác nhau. Nhưng không phải bất kì ai có thể nắm bắt được những cơ hội và có đủ vốn để thực hiện kinh doanh. Nguồn vốn mà họ tiếp cận đầu tiên chính là vốn vay từ các tổ chức tín dụng, mà ngân hàng là tổ chức tín dụng lớn nhất.Với chi phí thấp, và thời gian phù hợp với nhu cầu đầu tư, các cá nhân hay doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một khoản vay phù hợp, phục vụ cho mục đích kinh doanh. Như vậy, tín dụng ngân hàng chính là cứu cánh cho họ lúc cần vốn nhất.
Thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế
Quá trình luân chuyển vốn một cách đều đặn trong toàn bộ nền kinh tế mà làm tăng hiệu quả sử dụng vốn một cách tốt nhất. Một nề kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả là một nền kinh tế phát triển, bởi chỉ có đầu tư thì mới có sự phát triển. Mặt khác, việc huy động vốn cho một dự án của nhà nước cung góp phần tạo ra những sản phẩm chiến lược trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra sự phát triển kinh tế nói chung.
Đối với bản thân NH
Tạo cho NH khả năng tài chính lớn đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng
Thông qua nghệp vụ tín dụng, với khả năng chuyển hoá thời hạn ma NH có thể tạo điều kiện cho người tích luỹ vốn và người đầu tư được đáp ứng phù hợp
Tạo ra thu nhập cơ bản cho mỗi NH, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Hoạt động tín dụng không chỉ bó hẹp trong nền kinh tế của một quốc gia mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế mở, vay nợ ngày nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Nhờ có tín dụng, các nước có thể mua hàng hoá, nhập khẩu máy móc, trang thiết bị… và tiếp cận những thành tựu khoa học công nghệ mới cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới. Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng quan hệ ngoaị thương mà còn thúc đảy phát triển kinh tế ở các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môI trường thuận lợi cho đàu tư quốc tế trực tiếp, một hình thức hợp tác quốc tế ở mức độ cao.
Rủi ro tín dụng ( RRTD)
Khái niệm
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là sự xuất hiện của một hay một số biến cố không mong đợi gây thất thoát thiệt hại về tài sản, về thu nhập của ngân hàng trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh tín dụng. Có thể do nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía ngân hàng vay vốn dẫn đến người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi hoặc gốc hoặc cả lãi lẫn gốc
Chúng ta biết rằng, tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người có vốn và người thiếu vốn. Chủ thể tham gia vào hoạt động tín dụng của ngân hàng gồm ngân hàng, cá nhân và các tổ chức kinh tế khác. Hoạt động tín dụng là hoạt động đa dạng, là một hoạt đông kinh doanh hàng hoá phức tạp, tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ. ở đây tiền tệ được tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay. Cũng có người cho rằng quyền cho vay của ngân hàng và quyền trả nợ thực tế là người đi vay. Chính vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của khách hàng, dự tính, phán đoán khả năng, mức độ, quan hệ tín dụng là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong các hợp đồng tín dụng. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện các nghĩa vụ của hai bên tham gia hoạt động tín dụng. Nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo tín dụng. Bên canh đó còn có các cam kết khác bằng các hành vi hay năng lực kinh tế, thể hiện bằng các hình thức bảo đảm nợ vay, có thể bằng vật chất hay uy tín như các tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ bảo lãnh.
Các khoản tín dụng giữa ngân hàng và người vay đều được xác lập theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng, nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm các cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong trường hợp người vay có đủ năng lực tài chính.. Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, để đánh giá rủi ro tín dụng là việc làm rất khó khăn đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món tiền nào, bất cứ nơi nào, lúc nào. Vì vậy rủi ro tín dụng thường nằm ngoài khả năng bình thường của cán bộ tín dụng. Nó đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể ngăn ngừa bớt rủi ro.
“ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phảI chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãI”
Phân hạng rủi ro tín dụng
Tín dụng it rủi ro: Khả năng thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng là chắc chắn, bảođảm việc trả nợ như đã thoả thuận (có thể có một số khía cạnh yếu nhỏ về rủi ro).
Tín dụng rủi ro trung bình: khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng là vững chắc, rủi ro tín dụng trung ở mức chấp nhận được, nhưng có một khía cạnh yếu kém trên thực tế về rủi ro tín dụng, cần có sự giám sát và kiểm soát.
Tín dụng trên mức rủi ro trung bình: khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng ở mức maọi hiểm do những yếu kém lớn trên vài khía cạnh về rủi ro tín dụng, (các yếu kém này có dấu hiệu có khả năng sửa chữa được) mức rủi ro tiềm tàng này yêu cầu phải tăng việc giám sát để bảo đảm tình hình không xấu đi.
Tín dụng rủi ro cao: Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dài, ví dụ thua lỗ trong kinh doanh, khó khăn trầm trọng về khả năng thanh toán. Ngân hàng đang cố gắng cải thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ tiềm tàng.
Tín dụng khó đòi lãi (khê đọng một phần) khách hàng có rủi ro cao có thể bị thất thoát lãi xong có thể hy vọng lấy lại được gốc.
Tín dụng khó đòi gốc và lãi (khê đọng toàn phần). Khách hàng có rủi ro cao, có thể khả năng mất cả vốn, lãi và các khoản chi phí sau khi đã nỗ lực hết sức trong việc áp dụng các biện pháp có thể.
Nguyên nhân RRTD
Nguyên nhân bất khả kháng
Những thay đổi ở tầm vĩ mô mà ngân hàng không kiểm soát được như tỷ giá, các chính sách kinh tế...có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Những thay đổi này luôn luôn xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi cho người vay, nhưng cũng có người vay không đủ khả năng thích ứng với những thay đổi ở tầm vĩ mô, gây tổn thất trong kinh doanh, gián tiếp gây rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan của người vay
Do trình độ yếu kém của khách hàng trong việc đánh giá các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lí, chủ định lừa đảo cán bộ tín dụng...là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất nhiều người sẵn sàng mạo hiểm vay với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Vì vậy họ tìm mọi cách để cung cấp thông tin sai, mua chuộc cốt để được cung cấp tín dụng.
Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai...là một trong những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều khu vực...vì vậy họ cần phải được đào tạo tốt, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa am hiểu rõ thì luôn luôn gây rủi ro tín dụng. Không loại trừ khả năng cán bộ tín dụng tiếp tay cho khách hàng nhằm rút ruột ngân hàng, vì vậy yêu cầu về đạo đức cũng là yêu câu cần phải có đối với cán bộ tín dụng
ảnh hưởng của RRTD đến hoạt động của NHTM
Người vay có khả năng không hoàn trả hoặc lãi hoặc gốc hoặc cả gốc và lãi một cách đầy đủ, trong khi đó ngân hàng vẫn phải hoàn trả cả gốc và lãi cho người gửi tiền, khi đó xay ra rủi ro tín dụng. Mặt khác, khi công chúng biết được thông tin ngân hàng bị tổn thất lớn sẽ ồ ạt đến rút tiền gửi, kể cả đối với những khoản tiền gửi chưa đến kỳ hạn làm khả năng thanh khoản của ngân hàng bị đe doạ. Để đảm bảo khả năng chi trả, ngân hàng sẽ phải tìm mọi nguồn khác nhau như: Tăng cường huy động tiền gửi, vay của các tổ chức tín dụng khác, của ngân hàng Nhà nước,... việc này là hoàn toàn khó khăn bởi ngân hàng bị mất uy tín trong kinh doanh. Vì vậy, khó có một tổ chức, cá nhân nào lại dám mạo hiểm gửi tiền hay cho vay một ngân hàng đang có khó khăn lớn về vấn đề thanh toán. Nếu nguồn vốn huy động thêm này mà không đủ để bù đắp thì nguy cơ dẫn đến phá sản là điều không tránh khỏi.
Các mô hình phân tích đánh giá RRTD
Mô hình định tính về RRTD
Phân tích tín dụng
Đối với mỗi đơn xin vay, cán bộ TD cần phảI trả lời được câu hỏi căn bản sau
Người vay có thể tín nhiệm và anh biết họ như thế nào?
Hợp đồng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ hay không?
Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, liệu NH có thể thu hồi nợ bằng tài sản hay thu nhập của người vay một cách nhanh chóng với chi phí và rủi ro thấp?
Kiểm tra tín dụng
Ngày nay, nh sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên, những nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết các nh bao gồm
Tiến hành kiểm tra tất cả các loại td theo định kỳ nhất định
Xây dựng kế hoạch, chương trình, nọi dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng, những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản TD phảI được kiểm tra
Kiểm tra thường xuyên các khoản TD lớn
Quản lý chặt chẽ các khoản td có vấn đề
Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đI xuống, hoặc những nghành nghề sử dụng nhiều td của nh biểu hiện những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển
Hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng
Nhóm chỉ tiêu thanh khoản
Chỉ tiêu thanh toán tức thời= TSLĐ chuyển thành tiền tức thời/ nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn= TSLĐ/ nợ ngắn hạn
Vốn LĐ ròng= TSLĐ - nợ ngắn hạn
Nhóm chỉ tiêu hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho= DT hàng năm/ hàng tồn kho bình quân
Kỳ thu nợ bình quân= TS phảI thu bình quân/ doanh số bán chịu hàng ngày bình quân
Vòng quay tổng TS= DT hàng năm/tổng TS
Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy
Dư nợ / tổng TS
Khả năng trả lãI tiền vay=( lợi nhuận trước thuế+ lãI vay)/chi phí lãI tiền vay
Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời
Lợi nhuận sau thuế/DT
ROE= lợi nhuận sau thuế/ VCSH
ROA= LNST/ tổng TS
Mô hình định lượng về RRTD
Mô hình điểm số Z
Do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro TD đối với người vay và phụ thuộc vào: trị số của các chỉ số tài chính của người vay ( Xi) và tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ
Z = 1,2X1+ 1,4X2+ 3,3X3+ 0,6X4+ 1,0X5
Trong đó:
X1 vốn LĐR/ tổng TS
X2 lợi nhuận giữ lại/ tổng TS
X3 lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng TS
X4 thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi ssổ của nợ dài hạn
X5 DT/Tổng TS
Trị số Z càng cao thì xác suất vỡ nợ càng thấp
Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, nhiều nh sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày càng tăng
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu ding bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời gian công tác
Mô hình cấu trúc kỳ hạn RRTD
Xác suất vỡ nợ của công cụ kỳ hạn nợ 1 năm: gọi P là xác suất hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đối với trái phiếu công ty, như vậy, 1-P sẽ là xác suất vỡ nợ. Gọi mức thu nhập của trái phiếu công ty kỳ hạn một năm là 1+K, và của trái phiếu kho bạc là 1+ I; nhà quản trị Ngân hàng sẽ đạt được kết quả như nhau khi đầu tư vào trái phiếu công ty hay trái phiếu kho bạc khi:
P(1+K) = (1+I)
Xác suất vỡ của công cụ nợ dài hạn
Chúng ta có thể mở rộng sự phân tích để xác định rủi ro tín dụng đối với các khoản tín dụng hay các trái phiếu dài hạn
Pn = 1+F(n-1)/1+ C(n-1)
Trong đó
F(n-1) là thu nhập dự tính của tráI phiếu kho bạc thời hạn 1 năm được phát hành sau n-1 năm
C(n-1) là thu nhập dự tính của tráI phiếu công ty thời hạn 1 năm được phát hành sau n-1năm
Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Nợ quá hạn.
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ qúa hạn là khoản nựo mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng;
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ;
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đốivới ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh toán và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng;: Hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Các quan điểm khác nhau, các cachs tính toán khác nhau về kỳhạn nựo và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này biến dạng.
Thứ nhất:, do định kỳ hạn nợ không đúng:
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạnlà chủ yếu, họ đặt kỳ hạn nợ ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Kỳ hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập của người vay. Khi đến hạn, người vay dĩ nhiếnẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trả thêm thành mối đe doạ tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoả “phụ phí” để được gia hạn nợ,hoặc phải chịu lãi suất phạt.
Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ:
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạnso với thực tế. Để che dấu đối với các ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng thoả thuận vay khoản nợ mà chắc chắn người vaykhông thể trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay:
Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài sản (doanh nghiệp Nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng). Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của chính phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của Ngân hàng, trở thành tài sản “ ảo”. Xử lý tài khoản này rất phức tạp. Nhiều Ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu noẹ quá hạn và chỉ tiêu nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh ( khi được chính phủ đồng ý), tuy nhiên chúng thật sự đe doạ thu nhập của các ngân hàng nếu chính phủ không tìm được nguồn phù đắp.
Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập qũy dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay,…
Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, xong trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.
Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả của dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng,…ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
Mất ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai…đều tạo lên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vậy mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dung phản ánh rủi ro tín dụng.
Tính kém đa dạng cua tín dụng: Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
Chương ii: Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHCT HK trong thời gian qua
VàI nét chung về NHCTHK
Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm (NHCTHK) là một chi nhánh của NHCTVN, có trụ sở chính đặt tại 37 Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước tháng3/1988, NHCTHK thuộc về NHCT thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ chính được giao là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán, đồng thời vừa đảm bảo nhu cầu về vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa bàn quận Hoàn kiếm. Nhưng kể từ sau khi chỉ thị số 218/CT ban hành ngày 13/7/1987 của HĐBT, thực hiện Điều lệ của NHCTVN, ngày 26/3/1988, NHCTHK chính thức tách ra khỏi NHCT thành phố Hà nội để trở thành NHCTHK như ngày nay
Không giống như các chi nhánh, thoạt tiên chi nhánh NHCTHK được hình thành trên cơ sở là quỹ tiết kiệm. Như vậy là xuất phát điểm của chi nhánh là tương đối thấp. Điều này ban đầu cũng là một khó khăn không nhỏ đối với chi nhánh.
Do NHCTHK là một chi nhánh của NHCTVN nên bên cạnh việc thực hiện đầy đủ các chức năng của một chi nhánh thì ngoài ra NHCTHK còn thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ như một NHTM.
NHCTHK là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào NHCTVN, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dich tại NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác trong cả nước. Kể từ khi thành lập cho đến nay, NHCTHK đã và đang hoạt động trên kinh doanh trên cơ sở tự kinh doanh, tự bù đắp và có lãi.
Trải qua quá trình hoạt động trên 15 năm, NHCTHK đã hoà nhập vào hoạt động chung của cả hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, NHCTHK không những chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao.
Cơ cấu tổ chức
Giám đốc
Phó giám đốc 2
Phó giám đốc 1
Phó giám đốc 3
Phòng tài trợ thương mại
Phòng khách hàng số 1
Phòng kế toán giao dịch
Phòng khách hàng cá nhân
Phòng tiền tệ kho quỹ
Phòng kế toán tài chính
Phòng khách hàng số 2
Phòng thông tin điện toán
Phòng giao dịch Đồng Xuân
Phòng tổng hợp tiếp thị
Phòng tổng hợp tiếp thị
Phòng tổng hợp tiếp thị
Hiện nay, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm có hơn 250 cán bộ trên tổng số 12.000 cán bộ của toàn hệ thông NHCT Việt Nam. Trong đó có 40,8% có trình độ đại học và trên đại học, còn lại đều được đào tạo qua hệ cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng.Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm có 12 phòng, trong đó riêng phòng khách hàng cá nhân là có quy mô lơn nhất( trên 60 cán bộ ) bao gồm cho vay cá nhân và bộ phận huy động vốn( 16 quỹ tiết kiệm ), các phòng hoạt động theo chức năng riêng đã được phân công theo sự chỉ đạo điều hành của Ban giám đốc gồm một Giám đốc và ba Phó giám đốc.
Môi trường kinh doanh
Khách hàng, đối thủ cạnh tranh
NHCTHK có địa bàn hoạt động chính tại quận Hoàn kiếm, là một quận thuộc khu trung tâm thương mại lớn nhất Hà nội gồm 18 phường với hơn 25 vạn dân và diện tích 425 km2. Mặt khác, nằm trong khu trung tâm kinh tế- văn hoá- xã hội của cả nước, NHCTHK có nhiều thuận lợi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình.
Tuy nhiên, do đặc điểm dân cư trong địa bàn và lại hoạt động trong lĩnh vực thương mại là chủ yếu nên hầu hết khách hàng của NHCTHK là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở sản xuất và các cá nhân. Bên cạnh đó, NHCTHK không tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác trong hệ thống. Hơn nữa, trong địa bàn quận còn có Hội sở chính của NHCTVN,nên các cơ quan, xí nghiệp lớn của các Bộ, Sở và các doanh nghiệp có tầm cỡ khác thường mở tài khoản và giao dịch tại Hội sở chính này.Nhìn chung, khách hàng chủ yếu của NHCTHK là các đối tượng khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, còn lại là một số rất ít các đơn vị kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, ngân hàng đã chú trọng và tìm mọi biện pháp nhằm thu hút và lôi kéo khách hàng thông qua việc không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm thiểu những thủ tục hành chính rườm rà…
Các nghiệp vụ chính
Huy động vốn
Cho vay
Thanh toán quốc tế
Kinh doanh ngoại hối
Thanh toán điện tử
Tư vấn và quản lý tài chính tiền tệ
Đầu tư, uỷ thác
KháI quát hoạt động kinh doanh của NH trong những năm vừa qua
Huy động vốn
Năm 2003 công tác huy động vốn gặp nhiều khó khăn với sự cạnh tranh của nhiều Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn và sự biến động bất ổn cảu lãi suất và những khó khăn trên đã đặt công tác huy động vốn của chi nhánh trước nhiều thách thức lớn. Tuy nhiên, chi nhánh đã cố gắng duy trì, phát triển nguồn tìên gửi của các khách hàng truyền thống, tăng cường mở rộng mạng lưới, lập thêm Quỹ tiết kiệm tại các khu vực có tiềm năng lớn. Nhờ vậy, nguồn vốn huy động của chi nhánh ngày càng tăng lên, cơ cấu nguồn vốn được cải thiện theo hướng tích cực.
Tổng nguồn vốn huy động đạt 4.986 tỷ đồng, tăng 6% so với năm trước. Trong đó:
Nguồn vốn VNĐ đạt 4.723 tỷ đồng, chiếm 95%, nguồn vốn ngoại tệ đạt 263 tỷ đồng, chiếm 5% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn của dân cư đạt 774 tỷ đồng chiếm 15.5 %, nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 4.212 tỷ đồng chiếm 84.5% tổng nguồn vốn.
Nguồn tiền gửi không kỳ hạn đạt 663 tỷ đồng chiếm 13%, có kỳ hạn đạt 4232 tỷ đồng chiếm 87% tổng nguồn vốn
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
DCK (tỷ đồng)
%
DCK (tỷ đồng)
%
DCK (tỷ đồng)
%
Tổng nguồn vốn
4986
100
4768
100
4591
100
I. Theo loại tiền
1. VNĐ
4723
95
4484
94
4223
92
2. Ngoại tệ
263
5
284
6
368
8
II. Theo kỳ hạn
1. Không kỳ hạn
663
13
782
16.4
803
17.5
2. Có kỳ hạn
4232
87
3968
83.6
3788
82.5
III. Theo thành phần KT
1. Dân cư
774
15.5
789
16.5
734
16
2. Các tổ chức KT khác
4212
84.5
3979
83.5
3857
84
Nguồn: phòng tiếp thị tổng hợp ngân hàng công thương Hoàn Kiếm
Công tác huy động vốn năm 2004 gặp nhiều khó khăn. Do sự cạnh tranh manh mẽ của các ngấn hàng khác trên địa bàn, sự phát triển ngày càng đa dạng của hệ thống các NHTMCP, là tác động ngược chiều của chính sách thắt chặt tín dụng và sàng lọc khách hàng, là sự thay đổi cơ chế chính sách của Chính phủ đối với một số ngành, tổ chức kinh tế- xã hội...Riêng đối với NHCT Hoàn Kiếm, khó khăn càng nhiều do khối lượng nguồn vốn lớn lại nằm ở một số khách hàng lớn, bị tập trung cạnh tranh, khai ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0113.doc