Lời mở đầu
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại là đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Một ngân hàng thương mại được xem là có khả năng thanh khoản nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết.
Ngày nay, quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với trước đây rất nhiều, bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc dù về kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2532 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Rủi ro thanh khoản trong các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản trị thanh khoản của một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng.
Hậu quả của rủi ro thanh khoản đối với mỗi ngân hàng nói riêng và cả hệ thống ngân hàng thương mại nói chung là vô cùng nghiêm trọng. Rủi ro thanh khoản xảy ra nhẹ sẽ làm suy giảm mức sinh lợi của ngân hàng, còn nêú nặng có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Vì vậy mà quản trị thanh khoản luôn là hoạt động xuyên suốt trong quá trình hoat động của mỗi ngân hàng.
Do tâm quan trọng của quản lý thanh khoản, và với mong muốn hiểu rõ hơn về rủi ro thanh khoản và các biện pháp hạn chế rủi ro thanh khoản nên em đã lựa chọn đề tài:
“Rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam”
Phần I: Cơ Sở lý luận về rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại
Các khái niệm cơ bản về thanh khoản
Tính thanh khoản của tài sản:
Tính thanh khoản của tài sản là khả năng chuyền tài sản đó thành tiền, được đo bằng chi phí và thời gian đề chuyển tài sản thành tiền.
Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của tài sản càng thấp và ngược lại. Tuy nhiền trong nhiều trường hợp muốn bán nhanh được một tài sản tức là muốn chuyển đổi tài sản đó nhanh thành tiền thì chi phí lại lớn. Điều này cho ta thấy tính thanh khoản của một tài sản phụ thuộc nhiều nhân tố và có thể thay đổi theo thời gian giữa các vùng các nước.
Các ngân hàng khác nhau thì nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản khác nhau. Kết cấu tài sản với tính chất thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của danh mục tài sản và được đo bằng tỷ lệ của các tài sản có tính thanh khoản cao trên tổng tài sản(hoặc trên tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng)
Tính thanh khoản của nguồn
Để hình thành nên các tài sản của mình, ngân hàng cần phải huy động vốn. Khả năng huy động vốn của ngân hàng sẽ góp phần tạo nên khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tính thanh khoản của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Chi phí và thời gian càng thấp thì tính thanh khoản của nguồn càng cao. Tính thanh khoản của nguồn còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như sự phát triển của thị trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy cảm của nguồn đối với lãi suất...
Tính thanh khoản của ngân hàng:
Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách , được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Một ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai phù hợp với nhu cầu thanh khoản.
Mối quan hệ giữa thanh khoản và sinh lời:
Trong hoạt động của ngân hàng thì việc duy trì thanh khoản-đáp ứng khả năng chi trả , thanh toán là mục tiêu vô cùng quan trọng. nếu để rủi ro thanh khoản xảy ra thì ở mức nhẹ là làm ngân hàng suy giảm lợi nhuận, còn nặng có thể dẫn đến phá sản. Nhưng để duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng thì ngân hàng phải chấp nhận một khoản chí phí. Để tăng an toàn thanh khoản thì chi phí cũng gia tăng và có thể làm suy giảm lợi nhuận. Vì vậy trong quá trình quản lý thanh khoản cần phải dự đoán được các nguy cơ thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra nhằm có những biện pháp đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng với chi phí hợp lý nhất.
Cung và cầu và trạng thái thanh khoản:
Cung thanh khoản chính là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc giữ tài sản và khả năng huy động mới. Nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng bao gồm
Các khoản tiền gửi sẽ nhận được
Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ
Các khoản tín dụng sẽ thu về
Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng
Vay mượn từ thị trường tiền tệ
Cầu về thanh khoản là nhu cầu thanh toán của khách hàng của ngân hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng. Cầu thanh khoản bao gồm yêu cầu chi trả và vay hợp pháp của các khách hàng. Trong lĩnh vực ngân hàng, những hoạt động sau đây tạo ra nhu cầu về thanh khoản:
Khách hàng rút các khoản tiền gửi
Đề nghị vay vốn hợp pháp của khác hàng
Trả lãi cho các khoản tiền gửi và vay
Thanh toán cho các khoản phải trả khác
Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng
Thanh toán cổ tức cho các cổ đông
Trong cầu thanh khoản có hai bộ phận quan trọng đối với ngân hàng đó là: nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Trong đó nhu cầu rút tiền gắn liền với tiền huy động được, còn nhu cầu vay tiền của khách hàng gắn liền với việc tạo ra các sản phẩm mới.
Trạng thái thanh khoản: Ở bất kỳ thời điểm nào, các nguồn cung và nhu cầu thanh khoản đến cùng một lúc và tạo thành trang thái thanh khoản ròng(Net Lquidity Position). Khi trạng thái thanh khoản ròng (+) tức là ngân hàng đang trong trạng thái thặng dư thanh khoản (liquidity surplus). Khi trạng thái thanh khoản ròng (-) tức là ngân hàng đang trong trạng thái thâm hụt thanh khoản (liquidity deficit).
Yếu tố thời gian của vấn đề thanh khoản
Xét về thời gian, nhu cầu thanh khoản của một ngân hàng bao gồm cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Nhu cầu thanh khoản ngắn hạn mang tính tức thời hoặc gần như thế. Các khoản tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi có kỳ hạn đến hạn, các công cụ huy động thuộc thị trường tiền tệ... nằm trong phạm vi nhu cầu thành khoản ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản thuộc loại này, đòi hỏi ngân hàng phải duy trì ở mức độ khá lớn các loại tài sản có tính thanh khoản cao (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTW và các định chế tài chính khác, chứng khoán chính phủ...)
Nhu cầu thanh khoản dài hạn do các nhân tố mang tính chất thời vụ, chu kỳ và xu hướng tạo ra. Chẳng hạn nhu cầu rút tiền hay vay mượn của cá nhân thường đặc biệt tăng cao vào các ngày cận kề với các dịp lễ hội trong trong năm để trang trải chi tiêu, mua sắm. Để đáp ứng loại nhu cầu thanh khoản này, đòi hỏi ngân hàng cần phải dự phòng trước khả năng cung cấp vốn từ nhiều nguồn khác nhau và ở mức độ cao hơn so với như cầu thanh khoản ngắn ngắn hạn. Ví dụ như đặt kế hoạch thu hút các khoản tiền gửi mới, thỏa thuận vay dài hạn từ công chúng hoặc từ quỹ dự trữ của các ngân hàng khác... Do yếu tố thời gian là mang tính quyết định: Làm thế nào, khi nào và ở đâu có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản mỗi khi cần đến.
Nguyên nhân xảy ra rủi ro thanh khoản:
Tình trạng khó khăn về thanh khoản của ngân hàng thương mại xuất phát từ những lý do chính sau đây:
Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi, quỹ dự trữ từ các cá nhân và các tổ chức tài chính khác, sau đó chuyển sau đó chuyển hoá thành những tài sản đầu tư có kỳ hạn. Vì vậy, tình trạng mất cân đối về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn xảy ra đối với ngân hàng. Trường hợp hiếm thấy là luồng tiền thu hồi được từ các khoản đầu tư cân bằng chính xác với luồng tiền đang chỉ ra để trang trải cho các nguồn vốn huy động trước đây.
Do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn các khách hàng vay tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và tích cực tiếp cận các khoản tín dụng có lãi suất thấp hơn. Như vậy, sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền và cả hai đều tác động trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng về sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưỏng đến giá trị thị trường các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm nguồn cung cấp thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ.
Ngoại trừ hai nhân tố nêu trên, điều cơ bản là các ngân hàng phải đặt một sự ưu tiên cao đối với việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Mất cảnh giác trong khu vực này có thể làm tổn hại nghiêm trọng niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Một trong những nhiệm vụ của các nhà quản trị thanh khoản là duy trì mối liên hệ gần gủi với những khách hàng gửi tiền lớn và những khách hàng vay đang nắm giữ hạn mức lớn để xác định có hay không và khi nào rút vốn.
Giải pháp hạn chế rủi ro thanh khoản
Để hạn chế rủi ro thanh khoản cần phải có những biện pháp quản trị thanh khoản có hiệu quả tốt.
Định hướng chung về quản lý thanh khoản:
Để quản lý thanh khoản tốt thì cần thiết phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Người quản trị thanh khoản thường xuyên bám sát hoạt động của các bộ phận chịu trách nhiệm huy động vốn và sử dụng vốn trong phạm vi ngân hàng và điều phối hoạt động các bộ phận này với nhau. Chẳng hạn, bất cứ khi nào bộ phận phụtrách tài khoản tiết kiện dự kiến nhận một số chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn trong một vài ngày tới, thông tin này cần được chuyển ngay tới người quản trị thanh khoản hoặc bộ phận cho vay đã thoả thuận cấp hạn mức tín dụng mớicho khách hàng, nhà quản trị thanh khoản cần chuẩn bị khả năng khách hàng rút tiền từ hạn mức đó.
Nhà quản trị thanh khoản cần phải biết trước khả năng ở đâu và khi nào khách hàng gửi tiền/ vay tiền dự định rút vốn hoặc bổ sung thêm tiền gửi/ trả nợ. Điều này cho phép người quản trị thanh khoản hoạch định đón đầu để xử lý hiệu quả hơn phần thanh khoản thặng dư hay thâm hụt đang xuất hiện.
Nhu cầu thanh khản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề thanh khoản phải được phân tích trên cơ sở liên tục để tránh kéo dài một trong hai trạng thái: thặng dư hoặc thâm hụt thanh khoản phải được xử lý nhanh chóng nhằm tránh sự khẩn trương gây gắt trong việc phải vay mượn hay bán tài sản.
Các lý thuyết thanh khoản:
Lý thuyết cho vay thương mại:
Lý thuyết này được hình thành dựa trên những nghiên cứu về tính thanh khoản của ngân hàng từ đầu thế kỷ 19 trở về trước. Trong điều kiện thị trường tài chính còn chưa phát triển cao, các nguồn để huy động vốn còn ít ỏi hạn chế, khả năng liên kết hỗ trợ giữa các ngân hàng các thị trường tài chính còn thấp, khả năng thanh toán của các ngâ hàng chủ yếu vẫn dựa vào tính thanh khoản của tài sản.
Do cho vay luôn là tài sản lớn nhất của ngân hàng vì vậy để duy trì được khả năng thanh khoản của tài sản thì cần phải dựa trên cơ sở nắm giữa ngân quỹ và để đảm bảo thanh khoản thì các khoản cho vay phải là các khoản cho vay thương mại có thời gian ngắn. Lý thuyết này chỉ ra rằng, trong điều kiện các nguồn vốn huy động được của ngân hàng thông thường là các nguồn ngắn hạn thì cho vay thương mại tức là tài trợ ngắn hạn cho các tài sản lưu động của các doanh nghiệp, sẽ đảm bảo được sự phù hợp về thời hạn cả tài sản và nguồn vốn ngân hàng, tạo cho ngân hàng các khoản trả nợ trong ngắn hạn do doanh nghiệp đã bán được hàng hóa, vì vậy đây sẽ là phương pháp tốt nhất để đảm bảo khả năng thanh khoản.
Lí thuyết này có hạn chế là bên cạnh việc phân tích tính thanh khoản của các khoản cho vay thương mại đã không chú ý đến tính chất của nguồn vốn và của các khoản cho vay phi thương mại, từ đó đã đưa ra nhận định là các khoản cho vay phi thương mại là không đảm bảo tính thanh khoản và không thích hợp với ngân hàng thương mại. Nhưng thực tế cho thấy, mặc dù nguồn vốn của ngân hàng có thể được huy động từ toàn các khoản tiền gửi và vay ngắn hạn, song chúng luôn nối tiếp nhau và tạo thành các dòng tiền vào liên tục, và cũng có rất nhiều các khoản tiền gửi đến hạn nhưng khách hàng gửi tiền đã không rút ra và tiếp tục gửi tiếp kỳ hạn mới. Những khoản tiền gửi này ta có thể thấy về mặt bản chất chúng cũng có giá trị như các khoản tiền gửi trung và dài hạn. Việc không cho vay phi thương mại-tài trợ bất động sản, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng đã hạn chế khả năng thu nhập của ngân hàng.
Lí thuyết và khả năng chuyển đổi của tài sản
Cùng với sự phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ, các ngân hàng đã có cơ hội mới trong việc nắm giữ các tài sản sinh lời mà vẫn có thể chuyển thành tiền nhanh chóng với ít tổn thất. Dựa trên việc phân tích số lượng các ngân hàng Anh và Mỹ bị phá sản trong khủng hoảng 29 – 30 các tác giả của lý thuyết này đã cho rằng, số lượng các ngân hàng Anh ( chủ yếu cho vay thương mại) bị phá sản chẳng kém gì các ngân hàng Mĩ ( mở rộng cho vay bất động sản và người tiêu dung) . Như vậy, cho vay thương mại khi khủng hoảng xảy ra. Lí thuyết về khả năng chuyển đổi của tài sản chứng minh vấn đề chính để đảm bảo an toàn thanh khoản là khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng ( tăng khả năng tích lũy) và khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng ( tăng khả năng tích lũy ) và khả năng chuyển đổi của tài sản. Với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường tài sản, nhiều tài sản của ngân hàng có khả năng chuyển dổi cao đảm bảo ngân hàng có khoản thu cần thiết khi phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản, Do vậy, các ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện cac khoản cho vay phi thương mại mà vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Lí thuyết về lợi tức dự tính
Tính thanh khoản của tài sản của ngân hàng không chỉ được đo bằng khả năng chuyển đổi của tài sản. Trên cơ sở phân tích thanh khoản của ngân hàng trên quan điểm dòng tiền, các tác giả của lý thuyết lợi tức dự tính cho rằng các khoản thu từ tài sản không chỉ xảy ra khi tài sản đến hạn mà còn có được vào nhiều thời điểm trong suốt thời hạn của tài sản. Các khoản tài trợ trung và dài hạn gắn liền với tài sản cố định của khách hàng. Cấc tài sản này tham gia nhiều chu ky sản xuất hoặc tiêu dung, bị hao mòn dần. Người vay( doanh nghiệp) sẽ thực hiện thu hồi dần giá trị của tài sản dưới hình thức trích kháu hao. Nếu là người tiêu dùng vay để mua hàng hóa lâu bền, thu nhập hàng tháng của họ sẽ là cơ sở để ngân hàng thu nợ. Do đó , nếu ngân hnagf cho vay trung và dài hạn, song thực hiện thu nợ theo nhiều kỳ hạn nợ ( phù hợp với chu kỳ thu nhập của khách hàng), thì thu dự tính sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản.
Lí thuyết về quản lí nợ
Lý thuyết này hình thành từ giữ những năm 60 của thế kỉ 20, gắn liền với việc hình thành công cụ huy động mới là chứng chỉ tiền gửi (CD) và thị trường CD. Ngoài việc vay mượn truyền thống là vay ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại khác, CD cho phép các ngân hàng lớn ở các trung tâm tiền tệ có thể huy dộng trong thời gian ngắn một lượng vốn lớn, với chi phí rẻ hơn phát hành trái phiếu trung, dài hạn. Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường liên ngân hàng ( mang tính khu vực và quốc tế) cho phép cac ngân hàng trên toàn thế giới vay lẫn nhau với qui mô lớn, chi phí giao dịch thấp và ít bị ảnh hưởng bởi chính sách của ngan hàng trung ương mỗi nước, Môi trường hoạt dộng nàu làm tăng khả năng vay nợ của các ngân hàng thương mại. Và theo các tác giả, nếu một ngân hàng có khả năng vay nợ cao ( thời hạn nhanh, qui mô lớn, chi phí thấp) thì khả năng thanh khoản của ngân hàng đó cũng lớn, Các nhà quản lí ngân hàng có thể duy trì danh mục tài sản nghiêng về tính sinh lời hơn là tính thanh khoản và sử dụng việc huy dộng mới như là phương pháp chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Các chiến lược quản trị thanh khoản:
Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau đây:
Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản)
Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên.
Chiến lược thanh khoản dựa trên tài sản
Đây là cách tiếp cận truyền thống để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM. Chiến lược này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh khoản được đáp ứng đầy đủ. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường được gọi là sự chuyển hoá tài sản bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản bằng cách chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt.
Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau:
Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng.
Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản.
Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi phục khoản đầu tư.
Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho bạc, các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán các cơ quan chính phủ... Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời vào lúc nó được cần đến.
Tuy nhiên, sự chuyển hoá tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị thanh khoản:
Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài sản này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản.
Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa hồng phí phải trả cho người môi giới chứng khoán.
Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá trên thị trường.
Nhìn chung khả năng sinh lợi của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là thấp nhất trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có tính thanh khảon cao thì ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những tài sản khác.
Chiến lược quản lý thanh khoản dựa trên nguồn vốn:
Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường tiền tệ. Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải tất cả nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ được triển khai khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết.
Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng chỉ tiền gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại NHTW... Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ.
Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn đề thanh khoản (nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động lãi suất trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng).
Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự sẵn có nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng thêm mức độ không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài chính thì hầu như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu biết về những khó khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút vốn ồ ạt. Đồng thời các tổ chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản.
Chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng
Do những rủi ro vốn có khi phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và những chi phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn chiến lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến lược trên để tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng.
Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác; trong khi đó các nhu cầu thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những nhà cấp vốn khác.
Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng khoán sẽ chuyển hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện.
Ước lượng cung-cầu thanh khoản
Xác định cầu thanh khoản
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải xác định cầu thanh khoản.
Cầu thanh khoản được tạo thành bởi các yếu tố chính sau:
Nhu cầu rút tiền của người gửi: Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác…
Các khoản tiền này có thể có nguồn gốc từ thu nhập, hoặc từ vay mượn…
Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hóa và dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay.
Các khoản trả cho các khoản tiền gửi và vay
Lãi phải trả cho các khoản tiền gửi và vay
Trong cầu thanh khoản, có hai bộ phận quan trọng đối với ngân hàng. Đó là nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Loại thứ nhất gắn liền với tiền huy động được, loại thứ hai gắn liền với việc tạo nên tài sản mới. Các khoản tiền khi huy động được, ngay lập tức tạo nên gia tăng ngân quỹ cho ngân hàng ( gia tăng cung thanh khoản), đồng thời cũng có thể tạo nên nhu cầu thanh khoản. Sự khác biệt về kì hạn của các dòng tiền vào ( cung thanh khoản ) và dòng tiền ra ( cầu thanh khoản) tạo nên sự khác biệt về cung và cầu thanh khoản.
Nhu cầu tín dụng hợp pháp, được ngân hàng cam kết, luôn gắn với các khách hàng có uy tín, có tình hình tài chính khả quan. Trong điều kiện cạnh tranh không ngừng gia tăng giữa các trung gian tài chính, việc tài trợ của ngân hàng cho khách hàng cũng ngày càng mang tính cấp bách.
Nhu cầu thanh khoản được các nhà ngân hàng dự đoán dựa trên nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, Thứ nhất là nhóm nhân tố tạo ra sự hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền như bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính, các khoản cho vay xấu dẫn đến mất khả năng thanh toán của một ngân hàng, lan sang các ngân hàng khác…
Thứ hai là nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân só và doanh nghiệp…
Thứ ba là nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng…của mỗi tổ chức.
Thứ tư là nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng như cán bộ, công nghệ, thị phần, uy tín,,, các nhân tố này có thể tác dộng tới nhu cầu thanh khoản tức thời ( ngắn hạn) và xu hướng ( dài hạn).
Cách thức mà các ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự an toàn của hệ thống. Sau đây là một số nội dung chính:
Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy những biến động về nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng.
Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để xác định tần suất và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản:
Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi, từng nhóm khách hàng, từng thời kì trong năm.
Xác định cung thanh khoản:
Xác định cung thanh khoản
Ngân hàng phải duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của khách hàng, đó chính là cung thanh khoản. Cung thanh khoản có thể được tạo ra từ hai phía: Phía tài sản và phía nguồn vốn ( hoặc từ 2 cách: duy trì dự trữ và khả năng vay mượn). Theo trường phái quản lý bên trong, có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía tài sản. Cung thanh khoản từ phía tài sản luôn gắn với chiến lược dự trữ của ngân hàng. Quan điểm này cho rằng trình tự của các tài sản – có nghĩa là quản lý tài sản –có thể cung cấp thanh khoản. Trên khía cạnh của rủi ro, điều đó có nghĩa là từ tài sản, ngân hàng cần tìm kiếm sự phù hợp về thời gian, khối lượng và cấu trúc của nguồn.
Quản lý thanh khoản từ phía tài sản – chiến lược dự trữ thanh khoản bao gồm:
Duy trì ngân quỹ với qui mô và cấu trúc thích hợp
Phân tích tính thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quỹ
Lựa chon danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng nhằm đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản thích hợp hoặc thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản sắp tới.
Điều chỉnh tính thanh khoản của tài sản bằng cách thay đổi cấu trúc kì hạn của tài sản hoặc tạo thị trường cho tài sản, nhằm thay đổi tính thanh khoản của tài sản.
Một ngân hàng thường đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng bằng ngân quỹ: Tiền mặt trong két, tiền gửi tại ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng khác. Nếu một khách hàng có tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng đến rút tiền bằng tiền mặt thì ngân hàng sẽ xuất quỹ tiền mặt để trả; nếu một khách hàng có số dư trên tài khoản tiền thanh toán , kí séc hoặc ủy nhiệm chi để trả cho khách hàng tịa ngân hàng khác, ngân hàng sẽ sử dụng tiền gửi tại ngân hàng nhà nước hoặc tiền gửi tại các tổ chức tín dụng để trả…Nếu một khách hàng có nhu cầu thanh toán song chưa có ( hoặc chưa đủ) tiền, ngân hàng có thể cho vay( sau khi phân tích tín dụng), để khách hàng đó thanh toán. Việc cho vay có thể dưới hình thức bằng tiền mặt, hoặc chuyển khoản…Các khoản vay đến hạn trả ( vay ngân hàng nhà nước hoặc phát hành trái phiếu…) Ngân hàng trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản… Các hoạt động này diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng giúp cho khách hàng thực hiện các hoạt động thanh toán và đầu tư kịp thời.
Ngân quỹ (một phần dự trữ của ngân hàng) bao gồm những tài sản thanh khoản nhất của một ngân hàng, được bổ sung thường xuyên từ các dòng tiền vào ngân hàng như gia tăng các khoản tiền gửi, vay, thu nợ, chứng khoán do ngân hàng nắm giữ đến hạn thanh toán… và cũng được sử dụng thường xuyên để chi trả tiền gửim cho vay, đầu tứ… Ngân quỹ gia tăng ( hoặc suy giảm) có thể do yếu tố khách quan như thời vụ, chu kì kinh doanh và thu nhập của khách hàng, thay đổi trong các qui định của các cơ quan quản lí, hoặc trong hệ thống… hoặc do ngân hàng quyết định gia tăng ( hoặc giảm ) ngân quỹ theo chiến lược dự trữ mà ngân hàng đang theo đuổi. Gia tăng ngân quỹ (các điều kiện khác coi như không đổi) sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, tối thiểu hóa ngân quỹ là mục tiêu mà các ngân hàng phải theo đuổi.
Các nhà quản lý ngân hàng luôn tìm kiếm các tài sản có khả năng thay thế được ngân quỹ trên phương diện thanh khoản, đồng thời gia tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. Khi thị trường trái phiếu chính phủ phát triển và những cam kết của chính phủ trở nên chắc chắn thì trái phiếu chính Phủ ngắn hạn trở thành loại tài sản có ít rủi ro và có khả năng chuyển đổi cao ( có thể bán dễ dàng với tổn thất nhỏ) . Ở những quốc gia này, trái phiếu chính phủ ngắn hạn được xem như một thành phần của dự trữ, có thể nhanh chóng chuyển thành tiền với chi phí thấp ( gần như ngân quỹ) và sinh lời cao hơn ngân quỹ. Loại tài sản này được xếp vào loại tài sản “ đệm” giữa ngân quỹ và tín dụng.
Các khoản mục tín dụng và chứng khoán khác cũng có tính thanh khoản khác nhau. Nhiều ngân hàng không có điều kiện nắm chứng khoán thanh khoản có thể tạo nên tính lỏng của danh mục tín dung và chứng khoán đầu tư thông qua lựa chọn các kì hạn, Các khoản chiết khấu ( thương phiếu có chất lượng) có thể tái chiết khấu hoặc dễ bán, các khoản tín dụng có nhiều kì hạn trả nợ nhỏ…dều làm tăng tính lỏng của tài sản.
Để đáp ứng kịp thời và có hiệu quả nhu cầu của khách hàng, ngân hàng cần duy trì tài sản thanh khoản một cách thích hợp bởi vì tài sản càng thanh khoản thì tỷ lệ sinh lời ( danh nghĩa) càng thấp. Tính thanh khoản của tài sản thay đổi thường xuyên : Khi thị trường bất động sản đang sôi động, bất động sản có tính thanh khoản cao và thương phiếu có thể dễ dàng được chiết khấu và ngược lại… Với các chi nhánh ngân hàng tại các vùng hoặc quốc gia khác nhau, tính thanh khoản của tài sản cũng khác nhau… Do vậy, thường xuyên phân tích và định lượng tính thanh khoản của mỗi tài sản là rất cần thiết, Bên cạnh đó, nhà quản lý cần xác định tổng tài sản thanh khoản nắm giữ thông qua các tỷ lệ thanh khoản. Tỷ lệ thanh khoản có thể là:
Dự trữ sơ cấp/ tổng tài sản;
( Dữ trữ sơ cấp + Dự trữ thứ cấp)/ Tổng tài sản;
( Ngân quỹ + chứng khoán thanh khoản) / tiền gửi và vay ngắn hạn;
Dự trữ sơ cấp/ Tín dụng.
Nhà quản lý cần xem xét tính phù hợp của từng tỷ lệ, lựa chọn các mức thích hợp cho từng thời kì. Nhà quản lý cũng có thể xác định tổng tài sản thanh khoản cần nắm giữ thông qua phân tích nhu cầu thanh khoản. Thời gian đáo hạn của tài sản nắm giữ cùng với ngân quỹ phải thỏa mãn yêu cầu của dự trữ pháp định ( dự trữ bắt buộc ) và nhu cầu chi trả ( cầu thanh khoản).
Chiến lược dự trữ của ngân hàng – duy trì ngân quỹ và chứng khoán thanh khoản – luôn phải cân nhắc giữa an toang thanh khoản và sinh lợi. Ngân hàng phải cân nhắc giữa thu nhập phải từ bỏ ra trong tương lai để mua thanh khoản. Cân nhắc này phải dựa trên phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản và khả năng cũng ứng thanh khoản hiện tại và tương lai thông qua tính thanh khoản của tài sản.
Khe hở thanh khoản và rủi ro thanh khoản:
Với xu hướng đa dạng hóa, sáp nhập, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng khác đều tận dụng mọi khả năng đáp ứng thanh khoản cao nhất với chi phí thấp. Nếu như từ thế kỉ 19 trở về trước, các ngân hàng tập trung đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên tài sản với lý thuyết cho vay thương mại, thì trong thế kỷ 20 các ngân hàng lớn đã chuyển sang lý thuyết quản lý nợ, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên nguồn. Chiến lược quản lý thanh khoản kết hợp đã trở nên phổ biến, dựa trên duy trì thanh khoản của tài sản và nguồn vốn. Tùy từng thời kì, từng vùng, mà mỗi ngân hàng sẽ lựa chọn chiến lược thích hợp. Nhìn chung các ngân hàng lớn, gần trung tâm tiền tệ, có xu hướng dựa chính vào thanh khoản của bên nguồn còn các ngân hàng nhỏ, xa trung tâm tiền tệ có xu hướng duy trì thanh khoản củ ngân hàng dựa vào tài sản thanh khoản,
Các nhà quản lý ngân hàng tính toán khe hở thanh khoản trong kì tới dựa trên dự đoán dòng tiền vào và ra. Các dòng tiền vào bao gồm tiền gửi có thể nhận được kì tới, các khoản tín dụng có khả năng thu hồi đến hạn kì tới, lãi có thể thu được… Các dòng tiền ra bao gồm chi trả tiền gửi, cho vay theo hạn mức đã cam kết, lãi trả, các khoản tín dụng đến hạn phải trả, chi phí quản lý… Khe hở thanh khoản ( chênh lệch dòng tiền vào và dòng tiền ra) có thể được tính cho từng ngày, tuần, tháng, năm. Các dự tính này được xây dựng dựa trên phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời vụ, chu kì , tâm lí , cạnh tranh…
Nếu dòng tiền vào dự tính lớn hơn dòng tiền ra dự tính._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36144.doc