Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm - Giải pháp phòng ngừa & hạn chế

Lời nói đầu Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế đều phải quan tâm và giải quyết vấn đề tạo vốn cho nền kinh tế. Đó là mấu chốt của quá trình tăng trưởng. Tiến trình đổi mới nền kinh tế - công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt nước ta vào một giai đoạn mà đồng vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết nhất đối với chủ trương đẩy lùi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước khác đòi hỏi phải có sự ưu tiên đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, để đổi mới công n

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm - Giải pháp phòng ngừa & hạn chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghệ, để mua sắm máy móc thiết bị hiện đại... Tất cả những việc đầu tư này cần phải có một nguồn vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lại lâu, chứa đựng nhiều rủi ro. Bởi vậy không một cá nhân nào dám đứng ra bỏ vốn vào những công trình như vậy. Vì sự nghiệp cải tạo đất nước, vì mục tiêu xã hội chính phủ sẵn sàng đứng ra đảm nhận công việc này. Song ngân sách còn eo hẹp, thâm hụt nhiều, đồng vốn cấp phát lại thường không hiệu quả nên nếu chỉ có chính phủ bỏ vốn đầu tư thì không biết đến bao giờ đất nước ta mơí bước qua được thời kỳ quá độ để tiến lên chủ nghĩa xã hội đúng với nghĩa của nó. Hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư và phát triển nói riêng đã giữ một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các dự án phát triển đất nước . Huy động vốn đã khó, sử dụng vốn hiệu quả còn khó hơn. Một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng là phải xem xét lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả, vừa mang lại lợi ích cho nền kinh tế xã hội lại vừa đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Với ngân hàng đầu tư và phát triển chức năng chủ yếu là tài trợ cho các dự án phát triển thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong cho vay các dự án phát triển lại càng được đề cao và là mối quan tâm hàng đầu để làm sao vừa an toàn lại vừa sinh lời. Chính vì vậy, trong suốt thời gian thực tập ở chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì trực thuộc chi nhánh Hà nội, tôi đã tập trung vào nghiên cứu đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án phát triển tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội, chi nhánh Thanh trì" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề bao gồm 03 chương: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về cho vay dự án phát triển tại ngân hàng đầu tư và phát triển. Chương II: Hiệu quả cho vay các dự án phát triển tại Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Thanh trì. Chương III: Những vấn đề còn tồn tại về hiệu quả cho vay dự án phát triển và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án phát triển tại ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội - chi nhánh Thanh Trì. Mục đích của chuyên đề không phải là đưa ra những giải pháp tối ưu mà trên cơ sở học hỏi qua sách vở, qua các thầy, cô và ba tháng thực tập tại chi nhánh Thanh Trì tôi muốn nhìn nhận lại những thành tựu và hạn chế mà ngân đã làm. Trên cơ sở đó kế thừa những ưu điểm và sửa đổi bổ sung những mặt còn hạn chế để hiệu quả của các dự án phát triển được tốt hơn thực sự là đòn bẩy đẩy nhanh tiến trình đổi mới đất nước. Qua bài viết này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Nguyễn Thị Thu Thảo, chị Nguyễn Thị Sinh trưởng phòng kinh doanh Ngân hàng và chị Nguyễn Thị Phương phó giám đốc đã hết lòng tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Do sự hiểu biết và thời gian thực tập còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để tôi hoàn thiện tốt hơn, đầy đủ hơn cho đề án tốt nghiệp của mình. Xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Trần Mạnh Hà Chương I Một số vấn đề cơ bản về cho vay dự án phát triển tại NHĐT và phát triển I. Vai trò của NHĐT và Phát triển trong việc tài trợ cho dự án phát triển 1. Vai trò của dự án phát triển 1.1. Khái niệm dự án phát triển Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mọi hình thức dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được nông nghiệp kết quả và thực hiện được nông nghiệp mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả kinh tế tài chính trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kết quả chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp riêng biệt nông nghiệp hoạt động đầu tư, vạch chính sách xây dựng thể chế và các hoạt động khác nhằm thực hiện một hay một nhóm mục tiêu phát triển nhất định trong một thời gian đã xác định. Như vậy, một dự án có thể bao gồm một vài hoặc tất cả 5 yếu tố sau đây: + Đầu tư vốn vào các công trình dân dụng, vào trang thiết bị hoặc cả hai (gọi là gạch và vừa của dự án). + Cung cấp các dịch vụ thiết kế và xây dựng công nghệ, giám sát thi công, cải tiến cách điều hành và bảo dưỡng. + Củng cố các tổ chức địa phương có liên quan đến thực hiện và điều hành dự án kể cả đào tạo những người quản lý và biên chế tại địa phương. + Cải tiến các chính sách như chính sách giá cả, trợ cấp thu hồi chi phí tác động đến việc thực hiện dự án và mối quan hệ giữa dự án với ngành cùng với những mục tiêu phát triển rộng lớn hơn của đất nước. + Xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện những công việc nói trên nhằm thực hiện mục tiêu dự án trong thời gian quy định. Dự án phát triển thực chất cũng là một dự án đầu tư, được tài trợ bởi các chính phủ các tổ chức phi chính phủ để đạt được các mục tiêu lớn mang tính chất toàn quốc hay toàn cầu, những mục tiêu này có thể là mục tiêu xã hội cũng có thể là những mục tiêu kinh tế hoặc kinh tế - xã hội. Các dự án phát triển thường phải có vốn lớn, thời gian dài, nếu xét về hiệu quả kinh tế thì khá thấp hiệu quả của các dự án này đem lại chủ yếu mang tính chất phát triển đất nước, mang tính chất xã hội vì thế rất khó đo lường được. Các dự án phát triển nếu được thực hiện thì nó đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội, cho cả cộng đồng, chính vì vậy, với những dự án đầu tư như thế đòi hỏi phải có sự tài trợ của chính phủ, của các tổ chức phát triển kinh tế, các tổ chức xã hội trên thế giới thì mới thực hiện được bởi không một cá nhân nào đủ sức làm được. Điều này rất dễ hiểu vì các cá nhân khó có thể có được số vốn lớn và nếu có khi họ đầu tư thì mục tiêu đầu tiên là lợi nhuận mà họ có thể có được từ việc đầu tư nhanh nhất và nhiều nhất.Chúng ta đã biết rằng trong lợi ích tập thể luôn phải có lợi ích cá nhân. Hơn thế nữa những dự án phát triển nếu tính theo chi phí trên thị trường thì thường không mang lại hiệu quả kinh tế. Với sự tài trợ của chính phủ, của các tổ chức sẽ làm giảm chi phí của dự án, làm tăng thu nhập và từ đó đem lại tính khả thi cho dự án. 1.2. Vai trò của dự án phát triển Hoạt động đầu tư vôn (gọi tắt là đầu tư) là quá tình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất đơn giản và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung của địa phương của ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Hoạt động đầu tư có những đặc điểm nổi bật sau đây: + Thời gian kể từ khi bắt đầu tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng đem lại lợi ích kinh tế xã hội phải kéo dài trong nhiều năm. + Số tiền cần để chi phí cho một công cuộc đầu tư khá lớn và phải nằm khê đọng, không vận động suốt quá trình đầu tư. + Các thành quả của quá trình thực hiện đầu tư cũng do những đặc điểm trên đây và có thể được sử dụng trong nhiều năm, đủ để lại các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những chi phí đã bỏ ra trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, chỉ có như vậy công cuộc đầu tư mới được coi là hiệu quả . + Nhiều thành quả của quá trình thực hiện đầu tư có giá trị sử dụng hàng trăm ngàn năm như các công trình kiến trúc cổ trên thế giới. + Các thành quả của quá trình thực hiện đầu tư là các công trình xây dựng, kiến trúc như các nhà máy, hầm mỏ, công trình thuỷ điện, các công trình thuỷ lợi, đường xá cầu cống, bến cảng. Để đảm bảo mọi công cuộc đầu tư được thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu qảu kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm công tác chuẩn bị. Có nghĩa là phải xem xét tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội, pháp lý...có liên quan đến quá trình thực hiện và phải dự đoán các yếu tố bất định sẽ xảy ra trong quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư đến khi kết thúc sự phát huy tác dụng ( theo dự kiến trong dân) có ảnh hưởng đến sự thành bịa của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét, tính toán và chuẩn bị được thể hiện trong dự án đầu tư.Có thể nói, dự án đầu tư (được soạn thảo tốt) là kim chỉ nam là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn. Trong quá trình phát triển sôi động và trọng tâm của nó luôn luôn thay đổi, cách tiếp cận dự án đứng vững như một phương pháp đã tôi luyện để quản lý việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển quan trọng. Cách tiếp cận này đã giúp các nước đang phát triển hình thành những tổ chức vững chắc để làm cho kinh tế tăng trưởng trong trật tự, thực hiện những đổi mới chính sách cần thiết làm cho các dự án đạt kết quả tốt và để tiến hành những hạng mục đầu tư có nghiên cứu thiết kế đúng đắn, khả thi về tài chính và có căn cứ kinh tế. Cách tiếp cận theo dự án rất khớp với quan điểm thực dụng trong công cuộc phát triển ngày càng tăng lên ở nhiều nước hiện nay. Cộng đồng quốc tế đã hiểu biết nhiều và các quá trình phát triển và đã hiểu rõ là không thể có một đơn thuốc hay một khuôn mẫu duy nhất nào vượt qua được các vấn đề của sự chậm phát triển. Ngày nay sự nghiệp phát triển kinh tế được nhận thức là một quá trình học tập kinh nghiệm lâu dài, chậm rãi và nhiều khi đau xót. Tính phức tạp và mối quan hệ lẫn nhau trong tổng thể nền kinh tế hiện đại đã bắt buộc các nhà vạch chính sách phải rèn luyện và phải có đầu óc thực tế. Nhận xét này càng được củng cố do những bước thăng trầm gần đây của các nước suy thoái cắt giảm viện trợ và khủng hoảng nợ nần thay vào việc xây dựng những mô hình kế hoạch hoá tập trung rất công phu người ta đã tập trung sức lực vào 2 phương tiện sơ cấp trong tầm kiểm soát của họ để chỉ đạo quá trình tăng trưởng. + Một chương trình đầu tư đúng đắn trong khu vực nhà nước, phân bố các nguồn lực hiếm hoi cho những yêu cầu ưu tiên nhất của nhà nước. + Và môi trường chính sách hấp dẫn những ứng xử của các cá nhân, cá tổ chức và trong khu vực nhà nước lẫn tư nhân- Điều nhấn mạnh ở đây là cần phải thực tiễn, chứ không giáo điều, vừa làm vừa học, sử dụng những cái có tác dụng và bỏ những cái không tác dụng. Điều này ngày càng tỏ ra đúng đắn trong các nền kinh tế theo cơ chế hạch toán tập trung cũng như theo cơ chế thị trường. Trong bối cảnh này, cách tiếp cận theo dự án tỏ ra là một công cụ linh hoạt, có ích không kể là nước đó thuộc hệ thống nào, có loại hình chính phủ nào và đang ở trong giai đoạn phát triển nào (tăng phát triển ). Như vậy, chính phủ đã thực hiện công cuộc phát triển đất nước thông qua các dự án phát triển. Nếu như không có các dự án phát triển mà chỉ có các dự án thương mại thì chúng ta thử hình dung xem điều gì sẽ xảy ra: một nền kinh tế với cơ sở hạ tầng thấp kém, không trường học, bệnh viện, một đất nước mà tài nguyên bị cạn kiệt, môi trường, bị phá huỷ, một xã hội mà người giàu ngày càng giàu, người nghèo ngày càng nghèo đi... Với những dự án phát triển của mình, chính phủ đưa đất nước hoạt động linh hoạt theo đúng quỹ đạo, điều khiển được những hoạt động trong nền kinh tế đến đúng mục tiêu đã đề ra. Nếu không, những lợi ích của toàn xã hội sẽ bị chà đạp bởi các lợi ích cá nhân. Đối với những nước kém phát triển và đang phát triển thì dự án phát triển lại càng có ý nghĩa. Các dự án phát triển không chỉ giúp chính phủ các nước này thực hiện được các chương trình đầu tư đúng đắn phân bổ các nguồn lực khan hiếm vào những lĩnh vực ưu tiên mà còn là công cụ hữu hiệu để chính phủ kêu gọi sự giúp đỡ tài trợ của các chính phủ, các tổ chức trên toàn thế giới góp phần phát triển đất nước. Những nước kém phát triển và đang phát triển có rất nhều công trình phải thực hiện nhưng do ngân sách hạn hẹp, khả năng tài chính thấp do đó cần phải tranh thủ được các nguồn tài trợ của các tổ chức trên thế giới cho các dự án của mình khi mà mục tiêu của các dự án đó phù hợp với mục tiêu của các tổ chức này. Tựu chung lại, quan niệm dự án phát triển đã cung cấp một cách tiếp cận có hệ thống và phương pháp để phân tích và quản lý một loạt các hoạt động đầu tư. 2. Ngân hàng đầu tư và phát triển với vai trò tài trợ cho dự án phát triển Trên thế giới, ngân hàng đầu tư và phát triển được hình thành từ nhu cầu cấp bách về nguồn vốn trung và dài hạn. Tại các nước kém phát triển và đang phát triển, nhu cầu về vốn trung và dài hạn rất lớn, song hệ thống ngân hàng thương mại (các thể chế tài chính chủ yếu ở các nước kém phát triển) lại không có khả năng tìm kiếm, thoả mãn các yêu cầu ngày. Đầu tư của ngân sách nhà nước thì lại thường rất nhỏ do các khoản thâm hụt gây ra; thị trường chứng khoán kém phát triển hoặc không có. Do vậy cần tìm kiếm một thể chế tài chính nhằm thoả mãn các nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho phát triển kinh tế. Ngân hàng phát triển ra đời đáp ứng các mục tiêu xã hội trong tài trợ vốn trung và dài hạn sự khan hiếm về nguồn vốn trung và dài hạn làm cho giá cả của nguồn tiền naỳ rất đắt. Vì vậy không thể tài trợ cho các dự án dài hạn có tỷ lệ sinh lời thấp song lại đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Tình trạng này buộc nhà nước phải nắm quyền phân phối tín dụng theo lãi suất nhất định cho những lĩnh vực những ngành nghề cần được ưu tiên. Bên cạnh đó đã có những dự án mà nhà nước muốn thay đổi như một bộ phận của chiến lược phát triển song laị được tài trợ bằng nguồn vốn vay vì có như vậy mới có hiệu quả hơn là cấp phát bằng ngân sách nhà nước. Ngân hàng phát triển đã tài trợ cho những dự án như vậy với sự tham gia của nhà nước. Ngân hàng phát triển đã tài trợ cho những dự án như vậy với sự tham gia của nhà nước. Ngân hàng phát triển ra đời là sự đòi hỏi khách quan về nguồn vốn trung và dài hạn. Ngân hàng phát triển là một tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận và phát triển. Ngân hàng phát triển hoạt động có lợi nhuận có nghĩa là những khoản cho vay của ngân hàng thực sự có hiệu quả, nếu ngân hàng có được lợi nhuận thì chứng tỏ rằng nó có khả năng tài trợ cho các dự án và có thể dùng nhiều tiền hơn cho các dự án vì thế NHTP coi chỉ tiêu hiệu quả tài chính như một nhân tố bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Còn mục tiêu phát triển thể hiện sự tài trợ của ngân hàng đối với các dự án phát triển. Nếu ngân hàng có một dự án lành mạnh nó sẽ tạo ra sự phù hợp giữa mục tiêu quốc gia và mục tiêu của Ngân hàng. Còn Ngân hàng đầu tư có nguồn gốc từ các Ngân hàng thương mại ra đời với vai trì tìm kiếm các nguồn tài chính trung và dài hạn, thúc đẩy thị trường chứng khoán và các công ty cổ phần phát triển, quản lý các doanh mục đầu tư cho khách hàng, tư vấn tài chính cho các dịch vụ khác. Nói chung, NHĐT và phát triển ra đời để đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn lớn, thời gian sử dụng vốn dài, hay nói cách khác là tài trợ cho các dự án mà trong đó các dự án phát triển là một đối tưọng quan trọng, chủ yếu của các ngân hàng này. NHĐT và phát triển Việt Nam ra đời không giống như các NHĐT và phát triển trên thế giới, đó là một điều dễ hiểu bởi vì lúc đó chúng ta chưa có một hệ thống ngân hàng nào cả mà nó được thành lập với vai trò đại diện cho chính phủ với nhiệm vụ cấp phát vốn xây dựng đất nước khi giành độc lập tiến lên CNXH .Do đó NHĐT và PTVN chưa có đầy đủ tính chất như một NHĐT và phát triển. Có nghĩa là NHĐT và PTVN cấp phát vốn cho vay bằng nguồn cung cấp ngân sách nhà nước cho các công trình xây dựng , cải tạo đất nước theo chỉ định của chính phủ, mục tiêu lợi nhuận hầu như không có, ngân hàng là bộ phận đóng vai trò thi hành các quyết định của chính phủ trong lĩnh vực cung cấp quản lý vốn cho nền kinh tế . Đến năm 1990 Hội đồng nhà nước ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng tách hệ thống Ngân hàng thành hai bộ phận: Ngân hàng trung ương là ngân hàng nhà nước Việt Nam có chức năng quản lý trong lĩnh vực về tiền tệ và hệ thống các NHTM, NHĐT và phát triển, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng có chức năng kinh doanh tín dụng dưới sự quản lý của NHNN Việt Nam khi đó NHĐT & PTVN đã chủ ý tới lợi nhuận thực sự của ngân hàng. Song cho đến năm 1997, khi mà nhiệm vụ cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản chuyển sang cho tổng cục đầu tư, NHĐT & PTVN mới thực sự bước vào thương trường. Và từ đây NHĐT và PTVN hoạt động như một tổ chức kinh doanh tiền tệ với mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu phát triển. II. Một vài chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả cho vay dự án phát triển tại NHĐT & PT 1. Thực hiện tôt quy trình thẩm định dự án phát triển. 1.1.Vì sao phải thẩm định dự án phát triển trong ngân hàng Cho vay là một nghiệp vụ ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Cho nên ở bất kỳ một thời kỳ nào, bối cảnh nào, bối cảnh nào yêu cầu cơ bản của tín dụng ngân hàng vẫn là "hiện thực khả thi và hiệu quả". Với NHĐT & PT, hoạt động cho vay các dự án phát triển là phần lớn (chức năng vốn có của nó) vì thời gian cho vay dài, món vay lớn nên sự rủi ro món vay cao hơn rất nhiều so với NHTM khác. Chính vì vậy, trước khi quyết định cho vay một dự án ngân hàng phải xem xét một cách kỹ lưỡng hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của dự án để hạn chế rủi ro và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. a. Hạn chế rủi ro: Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngân hàng có chức năng chủ yếu là "nhận tiền gửi để cho vay" có nghĩa dùng tiền của người này cho người khác vay do đó hiệu quả sử dụng vốn vay là tiêu chuẩn quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau để cùng phát triển, song có những khách hàng của ngân hàng không đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ theo những điều khoản đã thoả thuận làm giảm khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng xem xét thận trọng quá trình cho vay và khách hàng làm ăn có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì sẽ hoàn trả tiền vay đúng thời hạn, Ngân hàng sẽ có tiền thanh toán cho người gửi tiền tránh sự vỡ nợ của ngân hàng. Nhưng trong cuộc sống mấy ai học được chữ "ngờ", nợ quá hạn trong các ngân hàng ngày một tăng trong đó nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi chiếm tỷ lệ lớn. Rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề cũng rất cao. Nhưng số dư nợ tưởng chừng như bình thường mà lại ẩn chứa nhiều vấn đề không bình thường, không đúng quy chế, luật pháp như: + Số dư nợ đó đã được gia hạn nhiều lần thậm chí nhiều hơn kỳ hạn cho vay lần đầu. + Số dư nợ đó đã được đòi nợ nhiều lần. + Khách hàng dùng vốn vay ngân hàng này trả ngân hàng khác. + Nhiều ngân hàng cùng cho một khách hàng với cùng một tài sản thế chấp mà không biết. Đó là những vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay , nó báo hiệu cho sự bất ổn định của hệ thống ngân hàng, nó làm những ai am hiểu về hoạt động ngân hàng phải kinh hoàng. Vì vậy, điều làm người ta lo lắng không chỉ là sự chậm trễ, sai hẹn trong việc trả nợ mà là khả năng thu hồi của vốn vay cho nên công tác thẩm định hay phân tích tín dụng càng phải thận trọng. Tìm những nguyên nhân gây nên những rủi ro chính ở trên người ta thấy rằng: Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như môi trường kinh tế chưa ổn định, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hàng hoá sản xuất ra không cạnh tranh nổi trên thị trường, hàng nhập ngoại làm cho các doanh nghiệp mau chóng thua lỗ, phá sản, quản lý nhà nước còn nhiều sơ hở tạo điều kiện phát triển những hành vi lừa đảo cộng với quản lý kinh doanh còn non kém ... thì những nguyên nhân chính vẫn là: - Do quy trình thẩm định dự án còn sơ sài, đơn giản, chưa tìm được giải pháp tối ưu dẫn đến thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. - Thiếu năng lực phân tích và xử lý các thông tin tín dụng, giám sát các khoản cho vay, đánh giá cao tài sản thế chấp... - Do tổ chức tín dụng hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, mặc dù biết khoản vay này có nhiều rủi ro, nhiều khoản bất lợi có sự vi phạm nguyên tắc tín dụng đã đến lúc chúng ta không thể chủ quan mà phải nhận thứuc rõ tính phức tạp của hoạt động tín dụng ngân hàng. Để có được quyết định đúng đắn bằng một chữ ký trong khoảnh khắc, cán bộ tín dụng và các cấp có thẩm quyền cho vay phải tiến hành một loạt các quyền cho vay phải tiến hành một loạt các bước rất phức tạp đó là "thẩm định tín dụng" với các dự án phát triển thì càng khó khăn hơn, vì tất cả đều là những dự đoán và thẩm tra cho những thời điểm trong tương lai thẩm định dự án để hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn vay tạo ra một môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định và lành mạnh là nền tảng giúp cho ngân hàng đạt được những mục tiêu lợi nhuận. b. Đảm bảo lợi nhuận ngân hàng. Dự án đầu tư chỉ là những dự tính, dự trữ những yếu tố sẽ xảy ra trong tương lai , bởi vậy không phỉa ai cũng nhìn nhận được hết tất cả mọi yếu tố, đặc biệt là những bất trắc rủi ro của dự án. Dự án được nhìn nhận theo những góc độ khác nhau, có thể đối với trường phái này là hiệu quả nhưng trường phái khác lại không. Và với ngân hàng cũng vậy, khi bỏ đồng tiền ra thì hải xem xét là nó có thu về được hay không, bởi nó trực tiếp ảnh hưỏng tới lợi nhuận của ngân hàng, nếu món vay không hiệu quả thì thu vốn đã khó chứ đừng nói đến chuyện thu lãi. Nếu không có lợi nhuận thì ngân hàng khó mà tồn tại được, bởi trong thương trường bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào thì lợi nhuận vẫn là mục tiêu cơ bản và cuối cùng. Vì là người trực tiếp bỏ vốn nên quá trình thẩm định dự án hết sức là khó khăn, đòi hỏi nhà ngân hàng phải có cái nhìn tổng thể, phải có óc phán đoán khá chính xác và logic chất lượng thẩm định dự án sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. ở nước ta, trong nền kinh tế tập trung, hoạt động của các ngân hàng chỉ đơn thuần phục vụ các doanh nghiệp nhà nước, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, đồng thời nhà nước chưa xem ngân hàng là bộ phận kinh doanh độc lập, dẫn đến lợi nhuận cảu ngân hàng không gắn liền với trách nhiệm của cán bộ ngân hàng chuyển sang nền kinh tế thị trường, toàn bộ hệ thống ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, lợi nhuận phụ thuộc vào tiềm năng uy tín và sức cạnh tranh của ngân hàng. Vì vậy cộng tác thẩm định dự án đã được coi trọng và ngày càng hoàn thiện. Đảm bảo lợi nhuận cho nhà ngân hàng, hạn chế rủi ro không có nghĩa là đi ngược với lợi ích khách hàng. Chính kết quả kinh doanh tốt đẹp của khách hàng giúp cho ngân hàng đạt được những mục tiêu hiệu quả sử dụng vốn hạn chế rủi ro và ngược lại. Quá trình thẩm định tín dụng của ngân hàng nằm trong giai đoạn kiểm tra trước quy trình tín dụng. Thông qua các thời biểu thực hiện dự án lịch trình nhận tiền vay và trả nợ được dự trù trong dự án ngân hàng mới, có cơ sở vững chắc để quyết định hoặc từ chối cho vay. Trong giai đoạn kiểm tra trước này, ngân hàng phải đối mặt với một thứ rủi ro mà các nhà doanh nghiệp gọi là "lựa chọn đối nghịch", có thể hiểu nôm na, là sự lựa chọn nhầm khách hàng xác xuất xảy ra rủi ro càng lớn nếu ngân hàng lần đầu tiên có giao dịch với khách hàng. Giai đoạn kiểm tra trước là hết sức quan trọng, song cán bộ tín dụng không chỉ dừng lại ở đó mà phải thực hiện tiếp giai đoạn kiểm tra trong và sau khi cho vay. Quá trình này diễn ra sau khi Ngân hàng và doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng tín dụng. Khi đó, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro gọi là "rủi ro đạo đức", nếu như sau đó cách sử dụng vốn vay của doanh nghiệp theo hướng không đúng cam kết. Công tác thẩm định tín dụng này trước hết vì lợi ích bản thân của ngân hàng để nâng cao hiệu quả tín dụng và chống rủi ro. Tuy nhiên, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản thì ngoài việc xem xét các lợi ích về kinh tế còn phải chú trọng tới các lợi ích về xã hội đạt được từ các dự án đầu tư. Chính vì thế khi thẩm định dự án còn phải quan tâm đến các lợi ích kinh tế - xã hội và khi tiến hành thẩm định cần xác định rõ nhu cầu vay của dự án, vay như thế nào, khả năng cách thức trả nợ ra sao, các lợi ích đạt được và những rủi ro có thể có của việc đầu tư... 1.2. Nội dung thẩm định: a. Nguyên tắc thẩm định: - Tính phù hợp và khả thi về mặt chính sách . - Tính khả thi và phù hợp về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội. - Tính khả thi và phù hợp về môi trường, ô nhiễm và chống ô nhiễm. - Tính phù hợp và khả thi về công nghệ kỹ thuật. - Tính phù hợp và khả thi về trình độ quản lý. - Tính phù hợp và khả thi về các yếu tố tài chính. - Tính phù hợp và khả thi về các yếu tố tài chính. - Tính phù hợp và khả thi về thị trường. - Một số khía cạnh đặc biệt khác. b. Quy trình thẩm định: * Thẩm định doanh nghiệp vay vốn. 1b. Phân tích tài liệu trong hồ sơ, tính pháp lý và nội dung khái quát hồ sơ. - Khi phân tích phải xem xét những văn bản nào đã có, những văn bản nào còn thiếu( cần phải có). Cán bộ tín dụng phải xem xét tính hợp pháp và hợp lý của giấy tờ. - Lập danh mục các văn bản giao nhận hồ sơ. - Lập danh mục các văn bản còn thiếu, văn bản pháp lý không đủ điều kiện để doanh nghiệp bổ sung và hoàn thiện. 1b. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. * Phân tích các chỉ tiêu tài chính kinh doanh + Nhận xét đánh giá tình hình vốn và tài sản các năm trước năm vay vốn và năm vay vốn: - Tình hình diễn biến qua các năm (tối thiểu 3 năm gần nhất) - Khả năng tăng trưởng hay giảm sút -Tình trạng và khối lượng của tài sản hiện có (còn tốt hay lạc hậu) - Khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại về công nghệ, chất lượng sản phẩm, quy mô công suất. - Vốn kinh doanh và vốn lưu động: thiếu, đủ, thừa, - Tình hình sử dụng vốn lưu động và vốn cố định: vay ngân hàng, chiếm dụng, đóng góp, cổ phần. - Tình hình sử dụng vốn khấu hao cơ bản để đầu tư. Cá lý do dẫn đến diễn biến tốt xấu, phương hướng thời gian tới. - Nhận xét đánh giá tình hình lợi nhuận và nghĩa vụ phải thực hiện các năm. + Tình hình diễn biến qua các năm (tối thiểu 3 năm gần nhất). + Khả năng tăng trưởng hay giảm sút + Nộp thiếu, thừa + Được miễn giảm để lại. + Lỗ, lãi thực hay không thực + Tình hình sử dụng quỹ phát triển sản xuất... đ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu phương hướng cho thời gian tới. - Nhận xét, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ qua các năm. + Tình hình diễn biến qua các năm + Khả năng tăng trưởng, giảm sút + Tình hình về thị trường . + Tình hình về giá cả tiêu thụ + Tình hình về giá thành và chi phí sản xuất chi phí dịch vụ ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ. đ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu và phương hướng cho thời gian tới. - Nhận xét đánh giá tình hình công nợ các năm. + Tình hình diễn biến qua các năm + Khả năng tăng trưởng và giảm sút + Khả năng thanh toán nợ nguồn thanh toán + Nội dung các khoản phải thu và phải trả + Tình hình nợ quá hạn và khó đòi + Tình hình lợi nhuận với nợ quá hạn , khó đòi, mất vốn.... đ Các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu phương hướng thời gian tới. - Phân tích chi phí sản xuất và giá thành. Nhận xét đánh giá tình hình diễn biến qua các năm. - Tình hình biến động của các yếu tố chi phí ảnh hưởng đến giá thành - Tình hình biến động của giá bán ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ. - Tình hình trích khấu hao đưa vào giá thành - Tình hình các chi phí khác tăng giảm trong giá thành đ các lý do và nguyên nhân dẫn đến tốt xấu, phương hướng thời gian tới. * Phân tích các chỉ số tác nghiệp chung để đánh giá doanh nghiệp. Tổng vốn tự do (1) Hệ số an toàn = đ càng cao càng bền vững Tổng tài sản nợ (2) Hệ số vốn lưu động vòng= tài sản có vãng lai - tài sản nợ vãng lai. Nói lên khả năng mở rộng phát triển của doanh nghiệp. (3) Hệ số khả năng sinh lời. - Lợi nhuận/ tổng tài sản có sử dụng - Lợi nhuận /tổng vốn cổ đông hoặc tổng vốn tự có. Tổng vốn cổ đông = vốn cổ phiếu + Lợi nhuận giữ lại - Lợi nhuận/(tổng tài sản có - các khoản nợ) - Lợi nhuận/Tổng vốn đầu tư (vốn sử dụng ). - Lợi nhuận /tổng doanh số bán hàng. (4) Hệ số nhu cầu vốn (mức độ sử dụng vốn) Tổng tài sản có /tổng doanh số bán hàng Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. (5) Hệ số vòng quay vốn lưu động bằng: (tổng doanh số bán - thuế)/tổng tài sản lưu động. Vòng quay càng lớn càng tốt. (6) Hệ số khả năng thanh toán = tài sản có vãng lai /tài sản nợ vãng lai. Nếu < 1 thì khó thanh toán, mất khả năng chi trả, phải đi vay thêm vốn và có nguy cơ bị phá sản. - Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + chứng khoán + phải thu)/tài sản nợ vãng lai. Nếu > 1 thì rất tốt, từ 0,6 đến 1: tốt , từ 0,2 đến 0,6: trung bình; <0,2: kém (nhiều hàng tồn kho quá nhiều hoặc tài sản nợ quá nhiều). (7) Mức tăng trưởng doanh số bán= (tổng doanh số bán ra kỳ này/tổng doanh số bán ra kỳ trước ) x 100 - 100%. (8) Hệ số chi phí khác = (tổng doanh số bán ra - chi phí trực tiếp)/tổng doanh số bán. (9) Hệ số hàng bán= tổng chi phí bán /tổng doanh số bán. (10) Hệ số nợ = tổng các khoản khách nợ/tổng các khoản chủ nợ. (11) Hệ số tín dụng= tổng vốn tự có / tổng số tiền vay. nếu vay quá mức an toàn phải yêu cầu tăng mức vốn tự có. (12) Hệ số vốn tự có tham gia đầu tư= tổng vốn tự có tham gia /tổng vốn đầu tư. (13) Hệ số bù đắp lãi suất = tổng lãi phải trả / tổng lãi tiền gửi cộng chi phí huy động. (14) Phân tích hàng tồn kho và thời gian lưu chuyển, giá trị lưu chuyển. (15) Phân tích lưu chuyển các khoản phải thu phải trả dài và ngắn. (16) Phân tích tính đa dạng vốn. * Phân tích những tồn tại, khó khăn, thuận lợi về tài chính, về sản xuất kinh doanh và tiêu thụ chưa được xử lý, đang phát sinh. Thông qua các báo cáo tài chính, thông tin của các cơ quan quản lý từ thông tin khách hàng, kiểm toán, báo chí, trung tâm phòng ngừa rủi ro... từ đó có hướng xử lý về nợ dài hạn, ngắn hạn, nợ quá hạn khê đọng, lỗ... * Phân tích yếu tố liên quan đến quản lý điều hành. - Khả năng về thị trường, sức cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường: hoặc sản phẩm dịch vụ cung ứng có đáp ứng yêu cầu thị trường không? ưu thế về thị hiếu và tiêu dùng của sản phẩm đối với thị trường trong và ngoài nước . - Các đối thủ cạnh tranh: Các doanh nghiệp hiện đang sản xuất các sản phẩm còn lại, khả năng về chất lượng, số lượng tiêu thụ, cung cầu chung - các sản phẩm (sản phẩm ) có khả năng thay thế - sức mạnh của bạn hàng. - Môi trường kinh doanh thuận lợi hay khó khăn, các y._.ếu tố pháp lý tác động đến sản xuất dễ gây ra những ảnh hưởng biến động đến vị trí kinh doanh lợi thế, uy tín kinh doanh, các điều kiện ưu đãi của Chính phủ... - Khả năng quản lý điều hành: uy tín và truyền thống quản lý điều hành, trình độ và thái độ của người lãnh đạo và đội ngũ quản lý kinh nghiệm sản xuất và điều hành, tính cộng đồng mức độ ổn định trong quản lý... - Chương trình phương hướng sản xuất kinh doanh ngắn và dài đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. * Các rủi ro thưòng xảy ra trong kinh doanh những rủi ro dự báo. * Nhận xét đánh giá, rút ra các kết luận tổng quát về tình hình tài chính sản xuất kinh doanh của người vay. - Những mặt mạnh trong sản xuất kinh doanh - Những ưu thế trong sản xuất kinh doanh - Những mặt yếu trong sản xuất kinh doanh - Những tồn tại và dự kiến phát sinh - Những mặt mạnh và yếu về tài chính - Chấp hành chế độ hạch toán kinh tế - Khả năng khắc phục và diễn biến - Những mặt mạnh, yếu trong quản lý điều hành. - Chấp hành luật pháp - Chấp hành các nghĩa vụ với nhà nước. - Tín nhiệm với khách hàng, ngân hàng. c. Thẩm định dự án vay vốn. 2c. Phân tích hồ sơ pháp lý của dự án. Phân tích tính pháp lý của các văn bản tài liệu trong hồ sơ vay vốn về : cấp quyết định người quyết định, người uỷ quyền, chữ ký dấu, hình thức văn bản, bản chính hay bản sao, có công chứng hay không của tất cả các văn bản, tài liệu liên quan đến và dự án vay vốn bắt buộc phải có để yêu cầu người vay làm đúng trình tự thủ tục pháp lý theo quy định cho việc vay vốn. Phân tích các nội dung trong từng văn bản tài liệu vay vốn rút ra những vấn đề cần quan tâm, cần chú ý, cần phải làm rõ, cần phải thực hiện... và những quy định điều kiện cho doanh nghiệp và dự án để đánh giá tính khả thi, tính thực thi về pháp lý. Đó là những điều kiện bắt buộc tiên quyết, những nội dụng cho phép, những công việc người vay phải thực hiện chấp hành, những ràng buộc đối với doanh nghiệp và dự án. 2b. Phân tích mục tiêu của dự án: - Các xu thế dẫn đến sự cần thiết phải đầu tư, mục đích đầu tư. . Cung cầu và thị trường . Chất lượng sản phẩm cũ, sản phẩm mới . Tiêu dùng trong nước hay xuất khẩu. . Chuyển đổi cơ cấu kinh tế. . Công nghệ cũ, mới. . Cải tiến kỹ thuật, đầu tư chiều sâu, mở rộng đầu tư mới.... . Quy mô , công suất . Tình hình cạnh tranh tiêu thụ. - Xu thế về kinh tế xã hội và quản lý khác giải quyết việc làm, giải quyết lao động nặng nhọc và sức khoẻ, cải thiện điều kiện môi trường sinh thái, nâng cao năng suất lao động.... 2c. Phân tích về thị trường sản phẩm của dự án: Đây là một vấn đề cơ bản của nghiên cứu kinh tế nhưng nhiều khi được coi là quá cơ bản dẫn đến mất sự chú ý quan tâm của cán bộ ngân hàng. Có thể nói trong trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp sống cùng với sản phẩm của nó. Một khi doanh nghiệp đã rơi vào giai đoạn "chiều tà" của sự thiếu vắng cải tiến đổi mới kỹ thuật, công nghệ thì doanh nghiệp cùng với sản phẩm "con đẻ" của mình sớm muộn cũng bị thất bại. Nhìn nhận dưới lăng kính của một nhà ngân hàng thì sản phẩm của doanh nghiệp chính là đối tượng mà ngân hàng sẽ tài trợ. Dự án có thành công hay không phụ thuộc vào sản phẩm của dự án có chỗ đứng trên thị trường hay không. Chính vì vậy, dưới góc độ nào đó, rủi ro của nhà ngân hàng là cùng với rủi ro sản phẩm của dự án.Việc phân tích đánh giá vị thế của sản phẩm thị trường của doanh nghiệp trên cả lý thuyết lẫn thực tiễn đều vô cùng quan trọng. - Phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm , xem xét tính chính xác, trung thực của số liệu thông tin đưa vào luận chứng kinh tế kỹ thuật trên các kmặt về giá cả, quy cách phẩm chất mẫu mã hàng hoá, thị hiếu người tiêu dùng đặc biệt cần quan tâm hơn đến sản phẩm tiêu thụ ở nước ngoài. - Các văn bản giao dịch hợp đồng kinh tế, đơn đặt hàng ... có liên quan đến việc cung ứng vật tư, đầu vào hay phần tiêu thụ, đầu ra của sản phẩm. - Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cung cầu trên thị trường đồng thòi, dự đoán được mức cung cầu trên thị trường trong thời gian tới. - Khả năng nắm bắt thông tin về thị trường kinh nghiệm của đơn vị về thị trường sản phẩm. Việc tổ chức tiêu thụ, đặc biệt là việc sử dụng các kênh tiêu thụ để đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng. - Các biện pháp tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm. Muốn làm tốt các công tác trên đòi hỏi ngân hàng phải có bộ phận làm Marketing để cung cấp những thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng. Nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc và có hiệu quả giúp cho nhà ngân hàng tránh được những rủi ro tiềm ẩn đối với sản phẩm của doanh nghiệp. - Một điểm quan trọng cần lưu ý là phải nghiên cứu một cách cụ thể, cẩn thận về nguồn giá cả và chất lượng của yếu tố đầu vào từ đó xác định được giá thành sản phẩm một cách chính xác hơn đảm bảo tính an toàn hơn. 2d. Phân tích về vấn đề kỹ thuật công nghệ: Yếu tố kỹ thuật công nghệ của dự án trong nhiều trường hợp là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của một dự án. Thông thường các cơ quan cho vay các dự án dựa vào kỹ thuật và cách giải quyết thành công ở trình độ nguyên mẫu, có ý nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên, có khi họ cùng tiếp thu những dự án có tính chất đổi mới . Mục đích quan trọng của việc đánh giá một dự án về khía cạnh kỹ thuật là phải hiểu được giá trị xứng đáng của các đề nghị kỹ thuật, phải ước tính đầy đủ các phí tổn và thấy được khả năng kỹ thuật của các cán bộ công nhân viên của đơn vị. Đồng thời thấy được trách nhiệm của những người thiết kế, tạo dựng và thực hiện dự án, đảm bảo hoạt động và duy trì thích đáng dự án. Những yếu tố kỹ thuật phải xem xét sau khi đánh giá là: - Quy mô của dự án: có phù hợp với khả năng tiêu thụ sản phẩm hay không ? khả năng đáp ứng vốn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, năng lực quản lý doanh nghiệp... - Công nghệ và trang thiết bị có xứng đáng là hệ thống kỹ thuật đáng tin cậy hay còn tốt hay đã lạc hậu, có ảnh hưởng gì đến môi trường... - Tính sẵn có hay khả năng cung cấp các nhân tố sản xuất cả vật chất lẫn con người. - Kiểm tra tính hợp lý về tiến độ, kế hoạch thực hiện dự án .Đây là yếu tố quan trọng có liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất, kế hoạch cho vay và thu nợ của Ngân hàng. - Thẩm định về mặt lựa chọn địa điểm xây dựng quy mô, giải pháp kiến trúc. thẩm định dự án đầu tư về khía cạnh kỹ thuật là một điểm hạn chế vượt quá chuyên môn của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng không thể đánh giá chính xác các yếu tố về mặt kỹ thuật nên sự tham gia của các chuyên gia kỹ thuật là điều hết sức cần thiết đối với ngân hàng. 2e. Phân tích tài chính dự án phát triển: * Kiểm tra các phép tính toán. * Kiểm tra tổng vốn, cơ cấu các loại vốn. * Với những dự án thương mại đơn thuần, ngân hàng cho vay tối đa là 70% tổng số vốn đầu tư. Song đối với những dự án phát triển thì tỷ lệ này có thể cao hơn. Bởi vì ngoài mục đích cho vay vì lợi nhuận ngân hàng tđầu tư và phát triển còn thực hiện mục tiêu phát triển. Việc nâng tỷ lệ cho vay này thể hiện sự tài trợ của ngân hàng cho các dự án phát triển có thể thực hiện được. * Kiểm tra độ an toàn về tài chính: - Xét về mức độ tự vị tài chính có 3 chỉ tiêu: Vốn tự có Vốn tự có Tổng số nợ Vốn vay Vốn đầu tư Tổng vốn đầu tư Hệ số nợ hay tỷ lệ vốn tự có trên vốn vay là tiêu chuẩn thường dùng để đánh giá cơ cấu vốn. Một cơ cấu vốn hợp lý theo nhìn nhận của nhà ngân hàng là 50:50, đối với dự án triển vọng có hiệu quả rõ ràng thì hệ số này có thể là : 1 : 2. Với các dự án phát triển thì hệ số này có thể thấp hơn nữa. - Xét về khả năng thanh toán của dự án phân tích khả năng thanh toán của dự án là đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hoạt động của dự án nó giúp cho việc xét đóan hiện vốn tự có và các khoản vay dài hạn có phù hợp hay không, liệu sự thiếu hụt tiền mặt có xảy ra và xảy ra sẽ được giải quyết như thế nào. Phân tích khả năng thanh toán được thực hiện trong từng năm của dự án căn cứ vào bảng dự trữ cân đối thu chi của dự án. Nếu chênh lệch thu chi là dương thì dự án có khả năng thanh toán tốt, ngược lại ngân hàng cùng doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh lại kế hoạch vay dài hạn lập kế hoạch vay tín dụng ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán cho dự án. Bảng dự trù cân đối thu chi. Đơn vị: Chỉ tiêu Năm 19... Năm 19... Năm 19... I. Số tiền thu vào 1. Doanh thu thuần 2.Vốn góp, vốn vay: + Ngắn hạn + Trung hạn + Dài hạn 3. Thu do giải toả tồn kho 4. Các khoản mua chịu 5. Nhượng bán tài sản có 6. Thu nợ 7. Thu khác II. Số tiền chi ra: 1. Chi phí sản xuất trực tiếp 2. Chi phí điều hành 3. Trả lãi vốn vay 4. Hoàn trả nợ gốc 5. Chi phí chuẩn bị đầu tu 6. chi phí mua sắm tài sản cố định 7. Vốn lưu động 8. Chi phí bổ sung tài sản có khác 9. Các loại chi phí khác III.Chênh lệch thu chi: 1. Đầu năm 2. Cuối năm Các chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ. - Vốn tự có / tổng số nợ: ít nhất là 2/1 vì phần lớn vốn riêng nằm ở tài sản cố định, khi bán chúng thủ tục khó khăn, giá hạ nên ngân hàng thường cho vay tối đa 50% kinh phí đầu tư. - Khả năng trả nợ = (hội nhuận + khấu hao ) Nợ đến hạn trả ³ 1,4 Nguồn trả nợ hàng năm được lấy từ khấu hao tài sản vay từ lợi nhuận dự án và các nguồn khác như khấu hao tài sản cố định từ vốn tự có. - Xét về hiệu quả sử dụng vốn: .Vòng quay vốn lưu động = doanh thu/vốn lưu động bình quân ³ 2á 3 . Doanh lợi trong một đơn vị hàng hoá tiền tệ = lợi nhuận thuần/ doanh thu thuần. . Tỷ suất lợi nhuận của vốn riêng = Lợi nhuận thuần/ vốn tự có. . Tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư= lợi nhuận thuần /tổng vốn đầu tư ³ 15%. Tỷ suất lợi nhuận phải cao hơn tiền gửi ngân hàng mới thu hút đựoc vốn đầu tư. * Kiểm tra các chỉ tiêu hiệu quả. - Thời gian hoàn vốn :đó là khoản thời gian dự tính cần thiết để các lượng tiền ròng của dự án đủ bù đắp vốn đầu tư ban đầu. Gọi K là tổng vốn đầu tư, T là thời gian thu hồi vốn. CFi: (lợi nhuận + khấu hao) năm i Ta có: R* (1 + r)T K = CF (1 + r)t - CF CF CF ( I + r )T = đ T = logi+r CF - rK CF - rK Đối với cá dự án dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công,trồng cây công nghiệp ngắn ngày lấy TÊ 5 năm. Đối với các dự án công nghiệp nhẹ TÊ 5 - 7 năm đối với các dự án công nghiệp nặng, cây công nghiệp dài ngày TÊ 10 năm. Đối với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng TÊ 10 - 15 năm, cá biệt có thể lớn hơn. 2f. Phân tích rủi ro dự án: Xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo an toàn tín dụng. Xác định rủi ro trước hết là để giúp doanh nghiệp đánh giá đầy đủ các khía cạnh đảm bảo an toàn cho dự án để hoàn tất dự án và có biện pháp an toàn cho đầu tư tín dụng của ngân hàng. Bất cứ yếu tố nào trong dự án chưa được phân tích đánh giá đầy đủ cũng dẫn tới rủi ro làm tăng chi phí sản xuất, kéo dài thời gian xây dựng, thời gian vay trả... các rủi ro thường tiềm ẩn ngay khi lập dự án và sẽ phát sinh thêm khi vận hành. Bởi thế cần phải biết sự biến động của kết quả tính toán các chỉ tiêu hiệu quả kinh nghiệm dự kiến về sản lượng, giá bán... thay đổi, đó chính là phân tích độ nhạy của dự án. Việc phân tích độ nhạy chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Thông thường người ta dự kiến một số tình huống thay đổi, những bất trắc xảy ra trong tương lai làm giảm sản lượng và giá bán, từ đó tính lại các ổn định và hiệu quả sẽ được chấp nhận. Mức giảm giá dùng trong phân tích độ nhạy có thể đến 25% giá trị ban đầu. Cũng có thể dùng phương pháp xác suất để đánh giá độ ổn định của dự án. Nội dung của phương pháp này là tính kỳ vọng toán học của chỉ tiêu hiệu quả và tính độ lệch tiêu chuẩn của chúng. Kỳ vọng toán học: Độ lệch tiêu chuẩn: Ri : chỉ tiêu hiệu quả tình huống i Pi : xác suất xảy ra tình huống i Độ lệch tiêu chuẩn càng nhỏ càng tốt. 2q. Phân tích hiệu quả kinh tế xã hội: Ngoài việc xác định tính phù hợp của mục tiêu dự án đối với phương hướng phát triển kinh tế quốc dân, thứ tự ưu tiên , tác dụng của dự án đối với việc phát triển ngành khác, còn cần phải thẩm tra đối chiếu các chỉ tiêu kinh tế xã hội như: - Giá trị gia tăng GDP, nguồn thu ngân sách - Khả năng thu hút lao động , công ăn việc làm - Tỷ lệ GDP/vốn đầu tư phải đạt được hai con số (%) - Các tác động khác: nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt... 2h. Phân tích về phương diện quản lý. - Thẩm định về cấu trúc thể chế quản lý bao gồm: cơ cấu những người quản lý lãnh đạo thực hiện và vận hành dự án. Trên cơ sở đó giúp nhà ngân hàng nhận định năng lực, kinh nghiệm của những người quản lý dự án. - Thẩm định các phương án đề nghị để thực hiện điều hành, duy trì dự án. Cách sắp xếp cơ cấu tổ chức quản lý có vai trò quan trọng trong sự thành công của mọi dự án. Đồng thời nó tạo niềm tin tưỏng đối với ngân hàng trước khi đưa ra quyết định cho vay vốn. 2k. Phân tích về các khoản bảo đảm tín dụng. Đối với các dự án phát triển thông thường là do chính phủ chỉ định, các ngân hàng chỉ là người đứng ra đại diện cho vay các dự án đó để vốn đầu tư thực sự có hiệu qủa. Bởi thế, hiện nay các dự án này hầu như không phải thế chấp tài sản và có thể nói nó đã được bảo lãnh bởi chính phủ. Tuy nhiên ngân hàng là người trực tiếp bỏ vốn trực tiếp thẩm định các dự án và là người có quyền cho vay hoặc không cho vay nên khi mọi khoản tín dụng nào đó không được hoàn trả thì ngân hàng là người chịu thiệt thòi, không thể nói rằng chính phủ phải đền bù được. Bởi vậy, ngân hàng phải nắm giữ được "đằng chuôi" có nghĩa là phải có khoản nào đó để đảm bảo cho món vay thì mới có thể đứng vững được. - Nếu là tài sản thế chấp cầm cố: chủ yếu là công trình của chính dự án đó, cho nên căn cứ vào các danh mục tài sản của dự án để yêu cầu bên vay thực hiện cam kết có các giấy tờ văn bản pháp lý đầy đủ. Xác định đúng giá trị của tài sản và quyền sở hữu thực sự là độc quyền. - Nếu là bảo lãnh: người bảo lãnh phải có tư cách pháp nhân đứng ra cam kết với ngân hàng là sẽ trả nợ thay người vay nếu người vay không thực hiện đúng hợp đồng tín dụng . Bởi vậy, ngân hàng phải phân tích để xác định năng lực cảu người bảo lãnh, yêu cầu làm các thủ tục thế chấp cầm cố tài sản với ngân hàng để đảm bảo cho món vay. d. Phương pháp thẩm định: 1) Thẩm định theo trình tự: Việc thẩm định đựoc tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. Thẩm định tổng quát là dựa vào các nội dung cần thẩm định để xem xét tổng quát phát hiện các vấn đề hợp lý, chưa hợp lý cần phải đi sâu thêm. Thẩm định tổng quát cho phép chúng ta hình dung khái quát về dự án, tính chất các vấn đề chủ yếu của dự án, mục tiêu dự án, các giải pháp chủ yếu, những lợi ích cơ bản. Qua đây, ta hình dung được quy mô tầm cỡ của dự án liên quan đến ngành nào, bộ phận nào và đâu là chính. Trên cơ sở đó ta mới dự kiến đựơc các công việc cần làm tiếp và những công việc đó có liên quan đến những ai để có thể hình thành đựơc công việc thẩm định tốt nhất và nhanh nhất. Thẩm định chi tiết hình thành sau khi thẩm định tổng quát, yêu cầu của thẩm định chi tiết phải có ý kiến nhận xét, kết luận đồng ý hay không, những gì cần bổ sung sửa đổi, khi soạn thảo có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn không logic, thậm chí các phép toán có thể nhầm lẫn thẩm định chi tiết không được bỏ qua những sai sót đó. 2) Phương pháp so sánh các chỉ tiêu: Những nội dung có thể định lượng được trong dự án thường được tính toán và thể hiện bằng các chỉ tiêu. Có rất nhiều loại chỉ tiêu , mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa khác nhau. Thẩm định thường sử dụng các phương pháp so sánh các chỉ tiêu dự án với các chỉ tiêu chuẩn, hạn mức định mức để đánh giá tính hợp lý của dự án. Trong một tập hợp rất nhiều loại chỉ tiêu của dự án cần căn cứ vào từng loại dự án để xem xét kỹ, điều này giúp cho việc thẩm định đi đúng trọng tâm, rút ngắn được thời gian mà vẫn đáp ứng được yêu cầu chất lượng thẩm định những chỉ tiêu đó có thể là những chi tiêu thuộc về bản chất, cũng có thể là những chỉ tiêu liên quan đến các vấn đề khó khăn thường gây tranh luận hoặc những vấn đề mà được nhà nước rất quan tâm. 2. Lãi suất , hạn mức cho vay, thời hạn cho vay a) Lãi suất Lãi suất là giá cả của món vay, khi một dự án sử dụng vốn vay nó phải chịu một lãi suất nhất định cho việc sử dụng nguồn vốn này. Lãi suất phải trả cho Ngân hàng được tính vào chi phí hợp lý của dự án. Điều đó chứng tỏ rằng với một dự án nhất định, nếu vay vốn ở một lãi suất thấp thì chi phí trả lãi sẽ thấp hơn dẫn đến làm giảm chi phí cho toàn bộ dự án từ đó tăng khả năng thu nhập từ dự án . Như vậy, khi một dự án được vay với lãi suất càng thấp thì tính khả thi của dự án càng cao. Có rất nhiều dự án nếu tính toán hiệu quả kinh tế theo lãi suất này thì không thể vay được nhưng nếu tính toán với lãi suất thấp hơn thì dự án lại khả thi. Đối với các dự án phát triển mà khả năng sinh lời rất thấp, nếu tính toán hiệu quả kinh tế của các dự án phát triển theo lãi suất trên thị trường thì không thực hiện được. Chính vì thế, để các dự án phát triển được vay vốn, được triển khai thì cần phải có một sự tài trợ; sự ưu đãi nhất định. Các dự án này cần được vay với một lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Mức độ ưu đãi phụ thuộc vào hiệu quả xã hội mà dự án sẽ mang lại chứ không phải bất kỳ dự án phát triển nào cũng được ưu đãi như nhau. Vấn đề quan trọng là làm sao để ngân hàng có thể cho vay với một lãi suất thấp như vậy mà đảm bảo khả năng sinh lời,cho ngân hàng với một NHTM thuần tuý thì không thể làm được điều này, bởi vì lãi suất mà các dự án này có thể vay được thường thấp hơn lãi suất mà nó huy động trên thị trường (với cùng thời hạn vay của dự án) cho nên lãi của NHTM thu được từ dự án không đủ bù đắp chi phí về lãi mà ngân hàng phải trả thì còn nói gì đến sinh lời của ngân hàng. Lúc này chỉ có NHĐT và phát triển mới đảm nhận được trách nhiệm này. NHĐT & PT có khả năng tìm kiếm được các nguồn tài trợ với chi phí rất thấp từ các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ trên thế giới. Từ đó, ngân hàng sẽ tạo ra một chi phí bình quân đầu vào thấp hơn bất cứ một NHTM nào và thực hiện cho vay các dự án phát triển mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Lãi suất NHĐT và phát triển cho các dự án phát triển càng thấp bao nhiều chứng tỏ rằng hoạt động của ngân hàng càng hiệu quả bấy nhiều. Không những thế, lãi suất càng thấp thì càng nhiều dự án có tính khả thi và ngân hàng sẽ cho vay được càng nhiều, tạo ra khả năng sinh lời càng cao cho cả dự án và cả ngân hàng. Lãi suất cho vay các dự án phát triển là thước đo cho khả năng hoạt động tìm kiếm nguồn vốn và hiệu quả cho vay của các dự án. Lãi suất cho vay thấp mà ngân hàng vẫn hoạt động tốt, vẫn tồn tại có nghĩa là ngân hàng làm ăn thực sự có hiệu quả. Lúc này sẽ đảm bảo cả khả năng sinh lời và khả năng phát triển cho ngân hàng. b) Hạn mức vay vốn: Hạn mức vay vốn thể hiện quy mô hoạt động của ngân hàng. Đối với cá dự án phát triển thường lớn đòi hỏi một nguồn vốn nhiều mà không một cá nhân nào có thể đáp ứng được. Khi vốn đầu tư vào các dự án không đủ thì tất nhiên là dự án không thể thực hiện được cho dù dự án đó mang lại cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội rất cao. Một ngân hàng với hạn mức vay vốn cao có nghĩa là có khả năng đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nhiều dự án vì thế khả năng cho vay được nhiều hơn. Và như vậy nó không để mất cơ hội cho vay các dự án mang lại hiệu quả cho đất nước, có tính chất xã hội cao như những công trình lớn mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế: dự án đường dây tải điện 500 KV, dự án trồng rừng bảo vệ môi trường ... tạo ra nhiều khả năng sinh lời. Hiệu quả của dự án cũng chính là hiệu quả của ngân hàng. Thực tế đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều dự án phát triển khi thẩm định hoàn toàn có hiệu quả , có tính khả thi lớn song do thiếu vốn, do cung cấp vốn không kịp thời đầu tư theo kiểu "nhỏ giọt" đã làm cho dự án dở dang hoặc có hoạt động thì cũng không hiệu quả vì đến lúc đủ vốn cho dự án vận hành thì thời cơ đã bị mất. Khi một ngân hàng có hạn mức vay vốn cao, có nghĩa là có nguồn vốn lớn, hạn mức vay vốn cao không chỉ phản ánh độ bền vững của ngân hàng mà còn phản ánh được cơ hội sinh lời hay hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển của ngân hàng. Để có được những hạn mức cho vay vốn lớn ngân hàng phải tìm kiếm được nguồn vốn lớn từ các tổ chức tài trợ. Cá tổ chức này chỉ cho ngân hàng vay nhiều khi họ thấp rằng NH thực sự làm ăn có hiệu quả các dự án phát triển mà ngân hàng cho vay là tốt và thu hồi được vốn . c) Thời hạn vay vốn: Đã là dự án thì không thể ngày 1 ngày 2 mà xong được, với các dự án phát triển thì lại càng đòi hỏi thời gian dài hơn .Từ khi hình thành ýtưởng về dự án cho đến khi lập xong báo cáo khả thi, qua cá cấp xét duyệt được thực hiện phải mất hơn một năm và khi xây dựng hoàn thành xong công trình thì phải thêm vài 3 năm nữa mới vận hành được tất nhiên thành quả đó phải được sử dụng và đem lại lợi ích trong thời gian rất dài. Như trên đã nói , nguồn vốn mà ngân hàng cho vay dự án là lớn, chính vì thế thời gian thu hồi vốn không phải là ngắn, các dự án càng lớn thì thời gian vay vốn đòi hỏi càng dài vì phải cần nhiều năm mới trả được hết lượng vốn vay. Như chúng ta đã biết, thời hạn cho vay thưòng tỷ lệ thuận với độ rủi ro của ngân hàng . Ngân hàng cho vay một dự án với nguồn vốn lớn, thời hạn dài thì độ rủi ro rất cao, thông thường nó được đánh đổi bởi một lãi suất cho vay rất cao. Song đây là các dự án phát triển cho nên không thể nâng lãi suất cho vay lên được. Khi ngân hàng đã hạt động đạt được tới mức thời hạn cho vay dài có nghĩa là ngân hàng đã có một cái gì đó khá chắc chắn để đảm bảo rằng món vay này sẽ được hoàn trả như trong hợp đồng. Các khoản đảm bảo này có thể là được thực hiện công tác thẩm định tốt cho nên những dự kiến là khả thi, quản lý cho vay tốt cho nên nếu có bất trắc xảy ra có thể xử lý kịp thời thu hồi được món mợ và cũng có thể là các khoản đảm bảo cho món vay này tốt... nói chung thời hạn cho vay càng dài thì càng chứng tỏ được rằng hiệu quả cho vay các dự án phát triển của ngân hàng là tốt. Bên cạnh đó, cùng một dự án nếu thời hạn cho vay ngắn hơn thì không thể cho vay được vì lúc đó dự án chưa đủ thời gian thu hồi vốn, thậm chí nếu huy động từ các nguồn khác cũng không đủ để trả nợ trong khoảng thời gian đó. Bởi vậy thời gian vay vốn càng dài thì càng có nhiều dự án được vay hay nói cách khác ngân hàng càng có điều kiện cho vay nhiều hơn càng tạo ra khả năng sinh lời cho ngân hàng. Nói tóm lại, hiệu quả cho vay các dụ án phát triển ở ngân hàng không chỉ được xem xét trên góc độ là dự án đó sẽ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, sẽ thu hồi được vốn như cam kết mà nó còn được đo bởi giá trị mà dự án sẽ mang lại cho nền kinh tế quốc dân , cho xã hội. Chính vì thế với một lãi suất thấp với một hạn mức cho vay cao, thời hạn vay vốn dài ngân hàng đã tạo ra cho các dự án phát triển một khả năng sinh lời cao hơn, sẽ mang lại cho xã hội một cuộc sống đầy đủ phồn vinh hơn và một lần nữa chúng ta phải khẳng định rằng hiệu quả của dự án cũng chính là hiệu quả của ngân hàng. Ngân hàng cho vay các dự án phát triển với lãi suất thấp, hạn mức cao, và thời gian dài còn phản ánh được khả năng tìm kiếm các nguồn tài trợ, khả năng quản lý tài sản nợ rất tốt vì ngân hàng chủ yếu là sử dụng tiền từ các nguồn này để cho vay các dự án phát triển. 3. Quản lý món vay a) Vai trò của quản lý món vay: Sau khi thực hiện công tác thẩm định, xét duyệt, ký kết hợp đồng tín dụng ngân hàng thực hiện công tác phát tiền vay và sau đó là thu hồi vốn vay. Giai đoạn thẩm định chỉ là quá trình kiểm tra xem xét đánh giá khả năng trả nợ của dự án, tất cả chỉ là dự tính. Còn giai đoạn này ngân hảng mới thực sự bỏ tiền ra cho dự án. Giai đoạn quản lý món vay này rất quan trọng vì các rủi ro thường xảy ra ; các rủi ro tiềm ẩn trong lúc thẩm định đến bây giờ mới bộc lộ rõ công tác quản lý món vay kéo dài suốt qúa trình thực hiện dự án, vận hành dự án đến khi trả hết nợ gốc, lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Mục đích của quản lý món vay là để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng được thực hiện theo đúng ký kết. Nói cách khác là ngân hàng thu hồi được nợ và lãi như dự kiến. Khi thẩm định dự án, tất cả những gì mà ngân hàng xem xét và đánh giá chỉ là dự kiến không có gì đảm bảo chắc chắn rằng khi dự án đi vào vận hành đúng như dự kiến cả. Chính vì thế, ngân hàng phải luôn giám sát dự án để đánh giá được mức độ rủi ro của dự án, đặc biệt là các rủi ro tiềm ẩn để nhanh chóng có biện pháp giải quyết kịp thời. Việc quản lý món vay không chỉ giúp cho ngân hàng bảo toàn vốn, có được lợi nhuận mà còn giúp cho doanh nghiệp tránh được những rủi ro đáng tiếc. Chính sự quản lý thường xuyên chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng nhìn nhận nhanh chóng những sai lệch trong quá trình xây dựng và vận hành dự án. Từ đó ngân hàng sẽ tư vấn cho doanh nghiệp, cùng với doanh nghiệp tìm ra những giải pháp nhanh nhậy và hữu hiệu nhất để hạn chế tới mức tối đa mọi tình huống không tốt xảy ra. Quá trình quản lý món vay sẽ mang lại cho ngân hàng và dự án một sự an toàn rất lớn, kể cả khi vận hành dự án không hiệu quả thì việc quản lý món vay sẽ giúp cho ngân hàng và dự án bớt thiệt hại hơn. Quá trình quản lý món vay chính là quản lý theo dõi đồng tiền mà bản thân ngân hàng đã bỏ ra, chính vì thế giai đoạn này vô cùng quan trọng mà ngân hàng không thể xem nhẹ được. b) Quy trình quản lý món vay. 1b. Những công việc phải thực hiện ngay. - Nhận hồ sơ pháp lý để mở tài khoản vay, tiền gửi. - Thực hiện các điều kiện tiên quyết đã được xác định và thoả thuận trong hợp đồng. + Bổ sung vốn tự có + Gửi vốn tự có để đầu tư + Chuyển tiền ký quỹ L/C + Giao nhận hồ sơ giấy tờ bảo hành thế chấp. + Lập hồ sơ theo dõi, phát tiền vay + Mở sổ theo dõi công trình. 2.b. Phát tiền vay. Thực hiện theo quy tình tín dụng quy định để thực hiện tốt việc phát vốn vay cần đi sâu phân tích cụ thể những điểm sau: - Xác định cụ thể các hình thức phải thanh toán trong hợp đồng với đối tác của người vay và của hợp đồng với đối tác của người vay và của hợp đồng tín dụng và trên các nguyên tắc thanh toán hiện hành hướng dẫn doanh nghiệp lựa chọn hình thức thanh toán thích hợp, an toàn để thực hiện phát vay ít rủi ro nhất. + Phát tiền vay và nước ngoài: . Mua bán và thanh toán ngoại tệ mua . Chuyển tiền điện. . Mở L/C nhập thiết bị,công nghệ, hàng hoá , nguyên nhiên vật liệu. . Trả nợ nước ngoài theo hiệp định tài trợ XNK, theo hợp đồng vay trả chậm có bảo lãnh. + Phát tiền vay trong nước . Chuyển tiền ứng trước . Chuyển trả từng lần theo hợp đồng. . Chuyển khoản từng lần. . Trả bằng séc. . Trả bằng tiền mặt, ngân phiếu (rất hạn chế... chi cho đúng các nhu cầu bắt buộc phải chi bằng tiền mặt, ngân phiếu). - Xem xét cụ thể các nội dung và các chứng từ phát vay cho từng loại khối lượng, công việc, dịch vụ : xây lắp, thiết bị và chi phí khác theo đúng quy định về thanh toán và đảm bảo về mặt pháp lý khi phát tiền. Khi xét thấy các điều kiện phát vay, nội dung phát vay và các chứng từ phát vay không hợp lệ, hợp pháp, không đủ pháp lý thì phải báo cáo lãnh đạo để xử lý. - Mỗi lần phát vay cán bộ tín dụng yêu cầu doanh nghiệp ký nhận nợ trên bản kê nhận tiền vay và trả nợ trong hợp đồng tín dụng do kế toán giữ và phải ghi vào bản kê nhận tiền vay và trả nợ trong hợp đồng tín dụng do tín dụng giữ khớp đúng với bản kê trong hợp đồng kế toán giữ và ghi vào sổ theo dõi công trình. - Về nguyên tắc tiền vay phải chuyển trả thẳng cho người được thụ hưởng theo chế độ thanh toán. 3b. Kiểm tra đảm bảo nợ vay: - Cán bộ tín dụng có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra sự việc sử dụng vốn đã cho vay ra, đối chiếu tiền vay với tài sản được đầu tư là tài sản đảm bảo nợ vay. Nếu phát hiện thấy doanh nghiệp sử dụng sai mục đích, vốn vay thiếu tài sản đảm bảo thì có trách nhiệm báo cáo kịp thời với lãnh đạo để xử lý và áp dụng các chế tài tín dụng đã thống nhất ghi trong hợp đồng tín dụng. - Kiểm tra định kỳ tình hình phát vốn vay và tình hình đầu tư, tình hình vận hành dự án trong sản xuất kinh doanh. Mỗi lần kiểm tra đều phải có biên bản kiểm tra (nếu có phát sinh những vấn đề vi phạm hoặc thực hiện không đúng hợp đồng tín dụng).hoặc phiếu tự kiểm tra nếu kiểm tra không có vấn đề gì xảy ra để lưu vào hồ sơ tín dụng. - Thực hiện việc kiểm tra trước, trong và sau trong việc phát tiền vay, sử dụng vốn vay và trả nợ vay. 4b. Thu nợ, thu lãi: - Chuẩn bị đến thời kỳ hạn trả nợ gốc và lãi cán bộ tín dụng phải lập và gửi phiếu báo nhắc thu nợ để doanh nghiệp chuẩn bị trả và đôn đốc doanh nghiệp trả nợ đúng hạn. - Tính toán và theo dõi nợ gốc và lãi trong sổ theo dõi công trình khớp đúng với số hạch toán và tính lãi của kế toán. - Theo dõi nợ quá hạn khê đọng, khó đòi và các nguyên nhân dẫn đến nợ để báo cáo lãnh đạo có biện pháp xử lý kịp thời với doanh nghiệp: ngừng quan hệ tín dụng, yêu cầu người bảo lãnh trả thay, áp dụng chế tài tín dụng theo hợp đồng tín dụng đã thoả thuận về phát mại tài sản thế chấp cầm coó để thu hồi nợ. 5b. Phân tích tín dụng thường xuyên. Việc phân tích tín dụng không phải chỉ thực hiện khi xem xét cho vay mà phải tiếp tục thực hiện phân tích thường xuyên trong suốt quá trình từ khi phát vốn vay đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Mục đích của việc phân tích tín dụng thường xuyên là để nắm tình hình, xử lý các phát sinh trong quản lý tín dụng, các rủi ro phát sinh, phục vụ cho viẹc theo dõi nợ, thu lãi và khi phải điều chỉnh bổ sung hợp đồng tín dụng, bảo lãnh , thế chấp , cầm cố. - Tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình quản lý , tình hình thực hiện nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, tình hình các vụ việc xảy ra mà có yêu cầu và mức độ phân tích tín dụng khác nhau: + Phân tích tức thời (để xử lý vụ việc) + Phân tích tổng thể (để đánh giá lại toàn bộ) + Phân tích định kỳ( để theo dõi thường niên) - Việc phân tích tín dụng thường xuyên cũng được thực hiện cho doanh nghiệp và cho dự án. - Cán bộ tín dụng phải định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm thực heịen việc phân tích thông qua việc tính toán các chỉ số và hệ số tác nghiệp trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để theo dõi và nắm được tình hình sản xuất kinh doanh. - Phát hiện các tiềm ẩn rủi ro và các biện pháp phòng ngừa. - Phân tích để xác định tình trạng của người bảo lãnh về khả năng đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh. 6b. Xử lý tín dụng: - Xử lý tín dụng là vấn đề thường xuyên trong quản lý tín dụng từ khi ký hợp đồng đến khi._.m túc chế độ quản lý của ngân hàng. 2) Việc đầu tư cải tạo, mở rộng nhà máy xi măng Yên Thế giai đoạn III để hoàn thiện đồng bộ dây chuyền nâng cao công suất từ 20.000T/năm lên 40.000T/năm là đúng chủ trương của nhà nước về phát triển ngành xi măng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong nước. Đồng thời nhà máy xi măng Yên Thế lại nằm trên địa bàn miền núi là điều kiện thuận lợi cung cấp xi măng để phát triển kinh tế miền núi, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng nguồn nộp ngân sách nhà nước. Với một dự án mang tính khả thi đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật giai đoạn III nâng công suất lên 40.000T/năm, chi nhánh Thanh trì xét thấy dự án cải tạo mở rộng nhà máy xi măng Yên Thế giai đoạn III của công ty xây lắp công trình lâm nghiệp đối với số vốn vay là 4.000 triệu đồng là đúng đắn và có hiệu quả. Chi nhánh bảo đảm thu nợ gốc và lãi theo đúng hạn như cam kết thực hiện việc cho vay đúng các quy định của ngành và nhà nước. II/ Quản lý món vay của dự án đầu tư chiều sâu giai đoạn III nhà máy xi măng Yên Thế 1. Thực hiện phát vay Hiện nay dự án vẫn đang nằm trong giai đoạn phát vay, mặc dù trong hợp đồng tín dụng thì thời hạn phát vay đã kết thúc. Tính đến ngày 10-4-1998 dư nợ vay của dự án là 2.589.150 nghìn đồng. Việc phát vay đã được thực hiện như sau: (Bảng phát vay, trang sau) 2. Kiểm tra bảo đảm nợ vay: Mỗi lần phát vay cán bộ tín dụng đều xuống doanh nghiệp kiểm tra đối chiếu tiền vay với tài sản được đầu tư cũng chính là tài sản đảm bảo nợ vay cho thấy doanh nghiệp sử dụng vốn vay hoàn toàn đúng mục đích. Tiêu chuẩn về kỹ thuật được ký kết bảo đảm trong hợp đòng mua bán giữa 2 bên. Do chưa kết thúc quá trình vay nên hiẹn nay chưa có biên bản kiểm tra bảo đảm nợ vay. 3. Thu nợ, thu lãi Đến kỳ thu lãi (hàng tháng) cán bộ tín dụng thường điện thoại cho doanh nghiệp trước 2-3 ngày để nhắc nhở doanh nghiệp nộp lãi, nếu cần thiết có thể gửi phiếu báo nhắc doanh nghiệp trả lãi. Đến hạn thu nợ gốc (dựa vào cam kết trong hợp đồng) cán bộ tín dụng lập và gửi phiếu báo nhắc nợ trước 10-15 ngày để doanh nghiệp chuẩn bị trả. Theo như hợp đồng tín dụng đã được ký kết thì quý IV/1997 doanh nghiệp phải trả nợ gốc cho ngân hàng là 100 triệu đồng. Song do tình hình tiêu thụ trên thị trường là rất ít, sản phẩm sản xuất không bán được do hiện nay (trong năm 1997) cung về xi măng lớn hơn cầu cho nên mọi nha fmáy sản xuất xi măng hầu như bị đình trệ. Do đó doanh nghiệp chưa có đủ tiền để trả nợ gốc cho ngân hàng. Hơn nữa hiện nay phát huy chưa xong, công suất không đạt được như dự kiến do đó không đủ để trả nợ cho ngân hàng. Căn cứ vào nguyên nhân không trả được nợ, ngân hàng thấy rằng doanh nghiệp không trả được nợ là do yếu tố khách quan, cho nên cho phép doanh nghiệp được gia hạn nợ. Ngày 31/12/1997 doanh nghiệp và ngân hàng đã lập hợp đồng tín dụng bổ sung để điều chỉnh thời gian trả nợ vay: 100 triệu đồng phải trả vào quý IV/1997 đã được chuyển sang trả vào quý IV/1998. Và như vậy vào quý IV/1998 công ty xây lắp công trình lâm nghiệp phải trả nợ cho ngân hàng khoản tiền là 300 triệu đồng. 4. Phân tích tín dụng thường xuyên Kể từ lúc hợp đồng tín dụng được ký kết (ngày 20-6-1997) ngân hàng chưa lần nào thực hiện việc phân tích tín dụng thường xuyên. Bởi vì hiện nay việc phát huy sản xuất song chưa đầy đủ thiết bị như trong luận chứng đã được phê duyệt (tức là dủ như danh mục đầu tư đã thoả thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng). Theo như hợp đồng ký kết việc phát vay phải kết thúc vào tháng 10/1997 nhưng đến nay phải kết thúc vào tháng 10/1997 nhưng đến nay vẫn chưa xong. Dư nợ tín dụng của dự án tính đến này 15/5/1998 là 2.589.150.000đ. Còn về vấn đề phân tích doanh nghiệp thì ngân hàng cũng không thực hiện vì công ty xây lắp công trình lâm nghiệp vẫn là một bạn hàng thường xuyên vay vốn lưu động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì, do đó ngân hàng vẫn thường xuyên theo dõi hoạt động của công ty này. III/ Những mặt còn hạn chế trong quá trình cho vay dự án đầu tư chiều sâu nhà máy xi măng Yên Thế. Nâng công suất từ 20.000T/năm lên 40.000T/năm 1. Công tác thẩm định Dự án này được nằm trong kế hoạch của nhà nước, mục tiêu của nó thiên về lợi ích xã hội nhiều hơn do đó việc thẩm định dự án chưa được coi trọng và thực hiện đúng mức như cần phải có. Trong vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp: việc phân tích về định lượng chưa được chú ý nhiều. Chẳng hạn như tính toán các chỉ cố tác nghiệp chung: tính toán về các hệ số phản ánh khả năng sinh lời, khả năng thanh toán... để xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp. VD: Hệ số sinh lời được đo bằng: lợi nhuận/vốn đầu tư Năm 1996 là: 110/2105 = 0,052 = 5,2% Năm 1995 là: 84/738 = 0,1138 = 11,38% Như vậy cứ 100 đồng vốn bỏ ra thì lãi thu về là 5,2 đồng như vậy thì tỉ suất lợi nhuận của doanh nghiệp so với ngân hàng (lãi suất 0,81%/tháng tức là 9,72%/năm) thì thấp hơn và một điểm mà ngân hàng chưa lưu ý đó là: nhìn về giá trị tuyệt đối lợi nhuận có tăng song về giá trị tương đối thì giảm mạnh: từ 11,38% xuống chỉ còn 5,2%. Và nếu hệ số phản ánh khả năng sinh lời được đo bằng lợi nhuận/tổng doanh số bán hàng thì cũng cho ta thấy được là tỷ lệ này không được cao: năm 1996 là (110/13172) x 100 = 0,83% ã Xét về tình hình công nợ cho ta thấy các khoản phải trả luôn lớn hơn các khoản phải thu, đành rằng các khoản này chủ yếu là phải trả và phải thu nội bộ nhưng căn cứ vào bảng cân đối kế toán cũng thấy được các khoản phải thu của khách hàng chứ không riêng gì của nội bộ. ã Xét về sản lượng chứ không riêng gì của nội bộ năm 1996 về số tuyệt đối: từ 9300 nghìn tấn lên 10500 nghìn tấn song về tỷ lệ tiêu thụ so với sản lượng sản xuất thì bị giảm: từ (9300/10500)x100 = 88,57% xuống còn (10500/12000) x 100 = 87,5%. Như vậy tốc độ tiêu thụ xi măng đã bị giảm. Trong điều kiện sản lượng sản xuất 12000 nghìn tấn ở năm 1996 mà tốc độ lớn bán đã bị giảm, hàng không bán hết thì liệu rằng nâng công suất lên 40.000 nghìn tấn/năm có tiêu thụ được sản phẩm hay không? ã Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp, ngân hàng đã bỏ qua một chỉ tiêu quan trọng đó là hệ số về khả năng thanh toán. Tài sản có vãng lãi = Phải thu khách hàng + Tiền mặt + NVL và hàng tồn kho + + + Tài sản nợ vãng lai Phải trả người bán Vay ngắn hạn và nợ dài hạn đến hạn phải trả Thuế phải nộp Các khoản phải trả Năm 1995 là: 545750 + 859485 + 464492 +170720 3945332 = = 0,89 1044072 + 119406 + 4032249 + 54377 + 375 + 2784879 4406358 Năm 1996 là: 694827 + 795297 + 94911 +665124 + 228647 2478806 = = 0,89 2992404 + 397125 + 208189 + 105486 + 375 + 1443299 5146968 Như vậy xét về khả năng thanh toán của công ty xây lắp công trình lâm nghiệp là rất thấp và bị giảm mạnh từ 1995 là 0,89 xuống còn 0,48 ở năm 1996. Đây là vấn đề lo ngại về sự mất khả năng thanh toán. Trong khi đó trên bảng tổng kết về chỉ tiêu về nợ quá hạn là không có, như vậy thì những số liệu có chính xác không. Theo tôi, ngân hàng đã bỏ qua một chỉ tiêu khá quan trọng khi phân tích tình tài chính. - Trong vấn đề phân tích dự án, ngân hàng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về các vấn đề cần phải thẩm định mà phần lớn dựa vào các tính toán, cách xem xét của bản thân chủ dự án. Chẳng hạn ở phần nghiên cứu thị trường sản phẩm sản xuất ngân hàng đã bỏ qua một chi tiết khá nhỏ song theo tôi đó lại dẫn đến một trong những nguyên nhân lớn cho sự hoạt động không hiệu quả hiện naylà: trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của bản thân chủ dự án đã nêu rõ ràng đã có một số nơi mở rộng sản xuất xi măng như Thanh Ba - Vĩnh Phú từ 60.000T/năm lên 100.000T/năm, ở nhà máy Hệ Dưỡng - Ninh Bình đã cải tạo từ 20.000T/năm lên 60.000T/năm và Tuyên Quang chỉ thấy rằng mình cũng cần phải cải tạo nâng công suất và chất lượng lên để tăng sức cạnh tranh mà không thấy được rằng mình chỉ là một cơ sở sản xuất xi măng địa phương, sức cạnh tranh kém hơn rất nhiều so với các cơ sở trung ương đã có uy tín lâu năm, thêm vào đó việc mở rộng công suất của các nhà máy trên sẽ là một sức cản lớn trong việc nhà máy xâm nhập sản phẩm của mình vào thị trường mới, trong khi thị trường cũ sản lượng sản xuất ra chưa bao giờ tiêu thụ hết. * Việc tính toán hiệu quả kinh tế của dự án vẫn sử dụng theo phương pháp giản đơn, tính theo cách tính bìh quân để xác định thời gian vay vốn. Bên cạnh đó trong cách tính này còn có nhiều điểm chưa sát với thực tế như: tính số lợi nhuận làm ra trong 1 năm vẫn tính là công suất của máy đạt được 40.000T/năm trong khi đó nhà máy này đã cải tạo đến giai đoạn III, vừa sản xuất vừa cải tạo, đầu tư máy mới trong bộ phận này thì máy đã được đầu tư ở bộ phận khác đã bị cũ chính vì thế không có sự đồng bộ trong dây chuyền sản xuất thì không bao giờ có thể đạt công suất là 40.000T/năm và như vậy nếu tính toán theo cách trên thì vô tính ngân hàng đã làm tăng thêm khả năng sinh lời của dự án lên rất nhiều., đó là chưa nói tới lợi nhuận cho 1 tấn xi măng như dự trù là một con số khó có thể đạt được. ã Việc tính 90% lợi nhuận sau thế để trả nợ ngân hàng cũng là một vấn đề cần xem xét lại, nó có cái gì đó hơi mang tính đối phó của chủ dự án để có thể vay được vốn. Với một con số lãi lớn như vậy (600 triệu đồng/năm) thì liệu rằng doanh nghiệp sẽ thực hiện đúng như cam kết hay không, và cả việc tính toàn bộ khấu hao tài sản cố định từ vốn tự có để trả nợ cho ngân hàng cũng là điều khó thực hiện. ã Tính toán hiệu quả kinh tế của dự án theo cách 2 là ít được sử dụng, hầu như là không, chính vì thế mà cán bộ tín dụg thường không tư mình xem xét mà dựa chủ yếu vào doanh nghiệp chỉ có đỏm nào quá bất hợp lý mới được xem xét và điều chính, chẳng hạn như trong mục chi phí thiếu hẳn phần chi phí quảnlý doanh nghiệp, trong bảng chỉ tính được một phần đó là khấu hao và lãi vay. Và như vậy thì sẽ làm tăng lợi nhuận lên trong khi thực tế nó không thể đạt được. Trong mục nguồn trả nợ, phần khấu hao là phần trích chung bao gồm cả vốn vay và vốn tự có nhưng doanh nghiệp lại cho rằng đó chỉ là phần trích từ tài sản sử dụng vốn vay: ví dụ năm 1997, phần trích khấu hao cho mỗi đơn vị sản phẩm là 50.000đ, sản lượng sản xuất là 20.000 tấn như vậy tổng số khấu hao đã được tính vào giá thành là 50.000 x 20.000 = 1 triệu đồng là bao gồm cả tài sản vốn vay và tài sản hình thành vốn tự có nhưng theo như bảng tính toán thì 1 triệu đồng này chỉ là phần khấu hao tài sản vay chứ không phải là cả 2, vậy thì 20.000 đồng ở mục khấu hao tài sản cố định ở đâu ra? Hơn thế nữa sản lượng tiêu thụ là 18.500 tấn thì phần khấu hao được trích ra để trả nợ chỉ được tính trên sản lượng tiêu thụ chứ tại sao lại tính trên sản lượng sản xuất vì thực tế là có bán được hàng đâu mà đòi phần khấu hao. Tôi thấy rằng điểm bất hợp lý rất rõ mà ngân hàng đã không nhận thấy do đó đã sợ tình trạng làm tăng nguồn trả nợ, tăng khả năng thanh toán cho dự án và dẫn đến tăng tính khả thi cho dự án. Và tất nhiên sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm và rất có thể sẽ cho vay kém hiệu quả. Đó là chưa xét đến những con số dự đoán ở trong bảng là có thể khả thi hay không? Hay chỉ là những "con số ma" để làm giảm chi phí thực tế, tăng doanh thu thực tế để có thể tăng lợi nhuận và tăng khả năng thanh toán, tăng nguồn trả nợ... nói tóm lại là mục đích để có thể vay được vốn. Bên cạnh đó những con số này còn tính toán sai phép toán: như năm 1999 lợi nhuận trước thuế là: 34.000 x (600 - 579) = 714.000 nghìn đồng nhưng trong bảng lại ghi là 735.000nghìn đồng. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề cần xem xét lại trong việc thẩm định dự án song do sự hạn chế về mặt thời gian, về thông tin, về kiến thức thị trường, kỹ thuật, xã hội nên cán bộ tín dụng đã không lường hết được mọi khả năng. Nói chung cần phải có một cái nhìn tổng quan, đây là một đòi hỏi rất lớn cho một cán bộ tín dụng. 2. Công tác quản lý món vay Nhìn chung việc quản lý khoản vay này được thực hiện khá nghiêm túc và chặt chẽ: cán bộ tín dụng thường xuyên xuống nhà máy để kiểm tra tình hình hoạt động, cho chúng ta thấy rằng được các cán bộ tín dụng ở Ngân hàng Đầu ta và Phát triển Thanh Trì là những người có trách nhiệm và thực sự là tâm huyết với nghề nghiệp. Thực hiện việc phát vay đúng với nguyên tắc, đúng chế độ, kiểm tra bảo đảm nợ vay hết sức chặt chẽ và chi tiết, việc thu nợ, thu lãi được nhắc nhở và hối thúc thường xuyên và đã không ngừng theo dõi sát sao mọi hoạt động sản xuất của chủ dự án và doanh nghiệp. Những công tác này đã làm hạn chế rất nhiều cho món vay của ngân hàng tránh được các rủi ro tiềm ẩn và có điều kiện để xử lý kịp thời mọi biến cố và bất trắc xảy ra. Chỉ có điều là việc thẩm định dự án không chính xác sẽ gây ra nhiều bất trắc và do đó dẫn đến việc quản lý món vay gặp nhiều khó khăn gây nên những sai lệnh so với dự án của ngân hàng và làm cho những điều khoản được thoả thuận như trong hợp đồng không được đảm bảo như tiến độ phát vay trong hợp đồng ghi rõ thực hiện xong trong vòng 4 tháng (tức là hết tháng 10/1997) nhưng đến nay mới chỉ có 2.589.150 nghìn đồng được phát vay. Điều này sẽ làm cho giai đoạn vận hành của dự án bị chậm lại, khoản phải trả cho quý IV/1997 đã chậm sau một năm, không hiểulà 100 triệu cam kết trả vào quý II/1997 có thực hiện được không? Vì hiện nay công suất chỉ đạt 12.000T/năm còn chưa bằng trước khi cải tạo là 20.000T/năm. Nguyên nhân chính của việc giảm công suất này là đầu tư không đồng bộ, khi mua cái này mới thì cái kia đã hao mòn một phần nên nó không đảm bảo đủ công suất; đồng thời vừa sản xuất vừa cải tạo xây dựng thì cũng làm ảnh hưởng đến công suất. Bên cạnh đó không thể không nói đến vấn đề thị trường tiêu thụ chậm, nâng công suất lên sẽ làm ứ đọng hàng dẫn đến ứ đọng vốn, như vậy chắc gì đã tốt hơn. Vấn đề chính hiện nay là không hiểu được máy không đạt được công suất cao hơn hay là muốn sản xuất với công suất cao hơn. Với tình hình này rất có thể doanh nghiệp sẽ nhận đủ sự phát vay vì công suất của máy khó có thể đạt được cao hơn và cao hơn chưa hẳn đã cải tạo được khả năng thanh toán, biết đầu càng làm cho cho nó xấu đi, chẳng hạn chúng ta ngồi đợi thời gian trả lời hay sao? Vì vậy với dự án này, theo tôi cần phải tìm hiểu rõ thêm nguyên nhân chính của việc gia hạn để có biện pháp xử lý kịp thời, đừng để cho nó quá muộn thì mọi việc sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều. Chương III Những vấn đề còn tồn tại về hiệu quả cho vay dự án phát triển và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án phát triển tại NHĐT & PT Hà Nội - chi nhánh Thanh Trì I/ Những vấn đề còn tồn tại Đất nước ta đang trong quá trình chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nói theo quan điểm của triết học thì chúng ta đang ở trong giai đoạn tíchluỹ vềlượng để đến một "điểm nút" nhảy vọt đưa Việt Nam trở thành một con rồng mới trong khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Trong giai đoạn quá độ này, cái cũ bị dập tắt nhưng chưa tắt hẳn, cái mới đang nảy sinh phát triển nhưng chưa đầy đủ, mọi giá trị dường như bị đảo lộn, đan xen vào nhau. Nói cụ thể hơn là trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị xã hội thể chếp pháp lý còn chưa đồng bộ, cụ thể hoá nếp nghĩ, cách làm, phương thức quản lý cũ còn len lỏi, thậm chí còn in đậm trong một bộ phận nào đó của con người Việt Nam. Với những người làm công tác tín dụng nói riêng, chủ ngân hàng nói chung điều tối quan trọng là phải có tầm "nhìn xa trông rộng" thâu tóm được những gì đã xảy ra ảnh hưởng của nó là nguy cơ hay cơ hội cho ngân hàng để từ đó có các biện pháp kịp thời. Nói như vậy không có nghĩa là cán bộ tín dụng có thể "tưởng tượng" ra các tình huống trong tương lai mà từ những gì hiện có, đã có và bằng tư duy sáng tạo, bằng những phương pháp luận khoa học tìm ra những hạn chế và dự đoán được những rủi ro. Cán bộ tín dụng phải thực sự là những người "miệng nói tay làm". Nhìn nhận từ Ngân hàng đầu tư và Phát triển Thanh Trì trong hiệu quả cho vay các dự án phát triển, tôi thấy còn có một số hạn chế sau: 1. Trong công tác thẩm định dự án: Là một Ngân hàng đầu tư và Phát triển, nghiệp vụ cho vay các dự án phát triển đã được phát triển và chú trọng từ lâu, đặc biệt là từ năm 1995 công tác này càng được coi trọng đúng như nhiệm vụ của nó. Chính vì thế công tác thẩm định dự án ít nhiều cũng được xem xét một cách cẩn thận và có hiệu quả hơn rất nhiều so với ngân hàng thương mại khác. Nhưng điều đó không có nghĩa là công tác thẩm định đã hoàn toàn tốt, không có sai sót gì mà thực tế vẫn còn tồn tại những vấn đề cần được khứac phục. Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp có xem xét đến sự biến động và phát triển qua các năm song chủ yếu vẫn là sự tăng lên về tuyệt đối; chưa có sự sự sánh về sự tăng lên giữa các tỷ lệ cho nên không thếy được mọi sự tăng nhưvậy là có thực sự tăng hay không? Do đó sẽ không đánh giá chính xác sự phát triển, lớn lên của doanh nghiệp. Trong quá trình phân tích chưa chú ý nhiều đến việc phân tích theo chiều dọc của bảng cân đối kế toán để xem xét cơ cấu về tài sản và nguồn vốn là hợp lý hay không, các chỉ số tác nghiệp cũng chưa được tính toán nhiều đành rằng mỗi doanh nghiệp thì có một đặc trưng riêng cho nên chúng ta không cần thiết phải tính toán tất cả các chỉ tiêu mà cần tính một vài chỉ tiêu cũng phản ánh thực tế hoạt động của doanh nghiệp đó. Có nhiều doanh nghiệp mới nhìn qua bảng cân đối kế toán thì tưởng rằng làm ăn ngày một tốt, ngày càng có lãi song nếu tính toán về mức độ tăng trưởng thì có khi lại bị giảm rất nhiều. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều mới thấy hết các rủi ro tiềm ẩn của doanh nghiệp. 2. Trong công tác quản lý món vay Vì chưa có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực kỹ thuật nên việc kiểm tra bảo đảm nợ vay chỉ là "linh nghiệm". Cán bộ ngân hàng chỉ biết căn cứ vào các hợp đồng thương mại để kiểm tra các tiêu chuẩn kỹ thuật của máy móc cho nên không được chính xác vì nếu như có sự thông đồng của 2 bên mua bán thì ngân hàng không thể nào biết được. Việc kiểm tra này diễn ra rất nhiều lần, cứ mỗi lần phát vay lại thực hiện việc kiểm tra. Song chưa có biên bản cụ thể, chưa quản lý món vay. Việc phân tích tín dụng thường xuyên vẫn hết sức đơn giản và sơ sài. Quá trình xử lý tín dụng còn nhiều vướng mắc như những khoản nợ vay không thu hồi được nợ đã phải thực hiện khoan nợ, các tài sản thế chấp rất khó phát mại do giá trị thế chấp chủ yếu là những tài sản được hình thành sau khi vay vốn, nên sau khi phát mại cũng là lúc dự án không có hiệu quả, máy móc thanh lý chẳng được bao nhiêu. Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng trên trước hết là do việc thẩm định dự án không chính xác nên dẫn đến dự án làm ăn không có hiệu quả mà vẫn được vay vốn. Do trình độ về mặt kỹ thuật của cán bộ ngân hàng hầu như là không có, tất cả đều dựa vào các kỹ sư của chính doanh nghiệp đó. Bên cạnh đó mối quan hệ lâu năm với doanh nghiệp cũng là cái hạnchế cho việc kiểm tra bảo đảm nợ vay một cách chi tiết cụ thể. Và cũng do mối quan hệ này nên việc tính tín dụng thường xuyên là sơ sài, hình thức vì ngân hàng tin tưởng vào doanh nghiệp. Việc xác định tài sản thế chấp trong thẩm định là rất khó khăn do đến lúc xử lý tín dụng gặp nhiều trở ngại. Nhà nước chưa có một cơ quan nào hay một nguyên tắc chung nào để xác định tài sản thế chấp mà chủ yếu vẫn dựa vào thoả thuận giữa người vay và ngân hàng. Thực hiện việc cho vay các dự án phát triển là cho các doanh nghiệp nhà nước vay vốn trong khi đó bản chất của doanh nghiệp quốc doanh mang tính chậm chạp trong kinh doanh, cồng kềnh trong bộ máy quản lý, tổ chức, ỷ vao sự bù đắp che chở của nhà nước theo cơ chế cũ dẫn đến cho vay các doanh nghiệp quốc doanh kém năng động hơn, kém hiệu quả hơn. II/ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay dự án phát triển Qua thực tế phân tích và đánh giá hoạt động cho vay của các ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội cho thấy ngân hàng đã và đang có nhiều cố gắng trong lĩnh vực này. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế hiện nay về cơ chế chính sách vẫn chưa đồng bộ và luôn thay đổi thì yêu cầu phải có biện pháp tích cực và cụ thể hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Bằng nhận thức và học hỏi của bản thân với mong muốn cùng ngân hàng giải quyết khắc phục những tồn tại trên tôi xin trình bày một số ý kiến sau: 1. Nâng cao kiến chất lượng của công tác thu thập thông tin trong thẩm định dự án đầu tư. Một trong những yêu cầu của công tác thẩm định nhằm tiếp cận khả năng trả nợ và bảo đảm an toàn vốn vay là phải có đầy đủ thông tin về doanh nghiệp và dự án vay vốn. Các dữ liệu này có chính xác trung thực thì mới có thể đánh được các vấn đề một cách có chính xác. Như đã nói ở trên nguồn thông tin chủ yếu là từ doanh nghiệp cung cấp mà nguồn này thì không được chính xác, bởi vậy ngân hàng có thể lấy thông tin bằng các cách sau: + Phỏng vấn trực tiếp người xin vay và điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất. + Tiến hành thu thập thông tin từ bên ngoài - Sử dụng các thông tin về doanh nghiệp xin vay vốn do bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro cung cấp (theo mẫu của ngân hàng nhà nước Việt Nam) - Sử dụng thông tin từ việc điều tra trực tiếp các đơn vị có liên quan trong hoạt động của doanh nghiệp. - Sử dụng các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng. - Thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu năm. 2. Nâng cao công tác xử lý thông tin Thông tin chính xác mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để việc thẩm định được chính xác. Nếu việc xử lý các thông tin này không đúng, phương pháp xử lý sai thì mọi công sức trong quá trình thu thập thông tin đều là con số không. Bởi thế, giai đoạn này không kém phần quan trọng như việc thu thập thông tin chính xác. Nâng cao công tác xử lý thông tin bằng các cách sau: + Phân tích doanh nghiệp trong mối quan hệ nhiều chiều. + Sử dụng phương pháp phân tích bằng giá trị hiện tại. + Phân tích độ nhạy của dự án. 3. Quản lý chặt chẽ, theo dõi thường xuyên, xử lý kịp thời món vay của mình. - Thông qua việc tìm hiểu các nguồn thông tin như trên đã trình bày để xem xét hoạt động của doanh nghiệp (tức chủ dự án) và dự án đang vay vốn một cách sát sao. Nếu có dấu hiệu bất ổn trong quá trình sản xuất kinh doanh thì cần phải tiến hành điều tra ngay, xuống khảo sát lại những nguồn thông tin đó tại chính cơ sở sản xuất, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng, trước tiên phải tư vấn cho doanh nghiệp phải nên làm gì và cùng với doanh nghiệp tìm phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề. Nếu cảm thấy không được thì tự bản thân phải có kế hoạch xử lý tín dụng ngay để bảo toàn vốn của mình. - Ngân hàng cần thiết lập được mối quan hệ với các nhân viên kỹ thuật để họ giúp đỡ trong công việc đánh giá các máy móc, thiết bị mua về là có đủ tiêu chuẩn hay không, doanh nghiệp làm việc như thế có đảm bảo công suất, định mức như hợp đồng ký kết hay không. Bản thân các cán bộ ngân hàng không một lúc có thể nắm được tất cả mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề nên cần phải có sự liên kết phối hợp này. - Trong quá trình xử lý tín dụng cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chức năng nơi doanh nghiệp đặt trụ sở, với cán bộ chủ quản và các cơ quan hành pháp, tư pháp để xử lý kịp thời tránh sự đổ bể, bỏ trốn của chủ đầu tư. III/ Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả cho vay các dự án phát triển 1. Với ngành ngân hàng Phải thực sự nỗ lực, cố gắng tìm tòi suy nghĩ, mỗi cán bộ ngân hàng phải tự bản thân mình nâng cao kiến thức và trình độ học vấn để có thể tiếp cận mọi thông tin và xử lý các thông tin đó một cách nhanh nhất. - Trang bị thêm về cơ sở vật chất kỹ thuật để có thêm điều kiện thu thập và kiểm tra các thông tin. - Cán bộ ngân hàng phải luôn tận dụng mọi thời gian để làm việc. - Một trong những hạn chế khó khắc phục trong công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng là thẩm định về khía cạnh kỹ thuật. Trong khi cán bộ tín dụng nói riêng, cán bộ ngân hàng nói chung chỉ am hiểu về lĩnh vực tài chính ngân hàng đã tạo ra khe hở cho các doanh nghiệp. 2. Về phía doanh nghiệp - Cần phải trung thực trong khi báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Sự trung thực của doanh nghiệp sẽ giúp cho ngân hàng nhìn nhận được các vấn đề một cách chính xác và sẽ có được giải pháp, tư vấn, giúp đỡ doanh nghiệp (DN). - Thường xuyên kiểm tra đánh giá tình hình hoạt động của mình, có biện pháp quản lýdự án một cách chặt chẽ, nếu có sự bất trắc xảy ra phải xử lý kịp thời, tránh sự làm liều có thể báo với ngân hàng cùng nhau giải quyết. 3. Về phía nhà nước và các cơ quan chức năng khác. Đất nước ta đang trong giai đoạn quá độ, còn quá nhiều việc cần phải làm. Trước mắt, để có thể tạo điều kiện cho ngân hàng, ngân hàng và các cơ quan cần phải: - Tạo cho ngân hàng một hành lang rộng hơn để hoạt động như khung lãi suất, các dự án chủ yếu do nhà nước chỉ định. - Cần cho phép Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì có một số quyền hạn nhất định tránh sự rườm rà về thủ tục hành chính xét duyệt cho vay. - Cần trang bị thêm cho ngành ngân hàng các cơ sở vật chất kỹ thuật để nâng cao chất lượng hoạt động, thu thập thông tin. - Các cơ quan chính quyền, các cơ quan có liên quan nên tạo điều kiện giúp đỡ ngân hàng trong quá trình thu thập thông tin, giúp đỡ về vấn đề kỹ thuật, giúp đỡ trong quá trình xử lý tín dụng. - Toà án kinh tế cần phải nghiêm minh trong quá trình xử lý tín dụng, giúp đỡ ngân hàng thu hồi được vốn. - Các bộ chủ quản khi xét duyệt về luận chứng kinh tế kỹ thuật phải làm việc thực sự nghiêm túc, không nên ký duyệt một cách vô trách nhiệm. - Cần tạo điều kiện cho các cán bộ mở thêm các kiến thức về chuyên môn. - Cần sớm ban han hành các chính sách cụ thể về việc thuê đất đai, cầm cố bảo lãnh tài sản, có kế hoạch rõ về quy hoạch xây dựng các cơ sở hạ tầng để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, ngân hàng yên tâm bỏ vốn. Nói tóm lại, để có thể nâng cao hiệu quả cho vay các dự án phát triển, một mình ngân hàng không thể thực hiện được các giải pháp của mình mà cần phải có sự giúp đỡ của các cơ quan, của nhà nước, của doanh nghiệp để tạo nên sự đồng bộ trong việc thực hiện. kết luận Nền kinh tế thế giới tiềm ẩn những cơn sóng gầm dữ dội. Tình trạng bị nén lại của các quan hệ tiền tệ toàn cầu và cuộc cạnh tranh thương mại giữa các nước, sự bất ổn định của nhiều cuốc gia và khu vực, mức độ trầm trọng ngày càng một tăng lên của các thảm hoạ môi trường và các tệ nạn xã hội... sẽ đặt xu hướng tăng trưởng chung trước những trở ngại không nhỏ. Với tính toàn cầu ngày càng sâu sắc đã ràng buộc số phận các nền kinh tế với nhau chặt chẽ hơn nhưng cũng nghiệt ngã hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ nhìn thấy bức tranh kinh tế thế giới nhìn chung là tươi sáng cho những năm cuối thế kỷ này. Xu thế toàn cầu hoá đang mở ra một triển vọng phát triển thương mại thế giới, chu chuyển vốn năng động. Trước những cơ hội và thách thức đó Việt Nam phải sớm tạo cho mình một con đường đi, một nền tảng vững chắc. Để tạo ra một môi trường kinh tế phát triển và lành mạnh không con con đường nào ngắn hơn bằng con đường tạo vốn cho nền kinh tế . Với một nền kinh tế chưa có thị trường chứng khoán hoạt động, tạo vốn thông qua hệ thống tín dụng ngân hàng sẽ là con đường gần nhất đưa đất nước ta tới đích. Song điều này chỉ được nếu việc sử dụng vốn thực sự có hiệu quả. Với nhưng dự án phát triển chứa đựng nhiều rủi ro vấn đề hiệu quả sẽ quyêt định đến sự thành bại trong công cuộc cải tạo đất nước. Ngân hàng đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện quy trình cho vay bằng thẩm định tốt các dự án, bằng quản lý chặt chẽ các món vay để thực sự có được "một vốn bốn lời" song nếu chỉ riêng sự nỗ lực một mình ngân hàng thì vấn đề hiệu quả trong cho vay các dự án khó có thể thực hiện được, cho nên cần phải có sự nỗlực và góp sức chung của khách hàng các cơ quan chức năng tạo nên thành công của dự án. Với mỗi sinh viên chúng ta sắp sửa bước vào thực tế trên thương trường, để có sự thành công trong mỗi quyết định cho vay của mình ngoài sự trang bị về chuyên môn, về cơ sở khoa học cần phải có nhiệt huyết với nghề nghiệp. Một lần nữa tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Thu Thảo cùng các thầy cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chính đã tận tình giúp đỡ, trang bị cho tôi nhiều kiến thức trước khi bước vào nghề. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Một số vấn đề cơ bản về cho vay dự án phát triển NHĐT & PT 3 1. Vai trò của dự án phát triển 3 a. Khái niệm dự án phát triển b. Vai trò của dự án phát triển 2. NHĐT & PT với vai trò tài trợ cho dự án phát triển 7 II/ Một vài chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả cho vay dự án phát triển 9 1. Thực hiện tốt quy trình thẩm định dự án phát triển 9 a. Vì sao phải thẩm định dự án phát triển trong ngân hàng b. Nội dung thẩm định dự án phát triển + Nguyên tắc thẩm định + Qui trình thẩm định + Phương pháp thẩm định 2. Lãi suất, hạn mức cho vay, thời hạn cho vay 27 a. Lãi suất b. Hạn mức vay vốn c. Thời hạn vay vốn 3. Quản lý món vay 30 a. Vai trò quản lý món vay b. Quy trình quản lý Chương II: Hiệu quả cho vay dự án phát triển tại NHĐT & PT Hà Nội - chi nhánh Thanh Trì 37 A. Một số nét đặc trưng của NHĐT & PT Hà Nội- chi nhánh Thanh Trì 37 I/ Giới thiệu chung 37 II/ Tình hình huy động và sử dụng vốn 39 B. Quá trình cho vay và thực trạng cho vay đối với dự án cải tạo nhà máy xi măng Yên Thế 41 I. Thẩm định dự án đầu tư chiều sâu nhà máy xi măng Yên Thế từ công suất 20.000T/năm 41 1. Thẩm định doanh nghiệp vay vốn 41 1.1. Về tổ chức sản xuất kinh doanh 41 1.2. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 42 2. Thẩm định dự án vay vốn 47 2.1. Cơ sở pháp lý của dự án 47 2.2. Phân tích dự án 48 3. Nhận xét đánh giá chung 56 II. Quản lý món vay của dự án 57 1. Thực hiện phát vay 57 2. Kiểm tra đảm bảo nợ vay 58 3. Thu nợ, thu lãi 58 4. Phân tích tín dụng thường xuyên 58 III. Những mặt còn hạn chế trong quá trình cho vay dự án đầu tư chiều sâu nhà máy Yên Thế nâng công suất từ 20.000T/năm lên 40.000T/năm 59 1. Công tác thẩm định 59 2. Công tác quản lý món vay 63 Chương III: Những vấn đề còn tồn tại về hiệu quả cho vay dự án phát triển tại NH ĐT và PT Thanh Trì 64 I. Định hướng hoạt động của ngân hàng 64 II. Giải pháp 66 III. Kiến nghị nâng cao hiệu quả cho vay 68 Kết luận 70 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0110.doc
Tài liệu liên quan