Rủi ro tín dụng & Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương Mại Việt Nam

Phần 1. Một số lý luận chung về tín dụng, rủi ro tín dụng và bảo đảm an toàn tín dụng trong ngân hàng thương mại 1 I. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường…………………………………… 3 1. Vài nét về ngân hàng thương mại…………………………………. 3 1.1. Nguồn gốc, định nghĩa………………………………………….. 3 1.2. Phân loại ngân hàng thương mại ………………………………... 4 1.3. Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại………………. 5 1.3.1. Tạo tiền ………………………………………………………. 5 1.3.2. Than

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Rủi ro tín dụng & Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương Mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h toán……………………………………………………. 6 1.3.3. Tín dụng ……………………………………………………… 6 1.3.4. Cung ứng dịch vụ ngân hàng…………………………………. 7 II. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ……………………………….. 7 1. Khái niệm tín dụng ngân hàng…………………………………… 7 1.1. Các hình thức tín dụng …………………………………………. 8 1.2. Vai trò tín dụng trong nền kinh tế thị trường…………………… 9 1.2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế…………… 10 1.2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất và mở rộng cho nền kinh tế…. 11 1.2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ…………………………… 11 1.2.4. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các nghành mũi nhọn……………………………………………….. 12 III. Rủi ro tín dụng ………………………………………………… 13 1. Khái niệm rủi ro tín dụng ……………………………………….. 13 2. Các loại rủi ro tín dụng ………………………………………….. 13 2.1. Rủi ro mất vốn…………………………………………………. 13 2.2. Rủi ro sai hẹn………………………………………………….. 14 2.3. Rủi ro lãi suất…………………………………………………. 14 2.4. Rủi ro tỷ giá…………………………………………………….. 15 3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng……………………………………… 16 3.1. Thông tin không cân xứng……………………………………… 16 3.2. Môi trường kinh tế………………………………………………. 17 3.3. Môi trường pháp lý……………………………………………… 18 3.4. Những nguyên nhân bất khả kháng…………………………….. 19 Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Phần 2. Thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại . 1. Tình hình quản lý tín dụng tại các ngân hàng thương mại trong những năm qua………………………………………………………… 20 1.1. Tình hình huy động vốn…………………………………………… 21 1.2. Tình hình sử dụng vốn……………………………………………. 22 2. Một số vấn đề về quản lý rủi ro tín dụng……………………………. 24 2.1. Giá cả tài sản thế chấp, cấm cố trong các chu kỳ tín dụng……….. 25 2.2. Các rủi ro khi cho cá nhân vay vốn tín dụng ……………………… 26 2.3. Các rủi ro khi cho vay khách hàng là pháp nhân………………….. 27 Phần 3. Một số biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng 1. Nâng cao chất lượng cán bộ của ngân hàng ……………………….. 28 1.1. Năng lực điều hành của ban lãnh đạo Ngân hàng…………………. 28 1.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn…………… 28 2. Nâng cao chất lượng thẩm định khác hàng…………………………. 29 3. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp, cầm cố……………………. 31 3.1. Cần nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng……………………….. 31 3.2. Bảo lãnh……………………………………………………………. 32 3.3. Thực hiện bảo hiểm tín dụng………………………………………. 33 4. Xử lý món vay có vấn đề…………………………………………….. 34 5. Mở rộng cạnh tranh………………………………………………….. 35 5.1. Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro…………………... 35 5.2. Đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng……………………… 36 5.3. Thiết lập quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng…………………... 37 Kết luận 39 Lời mở đầu Trong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống Ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả, không thể có tăng trưởng trong khi hệ thống tổ chức và hoạt động của Ngân hàng yếu kém và lạc hậu. Như vậy, đòi hỏi Ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Điều hoà lưu thông tiền tệ chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng, hoạt động tín dụng là xương sống của hệ thống Ngân hàng thương mại, cụ thể là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả của ngân hàng sẽ giúp cho các thành phần kinh tế phát triển ổn định và ngược lại. Nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, với đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước đã tạo tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển các thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với những tiềm năng và ưu thế sẵn có đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu của mình trong công cuộc đổi mới nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng có nhiều bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đầy biến động rủi ro là điều không thể tránh khỏi đối với tất cả các thành phần kinh tế. Những nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung thực của khách hàng, vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản hay do suy thoái kinh tế… đều có thể biến một khoản vay có chất lượng cao thành một khoản nợ khó đòi. Đó là chưa kể đến những kẽ hở do hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh gây nên những phiền toái cho khách hàng và ngân hàng trong quá trình hoạt động cũng như tạo điều kiện cho những ý đồ xấu của khách hàng hay cán bộ Ngân hàng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của nhà nước. Đây là mối đe doạ mà bất cứ Ngân hàng nào cũng phải đương đầu . Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của quản lý các Ngân hàng Thương mại là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Nhận thức rõ tính cấp bách của vấn đề trên, sau một thời gian nghin cứu và tìm hiểu em xin được trình bày một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng qua đề tài : “Rủi ro tín dụng và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam ” bố cục của đề án gồm ba chương: Chương 1. Ngân hàng Thương mại và rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường. Chương 2. Thực trạng rủi ro tín dụng và vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Chương 3. Một số biện pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Hữu Tài, các thầy cô giáo giảng dạy tại khoa Ngân hàng – Tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Chương I Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường Vài nét về ngân hàng thương mại Nguồn gốc, định nghĩa Khi sản xuất phát triển trao đổi hàng lấy hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của lưu thông hàng hoá, để đáp ứng được yêu cầu đó tiền đã xuất hiện đóng vai trò là vật trung gian trong quá trình trao đổi, lưu thông. Khi tiền ra đời lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn và sản xuất cũng phát triển hơn. Nhưng mỗi vùng lãnh thổ lại có một đồng tiền khác nhau, sự khác biệt giữa các đồng tiền của các khu vực đã gây khó khăn cho lưu thông hàng hoá cho các vùng này. Có một số thương gia tách ra làm nhiệm vụ đổi tiền cho các thương gia kinh doanh, đó là những thương gia tiền tệ. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá, nhu cầu tiền tệ tăng lên vì thế đã phát sinh nghiệp vụ cho vay. Các thương gia tiền tệ đã chuyển hoàn toàn từ hoạt động kinh doanh hàng hoá sang kinh doanh tiền tệ, đó chính là tiền thân của Ngân hàng thương mại. Tại những nước phát triển Ngân hàng thương mại ra đời sớm hơn Ngân hàng Quốc gia hàng thế kỷ, Ngân hàng Quốc gia ra đời trên cơ sở một trong những Ngân hàng thương mại lớn, có nguồn gốc khổng lồ nhất, thoát ly hẳn việc trực tiếp cho vay đối với các doanh nghiệp, mà chỉ cho vay đối với các Ngân hàng thương mại; Ngân hàng này trở thành ngân hàng phát hành, sau đó được nhà nước quốc hữu hoá bằng cách mua lại và trở thành Ngân hàng Quốc gia. Mặc dù Ngân hàng thương mại ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí với nhau về định nghĩa ngân hàng thương mại, đó là do sự khác biệt về luật pháp, phong tục tập quán, số lượng các nghiệp vụ ngân hàng, điều kiện nền kinh tế … ở Việt nam theo nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ : “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi của khách hàng, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Phân loại Ngân hàng thương mại Ngày nay, trên thế giới và ở Việt nam hình thành nhiều loại Ngân hàng thương mại khác nhau. - Theo phạm vi nghiệp vụ người ta chia Ngân hàng thương mại thành hai loại hình: + Loại hình kinh doanh đa năng: Thường là các Ngân hàng Quốc doanh được phép hoạt động rộng, sử dụng nhiều loại nghiệp vụ. + Ngân hàng thương mại chuyên môn hoá : Loại Ngân hàng này hoạt động với phạm vi hẹp như ngân hàng phát triển nhà, Ngân hàng cầm cố bất động sản. - Theo đối tượng khách hàng, người ta chỉ ra: + Ngân hàng bán buôn: Loại ngân hàng này chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp lớn. + Ngân hàng bán lẻ: Loại ngân hàng này đầu tư vào các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cá nhân. - Theo mô hình phổ biến hiện nay: + Ngân hàng thương mại quốc doanh: Các ngân hàng này được Nhà nước cấp vốn. + Ngân hàng phát triển: Mục đích Ngân hàng này là cung ứng vốn dài hạn cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Loại hình này có thể là quốc doanh hoặc cổ phần. + Ngân hàng chính sách: Ngân hàng này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mà hoạt động theo những mục tiêu riêng do Chính phủ giao, như phục vụ người nghèo, phục vụ miền núi… + Các Ngân hàng cổ phần có thể hoạt động đa năng, hoặc theo từng quy chế riêng, từng lĩnh vực phạm vi nhất định. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại Tạo tiền Một trong những chức năng chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tạo tiền và huỷ tiền. Chức năng tạo tiền xuất phát từ chính nhu cầu bên trong của mỗi Ngân hàng thương mại riêng lẻ và sự tăng trưởng của toàn hệ thống, thông qua các hoạt động tín dụng, đầu tư và thanh toán. Trong mỗi ngân hàng riêng lẻ, khả năng tạo tiền chỉ đạt từ trên một lần đến giữa hai lần tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mỗi khoản tiền gửi của khách hàng gửi vào Ngân hàng, được ngân hàng lưu giữ tại quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, đồng thời phản ánh trên tài khoản của khách hàng. Sau đó khách hàng trích tài khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Thông qua các bút toán này, dùng “tiền ghi sổ” và thanh toán chuyển khoản, để tạo ra một khoản tiền mới. Chức năng tạo tiền làm cho các Ngân hàng thương mại có khả năng đẩy nền kinh tế phát triển quá nóng và ngược lại, huỷ tiền gây thiểu phát, gây khó khăn cho tăng trưởng kinh tế. Chức năng tạo tiền có liên quan đến tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Vì vậy các nhà khoa học coi chức năng này là chức năng số một của Ngân hàng thương mại. Thanh toán Sự vận động vốn trong phạm vi toàn quốc và phạm vi toàn cầu đòi hỏi phải có sự thống nhất và quốc tế hoá cao độ giữa chức năng thước đo giá trị, chức năng phương tiện lưu thông trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy phát huy với tốc độ cao chức năng thanh toán của Ngân hàng thương mại có liên quan đến việc cung ứng tổng khối lượng thanh toán cho toàn xã hội, một tác nhân của tăng trưởng kinh tế. Chức năng thanh toán là chức năng cổ truyền của Ngân hàng thương mại. Ngày nay những sản phẩm hiện đại của nó là những tấm các điện tử, những tấm mica thay cho vàng bạc châu báu, thay cho tiền tệ, là do sự phát triển của chức năng này. Tín dụng Phạm trù tín dụng trở thành chức năng của Ngân hàng thương mại ngay từ thuở Ngân hàng chào đời. Tín dụng bao hàm ý nghĩa huy động vốn, thu hút tiền gửi và cho vay. Các nhà khoa học kinh tế đã coi Ngân hàng là một ngành công nghiệp, thì việc cung ứng tín dụng được coi như việc thực hiện một trong các “sản phẩm” chủ yếu, một “sản phẩm gián tiếp”. Sản phẩm này đem ra tiêu dùng sẽ tạo ra việc làm, tạo ra sản phẩm xã hội do khai thác tài nguyên. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doang nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới cải tiến kỹ thuật công nghệ sản suất. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời. Cung ứng dịch vụ Ngân hàng Một xã hội văn minh được đánh giá bằng hệ thống cung ứng dịch vụ, một chức năng quan trọng của Ngân hàng hiện đại cũng được phát triển theo sự tiến bộ của nền văn minh. Đó là dịch vụ Ngân hàng. Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu và khách hàng là cá nhân những loại dịch vụ thông thường và thanh toán chuyển tiền uỷ thác, tư vấn đầu tư mua trả góp, các dịch vụ lữ hành…. Ngày nay hiện đại hơn là các loại thẻ điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chứng khoán, các dịch vụ Ngân hàng tại gia, thẻ séc…Chức năng này trong nền kinh tế thị trường phát huy hơn bao giờ hết. Tóm lại bốn chức năng chủ yếu nói trên quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại. Những vấn đề cơ bản về tín dụng 1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Ngày nay các Ngân hàng Thương mại là một bộ phận không thể tách rời, tồn tại tất yếu trong đời sống kinh tế - xã hội. Trình độ phát triển hệ thống Ngân hàng của một nước thể hiện trình độ phát triển của nước đó, vì đó là nời biểu hiện tập trung nhất mọi hoạt động kinh tế của đất nước. Những thông tin liên quan đến hoạt động Ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp và Chính phủ. Ngân hàng là người môi giới giữa những người có vốn nhàn rỗi với những người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với nhu cầu trong sản xuất kinh doanh. Đó là hoạt động sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại – hoạt động tín dụng. Về nội dung kinh tế, tín dụng Ngân hàng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một số lượng tiền nhất định của Ngân hàng (người cho vay) cho người đi vay trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả có kèm theo lãi. Tín dụng là một phạm trù kinh tế xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự phát triển kinh tế xã hội là tiền đề làm nảy sinh các hình thức khác nhau của quan hệ tín dụng: Tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng … Trong đó, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hình thức tín dụng Ngân hàng ngày càng đa dạng, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh. 1.1. Các hình thức tín dụng Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng có phạm vi hoạt động rộng lớn và đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Trên cơ sở các căn cứ khác nhau mà hình thành các hình thức tín dụng khác nhau. Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng: Tín dụng ngắn hạn: là các khoản cho vay mà thời hạn không quá một năm. Mục đích là đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu, chi phí sản xuất. Tín dụng trung hạn: Thường là trên một năm đến 3, 5 hay 7 năm tuỳ theo quan điểm của mỗi quốc gia (nước ta là 3 năm). mục đích là vay vốn để sửa chữa, khắc phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: Trên 3, 5 hay 7 năm tuỳ theo mỗi nước. Mục đích là sử dụng vốn vay gần như tín dụng trung hạn nhưng với những công trình quy mô lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn. Căn cứ vào mục đích tín dụng: Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng được cung cấp cho các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Nó đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh để dự trữ nguyên vật liệu, cho vay chi để đáp ứng chi phí sản xuất hoặc đáp ứng nhu cầu vốn trong quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp. Tín dụng tiêu dùng: Cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua chịu hàng hoá, xây dựng nhà ở hoặc các phương tiện khác. Phân loại theo thành phần kinh tế: Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: Công ty TNHH, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể, tổ sản xuất và hợp tác xã. Tín dụng đối vớ kinh tế quốc doanh: Là quan hệ tín dụng của Ngân hàng với các doanh nghiệp Nhà nước. Căn cứ theo chủ thể tín dụng: Tín dụng Ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa các cá nhân, doanh nghiệp với Ngân hàng. - Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng được thực hiện bằng hình thức tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là Nhà nước và một bên là tất cả các cá nhân trong xã hội. Tín dụng hợp tác xã Tín dụng tư nhân Tín dụng quốc tế Căn cứ vào bảo đảm trong quan hệ tín dụng: Tín dụng có bảo đảm ( thế chấp ) Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp) Vai trò tín dụng trong nền kinh tế thị trường Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, vai trò tín dụng Ngân hàng cũng có sự thay đổi về bản chất. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp; tín dụng như là một tổ chức cấp phát vốn Ngân sách. Chính vì vậy thường xảy ra tình trạng nơi cần vốn để sản xuất thì không có hoặc không kịp thời, nơi thì lại để vốn nằm ứ đọng trong một thời gian dài. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hầu như tình trạng đó đã chấm dứt. Với sự cải tổ hệ thống Ngân hàng từ một cấp sang hai cấp, hàng loạt các Ngân hàng thương mại được thành lập. Các ngân hàng thương mại được hình thành nhằm mục đích huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của toàn xã hội. Sau đây là vai trò tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế Hoạt động tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế Quốc dân, là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ mà Ngân hàng Trung ương giao phó, các Ngân hàng thương mại cổ phần luôn luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa để tự khẳng định mình. Như với mọi tổ chức kinh doanh khác, hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng, nó đem lại 70 - 80% thu nhập cho Ngân hàng. Chính vì vậy thông qua hoạt động huy động vốn, các ngân hàng Ngân hàng thương mại đã góp phần tích cực tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi cho các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó các Ngân hàng thương mại lại bơm nguồn tiền đó trở laị nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất và mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập trung và phân phối tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế Quốc dân. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Như vậy tín dụng Ngân hàng là cánh tay đắc lực của Ngân hàng thương mại, góp phần nâng cao chất lượng điều hoà tiền tệ, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, kìm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định. 1.2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau nếu không muốn tụt hậu và đào thải. Do đó, nhu cầu đầu tư phát triển không những là nhu cầu tự thân mà còn do đòi hỏi của cơ chế thị trường. Để có thể mở rộng, phát triển sản xuất các doanh nghiệp cần có nhiều yếu tố như: nguồn nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuật, vốn… Tuy nhiên, có thể khẳng định vốn là quan trọng nhất vì nếu có vốn doanh nghiệp sẽ có được các yếu tố khác do thị trường luôn sẵn sàng cung ứng. Để có vốn, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm ở các nguồn như chiếm dụng vốn của đơn vị cùng làm ăn, đi vay trên thị trường chợ đen … nhưng những hình thức này không ổn định mà chi phí lại lớn. Bởi vậy, thường thì các doanh nghiệp tìm đến Ngân hàng. Đối với hầu hết khách hàng, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp tư vấn và vốn bổ sung. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội. Như vậy tín dụng Ngân hàng có vai trò quyết định đối với quá trình tái sản xuất mở rộng và đầu tư phát triển của nền kinh tế. 1.2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ Trong nền kinh tế thị trườngthường xuyên xuất hiện những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, trong khi các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện hiện tượng thiếu vốn tạm thời, hoặc thiếu vốn bổ sung đầu tư tài sản cố định. Sự có mặt của tín dụng Ngân hàng được coi như một giải pháp để giải quyết mâu thuẫn này. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng ngân hàng đã huy động được các nguồn tiết kiệm trong dân cư và phân phối lại cho các thành phần kinh tế có nhu cầu vốn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có nhu cầu vốn, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế. Dựa vào quy luật lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay, ngân hàng Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Việc này đôi khi gây mất cân đổi trong quan hệ tiền hàng, dẫn đến lạm phát. Do đó sự vận động vốn tín dụng ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ. Hơn nữa, quá trình hoạt động của ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường thiến sự quản lý của Nhà nước, từ đó ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này góp phần làm giảm lạm phát, căn bệnh kinh niên của nền kinh tế, nhất là đối với những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như nước ta. Tất cả mọi quốc gia đều dùng tín dụng Ngân hàng như là một công cụ hữu hiệu để điều hoà vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 1.2.4. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Nhưng việc cho vay này không phải trả đều cho các chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện qua một quá trình thẩm định kỹ lưỡng. Quá trình này là rất quan trọng đối với các Ngân hàng, nó mang tính sống còn của Ngân hàng. Tuy nhiên đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, có những ngành kinh tế đòi hỏi phải được đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Mặc dù các ngành này tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, đòi hòi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, xương sống của nền kinh tế, là cơ sở để phát triển đất nước. Bên cạnh đó có những vùng kinh tế kém phát triển cần được đầu tư như đầu tư phát triển vùng nông thôn, miền núi… để nâng cao mức sống cho nhân dân. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những biện pháp chính sách khuyến khích các Ngân hàng thương mại cho vay hỗ trợ các dự án phát triển Nhà nước thông qua hoạt động tín dụng. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển kinh tế. Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo cho nước ta thế và lực mới, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để phát huy vai trò và thế mạnh của từng thành phần kinh tế, song song với các chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế kém phát triển, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn. Rủi ro tín dụng Khái niệm rủi ro tín dụng Trong các hoạt động của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho Ngân hàng và cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng là hiện tượng xảy ra gây thiệt hại cho Ngân hàng ngoài sự mong đợi của Ngân hàng mà nguyên nhân của nó có thể là do Ngân hàng, khách hàng hoặc có thể là nguyên nhân khách quan. Các loại rủi ro tín dụng 2.1. Rủi ro mất vốn Là rủi ro cho vay không thu hồi được nợ. Bản chất của tín dụng ngân hàng chứa đựng nội dung ứng trước tiền cho doanh nghiệp (người vay), sau một chu kỳ sản xuất hoặc kỳ luân chuyển hàng hoá thì khách hàng mới có tiền trả nợ ngân hàng. Nội dung “ứng trước” của tín dụng ngân hàng càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn. Ngân hàng thương mại cho vay bằng tín chấp mức độ rủi ro cao hơn cho vay có tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp bằng giấy tờ có giá dễ chuyển đổi ra tiền thì rủi ro ít hơn tài sản thế chấp là bất động sản (ruộng, vườn, ao hồ, nhà cửa kèm theo thổ cư). Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản kinh doanh. Vì hơn 2/3 tài sản có của ngân hàng là các món cho vay và đầu tư, đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, do đó nếu các khoản cho vay của ngân hàng không được hoàn trả, ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn lãi. Số tiền thiệt hại này khi đã vượt quá vốn tự có của ngân hàng sẽ khiến ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. 2.2. Rủi ro sai hẹn Là các khoản cho vay mà đến hạn khách hàng vẫn chưa thu hồi được vốn để trả cho ngân hàng. Thông thường trường hợp này khách hàng sẽ xin ngân hàng gia hạn thêm thời hạn trả nợ. Nếu lý do của khách hàng không được ngân hàng chấp thuận, họ sẽ phải chịu lãi suất phạt. Khoản tiền thu hồi chậm này có thể làm đảo lộn kế hoạt kinh doanh của ngân hàng và luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn. 2.3. Rủi ro lãi suất Quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng bao gồm việc huy động vốn và việc sử dụng vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản nợ thường không cân xứng với kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản có làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất. Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/ năm. Sau năm thứ nhất, bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn hai năm, ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10% - 9% = 1%. Tuy nhiên lợi nhuận thu của năm thứ hai chưa biết trước là bao nhiêu cho nên sẽ là một số không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đôỉ là 9%; và do đó, mức lợi nhuận thu được trong năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất và bằng 1%. Vì lãi suất thị trường có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai, cho nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về sự thay đổi lãi suất. Giả sử, sang năm thứ hai ngân hàng chỉ có thể huy động vốn theo mức lãi suất thị trường hiện hành là 11%, do đó lợi nhuận của ngân hàng sang năm thứ hai sẽ là một số âm, tức là ngân hàng sẽ chịu lỗ 10% - 11% = -1%. Như vậy lợi nhuận của năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai. Kết quả là, trong mọi trường hợp nếu ngân hàng duy trì tài sản có kỳ hạn dài hơn so với tài sản nợ thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động vốn bổ sung trong những năm tiếp theo tăng lên trên mức lãi suất đầu tư tín dụng dài hạn. Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có, thì khi lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Như chúng ta đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuốn. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của tài sản có và tài sản nợ sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau, ví dụ tài sản có có kỳ kỳ hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của tài sản có sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị của tài sản nợ. Rủi ro giảm giá trị tài sản khi lãi suất thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. 2.4.Rủi ro tỷ giá Rủi ro hối đoái thường diễn ra dưới hình thức của một chênh lệch giữa giá đặt mua và giá chào bán của tiền tệ. Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước. Để thấy được rủi ro hôí đoái phát sinh như thế nào, chúng ta giả sử một ngân hàng úc cấp tín dụng bằng đồng bảng Anh cho một công ty của Anh. Khi đồng bảng Anh giảm giá so với đồng đôla úc. Thậm chí trong trường hợp nếu đồng bảng Anh giảm giá đáng kể, thì cả gốc và lãi khi chuyển đổi sang đôla úc có thể là nhỏ hơn số gốc đầu tư ban đầu, và do đó kết quả đầu tư sẽ là âm. Nghĩa là khi chúng ta chuyển đổi gốc và lãi từ bảng Anh sang đôla úc, thì số tiền lãi thu được chưa đủ để bù đắp rủi ro hối đoái 3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng 3.1. Thông tin không cân xứng Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì mà người ta cần biết về bên để có được những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin không cân xứng. Ví dụ một người vay một món tiền thường có thông tin tốt hơn về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà người này có dự tính tiến hành so với người cho vay. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Chọn lựa đối nghịch là do vấn đề thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên thị trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) – tức là những rủi ro không trả được nợ – là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do việc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ. Sự lựa chọn đối nghịch trên thị trường cho vay nảy sinh vì những người rất kém tín nhiệm ( những người rất dễ có thể không trả món vay của mình) lại là những người thường sắp hàng để vay tiền.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0675.doc