Rửa tiền & chống rửa tiền - Hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới & Việt Nam

LờI mở đầu Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới. Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn. Chúng

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Rửa tiền & chống rửa tiền - Hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới & Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; nó tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai trò kiểm soát các chính sách của Chính phủ... Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Có thể nói nạn "rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là mối đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc tế... Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Với mong muốn góp ý kiến vào cuộc đấu tranh chống "rửa tiền " đầy khó khăn này, nhằm từng bước làm trong sạch hệ thống tài chính, ổn định kinh tế xã hội, tác giả mạnh dạn đưa ra đề tài: "Rửa tiền và chống rửa tiền - hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam". Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản về phương diện lý luận cũng như thực tiễn về nạn rửa tiền, về cuộc đấu tranh chống rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để cuộc đấu tranh chống rửa tiền thành công. Do còn hạn chế về nhiều mặt, chắc chắn đề tài còn những thiếu sót nhất định. Rất mong thầy cô và bạn đọc góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Cuối cùng, em xin cám ơn giảng viên PGS.-TS. Nguyễn Thị Quy đã tận tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này. Hà nội, tháng 5 năm 2003 Nguyễn Thị Thu Trang Mục lục Chương I Những vấn đề chung về rửa tiền I. Khái niệm và quy trình rửa tiền 1. Khái niệm. 1.1. Định nghĩa: Một cách chung nhất có thể hiểu rửa tiền là hành động hợp thức hoá số tiền kiếm được một cách bất hợp pháp và tránh sự kiểm soát các hoạt động phi pháp của các cơ quan hành pháp. Vậy đối tượng tham gia hành vi rửa tiền là ai? Câu trả lời đơn giản là bọn tội phạm. Nhưng câu trả lời này không hoàn toàn phản ánh sự thực. Bởi trong thực tế, người ta có thể tìm thấy bọn rửa tiền ở mọi ngóc ngách của cuộc sống, trong đó có những tên hoạt động hết sức đơn giản, có những tên hoạt động hết sức tinh vi: từ việc đặt cược đua ngựa, buôn lậu, trốn thuế, gửi tiền vào ngân hàng... đến rửa tiền thông qua các công cụ tài chính hiện đại. Tuy nhiên tội phạm rửa tiền không phải chỉ là những tên chủ mưu rửa tiền mà cả những đối tượng giúp để một tên tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Điều này có nghĩa là, nếu các chủ ngân hàng, các luật sư, các kế toán, những người buôn bán xe hơi và những người khác cho phép ai đó rửa tiền thông qua các hoạt động kinh doanh của mình thì họ cũng là những tên rửa tiền. Nói chung điều duy nhất có thể biện hộ cho một người là anh ta đã không biết gì về việc đang xảy ra; lý do như vậy có vẻ không mấy thuyết phục. Tuy nhiên trong các phiên toà, dù có được ghi trong các điều khoản luật hay do những phỏng đoán từ các chứng cứ thì nhiệm vụ chứng minh sự vô tội của anh ta chuyển sang cho bị cáo. Trong nhiều trường hợp, những người không phải là doanh nhân hay không phải là những tên tội phạm cũng đều có nguy cơ trở thành tội phạm rửa tiền nếu như họ chứa chấp, nắm giữ hộ tiền hay tài sản thu được từ các vụ rửa tiền. Một ví dụ rõ nhất trong tình huống này là vợ hay bạn gái của một tên tội phạm biết hoặc nghi ngờ chồng hay bạn trai của mình sử dụng nguồn lợi bất chính để mua nhà, mua xe hay mua đồ trang sức đắt tiền.v.v... cũng trở thành hoặc bị coi là tội phạm rửa tiền. Đối tượng sau cùng bị coi là tội phạm rửa tiền phải kể đến là những người giúp bọn tội phạm vạch ra kế hoạch rửa tiền cho dù họ không thực sự tham gia vào kế hoạch đó. Như vậy một kế toán gợi ý cho bọn rửa tiền một kế hoạch trốn thuế thì chính viên kế toán này cũng trở thành tội phạm rửa tiền. Một vấn đề đặt ra là tại sao bọn tội phạm lại rửa tiền? Hiện nay, người ta biết tới ba loại tội phạm cơ bản là: tội phạm vì tình hay vì danh dự, tội phá hoại mang tính bạo lực và tội phạm kinh tế. Nếu bỏ qua số ít tội phạm phá hoại thì phần đông là tội phạm kinh tế - phạm tội vì tiền. Nhưng đối tượng này phạm tội vì hai lý do: một là, do bị kích động, tức là chúng muốn chứng tỏ rằng chúng có thể làm được việc đó và bỏ trốn sau khi phạm tội; hai là, vì chúng cho rằng nếu phạm tội thì chúng sẽ có nhiều tiền hơn là bằng cách nỗ lực kiếm tiền theo đúng luật. Sau khi kiếm được tiền bằng cách phạm tội, bọn chúng sẽ sử dụng tiền đó cho một trong ba mục đích: đưa trực tiếp vào một vụ phạm tội khác; dấu tiền để sử dụng sau này; hoặc trực tiếp vào một vụ phạm tội . Trong những phương pháp điều tra chuẩn mực và đạt được những thành công nhất là điều tra "theo dấu đồng tiền". Vì vậy, bọn tội phạm muốn chuyển đi xa một cách nhanh chóng để "xoá dấu đồng tiền" trước khi các điều tra viên có thể phát hiện ra. Từ xưa tới nay, chúng đều muốn dấu tiền vào một chỗ kín đáo để những điều tra viên không làm được gì. Thêm vào đó, nếu các điều tra viên cho rằng ai đó có liên quan tới tội phạm thì họ sẽ tiến hành điều tra trước tiên nguồn tài chính và các công việc trước đây của đối tượng này. Vì thế, bọn tội phạm cần phải lôi tiền ra khỏi chỗ kín bằng cách nào đó mà anh ta có thể giải thích là anh ta đã lấy nó từ đâu. Tuy nhiên, khi thấy một người tiêu xài nhiều hơn số tiền họ có, ví dụ một người thợ làm đầu không có người khách nào mà lại có một chiếc xe mui trần, thì chúng ta có quyền nghi ngờ họ có dính líu đến hành vi "rửa tiền". Những người muốn trốn thuế rửa tiền để che dấu về nguồn gốc của tiền và tài sản hoặc họ có thể dấu tiền trong các tài khoản mở tại Ngân hàng, thường dưới tên của con cái hay người thân của họ, miễn sao để những người quản lý thu nhập sẽ không phát hiện ra. Đôi khi, chỉ đơn giản là họ tiến hành các hoạt động bên ngoài mà chỉ một phần hoạt động đó bị ghi chép lại. Nhìn chung, hành vi rửa tiền là rất đa dạng, nó có thể tồn tại dưới dạng này hoặc dạng khác. Khi khoa học công nghệ này phát triển, hành vi này càng trở nên tinh vi hơn. Muốn hạn chế được hành vi này phải tìm ra nguồn gốc sâu xa của nó, tức trả lời câu hỏi: "Tại sao xảy ra nạn rửa tiền". Theo ước tính thì 80% các vụ phạm tội về tài sản, ví như hành động ăn trộm là để thoả mãn thói quen nghiện hút; nếu không có ai muốn mua những hàng hoá là đồ ăn cắp thì bọn tội phạm sẽ không có cơ sở để ăn trộm vì chúng sẽ không thể bán lấy tiền được. ở hầu hết các nước, nếu một người buôn bán đồ ăn cắp (điều này có nghĩa là anh ta mua chúng từ một bên ăn trộm rồi bán lấy tiền lời) thì tội của anh ta còn nghiêm trọng hơn là tội của tên tội phạm đã ăn trộm hàng hoá đó. Vì vậy, người ta tin tưởng rằng có thể giảm các vụ ăn trộm chỉ bằng cách làm cho chúng không thể đem lại lợi nhuận cho bọn tội phạm. Tuy nhiên, hiện nay loại tội phạm tài chính ngày càng gia tăng với cách phạm tội ngày càng tinh vi thì tiền không còn tồn tại dưới dạng vật chất. ở đây, tiền chẳng khác nào những thông tin trên màn hình máy tính hay chính xác hơn là những kí tự lưu trữ trong bộ nhớ của máy vi tính. Vì thế khó có thể thấy người ta mua bán đồ ăn trộm vì thực tế chẳng có gì cả. Kết quả là, khung luật hình sự có đưa ra cách xác định một vật chất của những đồ ăn trộm, ăn cắp là không thể áp dụng được (hoặc các toà án cho rằng nó không thích ứng) đối với những loại tiền hoặc tài sản khác phi vật chất. Các nhà lập pháp và hành pháp có một câu thành ngữ cho rằng để giảm bớt tội phạm phải "triệt tiêu lợi nhuận của bọn tội phạm", nghĩa là xác minh các tài sản bắt nguồn từ lợi nhuận từ các vụ phạm tội và tịch thu chúng theo lệnh của toà án hoặc dựa vào sức mạnh của quyền lực hành chính. Tóm lại rửa tiền là một hoạt động phi pháp. Chúng ta có thấy thấy hành vi rửa tiền thường đi kèm với các hành vi tội phạm. Để chống rửa tiền hiệu quả trước hết chúng ta hãy xem diễn biến của nó trong lịch sử và những tác động của nó. 1.2. Lịch sử nạn rửa tiền Rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920 và đến năm 1999 thì nhu cầu rửa tiền ngày càng lớn và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới. Theo báo cáo năm 2000 của Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế (gọi tắt là INCSR) cho tới thời điểm này số các nước có tình trạng rửa tiền ở mức độ đáng lo ngại đã lên tới mức hai con số. Cụ thể tổ chức này chia mức độ hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành 3 mức chủ yếu: Nhóm mức độ lo ngại cao; Nhóm mức độ lo ngại trung bình và nhóm được theo dõi. Sự phân chia này dựa trên các tiêu chí: (1) có hay không có những cơ quan tài chính của quốc gia tiến hành các giao dịch có liên quan trực tiếp đến lượng tiền thu được từ những tội phạm nghiêm trọng; (2) phạm vi của hoạt động xét xử hay bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền; (3) bản chất và qui mô của tình trạng rửa tiền ở nước ta (ví dụ: ở đó có hay không có dính dáng đến ma tuý hay những hoạt động buôn lậu); (4) những cách thức mà mỗi quốc gia quan tâm đến tình hình cụ thể khi có chi nhánh quốc tế; (5) Những tác động hiện tại mà mỗi quốc gia quan tâm; (6) Có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ pháp luật được phép chỉ ra những vấn đề cụ thể; (7) Có hay không có việc thiếu thủ tục cho phép hoạt động và bỏ sót các Trung tâm buôn bán và tài chính nước ngoài; (8) Có hay không giới hạn của pháp luật đang thực thi ngày càng có hiệu quả; và sự hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền ở các quốc gia. Bảng 1: Danh sách các quốc gia/nhóm mức độ lo ngại về rửa tiền Quốc gia /nhóm mức độ lo ngại lớn quốc gia /nhóm mức độ lo ngại trung bình quốc gia /nhóm theo dõi Antigua Indonexia Albania Chila Afghanmistan Croatia Barbuda Isle of man Argentira Cook llands Algeria Cuba Australia Israel Aruba Korea, North Angola Denmark Austria Ba Italy Bahrain Costa Rica Anguilla Eritrea Bahamas Japan Belize Czech Tepublic Armenia Estonia Brazil Tersey Boliavia Ecuador Azerbaijan Ethiopla Burma Lebanon British Ycrgin Sammoa Bangladesh Fiji Canada Liechtesntein . Islands Seychelles Belarus Finland Cayman Island Mexico Barbados Slovakia Benin Georgia China Nauru Belgium South Africa Benmuda Ghana Colombia Holland Egypt St.Lucia Bosnia and erzegovina Guyana Cyprus Nigeria El Salvador Turks and Caicos Bots wwana Iran Dominica Pakistan Gibnaltar Ukraine Brunei Tordan France Panama Haiti Vanuatu Cameroon Ka zakhstan Germany Paraguay Honduras Vietnam Cote d'Ivoire Trenya Greece Phillipine Inreland Yugoslavia Kyrgyzstan Laos Grenada Russia Jamaica Bulgaria Montsserrat Saudi Arabia Guensey Singapore Korea Cambodia Moro cco Swnegal Hongkong Spain Korea, North Malaysia Mozambique Slovenia Hungary St-Kitts and Nevis Latvia Marshall Islands Nami bia Solomon Islands India St.Vicent Macau Monaco Nepal Sri lanka United Arab Switzerland Palau Natherlands ntillwa New zealand Suriname Emirates Taiwan Peru icaragua Niger Swaziland United Kingdom Thailand Poland Niue Noi wuay Sweden Uruguay Turkey Portugal Romania Oman Tajikistan United States Venezuela Papua New uinea Tanzamia Việc rửa tiền lan nhanh như vậy không phải là điều khó hiểu bởi có rất nhiều đối tượng có nhu cầu rửa tiền: buôn bán ma tuý, trốn lậu thuế, tội phạm có tổ chức, cướp ngân hàng, khủng bố... Hàng năm ước tính riêng tiền buôn bán ma tuý có tới 110 tỷ USD được rửa qua hệ thống ngân hàng Mỹ. Ngày nay, có rất nhiều kỹ thuật rửa tiền khác nhau. Sự lựa chọn kỹ thuật rửa tiền khác nhau tuỳ thuộc vào các tiêu thức: - Môi trường kinh doanh trực tiếp: về nguyên tắc, không có giới hạn cho những khuôn mẫu của việc rửa tiền, nhưng trên thực tế, những người rửa tiền cố gắng lựa chọn cách làm cho lợi nhuận của họ giống với lợi nhuận của việc kinh doanh thông thường và thuộc thẩm quyền quyết định của họ. - Mức độ nghiêm trọng: khối lượng tiền ít được rửa định kỳ sẽ đòi hỏi kỹ nghệ rửa tiền khác xa so với số tiền lớn. - Yêu cầu của luật pháp: những người rửa tiền sẽ cố gắng chuyển thu nhập bất hợp pháp đến rửa tiền tại những vùng không có quy định về chống rửa tiền. Trường đua ngựa là một ví dụ điển hình về công nghệ rửa tiền sơ khai. Những người rửa tiền dùng đồng tiền bất hợp pháp của mình để mua vé thắng cược, có thể đặt thêm tiền cho người thắng cuộc và sau đó trình vé lấy tiền. Những đồng tiền đó có thể coi là nguồn thu nhập bất hợp pháp từ đánh bạc. Công nghệ này được kéo dài trong lịch sử và đến nay vẫn sử dụng. Trong trò chơi xổ số có cả những nhóm người mua vé trúng thưởng và bán chúng cho những người có tiền phải rửa. Những Công ty hoạt động bất hợp pháp phải nhờ cậy đến công nghệ rửa tiền bất kỳ lúc nào. Bởi những đồng tiền "bẩn" sẽ mang lại cho họ nhiều rủi ro. Nó có thể là một mắt xích liên kết đồng tiền đó với hoạt động tội phạm cơ sở. Nó càng có thể cung cấp một dấu hiệu, một bằng chứng của tội phạm hoặc có thể bị tịch thu. Vì vậy đối với tội phạm thì rửa tiền là một việc làm cần thiết để tách rời đồng tiền khỏi hoạt động phạm tội cơ sở hoặc tìm kiếm một giải thích hợp pháp về nó. Hoạt động tội phạm cơ sở thường là: buôn lậu, buôn ma tuý, buôn bán phụ nữ, tham nhũng.v.v... Rửa tiền bằng kỹ thuật hiện đại, tinh vi hơn có quan hệ mật thiết đến hoạt động tài chính ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể vô tình trở thành người trung gian cho việc chuyển tiền hoặc gửi tiền thu được thu được từ các hoạt động phạm tội. Tội phạm và đồng bọn của chúng sử dụng hệ thống tài chính - ngân hàng để thực hiện việc thanh toán và chuyển tiền, vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác, che dấu nguồn gốc và chủ sở hữu của đồng tiền. Đồng thời, các ngân hàng còn cung ứng cho chúng dịch vụ bảo quản tiền một cách thuận lợi và an toàn. Tất cả những hoạt động đó hầu hết đều liên quan đến việc rửa tiền. Như vậy, cho dù ở mức thô sơ hay tinh vi thì hoạt động rửa tiền đã lan rộng ra hầu hết các nước trên thế giới. Để nhận biết được một hoạt động nào đó - có là hoạt động rửa tiền hay không, chúng ta hãy xem xét tiến trình chuyển tiền từ đồng tiền bất hợp pháp sang đồng tiền hợp pháp diễn ra như thế nào. 2. Qui trình rửa tiền 2.1. Chu trình rửa tiền: Việc rửa tiền gồm 3 bước và đôi khi cũng chồng chéo nhau: sắp xếp, chia nhỏ và pha trộn. Trong khâu sắp xếp, số tiền phải được chuyển đổi để che dấu nguồn gốc bất hợp pháp. Ví dụ tiền buôn bán ma tuý bất hợp pháp hầu hết là các tờ giấy bạc nhỏ và số lượng thậm chí còn... nặng nề và cồng kềnh hơn lượng ma tuý bán ra. Chuyển đổi những tờ giấy bạc này sang một đơn vị tiền tệ lớn hơn, séc, tiền mặt hoặc những cách thức thanh toán khác, thường là sự trao đổi tiền mặt (như nhà hàng, khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động, sòng bạc và rửa xe). Trong khâu chia nhỏ, bọn rửa tiền thường cố gắng che dấu những đầu mối của số tiền qua các hoạt động tội phạm bằng cách chia nhỏ số tiền qua các vụ kiếm chác khổng lồ. Ví dụ, bọn tội phạm nếu muốn rửa số tiền lớn thì sẽ thành lập các công ty buôn bán ở những nước mà chúng biết rằng không có những quy định bảo mật ngân hàng tinh vi, khắt khe hoặc những quy định về chống rửa tiền lỏng lẻo. Số tiền "bẩn" này sau đó sẽ luân chuyển dưới những vỏ bọc này cho tới khi chúng hoàn toàn trở nên "sạch sẽ". Những vụ giao dịch như thế này thường được nguỵ trang và trà trộn với hàng tỉ tỷ đô la giao dịch hợp pháp mỗi ngày. Hình thức "đòi nợ" và "hoá đơn đúp" thường là những mánh khoé hay dùng. Trong hình thức "đòi nợ", bọn tội phạm thường gửi tiền ở nước ngoài để bí mật kiểm soát và sau đó ném tiền vào các công ty "đòi nợ" trở lại. Thủ tục này được sử dụng vì rất khó có thể xác định được coi thực sự quản lý tài sản ở một số nước. Trong hình thức "Hoá đơn đúp", việc chuyển tiền ra hoặc vào một nước - một ngân hàng nước ngoài thường quy ước giữ hai quyển sổ hoá đơn. Để chuyển số tiền "sạch" này sang Mỹ đánh phí rất cao đối với hàng hoá, dịch vụ. Để chuyển đi số tiền này (để tránh đánh thuế) các công ty Mỹ lại bị đánh phí. Các hình thức rửa tiền khác như mua các mặt hàng có giá trị lớn - chứng khoán, ô tô, máy bay, séc du lịch - thường được đăng kí dưới tên một người khác để tránh gây chú ý. Các sòng bạc cũng là nơi đôi khi được sử dụng vì họ sẵn sàng lấy tiền mặt. Khi được chuyển tiền thành đồng séc, số tiền này sẽ thành tiền được bạc và có thể rút séc tại ngân hàng của sòng bạc. Khâu cuối cùng là đồng hoá số tiền, là kỳ thâu tiền của bọn tội phạm. ở khâu này, bọn tội phạm sẽ chuyển số tiền để đầu tư các hoạt động kinh tế lớn - thường là các hình thức đầu tư điển hình như bất động sản, mua bán các hàng hoá xa xỉ. Ngoài ra, người ta còn quan tâm việc rửa tiền dưới góc độ là các giao dịch nhằm che đậy nguồn tài sản chính để những tài sản này được sử dụng không cần phải thoả thuận với giới tội phạm - những kẻ đang cố gắng sử dụng chúng. Với quan điểm như vậy thì các giao dịch rửa tiền được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Giai đoạn sắp đặt: quá trình sắp đặt các nguồn tiền bất hợp pháp vào các tổ chức tài chính thông qua việc đặt cọc, ký quỹ, chuyển tiền hoặc các phương tiện khác. Giai đoạn 2: Giai đoạn phân loại: Quá trình chia tách nguồn tiền bất hợp pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch tài chính để làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp. Giai đoạn 3: Giai đoạn gộp lại: Tập trung thu hồi tiền về từ các tài khoản nhưng không làm cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc sử dụng các giao dịch có vẻ hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp. Bằng những quá trình này, tội phạm chuyển nguồn tiền có được từ những hoạt động bất hợp pháp thành tiền với nguồn gốc có vẻ hợp pháp. Quan niệm này có vẻ chưa phản ảnh đầy đủ khái niệm "rửa tiền " bởi mới chỉ để cập chủ yếu tới "rửa tiền " liên quan tới hệ thống tài chính. Tuy nhên, cũng giống như quan niệm ban đầu, nó cũng phản ánh được bản chất của "rửa tiền" là biến các nguồn tiền thu nhập bất hợp pháp thành nguồn thu có vẻ hợp pháp . Một mô hình khái quát về chu trình rửa tiền được mô tả tại trang sau. Hình 1: Mô tả khái quát chu trình rửa tiền thông thường 2.2. Các hình thức rửa tiền: Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình thức nhất định. ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức phạm tội trên thế giới thường sử dụng. Đó là: a. Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên quan đến nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc mua hối phiếu ngân hàng dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông dụng ở Mỹ và Canada. b. Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua ngoại tệ, và sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền cũng có thể được gửi qua đường điện tín - tới các ngân hàng nước ngoài ở mọi nơi trên thế giới. c. Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền như ô tô, tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường hợp bọn tội phạm có thể sử dụng bất động sản trên, nhưng thường đăng ký bất động sản này dưới tên người khác. d. Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông qua người môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu lớn và sau đó chúng trở thành cổ đông của các công ty cổ phần - chủ sở hữu hợp pháp. e. Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này cho phép chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác mà không phải mang tiền đi. f. Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc, tiền thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp. g. Làm sạch (Refining): Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh giá như lấy tiền có mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở nhiều ngân hàng mà không gây sự nghi ngờ. h. Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu tư kinh doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi pháp và hoạt động kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội phạm mua những nhà hàng, quán bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu đổi tiền, các hãng máy móc, điểm rửa xe... Ngoài ra bọn rửa tiền có thể thoả thuận với người bán tài sản ghi trên hoá đơn giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người bán. Bằng cách này bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn với giá thấp. Sau khi giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với giá trị thực của tài sản đó hoặc cao hơn. Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ phát sinh) được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát sinh và ngày càng khó nhận diện. Điều này xảy ra là vì: - Một khối lượng lớn "tiền bẩn" được dấu kín nguồn gốc ; - Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian ngắn (có thể một vài lần trong một ngày làm việc); - Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá; - Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ. Theo số liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế thì khối lượng giao dịch cuối năm 1999 của các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường OTC (over –the- counter market) là 88,201 tỷ USD (các số liệu cụ thể trình bày trong biểu đồ 1 dưới đây). Biểu 1: Số liệu về lượng tiền “bẩn” được rửa qua thị trường OTC tromg năm 1999 Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ được sử dụng lần đầu tiên trên vào năm 1976, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1981. Tuy nhiên, cho đến nay, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất đã chiếm một tỷ trọng lớn trong các giao dịch công cụ tài chính mới. Tóm lại, cho dù hình thức rửa tiền có tinh vi đến đâu cũng có kẽ hở. Vấn đề là các quốc gia phải tận dụng được những kẽ hở này để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh "chống rửa tiền". Hậu quả nạn rửa tiền Nếu nạn "rửa tiền " không được phát hiện và ngăn chặn sẽ dẫn đến những hậu quả gì? Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy: Nạn rửa tiền có thể phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây những hậu quả xấu cho xã hội. Nó khuyến khích, mua bán ma tuý, khủng bố, buôn bán vũ khí trái phép, quan chức Nhà nước tham nhũng và những hoạt động tội phạm khác. Tội phạm ngày càng tăng ở phạm vi quốc tế và những khía cạnh tài chính của tội phạm đã trở nên ngày càng phức tạp do sự tiến bộ nhanh chóng của toàn cầu hoá và công nghệ của ngành dịch vụ tài chính. Cùng với việc tạo điều kiện tài liệu cho thương mại hợp pháp, những hệ thống tài chính hiện đại cũng cho phép tội phạm luân chuyển hàng triệu USD bằng cách sử dụng những máy tính cá nhân và những đĩa vệ tinh. Bởi vì nạn rửa tiền đã có cơ sở là qui mô của hệ thống và hoạt động tài chính hiện có, việc lựa chọn các phương tiện rửa tiền của bọn tội phạm chỉ còn phụ thuộc vào khả năng sáng tạo của chúng. Tiền được chuyển qua các điểm đổi tiền, các Trung tâm môi giới chứng khoán, những kẻ buôn bán vàng, các sòng bạc, những kẻ buôn bán ô tô, các công ty bảo hiểm và các công ty thương mại. Sự dễ dãi của hệ thống ngân hàng tư nhân; ngân hàng hải ngoại, các công ty bảo bọc; những khu vực mậu dịch tự do, hệ thống hữu tuyến và tài chính thương mại, tất cả đều có thể che đậy những hoạt động bất hợp pháp. Bằng những cách đó, tội phạm rửa tiền thao túng tài chính của các nước trên thế giới. Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn toàn bộ tổ chức tài chính của một nước. Do sự liên kết của thị trường tư bản, nạn rửa tiền gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá của đồng tiền và tỷ lệ lãi suất. Và cuối cùng, những khoản tiền được rửa thâm nhập vào hệ thống tài chính toàn cầu, nơi chúng có thể làm suy yếu nền kinh tế và đồng tiền của một quốc gia. Như vậy, nạn rửa tiền không phải chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà còn đe doạ nghiêm trọng nền an ninh quốc gia và quốc tế. Những hậu quả của nạn "rửa tiền" phải kể đến là: 1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương Nạn "rửa tiền" không chỉ là một vấn đề của các thị trường tài chính lớn và Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là một vấn đề đối với những thị trường mới nổi. Quả vậy, bất kỳ quốc gia nào trong hệ thống tài chính quốc tế đều bị nguy hiểm. Vì các thị trường mới nổi của các khu vực tài chính và kinh tế, nên chúng ngày càng trở thành cái đích để ngắm đối với các hoạt động rửa tiền. Những nỗ lực ngày càng tăng của các Chính phủ ở những thị trường tài chính lớn và những Trung tâm tài chính quốc tế nhằm chống lại hoạt động rửa tiền lại khuyến khích những kẻ rửa tiền chuyển các hoạt động của chúng sang những thị trường mới nổi. Như bằng chứng cho điều này là sự luân chuyển tiền mặt ngày càng tăng qua biên giới để tới những thị trường quản lý lỏng lẻo trong việc phát hiện việc rửa tiền vào hệ thống tài chính và sự đầu tư đang gia tăng của những nhóm tội phạm có tổ chức vào bất động sản và kinh doanh trong những thị trường đang nổi. Việc xem xét kỹ một số ảnh hưởng tiêu cực này trong cả nền kinh tế vi mô và vĩ mô lý giải tại sao nạn rửa tiền lại là một mối đe doạ nghiêm trọng, đặc biệt là ở những thị trường đang nổi. 2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa tiền là ở khu vực tư nhân. Những kẻ rửa tiền dùng những công ty nguỵ trang để trộn lẫn khoản tiền từ những hoạt động bất chính với những khoản tiền hợp pháp để che dấu khoản tiền bất hợp pháp. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, tội phạm có tổ chức đã dùng những cửa hàng bán pizza để che đậy những khoản tiền bất chính từ buôn bán heroin. Những công ty ngụy trang này có thể tiếp cận với những nguồn tiền bất chính và những nguồn tiền này bao cấp toàn bộ sản phẩm và dịch vụ của công ty ở mức độ thấp hơn tỷ giá thị trường. Trong một số trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm. Do vậy, những công ty ngụy trang có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu hút vốn từ các thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp pháp rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với những công ty ngụy trang với nguồn vốn được bao cấp, một tình huống mà các tổ chức tội phạm có thể gây hại cho đa số các doanh nghiệp tư nhân. Rõ ràng là sự quản lý của các công ty tội phạm này không phù hợp với những nguyên tắc của các doanh nghiệp trong thị trường tự do truyền thống, điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế vĩ mô. 3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính Tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính gặp nhiều thử thách trong việc quản lý một cách thích đáng tài sản, tiền nợ và sự hoạt động của nó. Ví dụ như một số lượng tiền lớn được rửa có thể được chuyển đến một tổ chức tài chính nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột, không thông báo qua sự chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường như những hoạt động nhằm thực thi luật pháp. Điều này có thể gây ra những vấn đề cho khả năng thanh toán tiền mặt và hoạt động của các ngân hàng. Thực tế, các hoạt động phạm tội đã liên kết với một số ngân hàng thua lỗ trên toàn cầu, bao gồm cả ngân hàng Internet đầu tiên- Ngân hàng của khối cộng đồng chung châu Âu. Hơn nữa, một số cuộc khủng hoảng tài chính trong những năm 90 như sự lừa đảo, nạn rửa tiền, những vụ ăn trộm ở BCCI và sự sụp đổ năm 1995 của Ngân hàng Barings như là một kế hoạch bắt nguồn từ sự liều lĩnh do những nhà kinh doanh ở các công ty được bao cấp thực hiện- Có những yếu tố lừa đảo hoặc tội phạm nghiêm trọng. 4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã dự tính rằng qui mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng sản lượng quốc nội của thế giới, hay ít nhất 600.000 triệu đô la. Tại một số nước có những thị trường mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho ngân khố của Chính phủ nhỏ lại, kết quả là Chính phủ mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế. Thực vậy, trong một số trường hợp, số lượng khổng lồ của những tài sản có được do rửa tiền có thể được sử dụng làm lũng đoạn thị trường trong khu vực và thậm chí cả những nền kinh tế nhỏ. Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì những kẻ rửa tiền tái đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có khả năng bị phát hiện hơn là đầu tư vào những nơi mà tỷ lệ lợi nhuận cao. Chính điều này làm cho chúng ta không xác định được những thay đổi về nhu cầu tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của các nguồn vốn ... dẫn tới mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia không được thực hiện. Nạn rửa tiền có thể làm tăng mối đe doạ về sự bất ổn của đồng tiền do không xác định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và hàng hoá. Tóm lại, nạn rửa tiền và tội phạm tài chính có thể gây ra những thay đổi khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn quốc tế, tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Bản chất không lường trước được của nạn rửa tiền, cùng với sự mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế, đi kèm theo nó khó có thể có được một chính sách kinh tế lành mạnh. 5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế Những kẻ rửa tiền không quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận từ những khoản đầu tư bằng việc bảo vệ những khoản tiền của chúng. Vì thế, chúng "đầu tư " vốn vào các hoạt động không cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh tế ở những nước lưu giữ các khoản tiền của chúng. Hơn thế, sự tăng trưởng kinh tế phải bị tổn hại, vì tội phạm rửa tiền và tài chính chuyển vốn từ những dự án đầu tư lành mạnh sang những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao chúng che dấu được các khoản tiền bất chính. Ví dụ: như tại một số nước, các ngành công nghiệp như xây dựng và khách sạn được cung cấp tài chính không phải do những đòi hỏi thực tế mà do những lợi ích trước mắt của những kẻ rửa tiền. Khi những ngành này không còn phù hợp với những kẻ rửa tiền thì chúng bị loại bỏ, gây ra những sụp đổ và những thiệt hại khổng lồ cho những nền kinh tế không thể chịu được những tổn thất như vậy. 6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia Nạn rửa tiền làm giảm nguồn thu từ thuế của Chính phủ, bởi vậy nó trực tiếp làm phương hại đến những người đóng thuế chân chính. Nó cũng làm cho việc thu._. thuế của Chính phủ trở nên khó khăn hơn. Nhìn chung, việc tổn hại đến ngân khố quốc gia có nghĩa là tỷ lệ thuế cao hơn so với thông thường nếu những khoản tiền phạm tội không phải nộp thuế là hợp pháp. 7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá: Hoạt động "rửa tiền” sẽ đe doạ đối với các quốc gia muốn thực hiện cải cách nền kinh tế của mình bằng việc thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế. Thông qua "rửa tiền”, các tổ chức tội phạm có nhiều tiền để trả quá cao hơn những người mua bằng tiền hợp pháp để mua lại Doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả là trong việc khởi đầu của tư nhân hoá cùng với việc mang lại những lợi ích kinh tế thì chính nó là phương tiện "rửa tiền” của bọn tội phạm. Trước đây, những kẻ rửa tiền thường mua những bến cảng, du thuyền, khách sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những khoản tiền bất chính và để đẩy mạnh những hoạt động tội phạm của chúng. 8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những công ty tài chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay. Niềm tin vào thị trường và vào vai trò của lợi nhuận bị xói mòn do nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính như rửa những khoản tiền bất hợp pháp, gian lận tài chính lan rộng, buôn bán những thông tin mật là tham ô. Tiếng xấu từ những hoạt động như vậy đã làm giảm những cơ hội hợp pháp và sự tăng trưởng bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức tội phạm quốc tế với tiếng xấu và những mục tiêu ngắn hạn. Điều này có thể làm suy yếu sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế. Hơn thế nữa, một khi đất nước đã bị tiếng xấu về tài chính, thì việc gây dựng lại tiếng tăm là rất khó khăn và cần nguồn lực đáng kể của Chính phủ để giải quyết vấn đề mà lẽ ra đã có thể ngăn ngừa với sự kiểm soát chống lại nạn rửa tiền. 9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội Có những nguy cơ và cái giá rất đắt phải trả về mặt xã hội có liên quan đến nạn rửa tiền. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những kẻ phạm tội. Nó cho phép những kẻ buôn bán ma tuý, những tên buôn lậu và những kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm cho chi phí của Chính phủ tăng lên để chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền gây ra, đó là các yêu cầu về việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí cho việc chăm sóc sức khoẻ (ví dụ như điều trị những người nghiện ma tuý...). Trong số những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế xã hội, việc rửa tiền còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, Chính phủ và từ mọi người dân sang những tên tội phạm. Tóm lại, chúng quay lại câu ngạn ngữ cổ rằng tội ác không trả giá cho những gì chúng gây ra. Hơn nữa, toàn bộ quyền lực đổ dồn vào những tên tội phạm, bằng việc rửa tiền lại gây ra nạn tham nhũng của mọi bộ phận xã hội. Trong trường hợp nghiêm trọng thì nó có thể dẫn đến việc nắm giữ Chính phủ hợp pháp. Nhìn chung nạn rửa tiền đặt ra cho cộng đồng chung thế giới những thử thách khó khăn và phức tạp. Thật vậy, tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi hỏi phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế nếu chúng ta muốn giảm khả năng "rửa tiền” của những tên tội phạm và việc thực hiện những hành vi tội phạm của chúng. III. thực trạng hoạt động rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng Trong các cách thức mà tội phạm tài chính sử dụng để rửa tiền thì rửa tiền qua hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay- khi mà các ứng dụng khoa học – kỹ thuật tiên tiến được áp dụng rộng rãi trong các giao dịch ngân hàng, cộng với những món lời khổng lồ thu được sau khi rửa tiền qua ngân hàng, thì ngân hàng được xem như một “cỗ máy rửa tiền” (money-laundering machine) thuận lợi nhất. Vì thế, ngành Ngân hàng cần và luôn phải ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc chống nạn "rửa tiền”. Các ngân hàng cũng cần thấy rằng, các hoạt động mà họ tiến hành nhằm ngăn chặn việc rửa tiền không chỉ là những nguyên tắc có tính chất bắt buộc mà còn là lợi ích thiết thân. Tất cả các tổ chức tài chính, các ngân hàng và phi ngân hàng đều dễ bị dính líu đến những hoạt động rửa tiền. Ngân hàng cần luôn đi đầu trong việc phát triển các chương trình nhằm phát hiện và ngăn chặn việc rửa tiền, điều tra các cơ quan phi ngân hàng tương ứng với họ thực hiện rất tốt để cạnh tranh. Rửa tiền cũng như các hoạt động phạm tội ngầm khác - lừa đảo, in tiền giả, buôn lậu ma tuý và hối hộ - làm suy yếu thanh danh và vị thế của một số tổ chức tài chính, trong đó có ngân hàng. Một ngân hàng có vết nhơ do việc rửa tiền sẽ bị các cơ quan ban hành văn bản quy định buộc tội, bị các cơ quan chấp hành pháp luật trừng trị hay bị giới báo chí lên án mạnh mẽ vì những tai tiếng đó. Để thực hiện một cách hiệu quả chương trình chống rửa tiền, các ngân hàng tiến hành tìm hiểu và phân chia qui trình rửa tiền gồm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có mối liên hệ với một đơn vị tài chính. Đổi chỗ: Giai đoạn trực tiếp phân bổ lượng tiền mặt thu được từ những hoạt động phi pháp. Tạo vỏ bọc: Giai đoạn tách những khoản tiền bất hợp pháp khỏi nguồn của chúng bằng cách tạo nên một loạt những vỏ bọc phức tạp dưới hình thức các giao dịch tài chính để cản trở việc kiểm toán dấu vết, che đậy nguồn gốc của những khoản tiền đó và làm mai danh ẩn tích chủ thực sự của nó. Hợp thức hoá: Giai đoạn đưa các khoản tiền đã được rửa trở lại hệ thống lưu thông trong nền kinh tế theo cách thức giống như các khoản tiền này là kết quả của các hoạt động kinh tế hợp pháp. Mặc dù các giai đoạn trong quy trình rửa tiền có khác đôi chút so với cách nhìn nhận ở phần trước nhưng vẫn phản ánh được bản chất nạn "rửa tiền”. Tuỳ từng giai đoạn, các ngân hàng cần có các biện pháp thích hợp để phát hiện để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Trong các ngân hàng thì hệ thống ngân hàng vãng lai - được coi là một kênh lớn nhất, phổ biến nhất để bọn tội phạm rửa tiền. Hoạt động Ngân hàng vãng lai bao hàm một ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho ngân hàng khác nhằm luân chuyển tiền tệ, chuyển đổi ngoại tệ hoặc tiến hành những giao dịch tài chính khác. Một khi hoạt động ngân hàng vãng lai không được kiểm soát chặt chẽ thì chắc chắn sẽ bị bọn tội phạm lợi dụng để tiến hành rửa tiền. Bọn tội phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng vãng lai như thế nào? Trước hết chúng sử dụng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao để tiến hành mở tài khoản vãng lai tại các ngân hàng mà chúng định dùng để rửa tiền. Những ngân hàng nước ngoài này có thể là: (1) Ngân hàng vỏ bọc (shellbank) không hề hiện diện trực tiếp ở nước khác để giao dịch làm ăn với khách hàng của họ; (2) Ngân hàng hải ngoại (offshore bank) được phéo giao dịch làm ăn với những người nước ngoài bằng ngoại tệ; hoặc (3) những ngân hàng ở những nước được điều tiết bởi những luật lệ kiểm soát lỏng lẻo hoặc thiếu sự kiểm soát chống rửa tiền đã tạo điều kiện cho việc lợi dụng ngân hàng và những hành vi phạm pháp. Những ngân hàng có độ rủi ro cao này thường chỉ có nguồn vốn và nhân lực hạn hẹp, họ sử dụng các tài khoản ngân hàng vãng lai của họ để giao dịch, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, luân chuyển tiền tệ. Sự thẩm tra của các tổ chức có thẩm quyền cho thấy nhiều ngân hàng đã kí thác toàn bộ quỹ của họ và tiến hành mọi giao dịch tài khoản vãng lai, nhập hoạt động vãng lai vào những hoạt động khác của họ. Sau khi đã thành công trong việc nấp bóng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên, bọn tội phạm sẽ tiến hành hàng loạt các giao dịch trên tài khoản vãng lai để rửa tiền. Một số ví dụ về các giao dịch rửa tiền thông qua tài khoản vãng lai: * Hợp thức hoá các khoản thu nhập bất chính thông qua ký quỹ hoặc tiến hành chuyển những khoản tiền mà ngân hàng có độ rủi ro cao biết hoặc phải biết là có dính líu dến buôn bán ma tuý, gian lận tài chính hoặc hoạt động bất chính khác. * Đầu tư lợi nhuận cao bằng cách ve vãn các nhà đầu tư chuyển tiền vào các tài khoản vãng lai nhằm nhận lãi suất cao, nhưng sau đó chối bỏ không trả lại tiền cho các nhà đầu tư bị lừa dối. * Âm mưu chiếm đoạt tiền ký nợ trả trước bằng cách đòi khách hàng phải nộp một khoản tiền trả trước cho một khoản phí lớn để chuyển tiền vào tài khoản vãng lai, thu phí xong nhưng không trả lại khoản tiền ứng trước. * Tạo thuận lợi cho việc trốn thuế thông qua việc nhập các khoản ký quỹ của khách hàng với những khoản tiền khác trong tài khoản vãng lai, khuyến khích khách hàng dựa vào các luật lệ về bí mật ngân hàng và bí mật công ty của nước sở tại của ngân hàng nước ngoài để trốn tránh các nhà chức trách thuế. * Tạo thuận lợi cho hoạt động cá cược qua Internet qua việc sử dụng tài khoản vãng lai để nhận và luân chuyển các khoản thu nhập cá cược. Những ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên và khách hàng liên quan đến tội phạm của họ thâm nhập vào các tài khoản vãng lai, tạo thuận lợi cho tội phạm phát triển, làm suy yếu hệ thống tài chính của một quốc gia, là một gánh nặng cho người dân đóng thuế và người tiêu dùng, lấp đầy các hồ sơ toà án với những vụ truy tố hình sự hoặc tranh chấp dân sự. Những khoảng trống trong các giao dịch vãng lai: Nhiều ngân hàng khi cho phép các ngân hàng đối tác nước ngoài mở tài khoản vãng lai tại ngân hàng mình đã không có sự thẩm tra đầy đủ và xác đáng về sự quản lý của ngân hàng, các nguồn tài chính, danh tiếng, môi trường điều tiết và biện pháp chống rửa tiền. Một nguyên tắc khá phổ biến đối với nhiều ngân hàng là: bất kỳ ngân hàng nào có giấy phép đang hiệu lực do cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp đều có đủ điều kiện để mở tài khoản vãng lai, bởi lẽ các ngân hàng tin tưởng vào giấy phép đó như chứng cứ về danh tiếng tốt đẹp của ngân hàng đối tác nước ngoài. Nhiều ngân hàng chỉ dựa vào sự kiểm tra qua sổ sách hoạt động mở tài khoản và giám sát một cách có hạn sự chuyển tiền, mặc dù phần lớn các giao dịch vãng lai bao gồm cả tiền đến lẫn tiền đi. Những bất cập này biến hệ thống ngân hàng vãng lai thành kênh rửa tiền bẩn đang ồ ạt chảy vào hệ thống tài chính của nhiều quốc gia. Nếu các ngân hàng vãng lai chịu đóng cửa đối với các ngân hàng nước ngoài đáng ngờ và kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao, chắc chắn sẽ triệt tiêu được bộ máy rửa tiền khổng lồ, vô hiệu hoá hoạt động bất hợp pháp, hạn chế hoạt động ngân hàng hải ngoại bất chính và trói tay các phần tử tội phạm trong việc gửi tiền bất chính vào các ngân hàng trong nước. Tóm lại, qua thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vãng lai, chúng ta thấy ngành ngân hàng là một trong những cơ quan có vai trò đặc biệt "quan trọng", là kênh chủ yếu để bọn tội phạm tài chính thực hiện "rửa tiền”. Vì thế, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và làm trong sạch các giao dịch tài chính là một trong những biện pháp quan trọng để chống rửa tiền. IV. Các văn bản pháp lý sử dụng trong chống "rửa tiền” "Rửa tiền” không còn là hiện tượng xảy ra trong phạm vi một quốc gia mà là hiện tượng ngày càng mang tính chất quốc tế. Vì thế, để "rửa tiền” phải có sự phối hợp không phải chỉ có các tổ chức trong nước mà cần phải có sự hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện trước hết ở các văn bản pháp quy chống "rửa tiền”. Đứng trên phương diện quốc gia , mỗi quốc gia cần có văn bản pháp quy chuyên về lĩnh vực chống rửa tiền như các Nghị định về chống "rửa tiền”, các đạo luật, bộ luật về chống "rửa tiền”. Do thu nhập của bọn tội phạm "làm sạch" là các thu nhập từ các hoạt động bất chính: cá cược, buôn bán ma tuý, tham nhũng... Những hoạt động tội phạm nên các văn bản pháp quy về chống rửa tiền cần có sự thống nhất với các văn bản đã có về chống các loại hình tội phạm như bộ luật hình sự, luật dân sự. Đứng trên phương diện quốc tế, văn bản pháp quy mang tính chất phổ biến được nhiều quốc gia biết đến là Khuyến nghị về chống “rửa tiền” của FATF - tổ chức hay lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền và tội phạm tài chính. Những khuyến nghị này được xem là các phương pháp cơ bản cho việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý chống lại việc rửa tiền với các nội dung cơ bản sau: * Từ khuyến nghị 1 đến khuyến nghị 3 là các quy định chung, khuyến nghị các quốc gia nên từng bước và tiến tới thực hiện đầy đủ 40 khuyến nghị này. Yêu cầu đặt ra là: các quy định trong luật bảo vệ khách hàng của các tổ chức tài chính tín dụng không cản trở việc thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền. Để chương trình phòng chống rửa tiền đạt kết quả cao cần có sự nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống xét xử, dẫn độ tội phạm nói chung. * Từ khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 6 là các quy định nêu lên phạm vi hoạt động phạm tội rửa tiền, khuyến nghị các quốc gia tạo lập các cơ sở pháp lý cho việc chống rửa tiền và bổ sung hoàn thiện các cơ sở pháp luật này nhằm đảm bảo các quy định luôn phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát triển của xã hội. Danh mục các loại tội phạm dẫn đến hành vi rửa tiền cần được xác định và bổ sung theo mức độ hành vi phức tạp của hoạt động phạm tội của từng thời kỳ. * Khuyến nghị 7 nêu lên chính sách pháp lý cho việc xử lý, tước đoạt xung công các tài sản và thu nhập bất hợp pháp trong các vụ rửa tiền và các văn bản hợp tác quốc tế. Mặt khác, khuyến nghị cũng nêu lên việc thực hiện tốt các văn bản pháp quy quy định về việc thực hiện các hợp đồng kinh tế. Việc áp dụng tốt các chế tài áp dụng đối với các vi phạm hợp đồng kinh tế có tác dụng tích cực , thúc đẩy việc thực hiện các quy định về chống rửa tiền. * Khuyến nghị 8 và khuyến nghị 9 là quy định về các đối tượng phải thực hiện các quy chế giám sát tài chính và thực hiện nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ về các giao dịch đáng ngờ. Theo khuyến nghị, việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính nên được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát hiện và tố giác các khách hàng và các giao dịch đáng ngờ không có tính chất bắt buộc nhưng được khuyến khích thực hiện ở các doanh nghiệp và ở các tổ chức tài chính chuyên ngành khác. Danh mục các hoạt động tài chính bắt buộc phải thực hiện nhận dạng khách hàng gửi báo cáo đến các nhà chức trách chống rửa tiền và lưu giữ hồ sơ, các giao dịch đáng ngờ được Chính phủ các nước xác định và bổ sung phù hợp với bối cảnh cụ thể. * Từ khuyến nghị 10 đến khuyến nghị 13 nêu lên cách thu thập thông tin nhận dạng khách hàng (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) và quy định thời hạn lưu giữ hồ sơ, thông tin về khách hàng và các lần giao dịch (ít nhất là 5 năm) mà các tổ chức hoạt động tài chính phải thực hiện. Nguyên tắc chung là không cho mở tài khoản thực hiện uỷ thác và cho thuê két sắt an toàn dưới các tên giả hoặc khuyết danh, các thông tin cơ bản của khách hàng bao gồm: tên địa chỉ.v.v..., căn cứ vào các giấy tờ tài liệu chính thức như: đối với cá nhân có thể là giấy chứng minh thư, hộ chiếu, giấy phép lái xe; đối với các tổ chức có thể là các giấy phép thành lập công ty, ngành nghề kinh doanh, nơi đóng trụ sở chính... Đối với những khách hàng có những thông tin chưa rõ ràng, tổ chức tài chính cần tiến hành thẩm tra nhằm có được những thông tin trung thực nhất về khách hàng, việc lưu giữ thông tin phải đáp ứng được việc tái hiện lại từng phần giao dịch (thời gian, số lượng và tiền tệ trong các lần giao dịch đó) của khách hàng phục vụ tốt nhất cho việc điều tra khi có yêu cầu của nhà chức trách. * Từ khuyến nghị 14 đến khuyến nghị 19 nêu lên các hình thức động viên, khen thưởng các tổ chức - tài chính thực hiện tốt các quy định chống rửa tiền và các quy định pháp lý bảo vệ các tổ chức và cá nhân thực hiện các quy định chống rửa tiền. Các quy định về kiểm soát nội bộ để tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống, quy định cấm tổ chức và cá nhân cảnh báo với khách hàng về các thông tin đáng ngờ đã báo cáo. * Từ khuyến nghị 20 đến khuyến nghị 21 nêu lên việc thực hiện các quy định chống rửa tiền đối với các tổ chức có Chi nhánh hoạt động tại các nước không có hoặc chưa có đủ các quy định về chống rửa tiền. * Từ khuyến nghị 22 đến khuyến nghị 25 nêu một số biện pháp phòng ngừa khác. * Từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 29 nêu mối quan hệ qua lại giữa việc thực hiện các quy định chống rửa tiền với các quy định khác về xử phạt hành chính hoặc xử lý các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế... * Từ khuyến nghị 30 đến khuyến nghị 40 nêu lên các quy định về tăng cường hợp tác quốc tế, như các quy định về trao đổi thông tin, quy định về điều tra, định giá, thu hồi tài sản và thu nhập bất chính hợp pháp tham gia vào các vụ rửa tiền, các quy định về nguyên tắc xét xử, địa điểm xét xử và tỷ lệ phân chia tài sản tịch thu khi có các vụ phạm tội xuyên quốc gia và các quy định về dẫn độ tội phạm. Các khuyến nghị này được coi như là cẩm nang cho các quốc gia trong việc chống nạn "rửa tiền”. Kết luận chương I: Qua chương này chúng ta đã phần nào hình dung được thế nào là rửa tiền, nó được thực hiện như thế nào và hậu quả to lớn do nạn rửa tiền gây ra. Bên cạnh đó, chương cũng khái quát vè cái nhìn của ngành ngân hàng về rửa tiền và các văn bản pháp quy cần có và hiện có liên quan tới "rửa tiền” và chống rửa tiền. Để đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm phòng chống nạn rửa tiền, trước hết chúng ta hãy xem xét hiện tượng rửa tiền ở một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Chương II Thực trạng hoạt động rửa tiền - chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới và Việt Nam I. Thực trạng hoạt động rửa tiền và chống "rửa tiền” trên thế giới Cho tới thời điểm hiện nay, hoạt động rửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều nước trên thế giới. Lượng tiền rửa chiếm một tỷ trọng lớn trong khối lượng tiền lưu chuyển trên toàn cầu. Theo ước tính của FATF - lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính, tiền "bẩn" đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi năm. Năm 2001, thế giới có khoảng 70 "thiên đường trốn thuế", cũng thường được gọi là Trung tâm tiền tệ hải ngoại, tụ tập khoảng 40.000 ngân hàng, 44% tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở châu Âu, 18% ở châu á, 10% ở Châu Phi - Trung Đông, kiểm soát khoảng 5000 tỷ USD. Phần lớn các Trung tâm này đóng vai trò "Trung tâm đặt hàng" chủ yếu phục vụ các Trung tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo. Hàng năm lượng tiền nằm lại hoặc chuyển qua các "thiên đường trốn thuế" này, ước tính bằng một nửa tổng số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở thành những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng. Một cái nhìn sơ lược như vậy đã cho chúng ta thấy "rửa tiền” ngày càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và hiệu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Tiến hành chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết. Vậy cụ thể tình trạng rửa tiền và chống rửa tiền ở các quốc gia ở mức độ nào và nguy cơ "tiềm ẩn" là gì, chúng ta hãy cùng xem xét. 1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ 1.1. Khái quát chung: Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xuất hiện nạn rửa tiền vào năm 1920. Nhiều vụ rửa tiền đã trôi qua kể từ vụ hình sự đầu tiên dính dáng đến lợi nhuận, nhưng tại Mỹ chỉ mãi đến năm 1986 đây, "rửa tiền” mới chính thức được coi là bất hợp pháp với mốc là vụ xì-căng-đan Watergate. Trong khi không bị chính thức cấm cho đến năm 1986, rửa tiền đã xuất hiện trong nhiều vụ án hình sự. Hai vụ án hình sự khét tiếng nhất của Mỹ trong thế kỷ 20 đã bị bỏ dở do không tìm được các dấu vết về tài chính. Tên trùm găngtơ Al Capone cuối cùng đã bị kết án vì tội trốn thuế. Tên Bruno Richard Haupdman, người đã bắt cọc con trai của viên phi công nổi tiếng Chartes Lindbeng năm 1932 đã bị bắt vì không rửa được số tiền đòi chuộc một cách kín đáo. Như chúng ta đã biết năm 1989 dư luận nổi cộm về số tiền bị chiếm đoạt một cách bất hợp pháp ở Nga có thể được gửi trong hệ thống ngân hàng Mỹ, vấn đề "tiền bẩn" vẫn chưa được giải quyết. Do giới tội phạm thường che dấu các hoạt động của mình nên những số tiền được thay tên đổi họ này không được biết một cách chính xác nhưng Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền này có thể lên đến từ 3 đến 5% tổng doanh thu toàn thế giới. Lực lượng tài chính đặc nhiệm của nhóm Giao thông đã đưa ra con số khác từ 300.000 triệu đến 500.000 triệu đô la Mỹ. Theo tạp chí Business Week, chỉ riêng trong nền kinh tế Mỹ, hàng ngày có khoảng 2 triệu đô la Mỹ được thay tên đổi họ. Như vậy, thực thi pháp luật chỉ là một nỗ lực mò kim đáy bể mà thôi. Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ Hoa Kỳ là phải có những quy định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu hiệu chống rửa tiền. Trong đó, những điểm đầu trên cần chú ý là: kết hợp hoạt động trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế bởi theo ý kiến của một số quan chức Hoa Kỳ thì thường việc thực thi pháp luật Hoa Kỳ bị thất bại do sự phức tạp của những điều luật của nước ngoài cũng như sự thiếu hợp tác của Chính phủ nước ngoài. Do vậy việc phối hợp trong hành động chống "rửa tiền” là hết sức cần thiết. Trở lại vụ Watergate, kể từ khi quyết sách nổi tiếng của vụ tai tiếng này có tên "những người đàn ông của Tổng thống" được viết ra "theo dấu đồng tiền" đã trở thành một câu cửa miệng khi muốn nói đến việc đối phó với giới tội phạm câu cửa miệng này do cơ quan thực thi pháp luật của Hoa Kỳ tạo ra từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhấn mạnh cách tiếp cận ba chiều để chống lại tội phạm: truy tố những tội phạm nguy hiểm; theo dấu vết đồng tiền qua những cuộc điểu tra về rửa tiền; bắt giữ tiền và công cụ hành nghề của giới tội phạm. Chỉ có cách theo dấu đồng tiền chúng ta mới có thể phát hiện ra toàn bộ qui mô của tội phạm và tổ chức phạm pháp mới có thể bị tiêu diệt. Khi Chính phủ Hoa Kỳ ban hành luật chống rửa tiền đầu tiên vào năm 1986 thì họ cũng đã xác định được cơ bản đâu là vấn đề trong nước. Từ năm 1986, nạn rửa tiền trở thành một vấn đề toàn cầu, bao gồm cả giao dịch tài chính quốc tế, buôn lậu tiền bị pháp luật và cưỡng chế quy định thì khi đó vấn đề sẽ thế nào. Cơ sở pháp lý chống rửa tiền của Mỹ là Luật bảo mật ngân hàng (BSA) năm 1970, theo đó không hình sự hoá các hoạt động rửa tiền nhưng yêu cầu các tổ chức tài chính xây dựng và đảm bảo "dấu vết trên giấy tờ" liên quan đến một số giao dịch. Luật BSA liên tục bị phản đối. Một số người chì trích những chi phí áp dụng. Một số người khác lại cho rằng nó trái lại điều sửa đổi lần 4 của Hiến pháp Mỹ về chống lại việc khám xét và bắt giữ vô cớ và Điều sửa đổi lần 5 về tự buộc tội. Mặc dù luật này vẫn được ủng hộ nhưng cho đến nay một số phần vẫn còn gây tranh cãi. Thẩm phán Douglas đã nói rằng "Tôi cũng chưa thể đồng ý rằng nước Mỹ đã bị những tệ nạn lũng đoạn đến nỗi mà chúng ta cần phải bớt đi những rào cản về mặt Hiến pháp để tạo ra cho các chính quyền dân sự có những phương tiện để bắt bọn tội phạm”. Do việc buôn bán ma tuý phát triển, Quốc hội Mỹ ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề rửa tiền và đã đặt ra nó ngoài vòng pháp luật vào năm 1984 bằng việc đưa ra những điều khoản quy định cụ thể về hành vi vi phạm Luật Bảo mật ngân hàng (BSA) qua đạo luật về các tổ chức tống tiền và tham nhũng. Cuối cùng đạo luật rửa tiền (1986) quy định rửa tiền là tội phạm liên bang. Nó bổ sung ba tội mới trong luật hình sự: cố ý dụ dỗ một hoạt động giao dịch lớn hơn mức 10000 đô la có được từ các hoạt động phạm pháp và cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của Luật Bảo mật ngân hàng (BSA). Quy định cuối cùng có những chỗ "hổng" vì tội phạm rửa tiền sẽ thuê người mở hàng hoạt khoản ký quĩ hay những séc tiền mặt với số tiền dưới mức 10.000 đô la. Luật này đã được bổ sung một vài lần. Đạo luật phòng chống ma tuý (1998) đã làm tăng đáng kể mức hình phạt và đỏi hỏi sự nghiêm ngặt, chính xác trong điều tra phát hiện ra tài liệu ghi chép về lượng tiền mặt từ những hoạt động làm tiền cụ thể. (Đa số những yêu cầu có liên quan tới tài liệu ghi chép từ các hoạt động làm tiền kể cả đã huỷ bỏ) thêm vào đó, các quy định này cho phép Bộ tài chính Hoa Kỳ được bắt buộc các tổ chức tài chính ở những khu vực cụ thể phải cung cấp những báo cáo về những giao dịch tiền tệ ở mức dưới 10.000 đô la. Đạo luật này cũng quy định Bộ Tài chính đàm phán các hiệp định quốc tế song phương để ghi nhận những giao dịch tiền tệ Hoa Kỳ lớn và chia sẻ những thông tin này qua biên giới mà tội phạm ở một nước nhưng rửa tiền ở nước khác. Tiền tệ các công cụ tiền tệ, các luồng vốn giao dịch qua phương tiện điện tử có thể vượt qua biên giới của các quốc gia, cho phép tội phạm ở các nước khác giấu tiền ở Hoa Kỳ và cho phép những tên tội phạm Hoa Kỳ giấu những khoản tiền bất chính của chúng ở hàng trăm nước trên thế giới mà không phải lo lắng rằng những hoạt động của chúng sẽ bị pháp luật phát hiện. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi mà chúng ta chứng kiến trong thế giới tài chính, thì vấn đề cơ bản đối với những kẻ rửa tiền, đặc biệt là những khoản tiền từ buôn bán ma tuý bất hợp pháp vẫn còn tồn tại và cất dấu và chuyển những khoản tiền mặt bất chính khổng lồ. Vì lý do này, thậm chí trên phạm vi quốc tế, điều quan trọng mà Chính phủ Hoa Kỳ nhấn mạnh là trong công đoạn đầu tiên của việc rửa tiền, những kẻ rửa tiền sẽ tìm cách đưa những khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Kết quả của việc tập trung nỗ lực vào công đoạn này là những ngân hàng và công ty tài chính Hoa Kỳ đã và đang giữ đầu mối chống lại việc đưa các khoản tiền mặt bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Cho dù có một số trường hợp ngoại lệ xảy ra nhưng chúng ta cũng rất thành công trong việc ngăn chặn những kẻ rửa tiền tiếp cận với những ngân hàng Hoa Kỳ. Và kết quả là những thể chế tài chính phi truyền thống dể rửa những khoản tiền bất hợp pháp của chúng. Một số phương pháp rửa tiền thường xuyên được sử dụng bao gồm việc lưu hành một lượng tiền buôn lậu lớn, rửa tiền bằng cách giao dịch thương mại qua hệ thống đổi đồng peso ở thị trường chợ đen Côlombia, và sử dụng dịch vụ kinh doanh tiền như gửi tiền diện tử, dịch vụ casas de cambio, dịch vụ tiền gửi qua các công tin cậy, séc du lịch và séc chuyển khoản. 1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ: 1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, các cơ quan thực thi pháp luật rất quan tâm đến các cơ sở pháp lý chống lại hoạt động rửa tiền vì nó sẽ có hiệu quả hơn là tấn công trực tiếp vào các loại tội phạm. Ví dụ, trong các vụ buôn bán ma tuý, mức lợi nhuận thu được có thể lên tới 1000 phần trăm hấp dẫn đủ để đảm bảo cung cấp cho các tội phạm trong trường hợp chúng bị tống vào tù . Đạo luật chống rửa tiền Annuntio – Wylie (1992) đã mở rộng những quy định của luật bảo mật Ngân hàng về “Giao dịch tài chính”, bổ sung thêm điều khoản đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đặt ra ngoài vòng pháp luật những “Giao dịch chuyển đổi tiền bất hợp pháp”. Đạo luật Annuntio – Wylie được biết đến với việc chỉ ra rõ hành vi nào sẽ bị áp dụng “hình phạt khai tử”, nó quy định nếu ngân hàng bị buộc tội rửa tiền, cơ quan thanh tra hữu quan của ngân hàng liên bang phải bắt đầu một quá trình gồm chấm dứt đặc quyền của nó hay thu hồi huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm của nó, phụ thuộc vào kết quả thanh tra sơ bộ của ngân hàng. Đạo luật Annuntio – Wylie cũng thiết lập nên nhóm tư vấn luật bảo mật ngân hàng (mà Cục dự trữ liên bang là một thành viên sáng lập) nhằm đề xuất những cách thức để tăng cường hiệu quả trong việc áp dụng những chương trình chống rửa tiền của Bộ Tài chính Đạo luật ngăn chặn rửa tiền (1994) đã lấp chỗ trống cho những quy định của luật về âm mưu và tội phạm có tổ chức trong khi đạo luật chống khủng bố (1996) bổ sung thêm những loại tội phạm khủng bố cũng như khẳng định những hành vi về tội rửa tiền và Đạo luật Kiểm soát Bảo hiểm y tế (1996) quy định rõ những hành vi “xâm hại sức khoẻ Liên bang”. Hình phạt cho các loại tội phạm bao gồm từ có thời hạn tới 20 năm và mức phạt tiền lên tới 500.000 đôla hay gấp hai lần số tiền vi phạm, tuỳ thuộc vào mức phạt nào lớn hơn sẽ áp dụng ở mức đó. ở mức cao nhất của hình phạt, những kẻ vi phạm có thể bị bổ sang những hình phạt về dân sự ngang với giá thị tài sản sở hữu, tiền của hay các tiền lãi liên quan đến các hoạt động kinh doanh. Quốc hội Mỹ có ý định làm cho các hình phạt này trở nên khắt khe hơn. Trước đạo luật về rửa tiền năm 1986, bị đơn bị truy tố theo qui chế có sự ưu đãi đối với những hoạt động bất chính trong đó có tội phạm rửa tiền, cũng như tội phạm trốn thuế, tội đồng loã, tội vi phạm bảo mật ngân hàng, tội hối lộ và tội lừa đảo. Nhìn chung những qui chế đó đều có hình phạt ít khắt khe hơn nhiều. Nhưng từ góc độ tiền tệ , cuộc sống của nhứng kẻ vi phạm thực sự trở nên tồi tệ khi đạo luật về bắt giữ tài sản vào cuộc. Những đạo luật này tách chung khỏi những nguồn nuôi dưỡng tội phạm hoặc những công cụ được chúng sử dụng. Theo qui luật của đạo luật sửa đổi về việc Bắt giữ tài sản dân sự năm 2000, chính phủ Hoa kỳ hiện nay phải tiến một bước cao hơn nữa nhằm bắt giữ tịch thu tài sản. Để tịch thu tài sản phải đưa ra những lý do xác đáng về nguồn gốc có được nhứng tài sản đó là do hoạt động phạm pháp. Để tịch thu dân sự thành công, phải chứng minh được những trường hợp đó có chứng cứ rõ ràng và để thành công bắt giữ tội phạm phải chứng minh được nhứng trường hợp đó thực sự có những bằng chứng không thể chối cãi được. Tài sản bị phạt có thể được chia tới tất cả những cơ quan thi hành pháp luật có tham gia, một cách giải quyết chi tiết rất có hiệu quả để thu hút sự hợp tác từ các cơ quan thi hành pháp luật ở nước ngoài. Về phương diện pháp lý, rửa tiền là khái niệm tương tự một số tội xâm phạm có chủ ý trong giao dịch tiền tệ đó là tài sản có được từ nguồn gốc phi pháp. Để kết án, người khởi tố phải đưa ra âm mưu của các bị cáo trong các giao dịch tiền tệ hay hoạt động chuyển giao quốc tế có liên quan tới những khoản tiền có được từ một “ hoạt động bất hợp pháp”. Danh sách của những loại hoạt động đó vô cùng dài và bao gồm cả việc nhận đưa hối lộ làm hàng giả buôn bán ma tuý, hoạt động tình báo, tống tiền, lừa đảo, giết người, bắt cóc, in tiền giả và dĩ nhiên cả gian lận nghiệp vụ ngân hàng. 1.2.2 Dấu vết hồ sơ: Các cơ quan khởi tố xem xét hồ sơ khi có được lệnh theo đạo luật bảo mật ngân hàng và những điểm bổ sung của nó sẽ là công cụ chủ yếu trong việc điều tra nghiên cứu và khởi tố tội sửa tiền. Các cơ quan đó sử dụng 5 dạng báo cáo về dấu vết trong giao dịch tài chính. * Báo cáo giao dịch tiền tệ tài liệu được thiết lập khi một tổ chức tài chính nhận hay cấp số tiênf hơn 10.000 USD. Báo cáo bao gồm tên và địa chỉ của người thự._.t đất nước muốn chống nạn rửa tiền cần phải có một cơ sở hạ tầng về luật, tài chính và cơ quan thực thi pháp luật”. Ông nói thêm rằng hợp tác giữa khu vực tư nhân và nhà nước trong một quốc gia và quốc gia này vơí một quốc gia khác là những yếu tố hết sức quan trọng. Một yếu tố hết sức cần thiết khác đó là việc đào tạo, huấn luyện cho tất cả các cơ quan, tổ chức tham gia trong mặt trận đấu tranh chống nạn rửa tiền Đấu tranh chống lại bọn rửa tiền không chỉ làm giảm đi những vụ tội phạm về tài chính mà nó còn giúp loại trừ bớt nạn khủng bố và những loại hình tội phạm khác có thể dẫn đến những tội phạm cực kỳ nghiêm trọng. Để chống lại nạn rửa tiền một cách có hiệu quả một quốc gia cần phải có những điều kiện sau: Thứ nhất, các quan chức chính phủ cần phải đảm bảo rằng họ có một hệ thống luật, tài chính cần thiết và cơ sở pháp lý thực thi để chống lại nạn rửa tiền.“40 khuyến nghị” của lực lượng tài chính đặc nhiệm(FATA), một tiêu chuẩn được quốc tế công nhận trong vấn đề này đã chỉ ra cách thức mà các nước cần phải làm để tự vệ không bị nạn rửa tiền lạm dụng. Các nước cần phải đảm bảo rằng các cơ quan chế tài pháp luật, các cơ quan ra quy định và hệ thống pháp luật của đất nước mình phải thường xuyên liên hệ, chia sẻ thông tin và phối hợp cùng nhau. Thứ hai, cần phải có sự tham gia của các lãnh đạo trong khu vực kinh doanh tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, để cùng hỗ trợ các sáng kiến của Chính phủ chống lại các tội phạm tài chính và nạn rửa tiền . Thứ ba, các nước cần tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế và khu vực để không ngừng nâng cao hiểu biết của mình và củng cố hợp tác với các nước đối tác khác để chống lại nạn rửa tiền. Thứ tư, thông qua các thoả thuận hợp tác, các nước cần chia sẻ kịp thời các thông tin quan trọng liên quan đến nạn rửa tiền và các tội phạm tài chính, có như vậy các nước mới không trở thành đồng minh của bọn rửa tiền. Đây là những định hướng cơ bản để cuộc đấu tranh chống rửa tiền có hiệu quả. Để thực hiện thành công cuộc đấu tranh chống nạn “rửa tiền”, các quốc gia cần phối hợp đồng bộ các biện pháp trong một quốc gia cũng như phối hợp cùng hành động với các tổ chức quốc tế. II Một số giải pháp chống rửa tiền Với mong muốn kiểm soát được nạn rửa tiền, dưới đây xin đưa ra một số giải pháp tổng quát. Các quốc gia tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình mà áp dụng cho phù hợp, hiệu quả. 1. Các biện pháp kĩ thuật và đào tạo Các chương trình hỗ trợ kĩ thuật và đào tạo một cách chính quy là rất quan trọng đối với việc xây dựng những chế định để có thể tiếp cận thường xuyên đối với các vấn đề của nạn rửa tiền. Như vậy, các nước cuối cùng sẽ có thể cải thiện khả năng của mình chống lại nạn rửa tiền và họ có thể trở thành các đối tác hiệu quả trong nỗ lực chống lại nạn rửa tiền trên toàn cầu. Cục phòng chống ma tuý và thực thi pháp luật (INL) của Bộ ngoại giao Mỹ đang hoàn thiện các chương trình hỗ trợ chống nạn rửa tiền. INL tham gia và hỗ trợ các cơ quan chống rửa tiền và đưa ra những đề xuất chính sách liên quan đến các hoạt động rửa tiền quốc tế. Bộ ngoại giao đã vừa xây dựng một giải pháp để hỗ trợ các cơ quan liên quan thiết lập những mạng lưới phòng chống rửa tiền để bảo vệ các nền kinh tế và các chính phủ không bị các tội phạm hành chính làm lũng loạn và ngăn chặn nạn rửa tiền trên quy mô quốc tế. Giải pháp này gồm các công tác đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và những đánh giá về các trường hợp rửa tiền cụ thể hay đưa ra những thiếu sót để đạt được các mục tiêu thực hiện cụ thể, xây dựng thể chế phù hợp. Ví dụ với giải pháp này là các nhà hoạch định chính sách và các cơ quan thực hiện có thể xác định rằng tại một nước còn tồn tại những hạn chế vì nước đó chưa có cơ quan tình báo tài chính (FIU) để có thể thực hiện chức năng đầu mối quan trọng & chương trình chống nạn rửa tiền của quốc gia. Các FIU có khả năng trao đổi nhanh chóng các thông tin (giữa các tổ chức tài chính và các cơ quan thực thi pháp luật như công tố hay cơ quan có thẩm quyền khác), khi bảo vệ lợi ích của các cá nhân vô tội liên quan đến những số liệu đó. Ngyên nhân về việc thiếu FIU ở các nước cũng khác nhau nên chương trình này được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của mỗi nước.Ví dụ, nếu vấn đề ở đây là thiếu các quy định Bộ Ngoại giao có thể giúp tài trợ cho một chuyên gia hoạch định lấy từ hệ thống dự trữ quốc gia Mỹ để nước này dự thảo những quy định hoặc các phương hướng dẫn thích hợp và sau đó tổ chức một loạt các khoá đào tạo để những chuyên gia, các cán bộ cấp dưới và những nhân viên khác có thể học cách làm như thế nào để thực hiện những quy định này có hiệu quả. Nếu là vấn đề về phần cứng hoặc phân tích, Bộ Ngoại giao có thể tài trợ cho các chuyên gia từ FIU của Hoa Kỳ đến giúp đỡ nước này, sau đây được gọi là FINCEN. Trong năm 2000, Bộ ngoại giao đã thành lập nhiều trung tâm điều tiết Ngân hàng và thực thi pháp luật nhằm tổ chức các khoá đào tạo và hỗ trợ về kỹ thuật về các giải pháp ứng phó với nạn rửa tiền và các cuộc điều tra tài chính giữa các đối tác trên toàn cầu. Những khoá đào tạo này giúp cho những nhà điều tra tài chính , các nhà hoạch định trong ngân hàng và các bên có truy tố có những công cụ cần thiết để phát hiện điều tra và khởi tố những vụ rửa tiền, những tội phạm tài chính và những hoạt động liên quan đến tội phạm khác. Những khoá học này đã được tổ chức tại Mỹ và một số khu vực liên quan mà chương trình đang tập trung vào. INL đã tài trợ 60 chương trình trong năm 2000 để chống lại tội phạm tài chính và rửa tiền, triển khai bộ phận tình báo tài chính. Ngoài ra INL cũng giúp nhiều cơ quan liên bang thực hiện đào tạo phục vụ công tác chống tội phạm tài chính và các cơ quan về tội phạm tài chính cơ quan và xây dựng các khoá đào tạo chuyên sâu tại một số tổ chức để chống lại nạn rửa tiền . 1.1. Đào tạo các đối tác. Các cơ quan sau cung cấp các khoá đào tạo chống rửa tiền và các khoá hỗ trợ kỹ thuật thông qua INL: Mạng lưới chế tài đối với tội phạm tài chính (FINCEN): FINCEN là cơ quan tình báo Tài chính Hoa Kỳ do Bộ tài chính quản lý, hỗ trợ kỹ thuật và tổ chức các khoá đào tạo cho các quan chức chính phủ nước ngoài, các nhà hoạch định tài chính, các quan chức thực thi pháp luật, và các ngân hàng. Các khoá đào tạo này bao trùm rất nhiều chủ đề các loại hình rửa tiền, tổ chức và vận hành cơ quan tình báo tài chính, thành lập hệ thống toàn diện về phòng chống nạn rửa tiền, hoạt động và cấu trúc mạng vi tính, các hệ thống phòng chống nạn rửa tiền của từng nước và các quy định. FINCEN cũng phối hợp chặt chẽ với Egmont Group gồm 50 cơ quan tình báo tài chính để giúp các nước thành lập các bộ phận tình báo tài chính của riêng mình. Ngoài ra, nhiều nước cũng đã được FINCEN giúp đỡ như Argentina, Armenia, Bahanias, Đức, Hy lạp, Hồng Kông, ấn Độ, Indonesia, Đảo Man, Jamaica, Tersey, Kazakhsitan, Lebano, Italia, Liechtenstein, Nauru, Nigeria, Hà Lan, Lalan, Paragoay, Nga, Seycheele, Nam Phi, Thuỵ Sỹ, St. Vincen Grenadines, Đài Loan, Tanzania, Thái Lan, Tonga, Vương quốc Anh, FINCEN cũng thực hiện trao đổi các bộ với các cơ quan tình báo tài chính của Hàn Quốc và Bỉ. Cơ quan quản lý doanh thu nội bộ (IRS) : cơ quan quản lý doanh thu nội bộ thuộc Bộ tài chính Mỹ, tập trung hoạt động đào tạo của mình vào kỹ năng điều tra liên quan đến tội phạm tài chính và rửa tiền. Mục đích của những khoá đào tạo này là giúp chính phủ các nước thiết lập và hoàn thiện các luật lệ chống rửa tiền, các hình thức tội pham thuế và tịch thu tài sản. Ngoài ra IRS giúp điều tra những trường hợp vi phạm những luật này và khuyến khích mạng lưới chống rửa tiền tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế. Cơ quan bảo mật: bộ phận bảo mật thuộc Bộ Tài chính Mỹ tham gia vào các công tác đào tạo các quan chức chính phủ và các quan chức thực thi pháp luật về các gian lận tài chính, điều tra các vụ tiền giả và những tội phạm khác liên quan đến thương mại điện tử. Trong năm 2000, Bộ phận bảo mật đã hỗ trợ cho các chương trình của INL thông qua việc đào tạo cho các tổ chức tài chính và thực thi pháp luật tại Trung Quốc, Nigeria, Bulgari và Lithuana. Ngoài ra bộ phận này cũng có những bài giảng tại các học viện của Hungari và Thái Lan và tổ chức các lớp học đặc biệt tại Bulgari, Colombia, Hy Lạp, Italia, Mêxicô, và Rumani và tại hội thảo của Interpol tổ chức tại Lyon, Pháp. Cục hải quan Liên bang (VSCS): Cục Hải Quan, phòng điều tra, bộ phận điêù tra tài chính thuộc Bộ Tài chính đã giúp hỗ trợ các chuyên gia về điều tra các vụ rửa tiền theo cách truyền thống và rửa tiền lén lút, họ sẽ là những người phổ biến những kinh nghiệm của mình cho các nhân viên ngân hang, quan chức hoạch định và thực thi pháp luật có tên trong các chương trình INL. Là người chủ trì hoặc đồng chủ trì với các cơ quan liên bang khác, trong năm 2000, VSCS đã tổ chức nhiều hội thảo về phòng chống tội phạm tài chính và rửa tiền ở trong cũng như ở ngoài nước với số nhân viên được đào tạo lên đến 725 người từ 16 quốc gia trên thế giới. Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật (OTA): Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật thuộc Bộ Tài chính hỗ trợ cho các quan chức cao cấp của nhiều bộ và các ngân hàng trung ương trong lĩnh vực cải cách thuế, quản lý và phát hành nợ chính phủ, định hướng và quản lý ngân sách, cải cách tổ chức tài chính, cải cách các cơ quan thực thi pháp luật liên quan đến rửa tiền và các tội phạm tài chính khác. OTA phối hợp với các nhân viên của sứ quán và khách hàng của nước sở tại để thực hiện những dự án dài hạn, thiết kế nhằm mục đích thúc đẩy những thay đổi có tổ chức hệ thống và áp dụng các cơ cấu tổ chức mới. Trong năm 2000, một số dự án đã được thực hiện ở một số nước như Armenia (hỗ trợ kỹ thuật để xử lý tội phạm tài chính, tội phạm có tổ chức, tội phạm đánh bạc và những gian lận không bảo hiểm); tại Salvador (soạn thảo và thực hiện luật chống lại nạn rửa tiền, giúp đỡ thiết kế, xây dựng và tuyển cán bộ cho cơ quan tài chính của ElSahador); tại Georgia (hợp tác với cơ quan tài chính của quốc tế Mỹ, Bộ tư pháp , uỷ ban hối đoái và chứng khoán Mỹ, thực hiện báo cáo về các quan chức của cơ quan chứng khoán quốc gia); tại Indonesia (xây dựng các chương trình đào tạo để nâng cao khả năng kiểm toán cho các cán bộ của các phòng thuộc cơ quan cơ cấu, thuộc ngân hàng Indonessia và cung cấp các kiến thức liên quan đến các vụ điều tra về rửa tiền và thu hồi tài sản) tại Moldova (hỗ trợ kỹ thuật cho những người soạn thảo phần về tội phạm tài chính và kinh tế của bộ luật tố tụng hình sự hiện đang được quốc hội xem xét, hỗ trợ cho bộ tài chính hình thành cơ quan phụ trách trốn thuế và nhóm công tác về gian lận trong ngân hàng, đào tạo pháp lý và hỗ trợ chống lại gian lận tín dụng, gian lận giấy tờ và xây dựng các nghành nghiên cứu pháp lý cho chính phủ). Các cơ quan tư vấn của cơ quan thực thi pháp luật cũng giúp Peru và Malaysia để soạn thảo và thảo luận cơ sở pháp lý chống lại nạn rửa tiền . Cơ quan đào tạo khởi tố nước ngoài (OPDAT): đây chính là nơi đào tạo các nhân viên thực thi pháp luật, các thẩm phán, các uỷ viên công tố. Trong năm 2000, OPDAT đã tài trợ cho 13 hội thảo trên thé giới liên quan đến vấn đề thu hồi tài sản và rửa tiền. Khoảng 800 học viên đã được dào tạo về rửa tiền xuyên quốc gia, thu hồi tài sản quốc tế và phân chia tài sản. Ngoài ra bộ phận chống rửa tiền và thu hồi tài sản của Bộ tư pháp đã tổ chức một hội thảo khu vực về rửa tiền và thu hồi tài sản tại Buenos Aires với sự tham gia của 200 uỷ viên công tố và các nhân viên thực thi pháp luật từ Argentina, Paraguay và Bolivia. Cơ quan phòng chống ma tuý (DEA) phòng đào tạo của cơ quan, bộ đào tạo quốc tế nằm trong một phần của chương trình tịch thu tài sản của Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều hội thảo về rửa tiền và tịch thu tài sản quốc tế. Những hội thảo này đưa ra những so sánh phân tích luật của Mỹ với những nước khác và xây dựng mối quan hệ và thiết lập mạng lưới thông tin giữa các quan chức nhân viên thực thi pháp luật liên quan đến ma tuý và các công bố về vấn đề rửa tiền trong đó có các khoá học đặc biệt dành cho các nhà quản lý ngân hàng trung ương nước ngoài, cảnh sát hải quan và các công tố viên. Trong năm 2000, một số hội thảo đã đươc tổ chức Hungari, Panama, Peru, Singapo, Nam Phi, Tây ban Nha và các khoá đào tạo khu vực về chống nạn rửa tiền đã được thực hiện ở Brazil. Cục điều tra liên bang (FBI): Bộ phận phụ trách về vấn đề rửa tiền của Cục điều tra Liên bang thuộc Bộ tư pháp đã đào tạo nhiều nhân viên thực thi pháp luật quốc tế để điều tra các hình thức rửa tiền. Các khoá đào tạo này tập trung chú ý tới các mánh khoé mà bọn rửa tiền thường sử dụng để che dấu và nguỵ trang nguồn gốc của số tiền bất hơp pháp và cung cấp các biện pháp thực thi pháp luật với khả năng truy lùng dấu vết nguồn gốc và chủ sở hữu của những số tiền đó. FBI cũng cung cấp các chuyên gia đào tạo nâng cao về những kỹ năng, công nghệ hiện đại và truyền thống. Ví dụ như Ngân hàng Internet, thẻ tín dụng thông minh và thẻ điện tử. Trong năm 2000, FBI đã hỗ trợ nhiều khoá đào tạo chống tội phạm tài chính và rửa tiền tại Moldova, Pakistan, Panama, Nga, Phần Lan, Slovakia, Ukraina và Việt Nam. Ngoài ra FBI cũng đã tổ chức có nhiều khoá đào tạo và hội thảo chuyên đề về rửa tiền tại học viện FBI của Quantico, Virginia và trụ sở của FBI tại Washington D.C. Hội đồng quản trị của hệ thống dự trữ liên bang nhân viên của cục dự trữ liên bang, Ngân hàng Trung ương Mỹ cũng đã tổ chức các khoá đào tạo và cung cấp thông tin về các thủ tục và mánh khoé rửa tiền cho các nhân viên thực thi pháp luật nước ngoài, các chuyên gia tư vấn của ngân hàng trung ương cho hàng chục nước mỗi năm bao gồm Angentina, Brazil, Canbe, Czech, Ecuador, Phần Lan, Nga và các nước nam Thái Bình Dương, Vương quốc ả rập thống nhất và Uraguay. 1.2. Các sáng tạo hỗ trợ đa phương : - Nằm trong chương trình chống rửa tiền, INL nhận ra nhu cầu dài hạn về các chương trình đào tạo trong khu vực, ví dụ, INL cùng với liên minh châu âu và vương quốc anh đã tài trợ cho chương trình chống rửa tiền của các nước vùng Caribe (CALP ) nhằm mục đích làm giảm các vụ rửa tiền có thể dẫn đến các tội phạm hình sự nghiêm trọng bằng cách ngăn chặn, điều tra và khởi tố kịp thời các vụ rửa tiền. CALP cũng đang cố gắng phát triển nhừng gì có thể được về mặt tổ chức tại các nước Caribe để giải quyết các vấn đề liên quan đến chống rửa tiền tại các nước, khu vực và trên thế giới. - INL cũng tham gia và hỗ trợ tài chính cho nhiều cơ quan, tổ chức chống rửa tiền trên toàn thế giới. Trong năm 2000 đã trợ giúp cho nhóm chống rửa tiền châu á- Thái Bình Dương (ABG), lực lượng tài chính đặc nhiệm vùng Caribe, lực lượng tài chính đặc nhiệm và hội đồng châu âu (COE) ; APG và COE cũng được hỗ trợ để thực hiện nhiều trình đào tạo đa phương cho các thành viên. - Tiếp theo các chương trình đào tạo của INL là các biện pháp phối hợp liên ngành để giữa các cơ quan thực thi pháp luật đề xuất bao gồm các học viện về thực thi pháp luật quốc tế ILEAS do INL thành lập và tài trợ tổ chức nhiều khoá học về thực thi pháp luật cho các quan chức quản lý bậc trung. Các khoá đào tạo này gồm các học phần giảng về tội phạm tài chính và rửa tiền. Các hội thảo về những chủ đề này càng được tổ chức cho các quan chức thực thi pháp luật cao cấp. - Các sáng kiến của ILEAS được xây đựng trên cơ sở khu vực. Học viện ILEAS đầu tiên của châu âu được thành lập tại Budapest và tập trung chủ yếu vào đào tạo cảnh sát và các cơ tư pháp hình sự của các nước SNG và trung âu. Một học viên ILEA khác của khu vực Đông Nam á đã khai giảng vào tháng 3 năm 1999 tại BangKok và cho đến nay đã có hơn 1000 quan chức từ mười nước Đông Nam á tham dự các khoá học ở đây. Một học viên ILEA cũng đã thành lập tại Đông Hemisphere nhưng địa điểm lâu dài cho học viện này còn đang được xem xét. Ngoài ra, học viện ILEA ở khu vực Nam Phi tại Ganorone cũng đã khai giảng ngày 23/4/2001. Với các biện pháp kỹ thuật đào tạo, hệ thống chống rửa tiền và tội phạm tài chính ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. 2. Biện pháp của ngành ngân hàng. Trong hệ thống các hình thức được sử dụng để rửa tiền bọn tội phạm đặc biệt quan tâm tới rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Những vụ rửa tiền lớn phát hiện gần đây chủ yếu có liên quan tới hệ thống ngân hàng. Vì vậy ngành ngân hàng cần có những nỗ lực đặc biệt trong cuộc chống rửa tiền đầy khó khăn này. Điều có nghĩa là ngành ngân hàng phải thấy được rằng mình luôn là cái đích mà bọn tội phạm thường xuyên nhắm để rửa tiền. Do vậy nghành ngân hàng phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cán bộ ban ngành có liên quan để thực hiện hiệu quả cuộc đấu tranh chống rửa tiền . Đó là đào tạo đội ngũ nhân viên có đủ trình độ nhận biết khách hàng, thiết lập, sử dụng các biện pháp kỹ thuật đào tạo… để chống rửa tiền. Trong tất cả các công đoạn của bọn tội phạm muốn rửa tiền qua ngân hàng thì giai đoạn để phát hiện hành vi rửa tiền nhất là giai đoạn khách hàng khai báo thông tin để mở tài khoản. Vì thế, ngày nay, thực hiện chính sách nhận biết khách hàng(know your customer- KYC) đang từng bước phát triển được hiệu quả trong việc chống rửa tiền. ở đây xin giới thiệu về chính sách này để tiện tham khảo vận dụng. 2.1. Mục tiêu của chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC Làm tăng khả năng đảm bảo cho các ngân hàng tuân thủ tất cả các điều luật và các qui định. Làm giảm khả năng các ngân hàng trở thành nạn nhân của những hoạt động bất hợp pháp do khách hàng của họ thực hiện. Bảo vệ uy tín và danh tiếng của khách hàng. Không làm cản trở mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và các khách hàng tốt của họ. 2.2. Nội dung của chính sách “nhận biết khách hàng” Chính sách “nhận biết khách hàng” phải được áp dụng với tất cả mọi khách hàng giao dịch trong nước và quốc tế, phải yêu cầu cung cấp các bằng chứng chứng minh nhân thân của khách hàng như: hộ chiếu, giấy phép lái xe, chứng minh nhân dân và bằng chứng về các quyền sở hữu lợi nhuận từ các giao dịch thực hiện qua ngân hàng. Chính sách “nhận biết khách hàng” cũng phải được áp dụng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Người đại diện doanh nghiệp cũng như người thừa kế phải được luật pháp thừa nhận. Tất cả các báo cáo của doanh nghiệp phải chính xác và cập nhật (đặc biệt là các báo cáo về tên sở hữu doanh nghiệp) để làm căn cứ kiện cáo trong trường hợp rửa tiền. Tất cả các thủ tục “nhận biết khách hàng” này đều được thực hiện kể từ khi khách hàng đặt quan hệ giao dịch. Một loạt các công việc cần thực hiện để nhận biết khách hàng: Nếu cá nhân mở tài khoản có địa chỉ nhà riêng và nơi làm việc không cùng địa chỉ bàn với ngân hàng thì nhân viên ngân hàng phải tìm hiểu tại sao khách hàng lại mở tài khoản tại ngân hàng mình. Sau khi khách hàng mở tài khoản, các ngân hàng phải gọi điện đến nhà riêng (đối với cá nhân) và trụ sở công ty (đối với công ty) để cảm ơn khách hàng về việc mở tài khoản. Thông qua đó ngân hàng sẽ mở rộng điều tra đối với những số điện thoại không giao dịch được Ngân hàng cần phải hỏi nguồn gốc của một khối lượng tiền mặt lớn dùng để mở tài khoản hoặc tìm hiểu về khách hàng thông qua các ngân hàng phục vụ trước đó. Ngân hàng cũng cần phải kiểm tra trực tiếp tại trụ sở công ty để thấy rõ sự tồn tại và khả năng cung cấp dịch vụ của công ty. Yêu cầu khách hàng là doanh nghiệp cung cấp: + Báo cáo tài chính của doanh nghiệp + Danh sách, địa chỉ của khách hàng và người cung cấp chính của doanh nghiệp. Thông qua danh sách này, ngân hàng sẽ kiểm tra được các hoạt động đáng ngờ của khách hàng như tài khoản tiền gửi mâu thuẫn với hoạt động kinh doanh, việc mua bán, thanh toán, chuyển tiền bằng điện, chuyển vốn ra nước ngoài mâu thuẫn với hoạt động kinh doanh. + Miêu tả lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính và các giao dịch quốc tế thường xuyên. Các ngân hàng có một hệ thống kiểm soát nội bộ để giám sát các giao dịch nhằm xác định giao dịch đó có mâu thuẫn với sự miêu tả của khách hàng không. Ngân hàng cũng nên có một chính sách để duy trì sự hiểu biết rộng về các nghiệp vụ kinh doanh cuả khách hàng cũng như các giao dịch họ thực hiện. Điều đó sẽ giúp cho ngân hàng dự đoán được chắc chắn mối quan hệ giữa các giao dịch mà khách hàng có thể đang thực hiện, từ đó biết được nguồn thu nhập của họ. + Dự tính khối lượng bán hàng bằng tiền mặt nhằm kiểm tra gián tiếp nguồn gốc tiền mặt nộp vào tài khoản. 2.3. Nguyên tắc cơ bản của Chính sách “nhận biết khách hàng” Thiết lập chức năng kiểm soát nội bộ tính tuân thủ với những nhiệm vụ: + Kiểm tra giao dịch, đánh giá sự tuân thủ chính sách và các thủ tục. + Kiểm tra những nhân viên đang làm việc để đánh giá sự hiểu biết về pháp luật và chính sách, thủ tục của ngân hàng. + Xem xét những chính sách đã được ban hành và những chương trình đào tạo để tiến hành đề nghị chỉnh sửa cho phù hợp hơn + Báo cáo tất cả những điều phát hiện được cho người quản lý cấp cao. Phân định rõ trách nhiệm giữa điều hành hàng ngày với chức năng kiểm soát nội bộ Đảm bảo đội ngũ nhân viên được đào tạo phù hợp đầy đủ tất cả các khía cạnh của những chính sách và thủ tục nội bộ. Một chương trình đào tạo phù hợp bao gồm: + Tất cả các nhân viên nghiệp vụ, nhân viên kiểm toán nội bộ, nhân viên giao dịch với khách hàng đều phải được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng, kể cả những phương pháp và kế hoạch rửa tiền thông thường. + Thường xuyên bồi dưỡng để nhân viên được cung cấp thông tin cập nhật và hiện hành nhất - Người quản lý cấp cao phải tiến hành các qui định, qui trình phù hợp được ban giám đốc phê chuẩn và thi hành đầy đủ. Đồng thời người quản lý cấp cao phải được cung cấp thông tin về tình hình thực hiện kế hoạch, các báo cáo kiểm toán và báo cáo đề xuất về bất kỳ sự không tuân thủ nào. - Việc vận dụng chính sách “nhận biết khách hàng” kết hợp với các biện pháp khác với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan hữu quan chắc chắn sẽ mang lại nhiều thắng lợi trong cuộc chiến chống rửa tiền. 3. Hợp tác quốc tế chống “rửa tiền” Rửa tiền cho tới thời điểm hiện nay đã mang tính chất quốc tế. Vì thế để chống rửa tiền cần có sự hợp tác của các quốc gia – hợp tác quốc tế. Tổ chức hàng đầu hoạt động mang tính chất quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền là FATF: lực lượng tài chính đặc nhiệm chống rửa tiền . FATF đã đưa ra các chuẩn mực cho phong trào chống rửa tiền quốc tế là “40 khuyến nghị” và “những điều phụ lục” bao gồm hệ thống tư pháp hình sự và thực thi pháp luật, hệ thống tài chính và sự điều tiết hệ thống đó, và hợp tác quốc tế để chống “rửa tiền” (Nội dung sơ lược của các khuyến nghị đã đề cập ở trên). Những khuyến nghị này đưa ra những nguyên tắc hành động và cho phép các nước áp dụng chúng một cách linh hoạt tuỳ theo thực trạng và luật pháp từng nước). Thêm vào đó, nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền trên toàn thế giới FATF đã xúc tiến thành lập các nhóm hành động khu vực. Những nhóm này có địa vị quan sát viên đối với FATF. Chức năng của thành viên khu vực này cũng như các thành viên của FATF. Ví dụ như nhóm khu vực đánh giá lẫn nhau giữa các thành viên và theo dõi xu hướng rửa tiền trong khu vực. Những nỗ lực phát triển những nhóm khu vực của FATF ở Châu Phi và Nam Mỹ đã dẫn đến việc thành lập nhóm chống rửa tiền Đông và Nam Phi. Lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính và chống rửa tiền ở Nam Mỹ. Những tổ chức khu vực khác theo dạng FATF là nhóm chống rửa tiền ở Châu á - Thái Bình Dương, lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính ở vùng biển Caribean, và Uỷ ban hội đồng Châu âu PC – R- EV. Sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế còn có nghĩa là FATF đã dựng lên mạng lưới chống rửa tiền toàn cầu. Nhiều tổ chức tham gia vào cuộc chiến chống rửa tiền với tư cách như quan sát viên của FATF như ngân hàng phát triển Châu á, Ngân hàng tái đầu tư và phát triển Châu âu (EBRD), Ngân hàng phát triển liên Hoa Kỳ (IADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm thanh tra ngân hàng hải ngoại (OGBS), Văn phòng liên hợp quốc về kiểm soát ma tuý và ngăn ngừa tội phạm (ONO DCCP). Nhiều tổ chức quốc tế đã hình thành các chương trình chống rửa tiền quan trọng. III. Những kiến nghị với Việt nam Hậu quả nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng, vì thế điều tất yếu là phải chống nạn rửa tiền. Nhưng làm sao để cuộc chiến chống nạn rửa tiền thành công, trên đây đã đề ra một số giải pháp mang tính chất tổng quát mà vận dụng nó cần phải có điều kiện và thời gian lâu dài. Trước mắt, để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống “rửa tiền”, xin đưa ra một số kiến nghị ở Việt nam. 1. Đối với ngân hàng Nhà nước Việt nam: Cần nghiên cứu, bổ sung để sớm trình Chính phủ – nghị định về chống rửa tiền, để chúng ta có một văn bản pháp quy chuyên ngành trong lĩnh vực tiền tệ. 2. Đối với Chính phủ Việt nam: cần xem xét, phê duyệt sớm nghị định về chống rửa tiền - Đồng thời chỉ đạo phối hợp các ban ngành, cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài trong việc chống rửa tiền. 3. Đối với các cá nhân: khi thấy mọi người hay ai đó có liên quan hoặc có biểu hiện của hành vi rửa tiền cần báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền để sớm có biện pháp kịp thời. Kết luận chương III. Trong chương chủ yếu đưa ra các biện pháp truyền thống để chống rửa tiền. Bên cạnh đó có đưa ra một số kiến nghị về chống rửa tiền ở Việt nam. Kết luận chung Rửa tiền là hành vi tội phạm mang tính chất quốc tế và hậu quả của nạn rửa tiền là không lường hết được nếu nó không được kiểm soát chặt chẽ. Phân tích thực trạng và xu hướng rửa tiền của bọn tội phạm tại các nước khác nhau, chúng ta thấy được bản chất cực kỳ nguy hiểm của hoạt động này. Nó lôi kéo hầu hết các thành phần kinh tế quan trọng của đất nước tham gia vào quy trình rửa tiền: các cơ quan trung ương, các doanh nghiệp nhà nước... và nhất là nó lợi dụng hoạt động của các ngân hàng-một thành phần được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc gia... Đối với nền kinh tế toàn cầu, nó làm suy yếu mối quan hệ kinh tế quốc tế, phá hoại uy tín của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng; nó cản trở trào lưu hội nhập của các thị trường tài chính, làm phá hỏng mối quan hệ liên ngân hàng toàn cầu. Nguy hiểm hơn là nạn rửa tiền làm tha hoá nhiều quan chức chính phủ, các doanh nhân cũng như nhiều thành phần dân cư khác. Tất cả đều vì lợi nhuận, vì bị đồng tiền dụ dỗ mà đã vô tình hay hữu ý tiếp tay, phục vụ cho bọn tội phạm, bọn tham nhũng. Như vậy, hậu quả xã hội của nạn rửa tiền cũng nghiêm trọng không kém hậu quả kinh tế mà nó gây ra. Nhận thức được mức độ nguy hiểm của hoạt động rửa tiền, cộng đồng thế giới đã nhanh chóng vào cuộc. Nhiều tổ chức chống rửa tiền quốc tế đã được thành lập như Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FAFT) đã được thành lập tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi. Không thờ ơ với các hoạt động quốc tế, Việt nam của chúng ta cũng đã tích cực hoạch định các chương trình phòng và chống rửa tiền. Như đã phân tích ở trên, với một hệ thống ngân hàng hoạt động còn manh mún, một thị trường tài chính còn non trẻ, Việt nam đang và sẽ trở thành đích ngắm của bọn rửa tiền. Đã có một vài hiện tượng nghi ngờ là rửa tiền tại Việt nam. Nếu không có một khung pháp lý chặt chẽ về vấn đề này, và nếu như không trang bị một kiến thức đầy đủ cho các cán bộ ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý các hành vi nghi ngờ về rửa tiền thì chẳng bao lâu nữa hoạt động này sẽ nhanh chóng xâm nhập và hoành hành ở nước ta. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, Chính phủ Việt nam và hệ thống ngân hàng đã nhanh chóng hoạch định các chương trình cụ thể chống rửa tiền. Tại Ngân hàng Ngoại thương Việt nam- một ngân hàng có nhiều giao dịch quốc tế nhất, đã xây dựng một quy trình “nhận biết khách hàng” (KYC) cụ thể để thực hiện tại các bộ phận tín dụng, quan hệ đại lý, chuyển tiền...Cuối năm 2002, theo khuyến cáo của Cục điều tra liên bang Mỹ, cũng như thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã yêu cầu toàn bộ các chi nhánh trong hệ thống kiểm tra, báo cáo và phong toả các tài khoản (nếu có) có liên quan đến mạng lưới khủng bố Al Queda. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam – cơ quan quản lý cao nhất về ngân hàng, hiện tại đang hoàn chỉnh nội dung dự thảo Nghị định về chống rửa tiền để trình lên Chính phủ phê duyệt. Dự kiến Nghị định này sẽ được ban hành vào cuối năm 2003. Ngoài việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về rửa tiền, Việt nam cũng luôn luôn hướng tới hội nhập và tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức chống rửa tiền trên thế giới trong cuộc chiến đấu đầy cam go với một loại hình tội phạm mới có tên là “tội phạm rửa tiền” này. Hy vọng với sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia cũng như việc nâng cao tầm nhận thức của mọi người dân về nạn rửa tiền, công cuộc chống rửa tiền sễ ngày một đạt nhiều thắng lợi, và các đồng tiền “bẩn” thu từ ma tuý, buôn lậu, tham nhũng, khủng bố... sẽ không còn khả năng được “làm sạch” một cách phi pháp nữa. Tài liệu tham khảo 1. Anti – Money Laundering – Seminar – Hanoi, 30 may 2002 Presentedby: David Hsu- Vice president – Regional Compliance Officer- Citibank 2. Kinh tế – Tài chính tiền tệ thế giới – Ngân hàng Nhà nước số 3/2003 3. Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ, triển vọng kinh tế 5/2001 4. Những người đàn ông của Tổng thống 5. Sự cần thiết phải ban hành nghị định chống rửa tiền ở Việt nam – Thạc sĩ Nguyễn Thị Phụng – Tạp chí Ngân hàng số 7/2002 6. Chống nạn rửa tiền qua ngân hàng tư nhân – Hoàng Liên Sơn - Đầu tư chứng khoán số 157, 9/12/02. 7. Chính sách nhận biết khách hàng, một chính sách chống rửa tiền hiệu quả ở Mỹ – Minh Nghĩa – Tạp chí Ngân hàng số 11/02. 8. Thái Lan với việc chống rửa tiền – Nguyễn Thị Tam. Tạp chí Ngân hàng số 12/2001 9. Mỹ chống khủng bố trong lĩnh vực tiền tệ – Hương Giang (Theo tạp chí Trung Quốc) 10. Quan hệ giữa rửa tiền và sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Tài chính – Minh Nghĩa NHNN – Thị trường tài chính tiền tệ số ẵ 11. Ba “Thiên đường rửa tiền” có thể bị trừng phạt. Lan Anh – theo BBC, 26/0/01 12. Thời báo Ngân hàng các số năm 2000, 2001, 2002, 2003. 13. Thời báo kinh tế Việt nam 2001, 2002, 2003 14. Phân tích tài chính doanh nghiệp …2001, 2002, 2003 15. Tạp chí Ngân hàng …2001, 2002, 2003 16. Thị trường tài chính tiền tệ 2001, 2002, 2003 17. Nhiều vụ rửa tiền được thực hiện tại Hồng Kông Gia thành (Theo báo chí nước ngoài) Đầu tư chứng khoán số 155, 25/11/02 18. Ngăn chặn hoạt động rửa tiền (Philipines có hoàn tất việc bổ sung một số điều vào luật chống rửa tiền. Đầu tư chứng khoán số 67, 17/2/03 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0061.doc
Tài liệu liên quan