Tài liệu Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực: ... Ebook Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3728 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc Th¸i Nguyªn
TRƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m
-------------------------------
®OµN THÞ THUú D¦¥NG
RÌN LUYÖN THAO T¸C LËP LUËN SO S¸NH
CHO HäC SINH LíP 11 THEO QUAN §IÓM TÝCH HîP
Vµ TÝCH CùC
luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gi¸o dôc
Th¸i Nguyªn - 2008
§¹i häc Th¸i Nguyªn
TRƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m
-------------------------------
®OµN THÞ THUú D¦¥NG
RÌN LUYÖN THAO T¸C LËP LUËN SO S¸NH
CHO HäC SINH LíP 11 THEO QUAN §IÓM TÝCH HîP
Vµ TÝCH CùC
Chuyªn ngµnh: LL & PP d¹y häc v¨n
M· sè: 60.14.10
luËn v¨n th¹c sÜ khoa häc gi¸o dôc
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. l£ A
Th¸i Nguyªn - 2008
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn
chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho
người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo
những gì mình đề xuất. Chính vì thế, văn nghị luận Việt Nam đã hình thành
từ xa xưa cùng với sự phát triển của tư tưởng và văn hoá giáo dục của dân tộc.
Nó là phương tiện đắc lực giúp vào quá trình phát triển ấy.
Trong nhà trường, việc rèn luyện viết văn nghị luận là yêu cầu rất trọng
yếu trong quá trình học tập. Văn nghị luận giúp cho học sinh tập vận dụng
tổng hợp các tri thức văn học, tri thức xã hội và đời sống vào việc làm văn,
rèn luyện kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt giúp đắc lực vào việc
phát triển tư duy khoa học, tư duy lí luận ở họ. Những đề bài nghị luận đặt ra
những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi học sinh phải huy động những
hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải quyết, nhằm xây dựng cho họ một
phương pháp, tư tưởng khoa học để có nhận thức đúng và thái độ đúng trước
những vấn đề bàn luận, cũng tức là giúp học sinh có sự chuẩn bị cần thiết để
tiến tới những hành động đúng đắn, tích cực và sáng tạo trong đời sống hiện
tại và tương lai.
Để học sinh phổ thông tạo được những văn bản hay, đầy sáng tạo, việc
dạy các em sử dụng tốt các thao tác lập luận là vô cùng quan trọng. Vì vậy,
sách giáo khoa Ngữ Văn từ THCS (Trung học cơ sở) đến THPT (Trung học
phỏ thông) đã đưa các thao tác lập luận thành từng nội dung cụ thể (ở sách
giáo khoa Làm văn trước đây các thao tác lập luận này chưa được học một
cách rõ ràng, cụ thể), nhằm giúp học sinh hiểu sâu bản chất các thao tác cụ
thể, từ đó vận dụng tốt các thao tác đó trong quá trình tạo lập văn bản.
2
Sách giáo khoa Ngữ Văn THCS đã cung cấp cho học sinh hai thao tác
lập luận là thao tác chứng minh, thao tác giải thích, đến sách giáo khoa Ngữ
văn THPT - SGK Ngữ văn 11 - phần Làm văn giới thiệu thêm bốn thao tác
lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ, và bình luận. Bốn thao tác lập luận này là
trọng tâm phần Làm văn của sách Ngữ văn lớp 11. Trong đó thao tác lập luận
so sánh là một thao tác lập luận rất quan trọng để làm sáng rõ đối tượng đang
nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác. Thao tác này là một nội
dung rất mới lần đầu tiên đưa vào dạy ở trường phổ thông theo tinh thần đổi
mới nên rất khó đối với giáo viên. Bên cạnh đó chưa có một công trình nào,
một chuyên đề nào nghiên cứu về cách rèn luyện thao tác lập luận so sánh
theo hướng tích hợp và tích cực nên chúng tôi mạnh dạn đi nghiên cứu vấn đề
này với mong muốn phần nào giúp cho người giáo viên bớt đi những khó
khăn, lúng túng khi rèn luyện cho học sinh: “Thao tác lập luận so sánh” trong
SGK (sách giáo khoa) Ngữ văn 11.
Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Rèn luyện thao tác lập
luận so sánh cho học sinh lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực”.
2. Lịch sử vấn đề
So sánh là một thao tác của hoạt động tư duy lôgíc nhằm giúp con
người tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt khi đưa đối tượng này ra
đối chiếu với đối tượng khác dựa trên một tiêu chí nào đó, từ đó nhận thức
sâu sắc và làm nổi bật đối tượng.
Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê (chủ biên) đã đưa ra cách
hiểu về so sánh là:“nhìn vào cái này để thấy cái kia, để thấy sự giống và
khác nhau hoặc sự hơn kém” [30, tr.861]. Cuốn “Phong cách học Tiếng Việt
hiện đại” của tác giả Hữu Đạt cũng đưa ra khái niệm so sánh là việc “đặt hai
hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự
giống và khác nhau giữa chúng”[13, tr.294]. Cuốn “Giáo trình tâm lí học đại
3
cương”, tác giả Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) đã đưa ra cách hiểu về so sánh
“là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau, sự đồng
nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các đối
tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng)”[49, tr.116]. Như vậy, cách hiểu về so
sánh của “Từ điển Tiếng Việt”, của tác giả Hữu Đạt và của giáo trình tâm lí
học đại cương đều có quan điểm chung về so sánh là để thấy sự giống và khác
nhau của các sự vật, hiện tượng, từ đó thấy rõ đặc điểm và giá trị của mỗi sự
vật, hiện tượng.
Cuốn “Lôgic học” của tác giả Phan Trọng Hoà tuy không trực tiếp bàn
về so sánh, nhưng đã bàn đến việc đem so sánh các sự vật, hiện tượng với
nhau mà hình thành các phán đoán, nhận xét. Chẳng hạn, để hình thành khái
niệm niệm “nước”, con người phải trải qua một quá trình phân tích, so sánh,
đối chiếu nó với một số chất khác gần gũi với nó như “không khí”, “mực”,
“dầu”,” “rượu trắng”… và cuối cùng người ta rút ra một số nhận xét “nước
trong suốt”, “nước không có màu”, “nước không có mùi”, “nước không có
vị”…[19, tr.46]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic dùng để rút ra các phán
đoán, nhận xét để nhận thức đối tượng được cụ thể. Và để so sánh, người ta
phải dựa trên cùng một tiêu chí, nếu khác tiêu chí, so sánh sẽ trở nên khập
khiễng, thiếu sức thuyết phục, từ đó dễ dẫn đến nhận xét, đánh giá sai lệch.
Tác giả Ngô Doãn Tá trong “Giáo trình lôgic học” đưa ra ba dạng định
nghĩa bằng so sánh: so sánh tương đồng, so sánh ngược, so sánh khác biệt
[46, tr.69- 70]. Như vậy so sánh là thao tác lôgic đem đối tượng này đặt cạnh
đối tượng khác vạch ra các dấu hiệu “tương tự dấu hiệu cơ bản của đối tượng
trong các đối tượng khác” hay “dấu hiệu không tồn tại ở đối tượng cần định
nghĩa nhưng lại có trong đối tượng dùng để so sánh với nó khi định nghĩa”.
Từ đó chúng ta có thể hiểu muốn nhận thức đối tượng sâu sắc cần so sánh, đặt
nó với đối tượng khác.
4
Trong thực tế đời sống, trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta rất hay
dùng biện pháp so sánh, đối chiếu để làm nổi bật đặc điểm riêng, những nét
riêng độc đáo của một đối tượng nào đó. Như thế, so sánh là một thao tác
nhằm đối chiếu hai hay nhiều sự vật hoặc là các mặt trong cùng một sự vật để
thấy sự giống và khác nhau. So sánh cũng được đưa vào giảng dạy trong nhà
trường phổ thông như một thao tác chủ đạo. Đây là một thao tác thúc đẩy quá
trình vận động tư duy để tìm tòi cái mới
Trong Làm văn, khi bàn về thao tác lập luận so sánh, tác giả Nguyễn
Quốc Siêu trong sách “Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông” mặc dù không
trình bày cụ thể về những thao tác lập luận trong văn nghị luận nhưng tác giả
nói tới bản chất của luận chứng lập luận trong văn nghị luận phải có tính lí, và
một trong những cách thức vận dụng kĩ năng thuyết lí là “phương pháp lấy
vật làm sáng tỏ lí bằng so sánh”, “phương pháp minh hoạ hình tượng bằng
so sánh”. Từ đó tác giả khẳng định rằng việc so sánh các đối tượng không
phải tuỳ tiện mà phải tuân theo một nguyên tắc: lấy những đặc tính này của
một hiện tượng để so với một đặc trưng cùng loại của một hiện tượng khác.
Bằng cách này để trình bày lí lẽ làm cho cái lí trình bày được sáng sủa, sinh
động và giàu hình ảnh [46,tr.221].
Cùng quan điểm với tác giả Nguyễn Quốc Siêu, tác giả Bảo Quyến
trong cuốn “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận” cũng cho rằng nói tới so sánh là
nói tới“thao tác đối chiếu nhằm tìm ra cái chung và sự khác biệt giữa các đối
tượng, các vấn đề” [32,tr.14]. Như vậy, tác giả đã diễn giải một cách tường
minh bản chất của so sánh là thao tác đối chiếu các sự vật, hiện tượng. Đem
đối chiếu để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm
trong quá trình lập luận. Và tác giả cũng chỉ ra rõ nét tác dụng to lớn của lập
luận so sánh là: “nhấn mạnh những nét độc đáo, đặc sắc trong ý kiến của
mình để tăng thêm sức hấp dẫn, thuyết phục của bài văn” [32, tr.14].
5
Trong cuốn “Luyện tập cách lập luận trong đoạn văn nghị luận” tác
giả Nguyễn Quang Ninh (chủ biên), Trần Hữu Phong, Nguyễn Thị Ban lại
cho rằng lập luận bằng “so sánh tương đồng là đi từ cái đã biết để suy ra cái
chưa biết, để từ đó thừa nhận cái chưa biết và cái đã biết có những nét tương
tự nhau” [28, tr.66]. Ngược lại, lập luận bằng cách “so sánh tương phản là
cách lập luận theo kiểu đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác trong sự
tương phản lẫn nhau nhằm khẳng định một trong hai đối tượng cần hướng
tới”[29, tr.67]. Cách hiểu như vậy về lập luận so sánh của các tác giả có phần
cụ thể hơn về so sánh trong văn nghị luận.
Cũng cách hiểu về so sánh, Sách giáo khoa Làm Văn 12 do Trần Đình
Sử(chủ biên) chương trình CCGD, cũng đưa ra cách luận chứng trong văn
nghị luận bằng cách: “so sánh tương đồng là từ một chân lí đã biết suy ra một
chân lí tương tự, có chung một lôgic bên trong, so sánh tương phản là đối
chiếu các mặt đối lập nhau để làm nổi bật luận điểm” [45,tr.17-18].
Trong giáo trình Làm văn của Lê A- Đình Cao quan niệm “tính chất cơ
bản của phương pháp so sánh là đối chiếu một cách tường minh các đối
tượng, các sự kiện, các vấn đề để phát hiện ra những nét giống nhau và khác
nhau giữa chúng”[3,tr.221] và “thực chất của nội dung so sánh là phân tích
(phân tích bằng cách đối sánh, đặt sóng đôi) hai đối tượng, hai vấn đề,
thường là đối chiếu vật không biết hoặc ít biết với một sự vật quen thuộc cốt
làm cho ý nghĩa của chúng rõ hơn, dễ nhận biết hơn” [3, tr.222]. Yêu cầu cơ
bản của phép so sánh này là tính chính xác, chúng phải nằm trong một phạm
trù, một bản chất tự nhiên nào đó, nếu không sự so sánh sẽ không có giá trị.
Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Lưu Đức Hạnh trong
cuốn “ Muốn viết được bài văn hay” nhấn mạnh: “so sánh là một biện pháp
hết sức cần thiết trong văn nghị luận. Một mặt nó làm sáng tỏ vấn đề đang
nghị luận, mặt khác nó chứng tỏ người viết có kiến thức phong phú, rộng
6
rãi”. Tuy nhiên, các tác giả cũng cho rằng “nếu căn cứ vào hình thức nghị
luận để chia ra các kiểu bài thì so sánh cũng là kiểu bài tương đương với
chứng minh, giải thích, bình luận…Bởi vì so sánh văn học không đơn thuần
chỉ là một thao tác tư duy lôgic mà trên cơ sở của thao tác nó phát triển
thành nghị luận, tức hàm chứa trong nó nhiều thao tác nhỏ nữa như giải
thích, đối chiếu, liên hệ…”.Từ sự phân tích trên, các tác giả cho rằng “phân
chia kiểu bài nghị luận theo thao tác( cho dù là thao tác nghị luận) là phức
tạp” [27, tr.16-17].
Cuốn Làm văn của Lê A- Nguyến Trí cũng nhấn mạnh: “Phân chia các
kiểu bài văn nghị luận có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng trên thực tế cơ sở lí
thuyết phân thành các kiểu bài đó là dựa trên thao tác tư duy” [6,tr.142].
Theo các tác giả, việc chia các kiểu bài chỉ dựa vào các thao tác nghị luận chủ
yếu là chưa thoả đáng. Sự phân chia này giúp học sinh dễ nhận biết bản chất
từng thao tác cụ thể, nhưng lại khiến cho các em có cách hiểu bó hẹp, khiên
cưỡng khi làm văn nghị luận. Bởi trong thực tế không có bài làm văn nghị
luận nào chỉ đơn thuần sử dụng một thao tác lập luận mà nó là sự kết hợp
nhiều thao tác lập luận.
Hiện nay, các tác giả sách giáo khoa Ngữ văn biên soạn đã tách các
thao tác lập luận thành từng bài riêng với mục đích giúp học sinh nắm bản
chất từng thao tác lập luận, từ đó có cách hiểu rộng hơn, sâu hơn về mỗi thao
tác, đồng thời giúp các em vận dụng linh hoạt các thao tác này vào quá trình
viết bài làm văn nghị luận.
Trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tác giả Lê A- chủ biên phần Làm
văn (bộ cơ bản), Đỗ Ngọc Thống- chủ biên phần Làm văn (bộ nâng cao), đã
thống nhất quan điểm không dựa vào các thao tác lập luận để chia nhỏ văn
bản nghị luận thành nhiều loại: chứng minh, phân tích, bình giảng, bình
luận… và khẳng định mỗi thao tác lập luận có thể sử dụng ở nhiều kiểu bài
7
nghị luận khác nhau, và ở một bài nghị luận có thể sử dụng nhiều thao tác lập
luận khác nhau. Thao tác lập luận so sánh không chỉ có mặt trong các kiểu bài
mà thao tác này còn có mối liên hệ mật thiết với các thao tác khác : phân tích,
bác bỏ, bình luận… Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thực tế viết văn lại
vừa tạo điều kiện để luyện tập cho học sinh biết cách sử dụng thao tác lập
luận trong suốt quá trình học văn nghị luận từ THCS đến THPT và ứng dụng
vào việc học tập cũng như cuộc sống sau này.
Cho đến nay, thao tác lập luận so sánh mới chỉ được đề cập mang tính
định hướng chung trong các sách giáo viên (bộ cơ bản và bộ nâng cao) và
trong tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 11- môn Ngữ văn, chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về vấn đề này. Và cũng chưa
có một công trình nghiên cứu nào đưa ra cách rèn luyện thao tác lập luận so
sánh theo hướng tích hợp và tích cực. Thực hiện luận văn này, chúng tôi
nhằm góp phần mở ra một hướng tiếp cận mới trong quá trình dạy học thao
tác lập luận, mà cụ thể là rèn luyện “thao tác lập luận so sánh” trong SGK
Ngữ văn 11.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh
lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực” nhằm xây dựng cơ sở lí thuyết và
thực tiễn của thao tác lập luận so sánh. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất cách
thức tổ chức dạy học theo hướng thích hợp, tích cực nhằm nâng cao định
hướng dạy học văn nghị luận nói chung và thao tác lập luận nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học
sinh lớp 11 theo hướng tích hợp và tích cực” nhằm giải quyết những
nhiệm vụ sau:
8
- Tìm hiểu, xác định cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho việc dạy học thao
tác lập luận so sánh.
- Đề xuất nội dung, cách tổ chức dạy học thao tác lập luận so sánh ở
lớp 11 thông qua bài thiết kế.
- Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của những đề xuất trong
luận văn đã đề ra.
4. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu quá trình dạy và học thao tác lập
luận so sánh cho học sinh lớp 11.
Phạm vi: các bài học thao tác lập luận so sánh và các bài có quan hệ với
bài học này như: thao tác lập luận so sánh, luyện tập thao tác lập luận so sánh,
luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh, bài làm
văn số 2, 3.. Giới hạn chủ yếu nghiên cứu dạy học thao tác lập luận so sánh
theo sách giáo khoa lớp 11- chương trình chuẩn, có liên hệ với chương trình
sách giáo khoa 11- nâng cao.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện thao tác lập luận so sánh cho học sinh
lớp 11 theo quan điểm tích hợp và tích cực” chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Đây là một trong những phương pháp của toán học. Chúng tôi sử dụng
phương pháp này để xử lí các số liệu thu thập được trong quá trình điều tra
thực nghiệm.
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát
Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu việc giảng dạy và học
tập, rèn luyện kĩ năng so sánh trong văn nghị luận cho học sinh lớp 11. Qua
đó nắm được thực trạng dạy- học Làm văn ở trường THPT. Từ đó nghiên cứu
9
đề tài một cách tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Làm văn ở nhà
trường THPT.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này được thực hiện ở một số phương diện sau:
- Xây dựng cơ sở thực nghiệm sư phạm thông qua các bài thiết kế nội
dung dạy học. Cơ sở thực nghiệm được xác định dựa vào các tri thức về giáo
dục, tâm lý, về trình độ nhận thức của từng đối tượng và căn cứ vào hệ thống
tri thức về thao tác lập luận so sánh trong chương trình Ngữ văn lớp 11.
- Tổ chức thực hiện giảng dạy ở trường phổ thông.
- Thông qua quá trình thực hiện giảng dạy, đánh giá nhận thức của học
sinh từ đó đưa ra một số đề xuất về việc giảng dạy các thao tác lập luận
trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, đồng thời khẳng định mức độ thành công
của đề tài.
6. Bố cục của luận văn
Để triển khai nội dung nghiên cứu chúng tôi chia luận văn thành 3
phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Phần mở đầu luận văn trình bày những nội dung cơ bản có tính định
hướng trong việc nghiên cứu nội dung đề tài là: lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề,
đối tượng - phạm vi nghiên cứu, mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu. Ngoài ra trong phần mở đầu, chúng tôi còn giới thiệu về bố cục của
luận văn, qua đó đánh giá tầm quan trọng của việc nghiên cứu đề tài này.
Phần nội dung của luận văn được triển khai trong 3 chương, trong đó
mỗi chương được chúng tôi trình bày các phương diện khác nhau của đề tài.
Cụ thể:
Chương 1: Tập trung trình bày cơ sở lí luận về so sánh, thao tác lập
luận so sánh trong văn nghị luận và những vấn đề cơ bản nhất của thao tác lập
luận so sánh trong văn nghị luận.
10
Chương 2: căn cứ vào cơ sở lí luận về thao tác lập luận so sánh đã được
trình bày ở chương 1, triển khai nội dung rèn luyện về thao tác lập luận so
sánh trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Qua đó chúng tôi xây dựng quy
trình về dạy học thao tác này qua bài học cụ thể về thao tác lập luận so sánh
trong SGK Ngữ văn 11.
Chương 3: sau khi đã trình bày những vấn đề cơ bản của việc tổ chức
dạy học về thao tác lập luận so sánh, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm
thao tác lập luận so sánh và bài luyện tập thao tác lập luận so sánh trong sách
giáo khoa Ngữ văn lớp 11. Thông qua việc tổ chức thực nghiệm, chúng tôi
đánh giá việc triển khai dạy học, thái độ học tập và nhận thức của học sinh,
đồng thời cũng đánh giá việc sử dụng thao tác lập luận của học sinh khi các
em tạo lập văn bản nghị luận.
Tiếp nối phần nội dung là phần kết luận của luận văn. Đây chính là nội
dung cuối cùng của luận văn. Trong phần này, chúng tôi khái quát lại hệ
thống vấn đề đã được triển khai trong các phần trên và qua đó chúng tôi trình
bày một số đề xuất cho việc dạy thao tác lập luận so sánh ở sách giáo khoa
Ngữ văn lớp 11.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
SO SÁNH VÀ THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH
TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
1.1. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC CỦA TƯ DUY
1.1.1. Khái niệm về thao tác
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì thao tác
được định nghĩa như sau:“thực hiện những động tác nhất định để làm một
việc gì đó trong sản xuất” [30, tr.917].
Trong tâm lí học, thao tác được xem là hệ thống những hành động
trong tư duy. Thao tác chính là cốt lõi của các cách thức hành động bị quy
định và phụ thuộc chặt chẽ bởi phương tiện, điều kiện cụ thể.
Thao tác là một yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động của con
người. Nó nảy sinh từ nhu cầu hành động của con người. Nhu cầu ấy chi phối
tới việc xác định hành động nhu thế nào để đạt được những mục đích cụ thể,
hành động đó nhằm đạt được những nhiệm vụ gì. Thao tác là cách để làm nên
nội dung hành động. Vì vậy, nó là yếu tố có tính chất cơ động, kĩ thuật, có thể
lắp ghép trong các chuỗi hành động miễn sao nó phù hợp với mục đích thực
hiện hành động đó.
1.1.2. Khái niệm chung về tư duy
Trong thực tiễn cuộc sống, có rất nhiều cái mà ta chưa biết, chưa hiểu.
Song để làm chủ được thực tiễn, con người cần phải hiểu thấu đáo những cái
chưa biết đó, phải vạch ra cái bản chất, mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật
của chúng. Quá trình đó gọi là tư duy.
“Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan mà trước đó ta chưa biết” [49, tr.106].
12
Như vậy, tư duy chính là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu
vào bản chất và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức
như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí.
Thuộc mức độ nhận thức cao- nhận thức lí tính, tư duy có những đặc
điểm cơ bản: tính “có vấn đề” của tư duy, tính gián tiếp của tư duy, tính trừu
tượng hoá và khái quát hoá, tư duy có quan hệ chặt chẽ tới ngôn ngữ và có
quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính.
Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đấy
nảy sinh trong nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Từ khi chủ thể gặp “tình
huống có vấn đề”, nhận thức được vấn đề đến khi giả quyết được vấn đề là một
quá trình bao gồm nhiều giai đoạn. Nhà tâm lí học K.K. Platônôp đã tóm tắt các
giai đoạn của một quá trình tư duy bằng sơ đồ dưới đây:
Nhận thức vấn đề
Xuât hiện các liên tưởng
Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết
Chính xác hoá Khẳng định Phủ định
Giải quyết vấn đề Hành động tư duy mới
Đây chính là logic của tư duy. Số lượng các giai đoạn có thể không cần
đầy đủ trong những trường hợp nhất định, nhưng thứ tự các giai đoạn phải
tuân thủ theo sơ đồ trên.
13
Tính giai đoạn của tư duy chỉ phản ánh được mặt bên ngoài, cấu trúc
bên ngoài của tư duy, còn nội dung bên trong mỗi giai đoạn của quá trình tư
duy lại là một quá trình phức tạp, diễn ra trên cơ sở của các thao tác tư duy
đặc biệt.
Xét về bản chất, tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác
trí tuệ để giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ được đặt ra. Cá nhân có tư duy hay
không chính là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác tư duy trong đầu mình hay
không. Các thao tác tư duy cơ bản để nhận thức thế giới là: phân tích- tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hoá. Trong đó, các thao tác tư duy
có mối liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau theo một hướng nhất
định, do nhiệm vụ tư duy quy định.
1.1.3. Quan niệm về so sánh trong tư duy lôgic
So sánh vốn là một thao tác cơ bản của tư duy logic. Để tìm hiểu về đối
tượng nào đó, xây dựng khái niệm về đối tượng, tìm hiểu đặc điểm và giá trị
của nó thì ta cần phải so sánh. Đó là thao tác trong tư tưởng đem sự vật này
đối chiếu với sự vật khác để thấy sự tương đồng và sự khác biệt giữa chúng.
Thường là đối chiếu một vật không biết hoặc ít biết với một sự vật quen
thuộc, cốt làm cho ý nghĩa của chúng rõ ràng hơn, dễ nhận biết hơn. Đây là
thao tác thúc đẩy quá trình vận động của tư duy để tìm ra cái mới.
Nói cách khác, so sánh thực ra là phân tích (phân tích bằng cách đặt
sóng đôi) hai đối tượng, hai vấn đề trên cơ sở sự giống và khác nhau giữa
chúng. Ví dụ trong hoá học có so sánh hai loại khí oxi và nitơ, trong sinh học
so sánh cây một lá mầm và cây hai lá mầm, trong cuộc sống có so sánh người
tốt- xấu, cao thấp, gầy béo…
So sánh các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan để tìm hiểu sâu
sắc xem chúng có điểm tương đồng nào đó nhằm tìm ra cái chung và cái riêng
của các sự vật, hiện tượng, tức là người ta đem sự vật này ra đặt sóng đôi với
14
sự vật khác, đối chiếu chúng với nhau, phân tích kĩ từng sự vật, hiện tượng,
tìm hiểu, khám phá chúng, dùng trí óc để tìm hiểu xem các sự vật, hiện tượng
đem ra so sánh có điểm chung nào đấy về thuộc tính bên ngoài hay về bản
chất bên trong. Muốn như vậy thì phải tiến hành phân tích, chia nhỏ đối tượng
đem ra so sánh, nghiên cứu chúng trong sự thống nhất hoàn chỉnh các dấu
hiệu có quan hệ qua lại với nhau, tìm các mối liên hệ và sự phụ thuộc của
chúng, tìm sự giống nhau và khác biệt của các mối quan hệ, từ đó đưa ra kết
luận về điểm tương đồng và dị biệt của các dấu hiệu được so sánh.
Xuất phát từ những nghiên cứu dựa trên cơ sở tính khoa học, lôgic học
đã đưa một định nghĩa khái quát về so sánh như sau: “So sánh là thao tác
lôgic nhờ đó nêu lên được dấu hiệu của đối tượng bằng cách chỉ ra dấu hiệu
tương tự với dấu hiệu ấy trong dấu hiệu khác đã biết là đối tượng đặc trưng
nhất” [14, tr40]. Với quan niệm như vậy, so sánh có nghĩa là quá trình chia
tách các đối tượng, đặt chúng song song, nghiên cứu kĩ chúng, trên cơ sở dấu
hiệu đặc trưng đã biết của sự vật, hiện tượng, tìm dấu hiệu tương tự với nó ở
sự vật, hiện tượng khác, từ đó tìm ra cái chung, cái riêng của các sự vật, hiện
tượng được so sánh.
Như vậy, cấu trúc của so sánh theo so sánh lôgic thường có hai vế “cái
so sánh” và “cái được so sánh”, có “từ” chỉ quan hệ so sánh. Ngoài ra, trong
so sánh lôgic còn có các tiêu chí so sánh.
Trong so sánh lôgic “cái so sánh” là sự vật, hiện tượng nào đấy có
những dấu hiệu đặc trưng đã biết được đưa ra để làm chuẩn, “cái được so
sánh” là sự vật, hiện tượng chưa biết được đem ra để đối chiếu với những sự
vật, hiện tượng đã biết có những dấu hiệu đó, từ đó tìm ra điểm chung và
điểm riêng, “từ” dùng để so sánh thể hiện quan hệ so sánh thường được diễn
đạt bằng các từ: như, giống như, bằng, hơn, kém…
15
Ví dụ câu: “Mặt con tròn giống như mặt mẹ”. Ở ví dụ này so sánh theo
lôgic có “sự vật được so sánh” là “mặt con”, “sự vật so sánh” là “mặt mẹ”,
“từ chỉ quan hệ so sánh”: “như”, tiêu chí được đem ra so sánh là hình dáng
khuôn mặt “tròn”. Cách so sánh như thế giúp người ta hình dung dễ dàng
khuôn mặt con “tròn” giống với khuôn mặt của mẹ.
Theo lôgic học, muốn so sánh được chính xác và tránh khập khiễng thì
trong quá trình so sánh phải dựa trên cùng một tiêu chí, chung một bình diện
thì so sánh mới cụ thể và mới rút ra kết luận được. Ví dụ, trong hóa học khi so
sánh hai loại khí phải lấy tiêu chí phản ứng với chất nào, tác dụng của nó ra
sao, trong sinh học so sánh cây một lá mầm với cây hai lá mầm phải dựa trên
tiêu chí sự sinh trưởng phát triển trong một môi trường nhất định, sự hấp thu
ánh sáng mặt trời…
Như vậy, so sánh trong lôgic có tác động rất lớn tới nhận thức của con
người, nó giúp người ta hình dung ra sự vật một cách dễ dàng hơn bằng việc
lấy một sự vật làm tiêu chí rồi từ đó so với sự vật khác. Nói khác đi, so sánh
theo lôgic làm mới tư duy, làm cho tư duy có hình ảnh.
1.2. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC LẬP LUẬN
1.2.1. Thao tác lập luận
Lập luận là trình bày hệ thống lí lẽ và luận chứng của mình một cách
chặt chẽ, rành mạch, gẫy gọn theo một trật tự hợp lí, đúng với quy luật lôgic
nhằm khẳng định hoặc bênh vực một ý kiến, làm sáng tỏ vấn đề mà người nói,
người viết cho là đúng đắn. Hay nói một cách khác, lập luận là quá trình liên
kết, xâu chuỗi luận điểm, luận cứ nhằm làm rõ luận đề theo một chính kiến,
một quan niệm nhất định để người đọc hiểu, tin ở những kết luận mà người
viết muốn dẫn người đọc đến. Lập luận là sản phẩm của tư duy lôgic, do vậy
lập luận phải có lí lẽ, bằng chứng thuyết phục, lại phải biết trình bày, dẫn dắt
sao cho lập luận chặt chẽ, thuyết phục, mặt khác lập luận phải có đích, đích
16
của lập luận là tìm ra những chân lí mới, rút những tri thức này từ những tri
thức khác, là con đường đi đến nhận thức chân lí một cách khoa học.
Lập luận trong văn nghị luận ngoài có các yếu tố luận điểm, luận cứ,
luận chứng, còn có cách lập luận, phương pháp lập luận. Trong đó luận điểm
chính là ý kiến xác định của người viết về vấn đề đặt ra. Luận cứ là các tài
liệu dùng làm cơ sở cho việc thuyết minh cho luận điểm. Còn luận chứng là
sự phối hợp, tổ chức các lí lẽ và dẫn chứng để thuyết minh cho luận điểm,
thực chất đây chính là cách đưa luận cứ vào quỹ đạo lôgic để tạo thành sức
thuyết phục của luận điểm.
Để lập luận, người ta phải sử dụng các thao tác lập luận. Đặc điểm của
thao tác này là người viết sử dụng ngôn ngữ để nêu sự thực, trình bày lí lẽ và
qua đó đánh giá sự đúng- sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các kiến giải, phát
biểu ý kiến, thể hiện rõ lập trường quan điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ
được người viết thể hiện thông qua cac phương thức tư duy lôgic như khái
niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt được mục đích khiến
người đọc tin theo. Vậy thao tác lập luận chính là thao tác được sử dụng để
thực hiện một hành động lập luận. Nói cách khác, thao tác lập luận là những
động tác được thực hiện theo trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong
hoạt động lập luận.
Khi lập luận người ta có thể dùng nhiều thao tác: chứng minh, giải
thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Các thao tác này học sinh được
học cặn kẽ trong nhà trường từ cấp THCS đến cấp THPT.
1.2.2. Thao tác lập luận so sánh
Trong viết văn nghị luận, người ta thường hay sử dụng thao tác lập luận
so sánh để làm sáng rõ, vững chắc thêm luận điểm của mình. Để hướng tới
kết luận (tức là một luận điểm nào đấy trong bài văn nghị luận: một ý kiến,
một nhận định về đối tượng nghị luận), người ta thường so sánh với một hoặc
17
nhiều đối tượng khác trên cơ sở một nét tương đồng nào đấy. Thông qua so
sánh, những đặc điểm tương đồng hoặc khác biệt của đối tượng nghị luận với
đối tượng so sánh được thể hiện bằng sự phân tích, lí giải. Kết quả là, người
đọc, người nghe nắm được, hiểu và công nhận tính đúng đắn của ý kiến, nhận
định ( kết luận của lập luận) mà người viết, người nói hướng tới.
Trong văn nghị luận thường có hai cách lập luận so sánh là: so sánh
tương đồng và so sánh tương phản.
Lập luận bằng cách so sánh tương đồng là cách lập trình bày hệ thống lí
lẽ chặt chẽ, rành mạch bằng cách đối chiếu đối tượng đem ra bàn luận này bên
đối tượng khác, vấn đề này bên vấn đề khác trên cơ sở có chung một số nét
đồng nhất hay tương tự mà người đọc đã hoặc dễ chấp nhận để làm nổi bật
vấn đề cần lập luận, làm cho ý nghĩa của nó thêm bộc lộ rõ nét. Lập luận bằng
so sánh tương đồng không có sự đối lập giữa các ý, trái lại các ý nâng đỡ
nhau, thuyết minh làm sáng rõ nghĩa cho nhau. Ví dụ: “Nếu ví dư luận của
giới văn học như một dòng nước thì Vũ Trọng Phụng như một vật nổi trong
một dòng xoáy của nó. Vật nổi này cứ nổi dập dềnh, có khi chìm sâu xuống
tưởng như mất tăm, ấy thế mà cuối cùng lại hiện lên, từ tốn, lặng lẽ theo đúng
quy luật Acsimet”. So sánh tương đồng ở đây đã nêu bật thân phận đầy long
đong, sóng gió của sự nghiệp văn chương Vũ Trọng Phụng như một vật nổi
trong dòng nước xoáy. Lập luận so sánh dựa trên sự tương đồng giữa hai đối
tượng: Tình trạng trôi nổi, dập dềnh và số phận thăng trầm lận đận của nhà
văn. Cách so sánh này giúp tác giả thuyết minh sáng tỏ và gợi cảm cái nét bản
chất của đối tượng và nhấn mạnh, tô đậm ý kiến nhận định của mình về nhà
văn hiện thực Vũ Trọng Phụng.
Lập luận bằng cách so sánh tương phản (đối lập) là cách lập luận theo
kiểu đối chiếu đối tượng này với đối tượng khác trong sự tương phản lẫn n._.hau
để nhằm khẳng định một trong hai đối tượng mà lập luận hướng tới. Chẳng
18
hạn: “Các cụ ưa chuộng những màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh
nhạt…Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà
lúc đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như là một việc
tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì
chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say
đắm, cái tình thoảng qua, các tình gần gụi, cái tình xa xôi…, cái tình trong
giây phút, cái tình ngàn thu”. Cách so sánh bằng lập luận dựa trên sự đối
chiếu các mặt trái ngược nhau giữa quan điểm “thơ cũ” và “thơ mới”, tác giả
nhằm bênh vực cho “thơ mới” diễn đạt những tình cảm mới mang màu sắc
của thời đại.
Như vậy, mục đích của so sánh là làm sáng rõ đối tượng đang nghiên
cứu trong tương quan với đối tượng khác. So sánh giúp cho người viết văn
nghị luận triển khai và phát triển luận điểm một cách thuận lợi và nổi bật, so
sánh đúng còn làm cho bài văn nghị luận thêm sáng rõ, cụ thể, sinh động và
giàu sức thuyết phục.
Thao tác lập luận so sánh trong văn nghị luận về cơ bản gần giống với
thao tác so sánh trong lôgic, tức là đem đối chiếu trong tư tưởng hai hay nhiều
sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng để thấy
được sự giống nhau và khác nhau giữa chúng. Và như vậy thao tác lập luận so
sánh cũng có “cái được đem ra so sánh”, “cái so sánh”, tiêu chí so sánh, quan
trọng hơn đó là sự tác động vào nhận thức của con người. Song thao tác lập
luận so sánh thiên về mặt lập luận nhằm làm cho người đọc, người nghe hiểu
sâu sắc hơn về đối tượng bàn luận, dẫn đến một kết luận, một nhận định nào
đấy, tin và tán đồng với kết luận đưa ra. Nói cách khác so sánh trong lập luận
cần phải đi đôi với nhận xét, đánh giá thì sự so sánh đó mới trở nên sâu sắc.
Ngược lại, nhận xét, đánh giá phải dựa trên sự so sánh thì nhận xét đó mới có
cơ sở, có sức thuyết phục.
19
Ví dụ: “Yêu người, đó là một truyền thống cũ. “Chinh phụ ngâm”,
“Cung oán ngâm khúc” đã nói đến con người. Nhưng dù sao cũng mới bàn
đến một hạng người. Với “Kiều”, Nguyễn Du đã nói đến cả xã hội loài người.
Với “Chiêu hồn” thì cả loài người được bàn đến […]. “Chiêu hồn” con
người trong cái chết. “Chiêu hồn” con người trong từng giới, từng loài, “mười
loài là những loài nào” với những nét cộng đồng phổ biến, điển hình của từng
loài một”[…].
Tôi muốn nói đến bài văn “Chiêu hồn”, một tác phẩm có một không hai
trong nền văn học chúng ta. (Nghĩ mà xem, trước “Chiêu hồn” chưa hề có bài
văn nào đem cái “run rẩy mới” ấy vào văn học. Sau “Chiêu hồn” lại càng
không.) Nếu “Truyện Kiều” nâng cao lịch sử thơ ca thì “Chiêu hồn” đã mở
rộng địa dư của nó qua một vùng xưa nay ít ai động tới: cõi chết [37, tr.79].
Trong ví dụ trên, để thực hiện thao tác lập luận so sánh, tác giả dựa
trên tiêu chí chung về lòng yêu thương người trong văn học Việt Nam, nhưng
để nêu bật ý kiến của mình về lòng yêu thương con người của Nguyễn Du
trong văn “Chiêu hồn”, tác giả so sánh với những tác phẩm cùng nói về đề tài
này: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều.
Chinh phụ ngâm khúc, cung oán ngâm khúc nói về một lớp người:
người phụ nữ có chồng đi chinh chiến xa, người cung nữ bị nhà vua lạnh nhạt.
Truyện Kiều nói đến một xã hội: từ tài tử gia nhân đến bọn lưu manh
gian ác, từ quan võ đến quan văn, từ đại thần đến thư lại, lính tráng…
Đến chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh), ta thấy cả loài người lúc
còn sống cũng như lúc chết.
Từ cách so sánh như trên, ý kiến của tác giả về “Chiêu hồn” của
Nguyễn Du mở rộng địa dư lòng yêu thương người cụ thể hơn, sinh động hơn,
thuyết phục hơn.
20
Trong thực tế cần phân biệt so sánh với tư cách là một thao tác lập luận
với so sánh tu từ:
Cả hai cách này đều tương đối giống nhau về cấu tạo và mục đích nhận
thức nhưng so sánh tu từ thiên về diễn đạt, mang tính hình tượng, tính sinh
động, cụ thể cho lời văn và ít có giá trị về mặt lập luận. Những so sánh tu từ
thường tạo nên cách nói bất ngờ, cách thể hiện độc đáo và có hiệu quả diễn
đạt cao. Ví dụ:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Ở đây, Nguyễn Du đã so sánh tiếng đàn của Thuý Kiều với những cung
bậc của cuộc sống, của thiên nhiên nhằm làm nổi bật tài năng của nàng.
So sánh với tư cách là một thao tác lập luận nhằm đối chiếu hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng hoặc là các mặt trong cùng một sự vật nhưng không
cốt tìm ra cái đồng nhất và khác biệt mà làm sáng tỏ đặc điểm và giá trị của
một sự vật, hiện tượng, ý kiến được đem ra bàn luận. Như vậy so sánh với tư
cách là một thao tác lập luận có giá trị lập luận, tác động vào ý chí của người
đọc người nghe làm cho người đọc, người nghe hiểu, tin, tán đồng với những
ý kiến được đem ra bàn luận. Ví dụ: “Bài ca của Nguyễn Đình Chiểu làm
chúng ta nhớ tới bài Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi. Hai bài văn: hai
cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Bài cáo của Nguyễn Trãi là khúc
ca khải hoàn, ca ngợi chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến
thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những
người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang: “Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc…muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. Lập luận so sánh chỉ ra sự
21
khác nhau: một bên là khúc ca khải hoàn, ca ngợi chiến công oanh liệt, biểu
dương chiến thắng; một bên là khúc ca của những người anh hùng thất thế
nhưng vẫn hiên ngang. Lập luận này nhằm làm nổi bật luận điểm đánh giá giá
trị của hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH VỚI CÁC
THAO TÁC LẬP LUẬN KHÁC
Trong quá trình làm văn nghị luận, thao tác lập luận so sánh không bao
giờ đứng độc lập, tách biệt mà luôn có sự kết hợp với các thao tác lập luận
khác như: chứng minh, giải thích, phân tích, bác bỏ, bình luận.
1.3.1. Quan hệ với thao tác lập luận chứng minh, giải thích
Để chứng minh một vấn đề ta cần dùng đến lí lẽ và dẫn chứng để minh
hoạ, xác nhận, khẳng định, bênh vực chắc chắn sự đúng đắn của một ý kiến,
một nhận định, một vấn đề. Để làm nổi bật vấn đề trong chứng minh đôi khi
người ta lấy dẫn chứng giống như vấn đề rồi dùng cách so sánh nó với nhau
để dễ nhận biết vấn đề hơn. Tương tự, khi giải thích một vấn đề, người ta
dùng lí lẽ là chủ yếu và dẫn chứng để cắt nghĩa, giảng giải, phân tích sâu, so
sánh làm sinh động vấn đề, từ đó dễ nhận biết và hiểu vấn đề một cách sâu
sắc hơn. Ví dụ: “Thanh Tâm Tài Nhân nói đến Từ Hải trong mấy trang, mười
phần bỏ đi tám. Tuy thế, trong Nguyễn Du có những điều trong Thanh Tâm
tài Nhân không có. Những điều có thể gợi hình ảnh vị anh hùng. Từ Hải cùng
ở với Kiều năm tháng rồi biệt Kiều mà đi. Thanh Tâm Tài Nhân chỉ nói thế.
Nguyễn Du nói kĩ hơn:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phuơng. Con người này quả không
phải là người của một nhà, một họ, một xóm hay một làng. con người này là
22
trời đất, của bốn phương. Một người như thế lúc đi ắt không thể đi một cách
tầm thường như Thanh Tâm Tài Nhân tưởng. Ta hãy xem Nguyễn Du tả lúc
Từ Hải ra đi:
Trông vời bốn bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Về sau, khi Từ Hải đã đắc chí, Kiều nhắc lại chuyện oan khuất ngày
trước, Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân nói: “Có khó gì việc đấy. Để ta điểm
năm … quân quét sạch dất Lâm Truy trả thù cho phu nhân”. Nguyễn Du
không lấy lại câu nói này nhưng Nguyễn Du tả cái giận của Từ Hải:
Từ công nghe nói thuỷ chung
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.”
[5, tr.370]
Đoạn văn trên đã sử dụng sự kết hợp thao tác lập luận giải thích Từ Hải
của Nguyễn Du có những điều mà Từ Hải của Thanh Tâm Tài Nhân không
có, chứng minh bằng việc trích dẫn văn xuôi tự sự trong tiểu thuyết của
Thanh Tâm tài Nhân với thơ lục bát của Nguyễn Du, kết hợp với so sánh hai
nhân vật làm nổi bật vấn đề cần lập luận: Nguyễn Du đã biến Từ Hải trở
thành một bậc anh hùng xuất chúng.
1.3.2. Quan hệ với thao tác lập luận phân tích
Trong thực tế làm văn hiếm có bài làm văn nào sử dụng một thao tác
lập luận trọn vẹn. Trong một bài văn thường có sự kết hợp các thao tác lập
luận với nhau để bài văn sinh động. Thao tác lập luận phân tích thường kết
hợp với thao tác lập luận so sánh khi làm sáng tỏ vấn đề nào đó bằng lập
luận.Trong quá trình nhận thức của con người, để tìm được sự giống nhau và
khác nhau giữa các đối tượng cần phải tiến hành phân tích đối tượng đó ra
thành từng yếu tố, từng bộ phận rồi mới có thể đem chúng ra để so sánh, để
đánh giá, nhận xét. So sánh giúp cho sự phân tích thêm sáng rõ, dễ tiếp nhận
23
hơn. Phân tích đến lượt mình, lại khiến những nét chung và riêng của các đối
tượng so sánh hiện lên rõ ràng, đầy đủ và rành mạch, nhờ đó bản chất và đặc
điểm của đối tượng trở nên nổi bật hơn.
Ví dụ: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ làm được việc, có kinh
nghiệm […]. Nhưng họ lại mắc bệnh khinh lí luận. […]. Có kinh nghiệm mà
không có lí luận, cũng như có một mắt sáng và một mắt mờ. Những anh em
cần phải nghiên cứu thêm lí luận, mới thành cán bộ hoàn toàn. Có những
người xem được sách, xem nhiều sách. Siêng xem sách và xem nhiều sách là
một công việc đáng quý. Như thế khong phải là đã biết lí luận. Lí luận cốt là
để áp dụng vào thực tế. Lí luận mà không được áp dụng vào thực tế là lí luận
suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lí luận, nếu không biết đem
ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách.[…]. Nói tóm lại, mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên phải học lí luận, phải đem lí luận áp dụng vào công việc
thực tế. Phải chữa bệnh kém lí luận, khinh lí luận và lí luận suông .[5, tr.384].
Đoạn trích trên đã sử dụng thành công sự kết hợp thao tác lập luận phân
tích và thao tác lập luận so sánh. Tác giả nêu ra căn bệnh “khinh lí luận” của
một số cán bộ, đảng viên cũ và phân tích căn bệnh này bằng cách nêu ra các
luận điểm so sánh rất hình tượng: “có kinh nghiệm mà không có lí luận cũng
như một mắt sáng và một mắt mờ”, “biết hàng vạn quyển lí luận, nếu không
biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”. Sự kết hợp này
làm cho luận điểm trở nên sáng rõ, có sức thuyết phục hơn.
1.3.3. Quan hệ với thao tác lập luận bác bỏ
Cũng trong đời sống cho thấy, nhiều khi ta bắt gặp những ý kiến sai lầm,
những lời nói, bài viết không chính xác, bộc lộ những cách hiểu lệch lạc, không
nhất quán… Đứng trước những tình huống đó, chúng ta tiến hành trao đổi,
tranh luận, so sánh với những cách hiểu đúng đắn, cách nhận thức nhất quán đã
được công nhận từ đó có quan điểm đồng tình hay bác bỏ. Khi bác bỏ cũng
24
phải có lí lẽ để giải thích và đưa những dẫn chứng đúng đắn, khoa học để chỉ rõ
những sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, ý kiến nào đó. Có
như vậy vấn đề được đưa ra nghị luận mới sâu sắc, giàu sức thuyết phục.
Ta hãy xem một ví dụ Lênin nêu ra khi phê phán một tên cơ hội trong
nội bộ đảng Cộng sản Italia: “Nói đến Sailati, chỉ có thể ví nó với một quả
trứng thối, lúc vỡ ra, một mùi…làm ngạt mũi bốc lên. Thoạt tiên, tại đại hội
của mình, y đề nghị thông qua một quyết nghị sẵn sàng phục tùng đại hội
quốc tế cộng sản, nhưng sau lại cử lão già LaChali đến đại hội, cuối cùng thì
lừa gạt công nhân bằng mánh khoé bỉ ổi, thật rõ khéo. Những người cộng sản
ý đang xây dựng một đảng chân chính của giai cấp vô sản cách mạng ở ý giờ
đây sẽ vạch trần trước quần chúng công nhân trò lừa đảo của chính khách
này cùng những dẫn chứng mensevich”[46, tr.218]
Qua ví dụ, để bác bỏ tên lừa đảo về chính trị Sailati, Lênin đã so sánh y
với một quả trứng thối. Cách so sánh này thật khôn khéo và lí thú, nó vừa có
tính hình tượng lại vừa bác bỏ được cách hiểu chưa thống nhất của mọi người
về tên lừa đảo chính trị này.
1.3.4. Quan hệ với thao tác lập luận bình luận
Bình luận là một hoạt động nghị luận nhằm đánh giá và bàn luận về
một hiện tượng (vấn đề) nào đó. Bình luận sinh ra từ sự trao đổi giữa những
người ít nhiều đã biết. Do đó, người viết (người nói) cần đối chiếu ý kiến của
mình với những ý kiến khác cùng về hiện tượng, vấn đề, để có thể đứng về
phía cái đúng, phê phán cái sai, hoặc dung hoà những mặt đúng của hai quan
điểm đối lập, họăc đưa ra một ý kiến hoàn toàn riêng biệt. Như vậy trong bình
luận đã có so sánh, đối chiếu làm sáng rõ vấn đề cần bàn luận. Hoạt động so
sánh làm cho bình luận thêm sâu sắc, sinh động. Đến lượt mình, bình luận
làm cho so sánh phong phú, chính xác, giàu sức thuyết phục hơn.
Hãy xem thí dụ sau: “Tiền bạc giống như một chiếc găng tay. Còn tình
bạn giống như một bàn tay. Một cái thì hữu ích, còn cái kia lại thiết yếu.
25
Trái ngược với điều mọi người thường nghĩ- rằng khái niệm hạnh phúc
thường khó giải thích hoặc hạnh phúc tuỳ thuộc vào việc bạn có của cải nhiều
hay không - các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu và nhận thấy các yếu tố
như số lượng bạn bè, mức độ thân thiết với bạn bè và gia đình cùng mối quan hệ
với đồng nghiệp, hàng xóm hợp lại chiếm tới 70% yếu tố làm nên hạnh phúc.
Nếu bạn muốn biết ai đó có hạnh phúc hay không thì đừng hỏi họ có bao
nhiêu tiền, cũng đừng hỏi thu nhập của học là bao nhiêu mà hãy hỏi về mối quan hệ
của họ với bạn bè. Có được những người bạn tâm giao hay thậm chí chỉ cần một
người bạn hiểu mình thật sự và có thể chia sẻ mọi điều đã là hạnh phúc lắm rồi”.
Đoạn trích trên đã đưa ra lời bàn luận về sự thiết yếu của tình bạn trong cuộc
sống quan trọng hơn là tiền bạc. Để nêu bật điều này, tác giả đã so sánh tình bạn
như một bàn tay, còn tiền bạc chỉ như một chiếc gang tay. Bàn tay thì thiết yếu,
không thể thay thế được, còn tiền bạc thì chỉ hữu ích trong thời điểm nào đó thôi.
Cách lập luận kết hợp thao tác so sánh và bình luận như vậy có tác động rất lớn tới
nhận thức của con người về tầm quan trọng của tình bạn.
Nói tóm lại, dù có vị trí, vai trò khác nhau trong mỗi thao tác lập luận
nhưng thao tác lập luận so sánh luôn gắn liền, song hành cùng với thao các
thao tác đó. Từ đó ta khẳng định, giữa các thao tác lập luận luôn có sự giao
thoa, đan xen với nhau, đôi khi không thể tách bạch chúng ra được.
Trong chương trình Làm văn truyền thống, người ta thường căn cứ vào
các thao tác lập luận chủ yếu để chia ra cá kiểu bài: phân tích, giải thích,
chứng minh, bình luận… Gọi là kiểu bài phân tích, chứng minh, giải thích,
bình luận có nghĩa là gọi theo thao tác chính được sử dụng trong bài nghị
luận. Nhưng trong thực tế tạo lập văn bản nghị luận không thể chỉ sử dụng
một thao tác thuần tuý hoặc chứng minh, hoặc giải thích, hoặc so sánh, hoặc
bình luận… mà phải có sự kết hợp nhiều thao tác với nhau. Thao tác lập luận
so sánh chỉ là một trong số những thao tác được sử dụng trong quá trình tạo
lập văn bản nghị luận, không nên coi đây là một kiểu bài làm văn so sánh.
26
Chương 2
RÈN LUYỆN THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH THEO
QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC
2.1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ DẠY HỌC THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC
2.1.1. Quan điểm dạy học tích hợp
Tích hợp là một trong những xu hướng mới của lí luận dạy học đã được
nhiều nước trên thế giới quan tâm thực hiện. tích hợp được hiểu là “sự phối
kết hợp của các tri thức của một số môn học có những nét chính, tương đồng
vào một lĩnh vực chung, thường là quanh những chủ đề, những kiến thức
nguồn”. Trong giáo dục hiện đại, tích hợp là một “phương hướng nhằm phối
hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học, các phân môn
khác nhau theo những hình thức, mô hình, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng
những mục tiêu, mục đích và yêu cầu cụ thể khác nhau” [1, tr.5].
Tích hợp trong môn Ngữ văn được hiểu là sự kết nối tri thức và kĩ năng
giữa ba phần Văn học - Tiếng Việt - Làm văn và trong từng phần, từng vấn đề
cụ thể. Đó chính là “hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai thác các giá trị của
các tri thức công cụ thuộc từng phân môn trên cơ sở một hoặc một số văn bản
có vai trò như là kiến thức nguồn”.
Môn Ngữ văn tích hợp ba phân môn Văn học - Tiếng Việt và Làm văn
sẽ nâng cao trình độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và năng lực cảm thụ văn học cho
học sinh bản ngữ. hơn nữa ba phân môn này đều là những môn học có tính
chất công cụ và có tính nghệ thuật, liên quan đến việc sử dụng tiếng Việt.
Tích hợp trong Ngữ văn có các hình thức:
Tích hợp ngang: là tích hợp liên môn và là hình thức tích hợp theo từng
thời điểm. Đây là hướng tiếp cận kiến thức từ việc khai thác triệt để mối liên
27
hệ kiến thức giữa các phần Văn bản - Tiếng Việt - Làm văn trong từng đơn vị
bài học (cũng có khi là giữa các bài học với nhau). Tích hợp ngang đưa đến
năng lực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng một cách tổng hợp.
Tích hợp dọc: được hiểu là tích hợp đồng tâm, tích hợp theo từng vấn
đề, từng phân môn. Cụ thể đó là hướng tích hợp theo môi liên hệ (trực tiếp
hoặc gián tiếp) giữa các vấn đề trong từng một bộ môn, giữa các bài học với
nhau trong cùng một lớp, giữa lớp trước và lớp sau, thậm chí giữa cấp học
này với cấp học khác. Thực chất tích hợp dọc là hệ thống hoá các kiến thức có
liên quan với nhau ở những thời điểm thích hợp sao cho học sinh có thể nắm
bắt được vấn đề một cách hệ thống. Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức
được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu nội
dung bài học.
Tĩch hợp mở rộng: được hiểu là sự tích hợp mở rộng kiến thức trong
bài học Ngữ văn với các kiến thức của các bộ môn KHTN (khoa học tự
nhiên)- KHXH (khoa học xã hội), các ngành khoa học, nghệ thuật khác và với
kiến thức đời sống mà học sinh tích luỹ được từ cuộc sống cộng đồng, qua đó
làm giàu thêm vốn hiểu biết và nhân cách học sinh. Những kiến thức liên
ngành thông qua hình thức tích hợp sẽ giúp học sinh có căn cứ, cơ sở để hiểu
rõ nội dung, ý nghĩa văn bản.
2.1.2. Dạy học thao tác lập luận so sánh theo quan điểm tích hợp
2.1.2.1. Định hướng chung về dạy học tích hợp
Việc đổi mới chương trình Ngữ văn 11 theo quan điểm tích hợp đòi hỏi
phải đổi mới về phương pháp dạy học. Không thể vận dụng phương pháp dạy
học tích hợp khi tách rời ba phân môn Văn học - Tiếng Việt - Làm văn. Trước
yêu cầu dạy ba phân môn như một thể thống nhất trong đó mỗi phân môn đều
giữ một bản sắc riêng, đồng thời hoà nhập để hình thành tri thức và kĩ năng
thống nhất đối với học sinh.
28
Vận dụng quan điểm tích hợp không chỉ xuất phát từ mục tiêu môn học
mà còn xuất phát từ bản chất các yếu tố trong quá trình dạy học. Tích hợp vừa
phản ánh được mối quan hệ biện chứng giữa các hiện tượng, đối tượng, sự
việc vừa phải đủ điều kiện đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả dạy học.
Dạy Làm văn nói chung và dạy học “ Thao tác lập luận so sánh” nói
riêng theo hướng tích hợp cần chú ý một số quy định tổng quát sau:
- Dựa vào những đặc điểm chung của phương pháp dạy học theo
hướng tích hợp, người giáo viên đứng lớp phải biết thực hiện mọi yêu cầu
một cách linh hoạt, sáng tạo và điều quan trọng nhất là phải hướng vào mục
tiêu của phần làm văn, của bài làm văn, mục tiêu dạy học Ngữ văn nói chung
để tìm ra yếu tố đồng quy giữa ba phần Văn- Tiếng Việt- Làm văn, để rồi tích
hợp trong từng thời điểm, theo từng vấn đề. Khi dạy học “Thao tác lập luận so
sánh” vừa phải chú ý dạy tri thức, kĩ năng lại vừa phải tìm ra và khai thác
những yếu tố chung giữa ba phần của môn Ngữ văn để góp phần rèn luyện tri
thức, kĩ năng của cả phần Văn học và phần Tiếng. Làm văn chính là sự tổng
hợp của cả Văn và Tiếng, đồng thời còn đòi hỏi sự vận dụng tổng hợp vốn
sống, vốn văn học, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong quá trình tạo lập văn bản,
khả năng hành dụng ngôn ngữ trong cuộc sống.
- Để thực hiện được định hướng dạy học nói trên cần phải biết tách nhỏ
các yêu cầu cầu của dạy học Làm văn một cách khoa học để phối hợp tốt với
Văn và Tiếng. Tuy nhiên, cần tránh dạy học phối hợp một cách máy móc. Khi
dạy cho học sinh cần biết chắt lọc, tránh lặp lại, nên dạy những điều cần thiết
để học sinh tránh phạm lỗi khi sử dụng.
- Quan điểm dạy học tích hợp phải được quán triệt trong mọi khâu của
quá trình dạy học (kể cả khâu đánh giá - cần đánh giá cao những học sinh biết
cách vận dụng kiến thức của phần này tham gia vào quá trình giải quyết vấn
đề khác trong môn Ngữ văn).
29
Với quan điểm về dạy học tích hợp, dạy học thao tác lập luận so sánh
đảm bảo tính tích hợp Văn - Tiếng Việt - Làm văn, chương trình SGK đã
tranh thủ tối đa ngữ liệu có trong phần đọc văn. Ví dụ: dạy bài thao tác lập
luận so sánh có thể cho học sinh so sánh vẻ đẹp của Thuý Vân, Thuý Kiều,
hay cho học sinh tìm hiểu sự giống nhau và khác nhau trong cách thể hiện
niềm tự hào dân tộc qua Nam Quốc Sơn Hà của Lí thường Kiệt và đoạn văn
chính luận đầu bài Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi.
Dạy học thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp cũng có thể
biểu hiện ở việc ra các bài tập các đề làm văn, lấy nội dung được học trong
phần Văn làm đối tượng cho học sinh sử dụng thao tác lập luận so sánh. Ví
dụ: So sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh
Quan qua hai bài thơ “Tự tình”( Bài 1) và “Chiều hôm nhớ nhà”.
Dạy học thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp còn được thể
hiện ngay trong cách biên soạn sách Làm văn: dạy học thao tác lập luận so
sánh không tách riêng độc lập mà gắn với thao tác lập luận trước đó: thao tác
lập luận phân tích, sau đó lại có bài vận dụng kết hợp thao tác lập luận phân
tích và so sánh.
Dạy học thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp yêu cầu người
giáo viên phải có cái nhìn bao quát về tiết dạy trong chương trình Ngữ văn để
xác định mục đích tích hợp, nội dung tích hợp và phương pháp tích hợp.
2.1.2.2. Phương pháp khai thác các đơn vị kiến thức - kĩ năng về thao tác
lập luận so sánh trong quá trình dạy học
Đứng trước một nội dung cụ thể giáo viên phải có một cái nhìn bao
quát về tiết dạy trong chương trình ngữ văn để xác định mục đích tích hợp,
nội dung tích hợp, phương pháp tích hợp.
a. Xác định mục đích tích hợp
Khi dạy học thao tác lập luận so sánh, giáo viên cần bám sát vào mục
tiêu bài học, để từ đó xác định mục đích tích hợp cụ thể cho bài học.Ví dụ khi
30
hình thành khái niệm so sánh, lập luận so sánh, giáo viên có thể tích hợp với
bài “So sánh”- chương trình SGK Ngữ văn 6 (tập 2), bài “Lập luận trong văn
nghị luận”, “Các thao tác nghị luận” ở SGK ngữ văn 10, bài “Thao tác lập
luận phân tích”, bài “Luyện tập vận dụng thao tác lập luận phân tích và so
sánh” (SGK Ngữ văn lớp 11)
b. Tìm vấn đề tích hợp
Trên cơ sở mục đích tích hợp, giáo viên sẽ xác định nội dung tích hợp
sao cho phù hợp, tránh khiên cưỡng. Cần biết lựa chọn các khía cạnh để tích
hợp, không rơi vào tình trạng lan man, làm lu mờ đặc trưng của thao tác lập
luận so sánh. Ví dụ, khi hình thành khái niệm về so sánh, giáo viên căn cứ vào
những tri thức học sinh đã biết về so sánh ở THCS, giúp các em củng cố lại
kiến thức về so sánh, đặc điểm của lập luận so sánh, cách so sánh, mối quan
hệ giữa so sánh với phân tích, tổng hợp. Như vậy, kiến thức, kĩ năng của học
sinh về so sánh đã tăng lên một cách rõ rệt, có cơ sở chắc chắn.
Tích hợp với kiến thức sẽ dạy: trước bài thao tác lập luận so sánh là bài
thao tác lập luận phân tích, tiếp sau bài thao tác lập luận so sánh các em sẽ
học hai thao tác lập luận: thao tác lập luận bác bỏ, thao tác lập luận bình luận.
Nếu các em biết kết hợp vận dụng tốt các thao tác này thì sẽ rất tốt cho việc
làm văn của các em.
c. Xác định mức độ tích hợp
Mức độ tích hợp được xác định trên cơ sở nội dung tích hợp. Chọn
được nội dung tích hợp phù hợp sẽ xác định được mức độ tích hợp. Vấn đề
đặt ra là: chọn nội dung nào để tích hợp? Tích hợp đến đâu là vừa phải?
Không nhất thiết là nội dung nào cũng tích hợp. Cần tránh khuynh hướng quá
tải hoặc lặp lại, khiến cho mất đi đặc trưng của từng phân môn.
31
d. Chọn thời điểm tích hợp
Nội dung tích hợp quan hệ chặt chẽ với mức độ và thời điểm tích hợp,
nghĩa là phải tích hợp đúng lúc, đúng chỗ. Khi có nội dung tích hợp thì cũng
là lúc xuất hiện thời điểm tích hợp. Tích hợp trong từng thời điểm (1 tiết học,
1 bài học là tích hợp ngang. Còn tích hợp theo từng chủ đề là tích hợp dọc).
Với bài thao tác lập luận so sánh thì chúng tôi sử dụng cả tích hợp dọc và tích
hợp ngang.
2.1.2.3. Cách thức tích hợp
Chọn cách thức tích hợp phụ thuộc vào nội dung, mức độ, thời điểm
tích hợp và năng lực sư phạm của người giáo viên. Giáo viên có thể sử dụng
một số cách tích hợp sau:
- Tích hợp thông qua câu hỏi chứa đựng nội dung tích hợp.
- Tích hợp thông qua lời giảng bình của giáo viên về nội dung liên
quan đến ba phần trong môn ngữ văn
- Tích hợp thông qua nội dung bài tập về nhà. Sau khi học xong bài,
giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để rèn luyện kĩ năng tạo lập
văn bản nghị luận.
Tóm lại, khi dạy học theo hướng tích hợp, người giáo viên phải có cái
nhìn tổng thể về mục tiêu, chương trình, SGK, phương pháp giảng dạy bộ
môn trên tinh thần tích hợp… nghĩa là phải có tư duy tích hợp.
2.1.3. Quan điểm dạy học tích cực
Dạy học tích cực hướng tới hoạt động hoá, tích cực hoá hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy. Để dạy học theo phương pháp tích cực thì dạy học phải có sự hợp tác của
cả thày và trò, phối hợp hoạt động dạy và hoạt động học mới đạt được hiệu
quả. Theo tinh thần đó, người ta còn dùng thuật ngữ “dạy và học tích cực”
32
phân biệt với “dạy và học thụ động”. Thuật ngữ rút gọn “phương pháp tích
cực” hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp học.
Dạy học tích cực phân biệt với dạy học thụ động ở những đặc trưng sau:
- Dạy học thông qua tổ chức của học sinh:
Trong phương pháp tích cực người học- đối tượng của hoạt động dạy,
đồng thời là chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động học
tập do giáo viên tổ chức, chỉ đạo, thông qua đó học sinh tự lực khám phá những
điều còn chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo
viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học
trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết những vấn đề đặt ra
theo suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được
phương pháp “làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, vừa không rập khuôn theo những
khuôn mẫu có sẵn, được bộ lộ và phát triển tiềm năng sáng tạo. dạy theo cách
này thì giáo viên không chỉ đơn thuần truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn
hành động. Chương trình dạy học còn giúp cho từng học sinh biết hành động
và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu
dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét
vào đầu học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy
cho trẻ phương pháp học ngay từ tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng
phải chú trọng hơn.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng thói quen, ý chí tự học thì
33
sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dạy nỗ lực vốn có trong con người, kết quả
học tập sẽ nâng lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta cần nhấn mạnh mặt
hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo sự chuyển biến từ học tập
thụ động sang học tập chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong
trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau giờ lên lớp mà tự học ngay cả
trong tiết học có sự hưóng dẫn của giáo viên.
- Tăng cường dạy học cá thể với dạy học hợp tác
Trong một lớp học, trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều, tuyệt đối, khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận
sự phân hoá về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài
học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở mức độ càng cao thì sự phân hoá ngày
càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường
sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng
học tập của học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động cá nhân. Lớp học là môi trường giao
tiếp thày- trò, trò- trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng mình lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp dạy học hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm nhỏ 4 - 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự
nhu cầu phối hợp giữa các cá thể hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt
động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của
34
mối thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ được nâng cao. Mô hình hợp tác trong xã hội đã được đưa vào
đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp
tác trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia, năng lực hợp tác trở thành mục tiêu giáo dục mà nhà trường
phải chuẩn bị cho học sinh.
- Kết hợp đánh giá của thầy với sự đánh giá của trò
Trong dạy._. đối tốt thao tác lập luận so sánh
trong quá trình tạo lập văn bản.
+ Nhận thức trung bình: Biết sử dụng thao tác lập luận so sánh nhưng
còn một số chỗ chưa hợp lí trong quá trình triển khai nội dung nghị luận.
+ Nhận thức yếu: Thực hiện được thao tác lập luận so sánh nhưng chưa
tốt và chưa biết cách phối hợp các thao tác nghị luận được học.
+ Nhận thức kém: Không biết vận dụng tri thức và các thao tác vào
thực hành.
85
3.5.2. Các phương tiện đánh giá
Trong điều kiện còn thiếu thốn về các phương tiện kĩ thuật hiện đại nên
trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương tiện
truyền thống để đánh giá thực nghiệm. Các phương tiện chủ yếu là:
Dự giờ dạy của giáo viên, ghi chép tiến trình giờ học và quan sát các
biểu hiện, thái độ của học sinh trong giờ học.
Trong các giờ thực hành, căn cứ vào việc thực hiện các bài luyện tập để
đánh giá, xác định mức độ nhận thức của học sinh( nhận biết, thông hiểu, biết
vận dụng).
Phiếu trắc nghiệm, phiếu thăm dò: đây là cơ sở đánh giá hứng thú học
tập của học sinh vầ mức độ nhận thức của học sinh sau giờ học.
Phân tích thông tin đã thu được và đánh giá theo những tiêu chí đề ra.
Xác định mức độ hiệu quả đánh giá thông qua cá bài kểm tra của học
sinh. Đây là cơ sở để việc đánh giá được khách quan hơn.
3.5.3. Kết quả đánh giá thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm được tiến hành theo đúng yêu cầu và theo đúng
chương trình nội dung phần Ngữ văn 11. Do thời gian và nội dung không
nhiều, lại thực hiện nhanh nên chúng đã thu được kết quả như sau:
3.5.3.1.Về giáo viên thực hiện
Hầu hết các giáo viên tham gia dạy thực nghiệm đã vận dụng các
phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo. Giáo viên làm việc
nghiêm túc, đúng tiến độ.
3.5.3.2.Về phía học sinh thực nghiệm
Các em có hứng thú trong việc tìm hiểu thao tác lập luận so sánh được
sử dụng trong văn bản nghị luận. Bởi vậy, việc nhận biết các tri thức tương
đối thuận lợi. Theo quan sát trực tiếp của chúng tôi đối với học sinh trong giờ
thực nghiệm và qua biên bản dự giờ khi giáo viên phân tích…. Giờ học diễn
86
ra một cách sôi nổi, học sinh hăng hái phát biểu. Điều này khẳng định nội
dung dạy học phù hợp với nhận thức của các em, gây được hứng thú cho các
em, vì thế các em rất nhiệt tình học tập.
Trong giờ thực hành, chúng tôi không chọn các bài tập ngoài sách giáo
khoa bởi chúng tôi muốn đánh giá mức độ nhận thức và việc vận dụng tri thức
đã học của học sinh một cách tương xứng với nội dung lí thuyết đã dạy. Trong
giờ thực hành, khi tổ chức thảo luận nhóm, các em đã rất sôi nổi, hăng say
làm việc và đưa ra những ý kiến của mình về bài tập giáo viên yêu cầu. Nhìn
chung, dưới sự cố vấn, định hướng của giáo viên, học sinh đã xác định được
khá cụ thể các nội dung công việc cần thực hiện khi tìm hiểu thao tác lập luận
so sánh trong những văn bản cụ thể. Thông qua các bài tập, nhiều học sinh
cũng đã hệ thống và củng cố được các vấn đề lí thuyết. Đó chính là cơ sở để
học sinh tự tin trong giờ luyện tập.
Có thể nói, trong quá trình tổ chức thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy
mặc dù dạy Làm văn là công việc khá phức tạp và khó khăn song không vì
thế mà không tạo ra được những hứng thú học tập cho học sinh.Việc triển
khai dạy nội dung thao tác lập luận so sánh cho học sinh lớp 11 cho thấy học
sinh rất hứng thú khi các em nhận diện, xác định đuợc thao tác này trong
những văn bản cụ thể. Bởi qua đó, các em hiểu vai trò của thao tác này trong
quá trình tạo lập văn bản nghị luận. Thông qua việc tìm hiểu cách thực hiện
thao tác này trong những đoạn văn, bài văn nghị luận cụ thể, cũng là cơ sở để
học sinh nhận thấy việc tạo lập văn không chỉ đơn thuần là việc diễn tả nội
dung giao tiếp một cách cụ thể các nội dung giao tiếp mà đó còn là một công
việc có tính chất nghệ thuật, giúp cho việc truyền tải nội dung giao tiếp một
cách có hiệu quả, thực hiện mục đích giao tiếp nhất định. Việc vận dụng thao
tác lập luận so sánh trong những bài văn cụ thể đòi hỏi người viết vừa phải
xác định nội dung vừa phải xác định cách thức thực hiện nội dung đó một
87
cách phù hợp nhằm đạt hiệu quả nhất định. Sau khi tổ chức thực nghiệm,
chúng tôi sơ bộ đánh giá kết quả thực nghiệm như sau:
- Về định tính:
Không khí giờ học nghiêm túc, học sinh có hứng thú trong việc chiếm
lĩnh kiến thức.
Nhìn chung, học sinh tiếp nhận tương đối đầy đủ về các vấn đề tri thức.
Biết vận dụng các tri thức đó vào thực hành. Ngoài ra, trong các bài kiểm tra
của học sinh, các em biết vận dụng thao tác lập luận so sánh khi triển khai các
nội dung nghị luận. Trong các bài lí thuyết, nhiều học sinh thấy hứng thú khi
giáo viên giải thích nghĩa của từ so sánh, mối quan hệ giữa so sánh và phân
tích, bác bỏ, bình luận. Như vậy, phần nào khơi gợi được bản chất của vấn đề
mà học sinh đang tiếp cận. Sự gợi mở ấy dường như đã khơi gợi được hứng thú
học tập ở học sinh, lôi kéo sự chú ý của các em vào nội dung bài dạy.
Khi thực hành, hầu hết các em đã nhận diện được đặc điểm cơ bản của
thao tác lập luận so sánh trong ngữ liệu cụ thể. Chẳng hạn, khi tổ chức cho
học sinh thực hiện các yêu cầu thực hành trong các bài tập, các em đã thực
hiện rất nhanh chóng và đã nêu được nội dung cụ thể của bài học. Để rồi, giờ
thực hành diễn ra một cách sôi nổi, đầy hứng thú. Căn cứ vào thực hành,
chúng tôi nhận thấy, việc tổ chức thực hành về thao tác lập luận so sánh trong
Làm văn đã phần nào tạo sự lôi cuốn trong học sinh vào quá trình học tập
phần Làm văn và đó cũng là cơ sở để việc dạy học Làm văn ở trường phổ
thông bớt đi sự khó khăn, nặng nề. Hay nói cách khác, đó là cơ sở tạo ra diện
mạo mới cho việc dạy học Làm văn ở trường phổ thông theo xu hướng dạy
học mới theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Thông qua các bài tập cụ thể, sau khi thực hiện các yêu cầu bài tập , học
sinh có thể hệ thống lại tri thức đã được học ở giờ lí thuyết. Hơn nữa, các em
cũng biết cách xác định thao tác ấy trong các văn bản khác.
88
Trong giờ học, tâm lí học sinh biểu hiện rất tốt. Phần lớn các em đều
nghiêm túc và có thái độ học tập tích cực.
Trong các giờ thực hành, mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể tăng
cường. Việc thảo luận giúp các em có điều kiện hỗ trợ nhau về mặt nhận thức,
bổ sung kiến thức và còn giúp giáo viên có điều kiện lắng nghe ý kiến của các
em. Chính nhờ điều đó mà giáo viên có thể trình bày hoặc bổ sung kịp thời
các tri thức cụ thể. Điều này sẽ giúp học sinh có thể hiểu hơn nội dung kiến
thức, điều chỉnh những sai sót trong nhận thức của bản thân các em. Bên cạnh
các giờ thực nghiệm, chúng tôi còn tham dự một số giờ học ở các lớp không
thực nghiệm và thấy rằng: mặc dù giáo viên đã rất cố gắng trong việc truyền
đạt kiến thức song do nội dung giáo án chưa phù hợp nên không phát huy
được tính chủ động tích cực học tập của học sinh và vì vậy cũng không tích
hợp được kiến thức là bao. Giờ học trở nên kém sôi nổi. Đến giờ thực hành
thì các em trở nên lúng túng, gặp khó khăn trong việc giải quyết bài tập. Từ
đó các em ít hứng thú với việc làm văn, chán học làm văn bởi nó vừa khó,
vừa khô khan. Ngay trong giờ học lí thuyết, học sinh không hào hứng phát
biểu. Và khi được hỏi về việc dạy lí thuyết làm văn nhiều giáo viên đã thẳng
thắn trả lời ngại dạy học Làm văn, còn giờ thực hành thì cứ ra bài tập cho học
sinh làm là xong. Khi tham khảo giáo án của một số giáo viên thì nội dung sơ
sài, các hoạt động dạy học, nội dung dạy học không được triển khai một cách
rõ ràng, không có điểm nhấn để tạo ra một cách mới lạ, cụ thể cho các nội
dung dạy học lí thuyết. Có lẽ vì vậy mà giờ học không lôi cuốn được học sinh
tham gia.
- Về định lượng:
Căn cứ vào các bài tập sau khi dạy các nội dung lí thuyết và các bài
tập trong giờ thực hành, chúng tôi xác điịnh định lượng của giờ thực hành
như sau:
89
Nhìn chung, hầu hết đã nắm được những nội dung cơ bản nhất về thao
tác lập luận so sánh. Các em nhận diện được thao tác này trong những bài tập
cụ thể và chỉ ra các biểu hiện cụ thể của thao tác này trong việc khai thác và
trình bày nội dung được bàn luận.
Khi đưa ra yêu cầu thực hiện thao tác lập luận so sánh trong giờ thực
hành, học sinh cũng biết vận dụng vào bài làm của mình. Tuy vậy, không phải
học sinh nào cũng biết vận dụng nhuần nhuyễn tri thức này, có em thực hiện
không theo trình tự, có em trình bày một cách chung chung, không cụ thể. Đó
là do thời gian thực hành còn quá ít, nhận thức của các em lại không đồng đều
nên việc vận dụng là không như nhau.
Hơn nữa, do thời gian hạn chế nên chúng tôi đã mượn các bài kiểm tra
của các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng để xem xét, đánh giá. Trong
các bài kiểm tra ấy, chúng tôi nhận thấy:
Đại đa số các em đã biết vận dụng thao tác lập luận so sánh trong bài
văn của mình. Tuy nhiên, việc vận dụng ấy có mức độ khác nhau.
Phần lớn trong bài văn của mình, các em có sử dụng thao tác lập luận
so sánh, thế nhưng sự vận dụng còn lúng túng, bởi các em còn chưa được
cung cấp các bước thực hiện thao tác này.
Tóm lại, khi tổ chức thực nghiệm, chúng tôi thấy nếu có thêm thời gian
cho nội dung này thì việc dạy thao tác lập luận so sánh hiệu quả sẽ cao hơn.
Và việc vận dụng các tri thức vào thực hành sẽ tốt hơn. Thông qua các bài
kiểm tra của các lớp thực nghiệm, chúng tôi thấy học sinh còn lúng túng hơn
trong việc sử dụng thao tác này khi triển khai nội dung bài viết của mình. Vì
vậy mà bài viết của các em chưa đạt yêu cầu.
90
Đánh giá chung về đợt thực nghiệm chúng tôi thấy: đợt thực nghiệm
diễn ra đúng tiến độ, kế hoạch đề ra. Kết quả thực nghiệm cho thấy việc triển
khai thao tác lập luận so sánh theo hướng tích hợp tích cực là một quan điểm
tiến bộ. Điều đó được thể hiện ngay trong quá trình dạy bài lí thuyết. Đây
không chỉ đơn thuần là việc cung cấp tri thức về thao tác lập luận so sánh và
dạng văn bản mà nó còn đòi hỏi phải cung cấp cho học sinh cách thức tạo nên
văn bản đó. Hơn thế nữa, việc dạy học Làm văn không phải là cung cấp kiến
thức lí thuyết mà thông qua hệ thống tri thức ấy để tổ chức cho học sinh thực
hành để các em hiểu rõ hơn, đúng hơn bản chất của lí thuyết lập luận so sánh.
Cũng thông qua giờ thực hành giáo viên có thể chỉ rõ bản chất của quá trình
tạo lập văn bản - đó là một quá trình sáng tạo có tính chất nghệ thuật. Tính
sáng tạo ấy nhằm mục đích cuối cùng là hiệu quả giao tiếp.
Có thể nói thông qua việc dạy học thao tác lập luận so sánh, học sinh
được rèn luyện về cách tổ chức nội dung bàn luận cũng như cách tổ chức lập
luận, cách tổ chức nội dung văn bản và đó là động lực để học sinh tạo ra được
những văn bản hay, chuẩn xác và đầy sáng tạo. Đây cũng chính là mục đích
cuối cùng của việc dạy Làm văn trong nhà trường phổ thông.
Căn cứ vào hai giờ thực nghiệm, chúng tôi thấy, việc tổ chức dạy Làm
văn theo chương trình ngữ văn hiện nay đã phát huy được tính chủ động tích
cực và sáng tạo của học sinh, đồng thời cùng một lúc có thể tích hợp được
nhiều đơn vị kiến thức trong một nội dung dạy học, trong một thời gian có
hạn. Và cũng giúp cho người dạy có một định hướng cụ thể trong quá trình
dạy học Làm văn. Điều này cũng giúp chúng ta khắc phục những khó khăn
trong quá trình dạy học Làm văn ở trường phổ thông.
91
Chúng tôi có thành lập bảng số liệu kết quả thực nghiệm như sau:
Điểm
Đối tượng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thực nghiệm 85 học sinh 0 0 2 5 17 27 24 10 0 0
Đối chứng 86 học sinh 0 2 5 8 14 28 21 8 0 0
Điểm
Đối
tượng
Điểm 1- 2 Điểm 3- 4 Điểm 5- 6 Điểm 7- 8 Điểm9,10
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Thực nghiệm 0 0 7 8,2 44 51,8 34 40 0 0
Đối chứng 2 2,3 13 15,2 42 48,8 29 33,7 0 0
Qua bảng số liệu trên, chúng tôi có biểu đồ so sánh TN và ĐC:
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Điểm 1-2 Điểm 3-4 Điểm 5-6 Điểm 7-8 Điểm9-10
Thực nghiệm
Đối chứng
Có thể nói, thông qua việc tổ chức thực nghiệm, chúng tôi thấy việc
đánh giá đã đạt được những yêu cầu cơ bản của việc triển khai thực nghiệm.
92
Đó là cơ sở để chúng tôi tìm ra hướng tổ chức dạy học Làm văn và có cơ sở
để triển khai các bài dạy theo hướng tích cực và tích hợp nhằm tạo hiệu quả
nhất định cho việc dạy học Làm văn ở nhà trường phổ thông.
Mặc dù phạm vi thực nghiệm và nội dung thực nghiệm của chúng tôi
không nhiều, thời gian thực nghiệm triển khai rất nhanh, song qua thực
nghiệm, chúng tôi đã có cơ sở để hiểu thêm nhiều điều trong quá trình dạy
học Làm văn ở nhà trường THPT. Cũng qua thực nghiệm, chúng tôi đã tìm ra
những kinh nghiệm thiết thực để phục vụ cho việc giảng dạy Làm văn ở
trường phổ thông.
Tóm lại, thông qua việc tổ chức thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy, việc
tổ chức dạy học Làm văn ở nhà trường phổ thông có thể đạt hiệu quả nhất
định nếu giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, có những đam mê, tìm tòi,
sáng tạo khi tổ chức nội dung dạy học. Đồng thời, khơi gợi niềm say mê,
hứng thú học tập ở học sinh.
93
PHẦN KẾT LUẬN
1.Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày
những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận (bao gồm cả lí lẽ và dẫn
chứng) để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó nhằm làm cho người đọc (người
nghe) hiểu, tin, đồng tình và thậm chí làm theo những gì mình đề xuất.
Vì vậy, văn nghị luận có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống
nói chung và trong nhà trường nói riêng, Văn nghị luận đã được đưa vào
giảng dạy ở các cấp học, bậc học. Văn nghị luận là một nội dung lớn, cơ bản
trong chương trình Làm văn từ THCS đến THPT. Học sinh học văn nghị luận
theo từng cấp độ từ dễ đến khó và các em đẫ hình thành dần kĩ năng làm văn
nghị luận. Việc rèn luyện kĩ năng này là một quá trình rất công phu của người
thầy cũng như sự nỗ lực học tập rất lớn của trò. Người thầy sẽ là người cung
cấp tri thức, tổ chức hướng dẫn học sinh cách thực hiện từng thao tác lập luận
trong làm văn nghị luận. Để học sinh nắm vững được lí thuyết cũng như kĩ
năng thực hành đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp linh hoạt,
sáng tạo. phương pháp dạy học đối với người giáo viên có một tầm quan
trọng đặc biệt như việc chữa bệnh của thầy thuốc. Muốn chữa khỏi bệnh,
người thầy thuốc phải chuẩn đoán đúng bệnh và đưa ra một liệu pháp điều thị
thích hợp, chuẩn xác. Còn ở người thầy tiến hành giờ dạy có đạt hiệu quả hay
không lại phụ thuộc vào việc xác định dúng trọng tâm bài học và phải trả lời
được các câu hỏi: dạy cái gì, dạy để làm gì, dạy như thế nào. Mục đích quy
định nội dung và phương pháp mới là quyết định nhất đối với việc thực hiện
được nội dung và biến nội dung thành hiện thực. Đúng như Mác đã nói vấn đề
không phải sản xuất ra cái gì mà sản xuất bằng cách nào.
2. Khi tạo lập văn bản nghị luận, bên cạnh việc sử dụng kết hợp các
phương thức biểu đạt thì, thì phương thức lập luận có vài trò rất lớn trong việc
94
tổ chức nên bài văn nghị luận. Lập luận là cơ sở để ta xác định dược giá trị
nghệ thuật cũng như giá trị nội dung của từng văn bản. Để tổ chức lập luận
cho văn bản nghị luận, chúng ta phải sử dụng nhiều thao tác lập luận. Các
thao tác này là phương tiện để thực hiện việc triển khai nội dung, lại vừa là
yếu tố xác định nhiệm vụ nghị luận. Các thao tác lập luận này chính là yếu tố
cấu thành nên nội dung bài văn và cũng là yếu tố tạo nên linh hồn bài văn.
Mặt khác các thao tác lập luận còn là yếu tố giúp cho người tiếp nhận đánh
giá được giá trị và mục đích của mỗi văn bản nghị luận.
Trên thực tế, cho đến nay, mặc dù đây là nội dung quan trọng của văn
nghị luận song việc nghiên cứu nó vẫn còn hạn chế. Việc phân định ranh
giới giữa các thao tác lập luận với các phương pháp lập luận vẫn chưa cụ
thể, và đặc biệt là việc sử dụng thuật ngữ vẫn chưa thống nhất: ở THCS thì
gọi là phép lập luận, còn ở THPT cụ thể là sách Ngữ văn 11, phần Làm văn
thì gọi là thao tác lập luận. Điều này gây cho học sinh sự thắc mắc, lúng
túng trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Và cũng dẫn đến một tình trạng
nhiều người ngại động chạm đến những nội dung này, hoặc có thì cũng là
giới thiệu một cách sơ lược về chúng. Bởi vậy, việc đi nghiên cứu về nội
dung các thao tác lập luận, mà đặc biệt là thao tác lập luận so sánh là rất cần
thiết. Đó cũng chính là cơ sở để chúng ta cần xây dựng hệ thống tri thức về
làm văn nghị luận.
Trong bài văn nghị luận, mỗi thao tác nghị luận có một đặc điểm riêng,
có một vai trò, vị trí riêng. Căn cứ vào mục đích nghị luận và nội dung bàn
luận mà người viết lựa chọn sử dụng thao tác này một cách hợp lí. Việc sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ các thao tác nghị luận sẽ giúp cho việc biểu đạt nội
dung văn bản nghị luận đạt hiệu quả cao.
Thao tác lập luận là các thao tác của tư duy lôgic. Nó được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Và việc sử dụng các thao tác này phải
95
được tiến hành theo nguyên tắc, trình tự nhất định. Trong quá trình tìm hiểu
văn bản nghị luận và thao tác lập luận so sánh trong văn bản nghị luận, chúng
tôi mạnh dạn nêu ra cách thức thực hiện thao tác này theo quan điểm dạy học
tích hợp và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Tuy nhiên, đây mới
chỉ là những bước đi ban đầu, mang tính chất gợi mở cho một đơn vị kiến
thức hoàn toàn mới, với một hi vọng góp một phần nhỏ phục vụ cho mục đích
dạy học thao tác lập văn bản nghị luận ở trường THPT.
Khi nghiên cứu về thao tác lập luận so sánh, chúng tôi căn cứ vào nội
dung phần văn bản nghị luận được triển khai trong sách giáo khoa Ngữ văn
11 để định hướng dạy bài thao thao tác luận so sánh theo hướng tích hợp và
tích cực. Đây cũng chính là cơ sở để chúng tôi đánh giá, nhận xét việc dạy nội
dung thao tác này cho học sinh.
3. Khi khảo sát SGK Ngữ văn 11, chúng tôi nhận thấy nội dung trọng
tâm của phần Làm văn lớp 11 là bốn thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác
bỏ, bình luận. Việc triển khai dạy các nội dung này là hoàn toàn mới, thể hiện
sự tiến bộ về quan điểm dạy học Làm văn ở trường THPT. Nội dung của bốn
thao tác này trong SGK được trình bày một cách cụ thể khoa học.
Có thể nói, việc triển khai nội dung dạy học thao tác lập luận đã thực sự
mở ra một diện mạo mới cho quá trình dạy học Làm văn ở trường THPT. Nó
không chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những tri thức ở cấp THCS mà còn được
nâng cao, mở rộng hơn về nội dung cũng như kĩ năng thực hiện các thao tác
đó. Điều này tạo cho học sinh một tâm thế hào hứng trong việc tiếp thu kiến
thức mới cũng như việc khẳng định năng lực tạo lập văn bản của mình. Bên
cạnh đó, SGK đã được biên soạn theo quan điểm tích cực, tích hợp nên đã
phần nào kích thích được hứng thú học làm văn của học sinh. Giờ học Làm
văn không còn khô khan, nhàm chán nữa.
96
Thông qua thực nghiệm, chúng tôi có đề xuất một số ý kiến sau:
- Trong giờ dạy lí thuyết nên bổ sung thêm nội dung các bước thực hiện
thao tác này để tạo cơ sở khoa học phục vụ vào thực hành cho học sinh.
- Nên tăng thời lượng dạy học thao tác này, nhất là giờ luyện tập để
các em được thực hành nhiều hơn. Và cũng chính trong giờ thực hành đó,
các em lại có điều kiện củng cố vững chắc thêm phần lí thuyết. Như vậy,
học sinh càng được rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận một cách sâu sắc,
điêu luyện hơn.
- Trong giờ luyện tập, ngoài những bài tập nhận diện đặc điểm cơ bản
của thao tác lập luận so sánh, những bài tập vận dụng thông thường, thiết nghĩ
chúng ta thâm những bài tập vận dụng ở mức độ cao, những bài tập vận dụng
tổng hợp thao tác lập luận để tạo lập văn bản nghị luận.
Cuối cùng, chúng tôi - những người thực hiện luận văn này rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp sâu sắc của bạn đọc, để luận văn có tính
khả thi hơn, hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu của một đề tài nghiên cứu
khoa học.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A (chủ biên), Dạy học Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp, Nxb ĐHSP
2. Lê A (chủ biên), 2000, Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục
3. Lê A Đình Cao, 1991 Làm văn (tập 1), Nxb Giáo dục
4. Lê A- Lã Nhâm Thìn- Bùi Minh Toán, 2007 Để học tốt Ngữ văn 10(tập 2),
Nxb Giáo dục
5. Lê A- Trần Đăng Suyền- Lã Nhâm Thìn- Bùi Minh Toán, 2007, Để học
tốt ngữ văn lớp 11(tập 1), Nxb Giáo dục
6. Lê A- Nguyễn Trí, Làm văn, Nxb Giáo dục
7. Nguyễn Trọng Báu- Nguyễn Quang Ninh- Trần Ngọc Thêm, 1985 Ngữ
pháp văn bản và việc dạy Làm văn, Nxb Giáo dục
8. Đỗ Hữu Châu (chủ biên) 1994, Làm văn 10 (Ban KHXH), Nxb Giáo dục
9. Nguyễn Hải Châu (chủ biên), 2007, Giới thiệu giáo án Ngữ văn 11( tập 1),
Nxb Hà Nội
10. Nguyễn Đức Dân, 1997, Lôgic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục
11. Hồ Ngọc Đại, Tâm lí học dạy học1994, Nxb Giáo dục
12. Trần Thanh Đạm( chủ biên), 2001, Làm văn 10 (Sách chỉnh lí hợp nhất
năm 2000), NXb Giáo dục
13. Hữu Đạt, 2001, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQGHN
14. Vương Tất Đạt,1997, Lôgic học đại cương, Nxb ĐHQG Hà Nội
15. Vương Tất Đạt, 1992 Lôgic- hình thức, Nxb ĐHSP Hà Nội
16. Phạm Minh Hạc, 1983, Hành vi và hoạt động, Viện KHGD
17. Lê Bá Hán (chủ biên), 2000,Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội
18. Nguyễn Thái Hoà,2006, Từ điển tu từ- phong cách- thi pháp học, Nxb
Giáo dục
19. Phạm Trọng Hoà,1989, Lôgic học, Nxb Thuận Hoá 1989
98
20. Trần Bá Hoành, 2007, Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách giáo khoa, Nxb ĐHSP
21. Đặng Vũ Hoạt - Nguyễn Sinh Huy,1997, Hà Thị Đức, Giáo dục học đại
cương II, Hà Nội
22. Lê Văn Hồng (chủ biên),2007, Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư
phạm, NXB ĐHQG Hà Nội
23. Phan Trọng Luận (chủ biên),2001, Làm văn 11, Nxb Giáo dục (Sách
chỉnh lí hợp nhất năm 2000)
24. Phan Trọng Luận (chủ biên),1991, Một số vấn đề về môn Làm văn và
sách Làm văn 11- THP (Tài liệu bồi dưỡng giáo viên THPT), Trường
ĐHSP Hà Nội
25. Phan Trọng Luận (chủ biên), 2007, Phương pháp dạy học văn (Tập 2),
Nxb ĐHSP
26. Phan Trọng Luận (chủ biên), 2007, Thiết kế bài học Ngữ văn 11 (Tập 1),
Nxb Giáo dục
27. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên),2001, Muốn viết được bài văn hay, Nxb
Giáo dục
28. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Văn - bồi dưỡng học sinh giỏi THPT,
NXB ĐHQG Hà Nội, 2002
29. Nguyễn Quang Ninh (chủ biên), 2001, Luyện cách lập luận trong đoạn
văn nghị luận cho học sinh THPT, Nxb ĐHQG Hà Nội
30. Hoàng Phê (chủ biên), 2000, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
31. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội, 2001, Một số vấn đề phương pháp
dạy- học văn trong nhà trường, Nxb Giáo dục
32. Bảo Quyến,2007, Rèn kĩ năng làm văn nghị luận, Nxb Giáo dục
33. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 (tập 2),2006,Nxb Giáo dục
34. Sách giáo viên Ngữ văn 9 (tập 2), 2006,Nxb Giáơ dục
99
35. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Tập 2) - Bộ cơ bản, 2007,Nxb Giáo dục
36. Sách giáo viên Ngữ văn 10 (Tập 2) - Bộ cơ bản, 2007,Nxb Giáo dục
37. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1) - Bộ cơ bản, 2007, Nxb Giáo dục
38. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 1) - Bộ nâng cao,2007, Nxb Giáo dục
39. Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 1) - Bộ cơ bản, 2007, Nxb Giáo dục
40. Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 1) - Bộ nâng cao, 2007, Nxb Giáo dục
41. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 2) - Bộ cơ bản, 2007, Nxb Giáo dục
42. Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 2) - Bộ cơ bản, 2007, Nxb Giáo dục
43. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (Tập 2) - Bộ nâng cao, 2007, Nxb Giáo dục
44. Sách giáo viên Ngữ văn 11 (Tập 2) - Bộ nâng cao,2007, Nxb Giáo dục
45. Sách giáo khoa Làm văn 12 (CCGD),2001, NXB Giáo dục
46. Nguyễn Quốc Siêu,2001, Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông, Nxb
Giáo dục
47. Ngô Doãn Tá, Tô Duy Hợp, Vũ Trọng Dung, 2004, Giáo trình lôgic học,
Nxb Chính trị Quốc gia
48. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ Văn 11, 2007, Nxb Giáo dục
49. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), 2007, Giáo trình tâm lí học đại cương,
Nxb ĐHSP Hà Nội
100
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7
3.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 7
4. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu .............................................................. 8
5. Các phương pháp nghiên cứu .................................................................. 8
5.1. Phương pháp thống kê ...................................................................... 8
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát.......................................................... 8
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm................................................... 9
6. Bố cục của luận văn ............................................................................... 9
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................. 11
Chương 1. SO SÁNH VÀ THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH .............. 11
TRONG VĂN NGHỊ LUẬN ................................................................... 11
1.1. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC CỦA TƯ DUY ...... 11
1.1.1. Khái niệm về thao tác .................................................................. 11
1.1.2. Khái niệm chung về tư duy........................................................... 11
1.1.3. Quan niệm về so sánh trong tư duy lôgic....................................... 13
1.2. SO SÁNH VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT THAO TÁC LẬP LUẬN........... 15
1.2.1. Thao tác lập luận ......................................................................... 15
1.2.2. Thao tác lập luận so sánh ............................................................. 16
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH VỚI CÁC THAO
TÁC LẬP LUẬN KHÁC ....................................................................... 21
1.3.1. Quan hệ với thao tác lập luận chứng minh, giải thích..................... 21
1.3.2. Quan hệ với thao tác lập luận phân tích......................................... 22
101
1.3.3. Quan hệ với thao tác lập luận bác bỏ............................................. 23
1.3.4. Quan hệ với thao tác lập luận bình luận ........................................ 24
Chương 2. RÈN LUYỆN THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH THEO
QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC.......................... 26
2.1. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ DẠY HỌC THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH
THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC .......................................... 26
2.1.1. Quan điểm dạy học tích hợp ......................................................... 26
2.1.2. Dạy học thao tác lập luận so sánh theo quan điểm tích hợp ............ 27
2.1.2.1. Định hướng chung về dạy học tích hợp................................... 27
2.1.2.2. Phương pháp khai thác các đơn vị kiến thức - kĩ năng về thao
tác lập luận so sánh trong quá trình dạy học .......................... 29
2.1.2.3. Cách thức tích hợp ................................................................ 31
2.1.3. Quan điểm dạy học tích cực ......................................................... 31
2.1.4. Dạy học thao tác lập luận so sánh theo hướng tích cực .................. 35
2.1.4.1. Nguyên tắc để lựa chọn phương pháp dạy học thao tác lập luận
so sánh theo hướng tích cực................................................... 35
2.1.4.2. Một số hình thức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy bài thao tác lập luận so sánh .................................. 35
2.2. TỔ CHỨC DẠY HỌC THAO TÁC LẬP LUẬN SO SÁNH ...................... 36
2.2.1. Mục tiêu bài học thao tác lập luận so sánh.................................... 36
2.2.2. Quy trình tổ chức dạy học lí thuyết thao tác lập luận so sánh ......... 37
2.2.3. Tổ chức dạy học thực hành “luyện tập thao tác lập luận so sánh” ... 41
2.2.3.1. Vai trò của bài tập thực hành ................................................ 41
2.2.3.2. Hệ thống các bài tập thực hành ............................................. 42
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................ 57
3.1. MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM................................................................ 57
3.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐỊA BÀN THỰC NGHIỆM ........................................ 57
102
3.2.1. Về đối tượng thực nghiệm ............................................................ 57
3.2.2. Về giáo viên thực nghiệm............................................................. 57
3.2.3. Về địa bàn thực nghiệm ............................................................... 58
3.2.4.Về kế hoạch thực nghiệm .............................................................. 58
3.3. THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM .................................................. 59
3.4. TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM.................................................................. 82
3.5. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ................................................ 83
3.5.1. Các tiêu chí đánh giá .................................................................... 83
3.5.1.1. Về định tính........................................................................... 83
3.5.1.2.Về định lượng......................................................................... 84
3.5.2. Các phương tiện đánh giá ............................................................. 85
3.5.3. Kết quả đánh giá thực nghiệm ...................................................... 85
3.5.3.1.Về giáo viên thực hiện ............................................................ 85
3.5.3.2.Về phía học sinh thực nghiệm ................................................. 85
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 97
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9465.pdf