THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NHTM TẠI NHNo&PTNT BA ĐÌNH
Các vấn đề trong chương
- Tổng quan về NHTM
- Đầu tư và dự án đầu tư
- Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
- Rủi ro của dự án
- Nhân tố ảnh hưởng
I. Tổng quan về NHTM
1. Khái niệm, chức năng của NHTM
Trong hoạt động sản xuất tiêu dùng của xã hội, tại một nơi nào đó, một lúc nào đó luôn luôn xảy ra một tình trạng đối nghịch: có những cá nhân, tổ chức có những đồng tiền nhàn rỗi không có nhu cầu hoặc chư
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Rủi ro tín dụng & quản lý rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng thương Mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a có nhu cầu sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu cần một khoản tiền cho các cơ hội đầu tư hoặc các mục đích tiêu dùng. Thị trường tài chính đã ra đời đóng vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong xã hội tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng thông thường do rất nhiều lý do trên thị trường có rất nhiều tổ chức đứng ra làm trung gian tài chính để chuyển vốn từ người có vốn đến người có nhu cầu.
NHTM chính là một trong những trung gian tài chính đó, đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa những đồng tiền tiết kiệm đến tay các nhà đầu tư. Qua đó nó giúp cho nền kinh tế vận hành một cách nhịp nhàng, hữu hiệu.
NHTM là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Tóm lại, NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Thông qua khái niệm về NHTM ta đã có thể biết được những chức năng của NHTM.
Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và họ cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro.
Tạo phương tiện thanh toán
Ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán là giấy nhận nợ thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó thở thành tiến giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng , ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng.
2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ trên thị trường tài chính, tất cả các hoạt động của NHTM đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Đây là mục tiêu chi phối mọi hoạt động của ngân hàng. Theo đuổi mục tiêu này, ngân hàng không ngừng cải tiến các dịch vụ, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa hoạt động, nhưng khái quát lại NHTM có 3 hoạt động chính: hoạt động huy động vốn, cho vay và đầu tư, các hoạt động trung gian. Đây là ba hoạt động truyền thống của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Để có vốn cho vay ngân hàng phải đi huy động những đồng tiền nhàn rỗi từ những người tiết kiệm. Đồng thời với lợi thế là trung gian tài chính trên thị trường tài chính, NHTM cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho khách hàng qua đó hỗ trợ cho hoạt động huy động, cho vay vốn và tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
Hoạt động huy động vốn
Đó là các hoạt động của ngân hàng để thu gom vốn nhàn rỗi trong công chúng. Trước kia các ngân hàng chủ yếu là nhận tiền gửi từ người gửi tiền. Nhưng ngày nay, do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, các NHTM đã đưa ra rất nhiều những hình thức khác nhau để huy động vốn đảm bảo và mở rộng các hoạt động. Ngân hàng tập trung được một số vốn lớn từ các tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, từ các công cụ kỳ phiếu trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi.... Bên cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, cho vay các NHTM có thể đi vay vốn từ ngân hàng trung ương, từ các NHTM khác, vay các tổ chức tài chính trên thị trường trong nước và quốc tế. Trên bàng cân đối tài sản, các hoạt động huy động vốn được biểu hiện qua các tài sản nợ của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn là hoạt động mà ngân hàng phải bỏ ra những chi phí.Đó là các chi phí giao dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay,các chi phí khác liên quan. Những cho phí đó đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng những đồng vốn đó như thế nào để bù đắp các chi phí và đem lại thu nhập cho ngân hàng.
Các hoạt động trung gian
Là một tổ chức trung gian trên thị trường tài chính, NHTM thực hiện các dịch vụ trung gian, dịch vụ ngân hàng, phi ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, ủy thác, ký thác, tư vấn. bảo lãnh, bảo quản,.... Những hoạt động này đem lại cho ngân hàng các khoản thu từ phí dịch vụ. Tuy nhiên hoạt động đem lại thu nhập chính cho ngân hàng là các hoạt động cho vay và đầu tư. Chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề này ngay sau đây.
Hoạt động cho vay và đầu tư
Đây là hoạt động đặc trưng cơ bản, có tính truyền thống của NHTM. Nó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của NHTM. Đó là việc sử dụng nguồn vốn huy động cho những người có nhu cầu vay vốn và thu khoản lãi nhất định trên số tiền cho vay theo nguyên tắc vốn vay phải được hoàn trả và thu từ lãi phải đảm bảo cho ngân hàng trang trải hết các chi phí đồng thời thu được lợi nhuận.
NHTM có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau mà có một số những hình thức sau
Theo mục đích cho vay
Cho vay công nghiệp
Cho vay nông nghiệp
Cho vay xây dựng cơ bản
Cho vay xuất nhập khẩu
Theo lãi suất
Cho vay theo lãi suất cố định
Cho vay theo lãi suất thả nổi
Theo thành phần kinh tế
Cho vay ngoài quốc doanh
Cho vay trong quốc doanh
Theo tài sản đảm bảo
Cho vay có tài sản đảm bảo
Cho vay không có tài sản đảm bảo
Theo thời gian
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung hạn
Cho vay dài hạn
Dù cho vay dưới bất kì một hình thức nào thì việc cho vay cũng trải qua 3 giai đoạn sau: (1) xem xét trước khi cho vay, (2) thực hiện cho vay, (3) thu gốc và lãi.
Ba giai đoạn này là một quá trình gán bó chặt chẽ, mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng của một khoản vay. Để có một khoản cho vay chất lượng là một điều mong muốn và là mục tiêu hoạt động của NHTM. Nhưng nó cũng là một điều rất khó khăn và ngân hàng vẫn có thể thất bại.
Trên thực tế, vận động của xã hội và thị trường luôn tồn tại sự không cân xứng về thông tin giữa các đối tượng, không có thông tin đầy đủ về nhau do đó dẫn đến những hiểu biết sai lệch. Giữa NHTM và người đến vay cũng xảy ra tình trạng như vậy. Ngân hàng không có những thông tin đầy đủ về khách hàng nên có thể thực hiện những khoản cho vay sai lầm. Đứng trước những rủi ro đó, NHTM luôn luôn phải cất nhắc, đắn đo, xem xét bằng các nghiệp vụ để xác định được khách hàng tốt, khoản xin vay có chất lượng trước khi quyết định.
Như vậy, trong ba giai đoạn trên, việc xem xét trước khi cho vay có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả các khoản cho vay và các hoạt động của giai đoạn sau. Giai đoạn này được ngân hàng tiến hành rất kỹ với rất nhiều phương pháp nghiệp vụ đặc thù. NHTM phải đối mặt với các câu hỏi:
Cho ai vay?
Cho vay như thế nào?
Cho vay khi nào?
Quản lý các khoản vay như thế nào?
Thu gốc và lãi ra sao?
Đây là một bài toán khó mà ngân hàng bằng cách thức riêng phải tìm được lời giải đúng nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả khôn lường. Một nguồn vốn quan trọng được ngân hàng sử dụng cho vay là tiền gửi của khách hàng. Do đó để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì bên cạnh mục tiêu lợi nhuận ngân hàng còn phải đảm bảo an toàn và thanh khoản, tức là ngân hàng phải chịu trách nhiệm vô hạn với những đồng tiền của khách hàng và phải thỏa mãn bất cứ nhu cầu rút tiền nào của khách hàng vào bất cứ thời điểm nào. Nếu ngân hàng không tìm được lời giải đúng cho bài toán cho vay thì những nguyên lý cơ bản trong hoạt động ngân hàng bị phá vỡ, mục tiêu của ngân hàng không được đảm bảo và ngân hàng đứng trước nguy cơ tồi tệ nhất: phá sản.
Quá trình tìm lời giải cho bài toán chính là quá trình thẩm định các khoản vay. Một hình thức cho vay phổ biến của NHTM là cho vay theo các dự án đầu tư. Hình thức cho vay này có số lượng vốn lớn, thời hạn dài và có nhiều biến động. Nhưng nếu là một dự án tốt ngân hàng sẽ có thu nhập cao và bảo đảm an toàn vốn. Tuy nhiên, xác định được dự án tốt là một công việc phức tạp nhưng ngân hàng không thể không thực hiện.
II. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
1. Đầu tư và dự án đầu tư
a. Đầu tư
Đầu tư là đem một khoản tiền sử dụng vào một việc nhất định sau đó thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn. Một cách vắn tắt, có thể nói đầu tư là việc sử dụng tiền nhằm mục đích sinh lời. Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể coi là đầu tư nếu sử dụng tiền không nhằm mục đích thu lại một khoản có giá trị lớn hơn khoản bỏ ra ban đầu.
Phân loại đầu tư: tùy theo các mục đích khác nhau, có thể phân loại đầu tư của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau
Theo phương thức đầu tư:
Đầu tư gián tiếp (hay đầu tư tài chính): là đầu tư bằng cách mua các chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư... để hưởng lợi tức. với phương thức này người đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý việc sử dụng vốn.
Theo mục đích đầu tư ta có thể phân loại đầu tư thành: đầu tư tăng năng lực sản xuất, đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư đổi mới thiết bị, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,.... Việc phân loại này có thể giúp cho các nhà quản lý tài chính xác định hướng đầu tư và kiểm soát được tình hình đầu tư theo những mục tiêu đã định.
b. Dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về mặt hình thức dự án đầu tư là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết, có hệ thống các hoạt động theo một kế hoạch nhằm thực hiện những mục tiêu trong tương lai.
Về bản chất dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Trên góc độ quản lý thì đây lại là công cụ quản lý việc sử dụng các nguồn lực để tạo ra các kết quả kinh tế xã hội trong một thời gian dài.
2. Thẩm định tài chính dự án tại NHTM
a. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Do vậy, dự án đầu tư thường mang tính chủ quan của nhà đầu tư và không xem xét, đánh giá hết được các tình huống liên quan.
Bên cạnh đó, quyết định đầu tư vào một dự án là quyết định tài chính dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án cũng rất cần xem xét, đánh giá kỹ trước khi quyết định đầu tư.
Ngoài ra, dự án đầu tư còn liên quan ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều bên khác nhau nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên quan để thấy được lợi ích thực do dự án đem lại cho xã hội, cho các bên. Hay nói cách khác, dự án đầu tư cần phải được thẩm định kỹ càng trước khi quyết định.
Trong nền kinh tế hiện nay đầu tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự phát triển của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn nhằm hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện những mục tiêu kinh doanh. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nhưng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Các ngân hàng sẽ đầu tư bằng cách bỏ vốn vào một dự án của doanh nghiệp nào đấy. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ phải đánh giá về tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án. Thực tế hiện nay cho thấy nợ quá hạn trong các NHTM là không nhỏ. Một trong những nguyên nhân chủ quan của vấn đề này là các NHTM đã không thực hiện tốt quá trình thẩm định trước khi cho khách hàng rút vốn. Chính điều này càng cho thấy thẩm định tài chính càng cần phải được coi trọng trên hai khía cạnh: hạn chế rủi ro và đảm bảo đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Điều này không có nghĩa là đi ngược lại với lợi ích của khách hàng vì chính những kết quả kinh doanh tốt đẹp của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thu được vốn và lãi làm cho ngân hàng đầu tư có hiệu quả.
b. Khái niệm, mục tiêu thẩm định dự án đầu tư của NHTM
Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng để phục vụ cho việc xem xét quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án.
Mục tiêu của thẩm định dự án đầu tư là:
Xác định tính chất khả thi của dự án, đánh giá các lợi ích và chi phí tài chính, cũng như các lợi ích và chi phí kinh tế, hiệu quả xã hội của dự án một cách khoa học.
Xác định các điều kiện của khoản tiền cho vay hợp lý, phù hợp với khả năng của ngân hàng, yêu cầu của khách hàng đồng thời phải phù hợp với chiến lược phát triển đầu tư và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Tư vấn cho chủ đầu tư điều chỉnh, bổ sung các nội dung của dự án.
c. Yêu cầu đối với công tác thẩm định dự án đầu tư
Bất cứ một công việc nào đều có yêu cầu khi thực hiện nó. Thẩm định là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ. Trong môi trường gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, khách hàng, đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện quy trình phân tích nhanh gọn và tiết kiệm chi phí, đây cũng là hoạt động liên quan đến trách nhiệm của nhiều phòng ban và cán bộ. Do vậy, quy trình phân tích tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Được xây dựng và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh tùy tiện, duy ý trí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua và phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín dụng.
Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như các bộ ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào.
Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng của ngân hàng.
d. Nội dung thẩm định tài chính dự án
Thẩm định dự án đầu tư phải xem xét trên tất cả các mặt và đưa ra câu trả lời về tính khả thi của mỗi mặt đó. Mỗi khía cạnh của dự án đầu tư tồn tại trong một tổng thể liên quan, có quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ một trục trặc ở khía cạnh nào đều ảnh hưởng tới các mặt khác và ảnh hưởng tới hiệu quả cuối cùng của dự án.
Thẩm định dự án đầu tư
Pháp lý
Thị trường
Kinh tế, xã hội
Tài chính
Kỹ thuật
Tổ chức, quản lý
Đánh giá
- Pháp lý: hoạt động của dự án liên quan và chịu sự điều chỉnh của luật và các văn bản pháp quy liên quan nên để dự án có thể thực hiện trước tiên phải xem xét tính hợp lệ, hợp lý của dự án. Một dự án không khả thi về mặt pháp lý sẽ bị loại bỏ ngay.
- Thị trường: đây là khía cạnh quan trọng quyết định sự thành bại của dự án. Trong đó, thẩm định phải xem xét những gì đưa ra trong dự án có đúng có chính xác không. Bên cạnh đó, phải xác định nhu cầu về sản phẩm của dự án, tính cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô đầu tư, thiết bị, công suất và dự tính khả năng tiêu thụ.
- Kỹ thuật: đánh giá việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, giải pháp kỹ thuật có phù hợp không, tiết kiệm được vốn đầu tư không , chi phí sản xuất, địa điểm có phù hợp không, xử lý tác động môi trường đã tốt chưa....
- Tổ chức, quản lý: bộ máy tổ chức được thiết lập ra sao? Cần bao nhiêu cán bộ quản lý, bao nhiêu công nhân, kỹ sư? Các phòng ban thiết lập thế nào để phục vụ sản xuất?
- Kinh tế, xã hội: dự án sử dụng nguồn lực nào của xã hội và đóng góp gì vào phát triển nền kinh tế, phát triển ngành, phát triển địa phương như tạo ra bao nhiêu công ăn việc làm, thu nhập,....
- Tài chính: xem xét, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính, các kế hoạch tài chính của dự án để đánh giá xem dự án có đem lại hiệu quả không, có lợi nhuận không.
Các dự án rất đa dạng với nhiều phạm vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau mà NHTM khó có thể thẩm định chi tiết hết được mọi khía cạnh. Ngân hàng chủ yếu tập trung vào khía cạnh tài chính.
Một dự án thông thường đòi hỏi một số lượng vốn đầu tư rất lớn vượt quá khả năng tài chính của chủ dự án hoặc do mong muốn chia sẻ rủi ro, hay sử dụng đòn bẩy tài chính trong kinh doanh mà chủ dự án luôn luôn mong muốn và cần khoản vốn vay từ ngân hàng. Đối với NHTM, việc tài trợ cho một dự án là một nghiệp vụ, là một hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận, là các khoản cho vay trung và dài hạn, là cơ sở để NHTM cung cấp các sản phẩm dịch vụ. Trong các khía cạnh thẩm định thì thẩm định tài chính dự án rất quan trọng mà qua đây ngân hàng sẽ quyết định cho dự án nào vay, vay bao nhiêu, khi nào, lãi suất, quản lý thu hồi vốn ra sao, hỗ trợ dự án thế nào,.... Chỉ cho vay các dự án có hiệu quả tài chính thì các khoản cho vay của NHTM mới bảo đảm, ngân hàng mới có thể thu hồi gốc và lãi.
Mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là xác định khả năng tạo ra lợi nhuận trên khoản vốn đầu tư, xem dự án tạo ra được lợi ích gì trong tương lai từ những nguồn lực đã dành cho dự án. Xác định hiệu quả tài chính để xem khả năng trả nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, thẩm định tài chính dự án còn phân tích tình hình tài chính của chủ dự án để đánh giá các rủi ro, mức độ và chất lượng hoạt động. Ngân hàng sẽ đi vào thẩm định tài chính dự án với các nội dung cụ thể:
Một:
Xác định tổng nhu cầu về vốn cho dự án (cố định và lưu động).
Xác định phần vốn mà ngân hàng cần tài trợ.
Hai: xem xét dự toán các bảng tài chính.
Bảng dự trù chi phí sản xuất năm.
Bảng dự trù doanh thu, lỗ lãi.
Bảng dự trù cân đối tài sản.
Bảng dự trù cân đối thu chi.
Ba: đánh giá hiệu quả tài chính của dự án và phân tích tài chính.
Tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính NPV, IRR, BCR,....
Phân tích tài chính dự án trong các năm hoạt động:
Phân tích các tỷ lệ tài chính.
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
Phân tích tình hình tài chính theo luồng tiền mặt.
Phân tích các chỉ tiêu trung gian.
Bốn: xác định bảng lịch trình thu gốc và lãi.
Ngay sau đây là giải trình bốn nội dung của thẩm định tài chính dự án.
Một: khi một dự án đưa đến ngân hàng xin vay thì dự án đó đã được nhiều cấp xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy vậy, ngân hàng vẫn tiến hành xem lại trên cơ sở những kết quả thẩm định của ngân hàng. Điều này là rất quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp cho dự án thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động của dự án cũng như hoạt động vận hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn gây lãng phí làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các chi phí:
Chi phí lập dự án:
Chi phí thuê chuyên gia, tư vấn, soạn thảo.
Chi phí mua thông tin tài liệu.
Chi phí khảo sát thăm dò.
Chi phí hành chính.
Chi phí đầu tư tài sản cố định:
Chi phí xây dựng nhà xưởng.
Chi phí mua máy móc.
Chi phí lắp đặt, vận hành, chạy thử.
Chi phí thuê chuyên gia kỹ thuật, công nghệ.
Chi phí tài sản lưu động.
Trên cơ sở nhu cầu vốn ngân hàng xem xét các nguồn vốn tài trợ cho dự án. Thường thì một dự án có 2 nguồn cung cấp: nguồn bên trong do chủ dự án tự bỏ ra; nguồn bên ngoài như từ Nhà nước, NHTM, dân cư, tổ chức khác,.... Ngân hàng xem có bao nhiêu nguồn tài trợ cho dự án, khả năng tính bảo đảm của mỗi nguồn, số vốn các nguồn khác đã cung cấp qua đó xác định số vốn dự án còn thiếu để cho vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng sẽ xây dựng một lịch trình cho vay để phù hợp với yêu cầu và tiến độ bỏ vốn của dự án.
Hai: thẩm định tính chính xác, hợp lý của các bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dựa trên nội dung của luận chứng kinh tế kỹ thuật, dựa trên các chỉ tiêu, định mức kinh tế kỹ thuật của ngành do Nhà nước ban hành hoặc các cơ quan chuyên môn công bố và dựa trên các kết quả thẩm định các mặt thị trường, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế xã hội của ngân hàng.
Ba: đánh giá tài chính dự án thường dựa trên các tiêu chuẩn cụ thể và dựa trên phân tích tài chính dự án.
Giá trị hiện tại ròng (NPV)
NPV là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự tính dự án mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi (khi NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
Công thức tính giá trị hiện tại ròng NPV như sau:
C0 là vốn đầu tư ban đầu vào dự án, do là khoản đầu tư (luồng tiền ra) nên C0 mang dấu âm.
Ci là luồng tiền dự tính dự án đem lại các năm i (i=1, 2, 3,...).
r là tỷ lệ chiết khấu phù hợp của dự án.
NPV phản ánh kết quả lỗ lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời điểm 0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV dương có nghĩa là dự án có lãi. NPV=0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức trang trải đủ chi phí vốn. Dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Việc xác định chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng liên quan đến các tính toán sau. Thứ nhất là dự tính lượng tiền đầu tư ban đầu, tức là luồng tiền tại thời điểm 0. C0 bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản, có thể dưới dạng tiền sẵn sàng cho dự án hoạt động, tạo ra tồn kho, mua sắm tài sản cố định. Thực tế, nó bao gồm các khoản chi tiêu tại các thời điểm khác nhau của dự án nhưng để đơn giản trong tính toán ta coi đó là khoản chi tiêu tại thời điểm ban đầu. Thứ hai là dự tính luồng tiền trong thời gian kinh tế của dự án. Đây là các khoản thực thu bằng tiền trong các năm hoạt động của dự án. Nó được tính bằng doanh thu ròng trừ đi các chi phí bằng tiền của từng năm và người ta thường giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối năm. Cuối cùng là dự tính tỷ lệ chiết khấu. Rất khó để xác định một tỷ lệ chiết khấu chính xác. Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án mà không đầu tư trên thị trường vốn. Tỷ lệ này thường được tính bằng tỷ lệ thu nhập của các tài sản chính tương đương. Đó là tỷ lệ thu nhập mà nhà đầu tư mong đợi khi đầu tư vào dự án.
Căn cứ vào ý nghĩa của chỉ tiêu NPV, ta thấy quy tắc đơn giản là: chấp nhận dự án có NPV dương và lớn nhất (nếu có nhiều hơn một dự án có NPV dương). Tuy nhiên chỉ tiêu này không áp dụng được cho các dự án có thời hạn khác nhau và có vốn đầu tư khác nhau. Chỉ tiêu này còn không thấy được giá trị lợi ích thu được từ một đông vốn đầu tư và phụ thuộc vào cách lựa chọn lãi suất chiết khấu r.
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0.
IRR được tính thông qua việc giải phương trình:
Để tính được IRR chúng ta có thể dùng phương pháp nội suy hoặc đồ thị. Tương tự như chỉ tiêu NPV, chỉ tiêu này liên quan đến việc dự tính các luồng tiền mà dự án sẽ tạo ra trong thời gian thực hiện. Đồng thời phải có một tỷ lệ chiết khấu mong đợi để so sánh khi ra quyết định đầu tư.
IRR phản ánh khả năng sinh lời của dự án, chưa tính đến chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Tức là, nếu như chiết khấu các luồng tiền theo IRR, PV sẽ bằng đầu tư ban đầu C0. Hay nói cách khác, nếu chi phí vốn băng IRR, dự án sẽ không tạo thêm được giá trị hay không có lãi.
Qua đây ta nhận thấy rằng, nếu IRR lớn hơn chi phí vốn (tỷ lệ chiết khấu của dự án) thì thực hiện dự án. Trong trường hợp này có thể nói dự án có lãi, tương đương với giá trị hiện tại ròng dương. Hệ số hoàn vốn nội bộ biểu thị sự hoàn trả vốn đã được đầu tư vì vậy nó chỉ ra tỷ lệ lãi suất tối đa dự án có thể chịu được. Nhưng cũng như NPV, sự chính xác của chỉ tiêu phụ thuộc vào sự chính xác của các dự tính về luồng tiền. IRR là một chỉ tiêu mang tính tương đối, tức là nó phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là bao nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự án bằng tiền. Khi dự án lập trong nhiều năm, việc tính toán là rất phức tạp.
Tỷ số lợi ích, chi phí BCR
Khi tính NPV, đối với các dự án lớn có chi phí đầu tư cao thường mang về NPV cao hơn các dự án có chi phí đầu tư thấp, điều này không nhất thiết có nghĩa là các dự án lớn tốt hơn dự án nhỏ. BCR được áp dụng để tính khả năng sinh lời của dự án trên mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư.
Bi, Ci lần lượt là thu nhập, chi phí của dự án năm i (i=1, 2, 3,...).
Khi sử dụng chỉ tiêu này ta sẽ chấp nhận mọi dự án có BCR lớn hơn hay bằng 1. Tuy nhiên cũng phải thận trọng khi dùng để đánh giá các dự án vì nó phụ thuộc vào việc xác định mức lãi suất. Hạn chế nữa là BCR rất nhạy cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế toán vì theo như cách tính trên thì lợi ích là toàn bộ nguồn thu gia tăng của dự án, còn chi phí là tổng chi phí sản xuất gia tăng.
Điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn lý thuyết là điểm mà doanh thu ngang bằng với chi phí sản xuất. Người ta có thể tính điểm hòa vốn cho cả thời gian thực hiện dự án hoặc cho từng năm. Điểm hòa vốn được biểu diễn bằng số đơn vị sản phẩm hoặc giá trị doanh thu.
Cách tính điểm hòa vốn:
Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán ra được.
Gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hòa vốn.
Gọi f là chi phí cố định, v là chi phí biến đổi của sản phẩm.
v.x là tổng chi phí biến đổi
Gọi p là giá thành sản phẩm
DT = p.x là doanh thu của dự án
Tại điểm hòa vốn thì: p.x0 = v.x0 + f
Sản lượng hòa vốn là:
Ta có:
Xác định thời gian hoàn vốn
Gọi T là khoảng thời gian hoàn vốn của dự án, khi đó T được xác định qua phương trình:
Chỉ tiêu này cho biết sau bao lâu dự án sẽ có thu nhập đủ bù chi phí vốn. Và đây là điều được chủ đầu tư và ngân hàng rất quan tâm, nhất là đối với những dự án có tuổi thọ kinh tế dài hoặc đầu tư trong những lĩnh vực có độ cạnh tranh cao do rào cản về gia nhập thấp.
Ngoài các chỉ tiêu phân tích ở trên, thẩm định tài chính dự án còn tiến hành các phân tích tài chính. Thông thường, phương pháp được áp dụng rộng rãi và có tính hiện thực cao là phân tích các tỷ lệ tài chính. Các tỷ lệ tài chính chủ yếu được phân tích có 4 nhóm:
Tỷ lệ về khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán hiện hành.
Khả năng thanh toán nhanh.
Vốn lưu động ròng.
Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
Hệ số nợ.
Số lần có thể trả lãi.
Tỷ lệ về khả năng hoạt động:
Vòng quay tiền.
Vòng quay dự trữ.
Kỳ thu tiền bình quân.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Tỷ lệ về khả năng sinh lãi:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
Doanh lợi vốn tự có.
Doanh lợi vốn.
Bên cạnh đó còn phải phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, các luồng tiền mặt, các chỉ tiêu tài chính trung gian như: giá trị gia tăng, tổng lãi kinh doanh, kết quả kinh doanh,....
Bốn: xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ dự án) phải hoàn trả ngân hàng đầy đủ và đúng hạn số vốn gốc và lãi vay. Trong quá trình thẩm định NHTM đặc biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của chủ đầu tư. Khả năng trả nợ của chủ dự án phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: dự án đang xin vay là dự án mới hay đầu tư chiều sâu, nguồn trả nợ chủ yếu là khả năng sản xuất của dự án hay còn nguồn bổ sung nào khác. Hiện nay các NHTM đang xác định mức trả nợ từng lần theo công thức sau:
Từ công thức trên, nếu sau khi đã dự kiến số kỳ trả nợ và biết tổng số nợ gốc phải trả mỗi kỳ, NHTM có thể so sánh cân đối các nguồn thu từ dự án như lợi nhuận ròng, KHCB TSCĐ và các nguồn khác xem khả năng trả nợ có đảm bảo không.
3. Phân tích rủi ro của dự án
Rủi ro của dự án được định nghĩa là những thiệt hại mà dự án gặp phải không lường trước được hoặc không đánh giá được hết những tổn thất sẽ xảy ra.
Các dự án thường tồn tại trong thời gian dài. Theo lý thuyết dự báo, các nhân tố biến động trong tương lai gần bao giờ cũng dễ xác định hơn những yếu tố trong tương lai. Chính vì vậy, tất cả các dự án đều tiềm ẩn trong chúng những nhân tố rủi ro và các rủi ro bao giờ cũng đa dạng phức tạp và khó dự đoán.
Có thể phân loại rủi ro làm hai nhóm là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.._.
Rủi ro hệ thống: là những rủi ro chung đối với toàn bộ nền kinh tế, những rủi ro mang tính chất vĩ mô mà bản thân dự án không thể phân tán hoặc quản lý được. Ví dụ như: lạm phát, thiên tai, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế tiền tệ trong khu vực và trên thế giới,....
Rủi ro phi hệ thống: là những rủi ro chỉ có tác động riêng đến dự án, loại rủi ro này có thể triệt tiêu và quản lý được. Ví dụ như: giá cả đầu ra đầu vào biến động, nguồn nguyên vật liệu,....
Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố được dự báo trong khi lập dự án. Trong công tác lập dự án và thẩm định người ta tập trung vào nghiên cứu rủi ro phi hệ thống vì nó có thể quản lý được.Sau đây là một số phương pháp phân tích rủi ro của dự án.
Phương pháp phân tích độ nhạy
Trong phân tích độ nhạy người ta dự kiến một số tình huống thay đổi. những rủi ro trong tương lai làm giá nguyên vật liệu tăng, giá nhân công tăng, sản lượng, doanh thu giảm,... rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả như NPV, IRR,.... Nếu các chỉ tiêu đó vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn định, ngược lại dự án được coi là không ổn (độ nhạy cảm cao) phải xem xét lại. Để phân tích đô nhạy người ta thực hiện 4 bước:
Bước 1: xác định xem những nhân tố nào có thể biến động theo chiều hướng xấu.
Bước 2: trên cơ sở các nhân tố đã lựa chọn, dự đoán độ biến động có thể xảy ra.
Bước 3: chọn một phương pháp đánh giá độ nhạy nào đó (như phân tích theo chỉ tiêu NPV hay IRR).
Bước 4: tiến hành tính toán lại NPV hay IR theo các biến số mới trên cơ sở cho các biến số tăng giảm cùng một tỷ lệ % nào đó. Độ nhạy có thể tính theo công thức:
E là hệ số độ nhạy
∆Fi là mức biến động của chỉ tiêu đánh giá
∆Xi là mức biến động của nhân tố ảnh hưởng
Phân tích độ nhạy là kỹ thuật tương đối đơn giản nhưng nhược điểm của nó là chưa tính đến xác suất có thể xảy ra của các biến rủi ro và nó cũng không thể đánh giá được cùng một lúc sự tác động của tất cả các biến rủi ro.
Phưong pháp phân tích tình huống
Trong thẩm định và phân tích rủi ro người ta còn sử dụng một phương pháp phân tích tình huống. Phân tích tình huống kết hợp cả hai nhân tố là tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với trường hợp cơ sở.
Công thức NPV bình quân như sau:
Pi là xác suất
Công thức tính hệ số biến thiên:
Phân tích tình huống vẫn tồn tại những nhược điểm như không thể xác định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ phân tích được một vài khả năng rời rạc, trong khi thực tế có thể có vô số khả năng kết hợp có thể xảy ra giữa các biến của dự án.
Phương pháp phân tích theo mô phỏng MONTE CARLO
Khắc phục nhược điểm của các phương pháp trên người ta áp dụng phương pháp phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO. Tức là phân tích rủi ro dự án dưới sự tác động đồng thời của tất cả các nhân tố gây ảnh hưởng, có tính đến xác suất xảy ra và mức độ biến thiên của từng nhân tố tác động đó.
Khác với phân tích độ nhạy, phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO xem xét đồng thời sự kết hợp của nhiều yếu tố tác động và tính đến sự tác động qua lại tương hỗ giữa các nhân tố đó. Chính vì những khả năng nói trên mà phân tích MONTE CARLO có phạm vi ứng dụng hết sức rộng rãi.
Mô hình phân tích rủi ro MONTE CARLO
LỰA CHỌN CÁC BIẾN RỦI RO ĐƯA VÀO PHÂN TÍCH
LỰA CHỌN KHOẢNG BIẾN ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN RỦI RO
PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY
SỬ DỤNG PHẦN MỀM MONTE CARLO
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
Như vậy, để phân tích rủi ro theo phương pháp này cần có các điều kiện căn bản là người phân tích phải được trang bị máy tính, phần mềm chuyên dụng và đặc biệt là phải được đào tạo tốt về kỹ năng sử dụng máy tính đồng thời phải có kinh nghiệm nhất định mới có thể có được những kết luận đúng đắn và có giá trị.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau mà NHTM muốn nâng cao chất lượng thẩm định cần phải quan tâm:
Nhân tố chủ quan:
Tiêu chuẩn thẩm định.
Con người.
Thông tin.
Tổ chức, điều hàng.
Trang thiết bị kỹ thuật
Một số nhân tố khác.
Nhân tố khách quan.
Tiêu chuẩn thẩm định
Trên cơ sở nguồn thông tin có được về dự án, NHTM sẽ là gì, làm như thế nào, áp dụng phương pháp, kỹ thuật nào để thẩm định với các tiêu chuẩn nào để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án là điều rất quan trọng.
Trong điều kiện hiện nay, nếu ngân hàng vẫn tiếp tục sử dụng các phương pháp thẩm định cũ với tiêu thức cũ thì kết quả thẩm định tài chính sẽ không chính xác, chất lượng sẽ thấp. Phương pháp thẩm định mới sẽ giúp việc đánh giá dự án thuận lợi, chính xác và toàn diện.
Việc tính đến giá trị thời gian của tiền trong các tiêu chuẩn thẩm định là cực kỳ quan trọng với thẩm định tài chính dự án. Trong nhiều dự án, nếu không tính đến giá trị thời gian của tiền thì dự án là khả thi nhưng không có hiệu quả về tài chính. Tỷ lệ chiết khấu các dòng tiền cũng có một ảnh hưởng quan trọng tới kết quả thẩm định. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn thẩm định hiện đại còn xem xét dự án trong trạng thái tĩnh và cả trạng thái động.
Ngoài ra việc lựa chọn các chỉ tiêu phân tích tài chính phù hợp điều kiện của từng dự án cũng rất cần thiết. Hiện nay có rất nhiều phương pháp thẩm định dự án khác nhau nhưng việc áp dụng chỉ tiêu nào để vừa đảm bảo tính chính xác, kết hợp được mặt mạnh của các chỉ tiêu vừa phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện cụ thể của ngân hàng sẽ cho kết quả thẩm định tốt nhất.
Con người
Con người là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định của dự án. Con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện hoạt động thẩm định tài chính theo phương pháp , kỹ thuật của mình. Kết quả thẩm định tài chính dự án là kết quả đánh giá,xem xét chủ quan của con người theo cơ sở khoa học và các tiêu thức chuẩn mực khác nhau. Do đó, để có kết quả thẩm định tốt thì phải đặt yếu tố con người lên hàng đầu. Nhân tố con người ở đây bao gồm trình độ, kinh nghiệm, năng lực và tư cách đạo đức. Trình độ đó là toàn bộ các kiến thức khoa học mà người thẩm định được đào tạo hoặc tự nghiên cứu có. Kinh nghiệm là những gì mà người thẩm định tích lũy trong quá trình làm việc. Năng lực là khả năng làm việc và xử lý công việc phụ thuộc vào kiến thức và kinh nghiệm cũng như tư chất bẩm sinh. Còn tư cách đạo đức là một nhân tố rất quan trọng chi phối đến chất lượng thẩm định. Nhiều dự án xảy ra rủi ro không phải do trình độ năng lực mà do tư cách đạo đức của người thẩm định.
Con người là nhân tố trung tâm liên kết, phối hợp các nhân tố khác trong thẩm định. Con người với trình độ, kinh nghiệm thu nhận các thông tin về dự án, sử dụng các kiến thức khoa học, kiến thức thực tế với những phương pháp, kỹ thuật tiến hành các phân tích, đánh giá dự án, hiệu quả của dự án. Con người là nhân tố chi phối đến các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án.
Thông tin
Để có những kết quả tính toán chính xác về hiệu quả về dự án thì phải dựa trên những thông tin, số liệu đầy đủ, có chất lượng, chính xác về dự án trên nhiều mặt, nhiều góc độ khác nhau. Chất lượng và sự đầy đủ những thông tin này phụ thuộc một phần vào việc lập dự án của chủ dự án và cung cấp thông tin của các chủ thể khác liên quan, một phần phụ thuộc vào khả năng của ngân hàng trong việc tiếp cận, thu thập thông tin. Có thể khẳng định rằng, nếu không có thông tin hoặc thiếu thông tin thì việc thẩm định không thể thực hiện hoặc nếu thẩm định thì chỉ là những đánh giá chủ quan, cảm tính. Do vậy, đối với NHTM phải làm thế nào để có thông tin đầy đủ phục vụ cho công tác thẩm định là một điều cần được quan tâm nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay.
Tổ chức, điều hành
Thẩm định tài chính dự án là tập hợp nhiều hoạt động khác nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau. Do vậy, việc sắp xếp tổ chức ra sao để kết hợp được hoạt động trong một tổng thể, kế thừa, hỗ trợ cho nhau sẽ tác động nhiều đến kết quả thẩm định.
Hơn thế nữa, việc sắp xếp phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho mỗi cá nhẩn trong hoạt động tác nghiệp sẽ tạo được động lực. Thẩm định theo một trình tự khoa học sẽ liên kết được các cá nhân trong toàn ngân hàng, phát huy được được mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu của mỗi cá nhân, loại bỏ được rủi ro về đạo đức và rút ngắn thời gian thẩm định.
Trang thiết bị kỹ thuật
Sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại ngày nay đã làm cho công tác thẩm định tài chính dự án nhẹ nhàng rất nhiều. Với sự bùng nổ thông tin và phát triển các thiết bị tính toán hiện đại ngân hàng có được kết quả chính xác, nhanh chóng. Qua các mạng máy tính nội bộ và internet, ngân hàng có thể truy cập nhanh chóng đến các cơ sở dữ liệu, khai thác thông tin, trao đổi dữ liệu. Đồng thời, với sự hỗ trợ của phần mềm chuyên dụng, ngân hàng có thể đưa vào những phương pháp thẩm định hiện đại, sử dụng những mô hình phức tạp nhưng vẫn chính xác. Tuy nhiên, phải quan tâm đến vấn đề bảo mật các thông tin quan trọng (thông tin khách hàng, password, tài khoản,...), tránh tình trạng mất mát gây thiệt hại nghiêm trọng.
Các tác động khác
Một số yếu tố khác như chiến lược, định hướng, hoạt động, cơ chế, chinh xác, tổ chức, điều hành, trình độ nhân thức chung đội ngũ các bộ,....
Nhân tố khách quan
Đây là những nhân tố từ môi trường bên ngoài tác động tới công tác thẩm định tài chính dự án. Đó là áp lực về chính trị, quyền lực, yếu kém trong cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước gây khó khăn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, nước ta kinh tế thị trường chưa hoàn thiện nhiều biến động, môi trường kinh tế vi mô, vĩ mô chưa đầy đủ hoàn thiện gây ra những tác động bất thường tới dự án.
2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI NHNo&PTNT BA ĐÌNH
Các vấn đề trong chương
- Khái quát về NHNo&PTNT Ba Đình
- Quy trình thẩm định tài chính dự án
- Nội dung thẩm định tài chính dự án
- Dự án "Đầu tư chiều sâu bổ sung trang thiết kỹ thuật, dây chuyền in flexo của công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm"
- Đánh giá về công tác thẩm định tài chính dự án
I. Khái quát về NHNo&PTNT Ba Đình
1. Giới thiệu chung về ngân hàng
NHNo&PTNT Hà Nội ra đời năm 1988, là thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam. Trụ sở chính đặt tại 77 Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Thời gian đầu NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động chủ yếu trên địa bàn các huyện ngoại thành. Đến năm 1992 tách các NHNo ngoại thành Hà Nội, lúc này NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động chủ yếu phục vụ khách hàng thuộc khu vực nội thành. Đứng trước sự phát triển kinh tế của thủ đô, xuất phát từ nhu cầu mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và phục vụ mọi tầng lớp nhân dân NHNo khu vực Giảng Võ được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1996 theo quyết định số 18/QĐ - NHNo ngày 1/4/1996 của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam. Sau một thời gian hoạt động kinh doanh thử nghiệm có kết quả, để có thể đứng vững và phát triển NHNo&PTNT khu vực Giảng Võ đã được nâng cấp thành NHNo&PTNT quận Ba Đình theo quyết định số 340/QĐ - NHNo - 02 ngày 19/6/1998 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, địa chỉ giao dịch tại 191 Giảng Võ - Ba Đình - Hà Nội.
Từ ngày ngân hàng khai trương và chính thức đi vào hoạt động với tư cách là một ngân hàng cấp 4 thì hiện nay đã được nâng lên thành chi nhánh cấp II loại 4, trực thuộc NHNo&PTNT Hà Nội. Lúc này NHNo&PTNT Ba Đình đã được tự chủ trong các hoạt động kinh doanh và cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực ngân hàng cho những khách hàng trên địa bàn quận Ba Đình. Số lượng cán bộ làm việc trong chi nhánh tăng lên và NHNo&PTNT Ba Đình bắt đầu mở các phòng giao dịch trên địa bàn quận. Số vốn hoạt động và các nghiệp vụ cũng tăng lên đáng kể. Sau hơn 7 năm hoạt động và phát triển không ngừng, chi nhánh NHNo&PTNT Ba Đình đang từng bước hoàn thiện. Hiện nay trong biên chế của NHNo&PTNT Ba Đình có 35 cán bộ được cơ cấu như sau: 01 giám đốc quản lý và điều hành chung, trực tiếp quản lý phòng kinh doanh; 01 phó giám đốc giúp việc cho giám đốc trong quản lý và điều hành các hoạt động của ngân hàng ngoài ra còn trực tiếp quản lý phòng kế toán ngân quỹ. Số cán bộ còn lại được phân công công tác trong phòng kế toán ngân quỹ, phòng kinh doanh, phòng hành chính và các phòng giao dịch của chi nhánh. Chi nhánh có 4 phòng giao dịch là:
Phòng giao dịch số 28: 48 Trần Quang Diệu - Ba Đình - Hà Nội
Phòng giao dịch số 29: 119 Linh Lang - Ba Đình - Hà Nội
Phòng giao dịch số 30: 54 Quan Nhân - Thanh Xuân - Hà Nội
Phòng giao dịch số 45: 48 Ngọc Hà - Ba Đình - Hà Nội
2. Kết quả hoạt động kinh doanh thời gian gần đây của NHNo&PTNT Ba Đình
Nguồn vốn
Trong năm 2003 chi nhánh đã chủ động trong việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bằng các biện pháp tuyên truyền, quảng cáo và tiếp thị. Trên cùng địa bàn, có nhiều ngân hàng thương mại khác cùng hoạt động với mức lãi xuất thấp hơn, song với cách khuyếch trương, tiếp thị quảng cáo nên NHNo&PTNT Ba Đình đã thu hút được một lượng khách hàng đáng kể, nhất là từ khi áp dụng hiện đại hoá ngân hàng, chuyển từ giao dịch nhiều cửa sang giao dịch một cửa rất được sự ủng hộ và hoan nghênh của khách hàng. Từ đó ngân hàng chuẩn bị áp dụng chính sách nguồn vốn với mức lãi suất hấp dẫn, đưa máy ATM vào hoạt động, đến nay đã có hơn 100 khách hàng sử dụng thẻ ATM. Ngoài ra còn đưa ra các hình thức huy động mới như: tiền gửi tiết kiệm bậc thang, tiền gửi tiết kiệm có khuyến mại bảo hiểm con người, chứng chỉ tiền gửi trả lãi trước ….
Nguồn vốn huy động đến 30/11/03 đạt 416.628 triệu, đến 31/12/03 đạt 417.412 triệu VNĐ tăng 24.927 triệu VNĐ so với 31/12/02. Trong đó nội tệ là 369.006 triệu VNĐ, ngoại tệ quy đổi là 48.406 triệu VNĐ. Dư nợ đến 30/11/03 đạt 85.267 triệu VNĐ, đến 31/12/03 đạt 88.884 triệu VNĐ tăng 18.366 triệu VNĐ so với 31/12/02.
Cơ cấu nguồn vốn huy động phân theo thời hạn huy động:
Tiền gửi dân cư
Tiền gửi không kỳ hạn: 4.098 triệu VNĐ chiếm 0,98% so với tổng nguồn huy động
Tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng: 84.177 triệu VNĐ chiếm 20,2%
Tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng: 15.295 triệu VNĐ chiếm 3,6%
Tiền gửi có kỳ hạn 9 tháng: 507 triệu VNĐ chiếm 0,12%
Tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng: 130.734 triệu VNĐ chiếm 31,3%
Tiền gửi trên 12 tháng: 61.437 triệu VNĐ chiếm 14,7%
Tiền gửi các tổ chức kinh tế
Không kỳ hạn: 13.380 triệu VNĐ chiếm 3,2%
Tiền gửi các tổ chức tín dụng
107.000 triệu VNĐ chiếm 25,6%
Dư nợ
Tổng dư nợ đến ngày 30/11/03 là 85.267 triệu VNĐ, thực hiện đến 31/12/03 đạt 88.884 triệu VNĐ.
Phân tích theo thời hạn cho vay:
Dư nợ ngắn hạn là 69.466 triệu VNĐ chiếm 81,4% trên tổng dư nợ, đến 31/12/03 dư nợ ngắn hạn đạt 72.397 tăng 6.971 triệu VNĐ so với cùng kỳ năm trước.
Dư nợ trung dài hạn đến 30/11/03 là 15.801 triệu VNĐ chiếm 18,6% trên tổng dư nợ, đến 31/12/03 dư nợ trung dài hạn đạt 16.487 triệu VNĐ tăng 4.778 triệu VNĐ so với cùng kỳ nâm trước.
Phân tích theo thành phần kinh tế:
Dư nợ DNNN: 38.720 triệu VNĐ chiếm 43% trên tổng dư nợ
Ngắn hạn: 36.160 triệu VNĐ
Trung hạn: 2.560 triệu VNĐ
Dư nợ DN ngoài quốc doanh: 26.966 triệu VNĐ chiếm 30% trên tổng dư nợ
Ngắn hạn: 20.562 triệu VNĐ
Trung hạn: 6.404 triệu VNĐ
Dư nợ HTX, hộ gia đình, cá thể, cầm cố tiêu dùng: 23.198 triệu VNĐ chiếm 25,8% trên tổng dư nợ
Phân tích theo ngành kinh tế:
Dư nợ của ngành SXKD thương nghiệp dịch vụ: 73.897 triệu VNĐ chiếm 83,1% trên tổng dư nợ
Dư nợ cho vay đời sống: 4.711 triệu VNĐ chiếm 5,3% trên tổng dư nợ
Dư nợ cho vay khác: 10.276 triệu VNĐ chiếm 11,6% trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn đến 30/11/03 là 6.400 triệu VNĐ chiếm 0,007% trên tổng dư nợ, giảm 51,6 triệu VNĐ so với năm trước. Toàn bộ số nợ quá hạn trên đều là dư nợ cho vay đời sống, không phải nợ khó đòi chi nhánh sẽ thu hồi trông thời gian tới
Các hoạt động tín dụng khác
Đến hết tháng 11/03 chi nhánh đã mở được 05 món L/C, tổng trị giá là 146.640 USD quy đổi xấp xỉ 2.287 triệu VND.
Nhờ thu 2 món trị giá 10.240 USD xấp xỉ 159 triệu VND
Thu phí mở L/C, mua bán ngoại tệ xấp xỉ 74 triệu
Doanh số bảo lãnh: 5.297 triệu VNĐ, thu phí trên 50 triệu VNĐ
BẢNG CÂN ĐỐI TÀI CHÍNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2003
Đơn vị: triệu đồng.
2003
419
419
89.244
89.244
268.376
12.764
370.451
2002
75.273
75.273
285.178
360.451
2001
812
812
84.185
84.185
240.946
11.134
337.077
Tài sản có (sử dụng vốn)
Tiền mặt và số dư nợ tại NHNN
Tiền mặt, chứng từ có giá trị, ngoại tệ, kim loại quý, đá quý
Tiền gửi và đầu tư chứng khoán tại NHNN
Các khoản DT và quyền đòi nợ
Các khoản DT và quyền đòi nợ nước ngoài
Các khoản DT và quyền đòi nợ trong nước
Cho vay trong nước
Tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
Tín dụng đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân
Tài sản cố định
Tài sản có khác
Chênh lệch chi phí > thu nhập
Tổng số tài sản có
2003
254.933
107.560
147.373
115.749
121
370.803
2002
130.107
82.729
47.378
230.176
168
360.451
2001
140.182
99.390
40.792
196.571
323
1
1
337.007
Tài sản nợ (nguồn vốn)
Tiền gửi và các khoản vay
Tiền gửi của kho bạc Nhà nước và tiền vay NHNN
Tiền gửi và các khoản vay các tổ chức tín dụng trong nước
Tiền gửi và các khoản vay nước ngoài
Tiền gửi của khách hàng
Các giấy tờ có giá đã phát hành
Tài sản nợ khác
Vốn và quỹ của NHNN
Vốn
Quỹ và dự phòng
Chênh lệch do đánh giá lại tài sản
Chênh lệch thu nhập > chi phí
Tổng cộnh tài sản nợ
II. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNo&PTNT Ba Đình
1. Quy trình thẩm định tài chính dự án tại NHNo&PTNT Ba Đình
Quá trình thẩm định gồm các bước sau:
Bước 1: cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ vay vốn, hướng dẫn khách hàng kiểm tra theo trình tự.
Quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm giám đốc và kế toán trưởng, vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn tính toán hiệu quả kinh tế nếu dự án kinh doanh có tính khả thi.
Tiến hành kiểm tra tài sản thế chấp hợp pháp có hướng đầu tư, sau đó báo cáo lãnh đạo chỉ đạo cán bộ thẩm định lại hồ sơ thống nhất cho vay.
Bước 2: cán bộ tín dụng cùng tổ thẩm định (tùy món có thể có một hoặc nhiều người tùy theo mức độ và tầm quan trọng của món vay) xuống đơn vị kiểm tra tài sản chính và xác định so với giấy tờ gốc là hợp pháp, hợp lệ. Sau đó đánh giá tài sản thế chấp, ký vào tờ trình thẩm định đồng ý giải quyết cho vay bao nhiêu.
Bước 3: cán bộ tín dụng làm tờ trình vay vốn theo mẫu quy định sẵn, ký vào tờ thẩm định.
Trình lãnh đạo phòng quyết định cho vay hay không.
Trả lời khách hàng.
Cho vay: ký vào khế ước và hành tự theo chế độ.
Không cho vay: thống nhất trả lời khách hàng.
Bước 4: phát tiền vay và kiểm soát sau cho vay.
Phát triển vay căn cứ vào tiến độ sử dụng vốn thực tế và căn cứ vào hợp đồng kinh tế, chứng từ mua, bảng kê mua hàng của khách hàng.
Kiểm tra sử dụng vốn thường xuyên. Kết quả kiểm tra phải nộp biên bản ghi rõ mục đích sử dụng vốn vào đối tượng nào? Đề xuất kiến nghị với khách hàng và lãnh đạo.
Trình phó hoặc trưởng phòng kinh doanh xem và ghi rõ ý kiến vào biên bản kiểm tra, nếu kiểm tra thấy khách hàng sử dụng sai mục đích và đối tượng phải trình phó giám đốc hoặc giám đốc giải quyết.
Định kỳ, cán bộ tín dụng xuống kiểm tra đơn vị vay vốn, kiểm tra về tình hình sử dụng vốn, kiểm tra về tài sản thế chấp, yêu cầu khách hàng 3 tháng một lần nộp các báo cáo tài chính, đề xuất các kiến nghị đối với khách hàng. Sau đó cán bộ tín dụng lập báo cáo theo dõi kiểm tra tín dụng trình lên cấp trên để có quyết định giải quyết.
2. Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án
Về cơ bản thì nội dung công tác thẩm định tại NHNo&PTNT Ba Đình cũng giống như tại các NHTM khác.
Ngân hàng phải xem xét khách hàng, năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, khả năng tài chính của khách hàng. Rồi ngân hàng đánh giá về cơ sở pháp lý của dự án, xem xét tài chính của dự án, xem xét hiệu quả của dự án (tính các chỉ tiêu tài chính và lập biểu tính toán chi tiết hiệu quả của dự án theo hướng dẫn thẩm định, tổng hợp các nguồn để trả nợ của dự án, tính các chỉ tiêu hiệu quả, đánh giá về hiệu quả kinh tế xã hội. Tiếp theo là đến tính khả thi của dự án (khả năng trả nợ của dự án, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguyên nhiên vật liệu đầu vào, công nghệ và tài sản cố định, khả năng tổ chức quản lý sản xuất và lao động). Vấn đề nữa là bảo đảm tiền vay. Sau cùng cán bộ tín dụng đánh giá rồi lập báo cáo đưa lên cấp trên.
Ngoài ra ngân hàng còn phải phân tích các tỷ lệ tài chính để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn.
Để tiện theo dõi thì phần nội dung thẩm định tài chính dự án của ngân hàng được xen vào phần báo cáo thẩm định và tái thẩm định dự án cụ thể. Thông qua nội dung thẩm định tài chính dự án cụ thể ta sẽ có những nhận xét, đánh giá cụ thể về công tác thẩm định của ngân hàng.
Thẩm định tài chính dự án
Tổng vốn đầu tư
Chi phí sx năm
Doanh thu lỗ lãi
Bảng cân đối TS
Cân đối thu chi
Các chỉ tiêu tài chính
Phân tích tài chính
+ Phân tích các tỷ lệ
+ Phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn
+ Phân tích luồng tiền
+ Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian
Hiệu quả tài chính
+ Phương pháp NPV
+ Phương pháp IRR
+ Phương pháp BCR
+ Thời gian hoàn vốn
+ Điểm hòa vốn
+ Độ nhạy
Đánh giá và quyết định
3. Dự án "Đầu tư chiều sâu bổ sung trang thiết kỹ thuật, dây chuyền in flexo của công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm"
BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
CÔNG TY IN NÔNG NGHIỆP & CPTP
Số : 33 Công ty In/ DA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------o0o-------------
Hà nội, ngày 15 tháng 03 năm 2003
DỰ ÁN
ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
TRANG BỊ DÂY CHUYỀN IN FLEXO
I. Căn cứ pháp lý
Công ty in Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm trước đây là Xí nghiệp in Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn thành lập theo quyết định số 181 NN/TCCB-QĐ ngày 24 tháng 3 năm 1993.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ký quyết định số 19/BNN/TCCB-QĐ ngày 18 tháng 3 năm 2002 về việc đổi tên Xí nghiệp in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm thành công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm.
Giấy đăng ký kinh doanh số: 108383 ngày 29 tháng 4 năm 1993 do hội đồng trọng tài kinh tế cấp.
Giấy phép hoạt động in số: 86/GP ngày 6 tháng 4 năm 1993 của Bộ văn hóa thông tin.
Quyết định số 637 QĐ/BNN-KH ngày 07 tháng 03 năm 2003 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho phép công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm được tự lập dự án đầu tư chiều sâu bổ xung trang thiết bị kỹ thuật.
II. Sự cần thiết phải đầu tư
1. Sơ lược quá trình hình thành công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm
Nhà in nông nghiệp (công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm) được thành lập từ năm 1970. Có nhiêm vụ in bản đồ, tài liệu quản lý kinh tế phục vụ ngành nông nghiệp. Qua nhiều lần thay đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đến ngày 18 tháng 03 năm 2002 theo quyết định số 19-BNN-TCCB/QĐ đổi tên thành công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm.
Trụ sở công ty: 72 đường Trường Chinh, quận Đống Đa, Hà Nội. Vị trí của công ty nằm trên vành đai, xe qua lại hai chiều thuận lợi cho công ty giao dịch tiếp xúc với khách hàng và xuất, nhập vật tư hàng hóa.
Từ ngày thành lập đến nay, công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm luôn nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, in bản đồ phục vụ công tác phân vùng quy hoạch, tài liệu phục vụ ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.
2. Về nhà xưởng
Công ty có 1tòa nhà 5 tầng, 2 dãy nhà kho, sân rộng, tổng diện tích khoảng 3.200m2.
Tòa nhà 5 tầng có khu sản xuất, kho, văn phòng.
Có trạm hạ thế 180 kvA đảm bảo đủ cung cấp điện năng cho việc sản xuất kinh doanh của toàn công ty kể cả dây chuyền in mới FLEXO.
3. Về máy móc thiết bị
Thiết bị in hiện có của công ty là máy in tờ rời, đã cũ, hết khấu hao có thời gian sử dụng quá lâu, phụ tùng thay thế của hãng sản xuất không còn bán trên thị trường, các thiết bị này có công suất thấp, chưa phải là thiết bị chuyên dùng cho in bao bì, tính hiện đại của thiết bị ở mức trung bình vì vậy: năng lực sản xuất nói chung chỉ đáp ứng được khối lượng công việc hiện tại với nỗ lực lớn của cán bộ công nhân viên và thời gian dài; cơ cấu thiết bị không phù hợp với in bao bì, không đáp ứng được với cơ cấu công việc hiện nay.
SốTT
Tên máy móc thiết bị
Số lượng
Năm đưa vào sản xuất
Nguyên giá
Giá trị còn lại
1
Nhóm thiết bị in
Máy HEIDELBERG 01 màu (520x740)mm
01
1989
1.282.048,00
0,00
Máy HEIDELBERG 01 màu (520x740)mm
01
1994
1.888.732,06
0,00
Máy HEIDELBERG 01 màu (520x740)mm
01
1996
2.478.300,00
0,00
Máy HEIDELBERG 01 màu (520x740)mm
01
1998
2.397.734,40
856.330,00
Máy HEIDELBERG 01 màu (520x740)mm (có cụm sấy UV)
01
2000
3.327.929,10
2.337.474,00
2
Máy chế bản: OZASOL
01
1989
235.026,99
0,00
3
Máy móc thiết bị gia công
Máy xén giấy ADAST 115- Tiệp
01
1994
62.400,00
0,00
Máy xén giấy POLAR 115- Đức
01
2000
745.726,93
328.477,00
Máy dập hộp RABOLINI (540x760)mm- Italia
01
1994
1.611.267,93
0,00
Máy dập hộp Trung quốc (540x760)mm
01
1997
662.359,00
0,00
Máy dập hộp phẳng Trung quốc (560x780)mm
01
1999
856.350,00
336.423,00
Máy dập hộp phẳng Trung quốc (750x1050)mm
01
2002
1.484.743,34
1.336.268,11
Máy dán hộp Trung quốc
01
2002
742.355,86
668.120,27
Tổng cộng
17.774.972,62
5.863.092,38
Như vậy, công việc ngày càng đòi hỏi chất lượng cao trong khi máy móc thiết bị không còn phù hợp, hầu hết đã khấu hao hết, nên tính cạnh tranh trên thị trường thấp. Yêu cầu chất lượng ngày càng cao, nhất là in tem nhãn bao bì cho hãng xuất khẩu. Với hiện trạng máy móc thiết bị như hiện nay, công ty khẳng định rằng việc in tem nhãn bao bì đòi hỏi chất lượng ngang tầm các nước trong khu vực ở công ty khó có thể đáp ứng về chất lượng, thời gian và giá cả. Hiện tại khách hàng đặt in phần lớn sản phẩm trên dây chuyền mới, chuyên dùng cho in bao bì. Điều này rất nguy hiểm cho công ty về mặt uy tín và nguy cơ thiếu việc làm.
NHU CẦU IN TEM NHÃN, BAO BÌ, SÁCH,... NĂM 2003
Đơn vị tính: triệu trang (13x19)cm
SốTT
Tên cơ quan
Nhu cầu
Trong đó
Sản xuất trên máy móc thiết bị hiện có
Yêu cầu in dây chuyền mới
A
Khách hàng hiện có
1
Nhà máy thuốc lá Thăng Long
855,0
290,0
565,0
2
Nhà máy thuốc lá Bắc Sơn
100,0
100,0
200,0
3
Nhà máy thuốc lá Thanh Hóa
50,0
10,0
40,0
4
Công ty cổ phần dược Traphaco
60,0
20,0
40,0
5
Công ty bánh kẹo Hải Hà
40,0
15,0
25,0
6
Công ty Hải Hà - Kotobuki
20,0
10,0
10,0
7
Công ty nông sản thực phẩm Vĩnh Phúc
15,0
5,0
10,0
8
Tổng công ty chè Việt Nam
25,0
10,0
15,0
9
Tổng công ty rau quả Việt Nam
20,0
5,0
15,0
10
Công ty thuốc thú y
10,0
2,0
8,0
11
Công ty thức ăn gia súc
10,0
5,0
5,0
12
Công ty giống cây trồng
10,0
2,0
8,0
13
Công ty bảo vệ thực vật
10,0
5,0
5,0
14
Công ty BĐPN Rạng đông (xuất khẩu)
30,0
30,0
15
Công ty Pentax Việt Nam
15,0
5,0
10,0
Cộng
1.470,0
484,0
986,0
B
Khách hàng tiềm năng
(khi có dây chuyền in mới)
1
Công ty Canon
20,0
2
Công ty may 10
20,0
3
Công ty may Đức Giang
20,0
4
Công ty dược Nam Hà
40,0
5
Xí nghiệp dược phẩm trung ương 1
40,0
6
Công ty bánh kẹo Tràng An
50,0
7
Công ty bánh kẹo Hữu nghị
60,0
Cộng
250,0
Mặt khác công tác kinh doanh ở công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh trên thị trường đang diễn ra gay gắt, khốc liệt thời gian-chất lượng-giá cả là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp trong đó có công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm.
Nếu không được đầu tư đổi mới thiết bị kịp thời công ty sẽ bị tụt hậu không đáp ứng được yêu cầu sản xuất của khách hàng. Vì vậy tăng cường năng lực in là đòi hỏi mang tính cấp bách của công ty, chẳng những như nó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị, làm tròn nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước mà còn là phương sách để công ty giữ được uy tín, khẳng định mình với khách hàng, làm cho khách hàng yên tâm khi đến với công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, điều này là vô cùng quan trọng trong cơ chế thị trường hiện nay.
Trong điều kiện nền kinh tế xu hướng toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ chưa từng có, hình thức tem nhãn bao bì ngày càng đòi hỏi đẹp hơn, phải được in trên dây chuyền. Máy in chuyên dùng và dây chuyền máy in FLEXO là một sự lựa chọn.
4. về đội ngũ cán bộ công nhân viên
Công ty hiện nay có 108 cán bộ công nhân viên trong đó:
Cán bộ quản lý : 21 người
Công nhân : 87 người
Thợ bậc cao : 30 người
Kỹ sư : 15 người
Cao đẳng : 16 người
Cán bộ công nhân viên trong công ty có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Có khả năng quản lý, vận hành khai thác công suất máy móc thiết bị đạt hiệu quả cao tạo ra những sản phẩm chất lượng tốt, thời gian nhanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan về năng lực in, về chất lượng sản phẩm bao bì, về hiện trạng máy móc thiết bị của công ty và yêu cầu của khách hàng đồng thời chuẩn bị từng bước hòa nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực. Việc đầu tư dây chuyền in hiện đại, phù hợp là vấn đề cấp bách đối với công ty để tiến lên hiện đại hơn, ổn định và phát triển vững chắc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
III. Chọn thiết bị - Nguồn vốn đầu tư - vị trí lắp đặt - hiệu quả kinh tế
1. Chon thiết bị
Từ những năm 1989 trở về trước, công ty in nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm sử dụng công nghệ in typo, in offset là công nghệ cũ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Các hệ máy này do Trung quốc sản xuất, sản phẩm sản xuất ra chất lượng đảm bảo chỉ cho thời kỳ đó.
Trong thời kỳ đổi mới được sự quan tâm của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các ngành Tài chính, Ngân hàng,... công ty đã được đầu tư máy móc thiết bị mới của Đức. Chuyển từ in typo với xắp chữ chì và inn offset đặt tay sang in offset chế bản điện tử. Nhưng đến nay công nghệ này cũng lạc hậu, không còn phù hợp với sự phát triển của công nghệ in hiện nay bởi vì thế giới đã chuyển sang công nghệ in trực tiếp là FLEXO - là công nghệ hiện đại mà khách hàng của công ty đang mong đợi sản phẩm tem nhãn bao bì của họ sẽ được sản xuất ra từ dây chuyền đó.
Dây chuyền in FLEXO là một hệ thống in đồng bộ từ khâu tạo bản photopolyme đến hoàn thiện sản phẩm dùng để in tem nhãn bao bì nhãn mác hàng hóa bằng giấy hoặc màng mỏng có chất lượng cao, phù hợp với các chủng loại mặt hàng mà công ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0323.doc