BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Lê Hải Thanh
RÈN KỸ NĂNG LẬP Ý
Ở LOẠI BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Lê Hải Thanh
RÈN KỸ NĂNG LẬP Ý
Ở LOẠI BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ
156 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3043 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Rèn luyện kỹ năng lập ý ở loại bài nghị luận xã hội cho học sinh Trung học phổ thông (THPT), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn
TS. Nguyễn Thành Thi đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
làm luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Ngữ văn trường ĐHSP
TP.HCM, Phòng KHCN và SĐH trường ĐHSP TP.HCM đã tạo điều
kiện và đã có những hướng dẫn cụ thể giúp tôi hoàn thành luận văn.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo ở một số trường THPT
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi tiến hành thực nghiệm giảng dạy, trả lời
phỏng vấn…cũng như đã có những góp ý, đánh giá, nhận xét chân tình
về những vấn đề của luận văn và các giáo án thực nghiệm trong quá trình
tôi tiến hành thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã luôn ủng hộ, chia sẻ,
động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1. Trong làm văn nghị luận nói chung và làm văn nghị luận xã hội nói riêng,
kỹ năng lập ý là kỹ năng cơ bản và quan trọng cần rèn luyện giúp học sinh có thể
viết tốt một bài văn nói chung và bài nghị luận xã hội nói riêng. Một trong những
vấn đề cơ bản trong định hướng đổi mới của nền giáo dục của nước ta hiện nay là
đổi mới phương pháp dạy – học. Ở phân môn làm văn, để làm được điều đó chúng
ta phải tổ chức dạy học sao cho học sinh được trang bị một hệ thống kiến thức và kỹ
năng cần thiết nhất đặc biệt phải giúp các em có thể vận dụng tốt nhất hệ thống kiến
thức và phương pháp được cung cấp để các em có thể tự mình viết được một bài
làm văn hoàn chỉnh theo bất cứ yêu cầu nào.
1.2. Một bài văn nghị luận, đặc biệt là nghị luận xã hội có chất lượng của học
sinh THPT theo tác giả luận văn cần có 2 yếu tố sau đây:
- Thứ nhất: Bài viết phải có ý
- Thứ hai: Người viết phải biết diễn đạt những ý đã xác định thành Văn, trình
bày thành bài văn hoàn chỉnh.
Nếu như ý nghiêng về việc tác động vào lý trí, vào nhận thức, thì văn thiên về
việc tác động vào tình cảm. Ý thỏa mãn nhu cầu hiểu, văn đáp ứng nhu cầu cảm. Ý
và văn gắn kết với nhau, tạo nên khoái cảm cho người đọc trong việc thưởng thức
bài văn.
Muốn có được ý hay người viết phải suy nghĩ, động não, tìm ra các ý rồi phải
lựa chọn, sắp xếp chúng một cách hợp lý để làm sáng tỏ và nổi bật vấn đề cần nghị
luận. Rèn kỹ năng lập ý cho học sinh cũng chính là góp phần hình thành đầu óc thiết
kế, một thứ lao động có ý thức, vốn là đặc trưng lao động người.
1.3. Trong dạy học làm văn nói chung, vấn đề rèn luyện kỹ năng lập ý đã được
quan tâm từ khá lâu, tuy vậy vẫn chưa được giải quyết trọn vẹn. Bên cạnh đó, việc
dạy làm văn của giáo viên và việc học làm văn của học sinh lại hết sức qua loa,
chiếu lệ. Để có thể giải quyết những vấn đề nêu trên, chúng ta không thể chỉ chú
trọng đến lý thuyết mà điều quan trọng nữa là cần xác định được một hệ thống
phương pháp với những thao tác cụ thể tương ứng với lý thuyết đó để hiện thực hóa
lý thuyết trong việc dạy học. Hơn nữa khi tìm hiểu các tài liệu dạy học và các công
trình nghiên cứu hiện hành trong nhà trường Việt Nam, tác giả luận văn nhận thấy
việc giải quyết những vấn đề này còn nhiều chỗ chưa thật thỏa đáng cần phải được
giải quyết tiếp.
Qua thực tế giảng dạy và thực nghiệm điều tra ở một số trường THPT bằng
những số liệu đã đo được, tác giả luận văn cũng nhận thấy, một trong những khó
khăn và lúng túng nhất cho học sinh khi viết bài nghị luận xã hội là làm thế nào để
có ý và sắp xếp các ý ấy thành một dàn bài hợp lý. Và thực tế cho thấy, phần lớn bài
làm của học sinh thường không có ý, thiếu ý, trùng ý, lạc ý, ý lộn xộn, thậm chí
không biết làm dàn ý. Luận văn này cố gắng góp phần hoàn chỉnh và đề xuất những
hình thức rèn kỹ năng lập ý cho học sinh ở loại bài nghị luận xã hội.
1.4. Giải quyết tốt vấn đề trên, luận văn có ý nghĩa ở cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn với những đóng góp thể hiện ở mấy điểm sau:
- Từng bước làm thay đổi nhận thức cũng như họat động dạy – học của giáo viên
và học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học phân môn làm văn hiện
nay.
- Làm cho giáo viên và học sinh nhận thức thật đầy đủ tầm quan trọng của việc
lập ý và dựng đoạn khi dạy – học làm văn nghị luận nói chung và khi viết bài nghị
luận xã hội nói riêng.
- Góp phần bổ sung, hoàn chỉnh và chuẩn hóa ý thuyết về kỹ năng lập ý cho bài
nghị luận xã hội. Đồng thời cung cấp cho giáo viên và học sinh hệ thống kiến thức,
thao tác, kỹ năng cũng như cách thức dạy – học lập ý tương ứng khi dạy – học và
viết bài nghị luận xã hội.
- Phần nào định hướng cho học sinh kỹ năng “xử lý” linh họat các đề làm văn
nghị luận theo từng yêu cầu về thời gian cụ thể và cũng phần nào giúp giáo viên –
học sinh nhận thức được rằng: Khi dạy – học lập ý phải dạy – học bằng các thao tác
cụ thể và thực hành theo mẫu nhưng đồng thời phải kiên quyết ngăn chặn và chống
văn mẫu.
- Với những đóng góp trên, luận văn sẽ góp phần khắc phục tình trạng yếu kém
của học sinh trong việc lập ý cho loại bài nghị luận xã hội nói riêng và văn nghị
luận nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Văn NL là loại văn có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người và
cũng là loại văn có lịch sử lâu đời. Thế nhưng nếu chỉ tính riêng những bài nghiên
cứu, những tài liệu dạy học và kĩ năng lập ý cho loại bài NLXH thì không phong
phú. Bởi vì tuy có phân biệt hai loại NLXH và NLVH, nhưng trong thực tế kỹ năng
lập ý bao giờ cũng chỉ được trình bày trong phần kỹ năng làm văn nói chung. Vì thế
nhìn lại lịch sử vấn đề này chỉ có thể xem xét kỹ năng lập ý nói chung, từ đó “bóc
tách” ra cho loại bài NLXH. Để luyện kĩ năng lập ý cho HS, các tài liệu thường đi
theo ba hướng sau:
2.1 Rèn luyện lập ý bằng việc cho dàn bài mẫu
2.1.1 Thời phong kiến cách dạy lập ý cho văn NL được tiến hành chủ yếu theo
cách: thầy đưa ra các bài văn mẫu, từ những bài văn mẫu này, thầy giáo căn cứ vào
đặc điểm về nội dung và hình thức của từng loại mà phân tích và giảng giải cho trò.
Học trò cứ thế mà luyện tập theo. Có thể thấy rõ cách học và dạy lập ý ở trên qua
cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính [8] và cuốn Việt Nam văn học sử yếu
của Dương Quảng Hàm [34]. Kĩ năng lập ý được Phan Kế Bính đề cập ở mục thể
cách văn chương và luận về phương pháp làm văn. Theo ông trước khi viết bài văn
cần thực hiện ba bước sau: xác lập chủ ý, cấu tứ và bố cục. Dương Quảng Hàm
cũng để hẳn chương 9 ở cuốn Việt Nam văn học sử yếu để nêu những đặc điểm và
cách thức làm các lối văn cử nghiệp viết bằng chữ nho. Ở đó ta thấy rõ dàn ý của
một bài văn thời phong kiến với những yêu cầu cụ thể về nội dung và cách thức
viết. Người viết cứ thế mà làm, mà luyện tập theo mẫu đã có. Như vậy, có thể thấy
rõ thực chất của việc dạy lập ý thời phong kiến ở một bài văn nghị luận là giúp
người học nắm vững được đặc điểm và những yêu cầu về bố cục của từng loại văn
mà thôi.
2.1.2 Thời Pháp thuộc, nhà trường Pháp-Việt được hình thành, ở đó Văn nghị
luận được dạy với hai dạng: nghị luận nói chung (Composition) và bình luận
(Dissertation).
- Mặt khác, theo Thẩm Thệ Hà [33]còn có 3 loại khác cũng được coi là Văn
nghị luận, đó là Thư luận (Dissertation-letter), bút chiến luận (Dissertation-
polemique) đối luận (Disssertation Dialogue). Căn cứ vào các tài liệu và các
sách làm văn của nhiều tác giả sống , học và làm văn nghị luận dưới thời
Pháp thuộc, chúng tôi thấy rằng:
- Tài liệu làm văn thời kì này không có nhiều và lý thuyết làm văn chưa hoặc
không được chú ý, chẳng hạn: Nguyễn Đặng Thư [105] đã nhận xét: “Sách
luyện về luận viết văn các lớp trên ban trung học còn rất hiếm” (ở đây chúng
tôi muốn đề cập đến tài liệu bằng tiếng Việt), “Ở nhà trường xưa và nay,
trong giờ luận Pháp và Việt văn các giáo sư chỉ cho đầu bài, có khi làm theo
một dàn ý sơ lược rồi để mặc ta thao túng” .
- Việc dạy lập ý ở thời kỳ này cũng chủ yếu là cung cấp bài mẫu, người học cứ
theo đó mà làm, mà luyện tập.
2. 2. Rèn luyện lập ý có chú ý đến lí thuyết lập ý nói chung
2.2.1. Ở giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) có thể kể đến một số
cuốn sách dạy làm văn tiêu biểu như: Luận văn thị phạm của Nghiêm Toản [112],
Nghị luận luân lí của Phan Ngô [70], Nghị luận khái quát của Nguyễn Đặng Thư
[105], Nghị luận văn chương của Phạm Việt Tuyền [115]…
Trong số những cuốn sách kể trên, đáng chú ý nhất có lẽ là cuốn Luận văn thị
phạm của Nghiêm Toản. Với cuốn sách này, tác giả đã nêu được một cách khái quát
các bước tìm ý. Từ bảy đề cụ thể, Nghiêm Toản đã nêu lên bốn nhận xét về các
trường hợp khó khăn khi phân tích đề và bảy điểm cần chú ý trong quá trình để tìm
ý. Có thể nói trong giai đoạn này, cuốn Luận văn thị phạm là cuốn làm văn dạy cho
HS cách lập ý chi tiết và bài bản nhất. Thậm chí phương pháp lập ý của ông có
những điểm cho đến nay vẫn có giá trị như phân tích khái niệm, đặt câu hỏi…
Những cuốn sách còn lại (đã nêu) phần lớn là sách dạy thực hành từ các đề, các
dàn bài mẫu, cũng có cuốn đề cập đến lí thuyết kĩ năng lập ý, nhưng không có gì
mới so với Nghiêm Toản, thậm chí sơ sài hơn.
2.2.2 Giai đoạn 1954-1975, sách làm văn xuất hiện khá nhiều. Tiêu biểu như:
Phương pháp làm văn nghị luận (1959) của Thẩm Thể Hà [33], Nghị luận luân lí và
văn chương (1960) của Nguyễn Duy Nhường[73], Luân lí phổ thông (1962) của Lê
Thái Ất [5], Nghị luận luân lí và phổ thông (1964) của Minh Văn và Xuân Tước
[117], Bài viết văn thi tú tài (1967) Phạm Thế Ngũ [72], Luận văn chương và giải
đề (1971) của Vũ Kí [52]…
Trong các cuốn sách làm văn nói trên, kĩ năng lập ý ít nhiều cũng được đề cập tới
với những ưu điểm và nhược điểm riêng. Thẩm Thệ Hà đề cập đến ba kỹ năng: kĩ
năng nhập đề, kĩ năng diễn đề và kết luận. Việc tìm ý, lập ý chủ yếu khai thác từ
cách thức của các thao tác chứ không phải nội dung vấn đề. Trong cuốn sách Nghị
luận luân lí và văn chương, kĩ năng lập ý chỉ được đề cập đến ở loại NL luân lí. Lê
Thái Ất trong cuốn Luân lí phổ thông đã dành chương 4 và chương 5 để nêu cách
tìm ý và dàn ý nhưng về cơ bản cách tìm ý của cuốn sách có nhiều điểm giống
Nghiêm Toản. Cuốn sách làm văn có đề cập một cách trực tiếp đến cách lập ý là
cuốn Nghị luận văn chương của Vũ Kí. Theo Vũ Kí, muốn hiểu đề cần trả lời 2 câu
hỏi: Đề muốn gì? Và ta biết gì? Đồng thời, ở phần kĩ năng lập ý, tác giả nêu ra 2
bước:
Bước 1: Hiểu rõ các danh từ trong đề để hiểu đề
Bước 2: Hiểu xong phải lục soát tất cả những kiến thức văn chương nằm trong
tiềm thức của mình, những hiểu biết thu thập được ở trường, ở tự đọc sách, ở sự
nghiên cứu của mình để ứng phó với đề.
2.2.3 Từ sau 1975 Nhà xuất bản giáo dục ấn hành cuốn Tài liệu hướng dẫn
giảng dạy TLV cấp III (tập 1) [107], Tài liệu hướng dẫn giảng dạy TLV cấp III (tập
2) [108]. Trong cuốn tài liệu này, các tác giả gợi ý kĩ năng làm bài bằng những điều
chung chung trong những gợi ý ở ba phần: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc
vấn đề. Trong những năm 1970-1976 xuất hiện một số bộ sách “Hướng dẫn ôn tập
và làm bài thi vào các trường đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp”. Ở
các bộ sách ôn thi ấy đều có phần kĩ năng làm văn trong đó có phần kĩ năng lập ý và
các tác giả cũng đã chú ý đến việc hướng dẫn HS cách triển khai luận điểm, tìm ý
và sắp xếp các ý nhưng chủ yếu vẫn là NLVH.
2.3. Rèn luyện kỹ năng lập ý được chú ý nhưng chủ yếu ở loại bài nghị luận
văn học
Với yêu cầu đổi mới việc dạy và học văn trên tất cả các bình diện, trong đó có
phân môn làm văn, các tác giả cố gắng đi tìm và xác lập cho làm văn những cơ sở lí
luận. Biểu hiện ở việc các đề đưa ra phân tích (chủ yếu là nghị luận văn học) và ở
một vài kiểu bài (nghị luận văn học), các soạn giả đã có mục định hướng - lập ý. Tất
nhiên không thể tránh được những nhược điểm nhất định, nhưng sách làm văn và
các tài liệu học phân môn này ở giai đoạn cải cách giáo dục đã được viết theo tinh
thần ấy. Cuốn giáo trình Làm văn đã vận dụng những thành tựu nghiên cứu của lí
thuyết họat động lời nói và lí luận dạy tiếng, lí luận dạy đại học vào soi sáng cho
các vấn đề của làm văn nói chung cũng như kĩ năng lập ý nói riêng. Kĩ năng này
được các tác giả trình bày trong phần kĩ năng xây dựng luận điểm và lập chương
trình biểu đạt. Nhìn chung cách xây dựng luân điểm ở đây được triển khai qui mô
lớn, khoa học hơn, tuy vậy vẫn thấy rất lúng túng nếu đem cách xây dựng luận điểm
ở đây vận dụng vào để giải quyết một đề nghị luận văn học nhất là loại phân tích,
bình giảng tác phẩm văn học.
Song song với việc cải tiến vấn đề dạy học – làm văn bậc đại học, ở cấp PTTH đã
tiến hành triển khai sách cải cách giáo dục. Với hai bộ sách làm văn, một do trường
ĐHSP Hà Nội biên soạn (gọi tắt là Trường) và một do Hội nghiên cứu và giảng dạy
văn học TP Hồ Chí Minh biên soạn (gọi tắt là Hội ), kỹ năng lập ý đã được đề cập
đến nhiều hơn, cụ thể hơn, nhất là sách Trường. Hai bộ sách này mỗi cuốn đều có
những ưu điểm và những hạn chế nhất định về việc rèn luyện kĩ năng lập ý. Cùng
với bộ sách giáo khoa làm văn cho HS, Bộ GD và Đào tạo còn cho ra hàng loạt loại
sách khác kèm theo như sách giáo viên, hướng dẫn dạy các bài trong sách giáo khoa
học sinh; sách bồi dưỡng giáo viên dạy môn làm văn do trường ĐHSP Hà Nội biên
soạn; tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa cải cách giáo dục môn làm văn do Vụ
giáo viên biên soạn; sách Làm văn 12 của Trần Thanh Đạm (chủ biên) (1992) [23],
sách Dàn bài làm văn 12 của Trần Thanh Đạm (chủ biên) (1992) [22]… nhưng tất
cả cũng chỉ chú trọng đến NLVH. Mặc dù các tài liệu trên nhằm mở rộng, nâng cao
và rèn luyện nội dung cũng như phương pháp dạy và học môn làm văn, thế nhưng
các tài liệu ấy cũng chỉ xoay quanh những gì sách giáo khoa làm văn của HS đã đề
cập.
Năm 1993 trong tài liệu giáo khoa thực nghiệm phân ban làm văn 10 do nhóm
tác giả Đỗ Hữu Châu-Nguyễn Xuân Nam-Nguyễn Quang Ninh-Cao Đức Tiến-Hà
Bình Trị biên soạn (NXB GD Hà Nội ấn hành) [17], kĩ năng lập ý tiếp tục được lưu
và đề cập đến trong phần lập dàn ý nói chung cho văn nghị luận. Tuy nhiên đó cũng
chỉ là những hướng dẫn còn rất khái quát. Phần nghị luận văn học sách đưa ra 4
kiểu bài nhưng không đề cập đến kĩ năng lập ý cho từng kiểu bài.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể đề cập đến cuốn sách Làm văn 12 do nhóm tác
giả Trần Đình Sử-Phan Trọng Luận-Nguyễn Minh Thuyết biên soạn [91]. Cuốn
sách đã dành riêng chương đầu tiên (từ trang 3 đến trang 52) để trình bày về Kỹ
năng làm văn nghị luận. Và ở chương này, Nguyễn Minh Thuyết đã trình bày một
cách khá chi tiết và hệ thống về việc lập cho bài văn nghị luận với những chỉ dẫn cụ
thể về các bước lập ý, các bước lập dàn bài cho bài văn nghị luận nói chung và nghị
luận văn học nói riêng.
Như vậy, có thể thấy rõ, kĩ năng lập ý nói riêng và kĩ năng làm văn nói chung
chủ yếu đã được đề cập ở các tài liệu dạy học trong nhà trường (từ phổ thông đến
đại học). Ngoài ra trên một số tạp chí chuyên ngành đã đăng tải ít nhiều các bài
nghiên cứu về vấn đề rèn luyện kĩ năng làm văn nói chung.
Tuy vậy không có tài liệu nào bàn bạc riêng về kĩ năng lập ý đặc biệt là kỹ năng
lập ý cho NLXH mà chủ yếu đưa ra những vấn đề kĩ năng làm văn nghị luận nói
chung.
2.4. Rèn luyện kỹ năng lập ý ở loại bài NLXH
Giai đoạn 1954 – 1975 (như trên đã đề cập) các cuốn sách và tài liệu dạy làm
văn NLXH tiêu biểu nhất có thể kể đến là Nghị luận luân lí và văn chương (1960)
của Nguyễn Duy Nhường [73], Luân lí phổ thông (1962) của Lê Thái Ất [5], Nghị
luận luân lí và phổ thông (1964) của Minh Văn và Xuân Tước [117]. Thế nhưng
hầu hết những tài liệu ở giai đoạn này đều đề cập đến kỹ năng lập ý cho bài NLXH
một cách rất chung chung, chưa đi vào những dẫn dắt cụ thể.
1) Giai đoạn CCGD cùng với sự xuất hiện của các tài liệu phục vụ cho công tác
dạy học làm văn nói chung, các tài liệu dạy học kỹ năng lập ý cho NLXH
cũng xuất hiện nhưng rất hạn chế so với các tài liệu viết cho NLVH và chủ
yếu được viết chung với NLVH, hầu như chưa có tài liệu nào viết riêng cho
NLXH. Có thể kể đến những cuốn sách như: Làm văn của nhóm tác giả Đỗ
ngọc Thống-Nguyễn Thành Thi-Phạm Minh Diệu (2007), Tài liệu bồi dưỡng
giáo viên cốt cán trường THPT của trường ĐHSP Tp. HCM (2006), Tập làm
văn (giáo trình dành cho sinh viên khoa ngữ văn cao đẳng sư phạm) của
Nguyễn Công Lý (1997), Làm văn THCS của Lê Xuân Soan (2002), Làm văn
(Giáo trình đào tạo giáo viên THCS) của nhóm tác giả Lê A-Nguyễn Trí
(2001), Làm văn 10 của Trần Thanh Đạm (chủ biên) (1990), Làm văn 11 của
Trần Thanh Đạm (chủ biên) (1991), Làm văn 10 (Sách giáo viên) của Trần
Thanh Đạm (chủ biên) (1990), Làm văn 11 (Sách giáo viên) của Trần Thanh
Đạm (chủ biên) (1991), Dàn bài làm văn 10 của Trần Thanh Đạm (chủ biên)
(1990), Dàn bài làm văn 11 của Trần Thanh Đạm (chủ biên) (1991), Hướng
dẫn làm văn 10 của nhóm tác giả Bùi Quang Huy và Trần Châu Thưởng
(2007), Hướng dẫn làm văn 11của nhóm tác giả Bùi Quang Huy và Trần
Châu Thưởng (2008), Hướng dẫn làm văn 12 của nhóm tác giả Bùi Quang
Huy và Trần Châu Thưởng (2009), Rèn kỹ năng tập làm văn 10 của Lê Anh
Xuân (chủ biên) (2008), Rèn kỹ năng tập làm văn 11 của nhóm tác giả Lê
Huy-Ngô Thanh Tùng (2007), Rèn kỹ năng tập làm văn 12 của Lê Anh Xuân
(chủ biên) (2008), Những bài văn mẫu 11 của nhóm tác giả Lê Huy-Ngô
Thanh Tùng (2007), Hệ thống đề mở Ngữ văn 10 của Đỗ Ngọc Thống (chủ
biên) (2007), Tuyển tập 32 đề làm văn chọn lọc 10 của Giang Lương Quốc
(1997), Làm văn 12 của Trần Đình Sử (chủ biên) (2005), Rèn kỹ năng làm
văn nghị luận của Bảo Quyến (2007), Hướng dẫn tập làm văn 9 của Hoàng
Đức Huy (2005), Rèn luyện kỹ năng làm văn 9 của Lương Duy Cán (2006),
Luyện viết bài văn hay của Trần Đình Sử (2006), Rèn luyện kỹ năng làm văn
10 của Lương Duy Cán (2007), Ngữ văn 10-11-12 của Phan Trọng Luận
(Tổng chủ biên) (2006-2007-2008), Sách giáo viên Ngữ văn 10-11-12 của
Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2006-2007-2008), Ngữ văn 6-7-8-9 của
Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2003-2004-2005-2006), Thiết kế mới về
dạy học làm văn 12 của Trương Dĩnh (2001), Làm văn nghị luận lý thuyết và
thực hành của Hà Thúc Hoan (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên của Bộ
giáo dục và đào tạo (2006), Để viết tiếng việt thật hay của Nguyễn Khánh
Nồng (2006), Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông của Nguyễn Quốc Siêu
(2001)
Ở cuốn Làm văn của nhóm tác giả Đỗ Ngọc Thống-Nguyễn Thành Thi-Phạm
Minh Diệu (2007) [104], nhóm tác giả của quyển sách này đã dành riêng chương
thứ 4 (từ trang 165 đến trang 213) để bàn về văn nghị luận. Trong 48 trang ấy,
nhóm tác giả chỉ đề cập đến việc lập ý cho bài văn NLXH trong 3 trang (từ trang
206 đến trang 208) với 2 bước sau: (Bước 1) Dựa vào yêu cầu và chỉ dẫn của đề để
tìm ra vấn đề trọng tâm và các ý lớn mà bài viết cần làm sáng tỏ. (Bước 2) Tìm ý
nhỏ bằng cách đặt ra các câu hỏi, vận dụng những hiểu biết về văn học và cuộc
sống, xã hội để trả lời các câu hỏi đó.
Với cuốn sách Tập làm văn (giáo trình dành cho sinh viên khoa ngữ văn cao
đẳng sư phạm) (1997) [64] tác giả Nguyễn Công Lý khẳng định: để có một bài văn
nghị luận hoàn chỉnh, người biết phải trải qua 2 công đoạn là khâu tạo ý và khâu
hành văn. Sau đó, tác giả đã đi sâu vào trình bày kỹ khâu lập (tạo) ý. Tuy vậy, việc
đưa ra các thao tác để giúp học sinh có thể thực hiện được việc lập ý thì rất sơ sài và
chung chung.
Trong cuốn Làm văn (Giáo trình đào tạo giáo viên THCS) [2], Lê A đã đề cập
khá chi tiết đến kỹ năng lập ý ở bài văn nghị luận. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra
được các bước và thao tác lập ý dành riêng cho NLXH mà chỉ có các bước và thao
tác lập ý được dùng chung cho cả NLVH và NLXH.
Đề cập đến vấn đề lập ý trong bài văn NLXH một cách chỉn chu có thể kể đến
cuốn sách Làm văn 11 do Trần Thanh Đạm chủ biên [21]. Tác giả đã đưa ra 2 bước
lập ý:
(1) Tìm hiểu đề bài với các thao tác cụ thể sau:
- Đọc kỹ và phát hiện các yêu cầu của đề bài
- Xác định thể loại
- Xác định phạm vi tư liệu
- Xác định những yêu cầu mà đề bài phải đáp ứng
(2) Tạo dựng ý
- Định hướng thái độ đối với vấn đề nêu lên trong đề bài
- Tìm và lựa chọn ý
- Sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lý
- Tìm dẫn chứng
Tuy nhiên, những bước và thao tác mà tác giả đưa ra còn rất chung chung, mơ
hồ khó áp dụng vào thực tiễn. Tương tự như thế có thể kể đến cuốn sách giáo khoa
Ngữ văn 7 (tập 1) (2003), Ngữ văn 9 (tập 2) (2006), Ngữ văn 10 (tập 2) (2006), Ngữ
văn 12 (tập 1) (2007).
Trên đây chúng tôi đã trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và giảng dạy kĩ
năng lập ý cho loại bài NLXH trong nhà trường từ trước tới nay từ tình hình trên có
thể nêu mấy nhận xét sau đây:
1. Kĩ năng lập ý cho loại bài nghị luận nói chung là một kĩ năng rất cơ bản, thiết
yếu đối với HS. Chính vì thế mà kĩ năng này được đề cập tới rất sớm và cũng là kĩ
năng được nhiều sách chú ý tới.
2. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, kĩ năng này phần lớn chỉ được đề cập đến ở
loại đề NLVH. Hầu hết các tài liệu chưa vận dụng kĩ năng lập ý nói chung vào từng
dạng đề của loại NLXH để luyện tập cho HS, trong khi NLXH là loại bài thể hiện rõ
nhất năng lực của HS.
3. Một số tài liệu đề cập đến kĩ năng này (chủ yếu là sách CCGD) ở loại bài
NLXH, nhưng các dạng đề đưa ra phân tích, minh họa cho phần lí thuyết của kĩ
năng này hầu hết là các đề rõ ý, dễ khai thác và chưa bao quát hết được những dạng
bài tiêu biểu của loại NLXH.
4. Kĩ năng lập ý có liên quan nhiều đến các vấn đề của lí thuyết làm văn, nhưng
bản thân các vấn đề lí thuyết ấy cũng chưa được giải quyết trọn vẹn. Vì thế vấn đề
này cũng chưa được khai thác đầy đủ: cơ sở lập ý, cách triển khai ý, giới hạn và cấp
độ ý, mối quan hệ giữa kĩ năng này với các kĩ năng khác.
5. Ai cũng thấy văn nghị luận là loại văn yêu cầu kiến thức tổng hợp liên ngành.
Nhưng phần lớn chỉ chú ý tới sự tổng hợp liên ngành về phương diện nội dung ít ai
thấy để hình thành được kĩ năng làm văn nghị luận nói chung và kĩ năng lập ý nói
riêng cần phải chú ý tới tính chất tổng hợp liên ngành về phương pháp nữa. Có
nghĩa là việc rèn luyện kĩ năng lập ý không phải chỉ tiến hành đơn phương ở mình
phân môn làm văn, mà các phân môn khác cũng phải góp phần rèn luyện kĩ năng
này. Tư tưởng này rất quan trọng đối với giáo viên THPT, khi họ được đào tạo để
dạy cùng một lúc tất cả các phân môn trong bộ môn Văn ở cả khóa học (3 năm).
Như vậy, vấn đề đặt ra là phải tập trung nghiên cứu vấn đề lập ý cho loại bài NLXH
trên cả 2 phương diện nội dung và phương pháp dạy học, đề ra các biện pháp rèn
luyện kĩ năng này một cách toàn diện, đồng bộ và có kế họach.
3. Nhiệm vụ và giới hạn đề tài
3.1. Nhiệm vụ
- Mô tả khái quát một vài nét về thực trạng khả năng lập ý của học sinh
THPT trong nhà trường Việt Nam bằng các phép đo thực nghiệm, đưa ra những
số liệu cụ thể, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó và hướng giải quyết.
- Đúc kết, tổng hợp lại một số ý kiến, quan điểm, và từ các tài liệu, công
trình nghiên cứu tiêu biểu về việc lập ý.
- Dựa vào các kết quả có được từ hai bước trên, luận văn sẽ đưa ra hệ thống
phương pháp kèm theo những thao tác cụ thể tương ứng với hệ thống lý thuyết
để rèn luyện kỹ năng lập ý ở loại bài NLXH một cách hệ thống và đồng bộ, có
tính khả thi trong việc rèn luyện kỹ năng này cho học sinh THPT. Qua đó, luận
văn sẽ góp phần khắc phục tình trạng yếu kém của học sinh trong quá trình lập
ý. Đồng thời, giúp giáo viên phần nào khắc phục được tình trạng lúng túng trong
việc hướng dẫn học sinh rèn luyện những kỹ năng này.
- Luận văn cũng bước đầu giúp giáo viên và học sinh nhận thức được rằng:
Khi dạy – học làm văn nói chung cũng như khi lập ý nói riêng phải dạy – học
theo thao tác, theo mẫu nhưng phải kiên quyết chống văn mẫu. Và bước đầu
giúp cho học sinh rèn kỹ năng “xử lý” linh họat các đề bài làm văn nghị luận
theo từng yêu cầu về thời gian cụ thể. Đồng thời đem lại cho giáo viên một số
gợi dẫn về việc dạy học theo hướng tích hợp.
- Tiến hành thực nghiệm dạy học để kiểm tra hiệu quả của những hình thức
mà luận văn đã đề xuất.
3.2. Giới hạn của đề tài
Trong nhà trường THPT hiện nay văn nghị luận đã và đang được học ở hai loại
lớn đó là nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Mỗi loại có tầm quan trọng riêng.
Tuy vậy, luận văn này chỉ quan tâm đến nghị luận xã hội. Sở dĩ như vậy là vì:
- Đây là loại văn bản rất đa dạng, phong phú và được nhiều sự quan tâm
của học sinh, giáo viên và cả xã hội hiện nay.
- Từ trước đến nay, như trong phần lịch sử vấn đề đã trình bày, kỹ năng lập
ý chủ yếu chỉ được triển khai ở phần kỹ năng làm văn nghị luận nói
chung và phần lớn tài liệu chỉ chú ý khai thác loại đề nghị luận văn học.
Luận văn này chú ý tới nghị luận xã hội nhằm bổ sung cho sự khiếm
khuyết đó.
- Luận văn cũng chỉ giới hạn sự xem xét loại văn bản và loại đề tài nghị
luận xã hội trong khuôn khổ nhà trường THPT. Có nghĩa là mọi yêu cầu,
tính chất, mức độ trong việc xây dựng loại văn bản này cần và chỉ cần: cơ
bản, tiêu biểu, phù hợp với cấp học (lứa tuổi) và có tính khả thi. Để làm
được việc đó, luận văn phải dựa trên một cơ sở lý luận vững chắc của bộ
môn và các khoa học liên ngành. Rèn luyện kỹ năng lập ý cho loại bài
nghị luận xã hội cần xuất phát từ những căn cứ khoa học, tránh kinh
nghiệm chủ nghĩa, tránh mò mẫm. Nhưng cũng không phải vì thế mà đưa
ra những lý thuyết quá cao siêu phức tạp không thể áp dụng cho việc dạy
và học gây chán nản cho thầy và trò. Với tinh thần đó luận văn chỉ chú ý
xem xét và đề xuất những biện pháp nhằm rèn luyện những bước tập dượt
ban đầu rất cơ bản và quan trọng để sau này các em có thể vươn tới việc
viết được những bài nghị luận xã hội có chất lượng cao hơn. Cấp THPT
là những lớp cuối cùng của giai đoạn học phổ thông, các em sắp bước vào
những kỳ thi quan trọng và sắp bước vào đời. Vì thế luận văn cũng chú ý
đến đặc điểm này để đưa ra những định hướng và những sự chuẩn bị cần
thiết.
- Để viết được bài nghị luận có chất lượng, người học sinh cần phải rèn
luyện rất nhiều kỹ năng. Luận văn này tập trung vào kỹ năng lập ý – lập ý
ở đây được hiểu là việc tìm ra các ý, định ra được nôi dung cơ bản của
bài viết, tổ chức sắp xếp các nội dung ấy một cách hợp lý để làm sáng tỏ
mục đích cần nghị luận.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp hệ thống
Phương pháp này cho phép ta xem xét kỹ năng này một cách toàn diện từ cấu
trúc nội dung của kỹ năng lập ý đến mối quan hệ giữa nó với các yếu tố khác trong
việc xây dựng một văn bản hoàn chỉnh. Phương pháp này thể hiện trong luận văn ở
sự phân loại: phân loại văn nghị luận, phân loại kiểu và dạng nghị luận xã hội, phân
loại ý cá các cấp độ của ý, phân loại dàn ý... Phương pháp này cũng giúp tác giả
luận văn xem xét kỹ năng này trong mối quan hệ với hàng loạt các yếu tố khác như:
ý và hệ thống ý trong việc tạo ra một văn bản, quan hệ giữa kỹ năng lập ý với các
kỹ năng làm văn khác, kỹ năng lập ý trong mối quan hệ với các qui luật logic học,
tâm lý học, ngôn ngữ học... quan hệ giữa nội dung lý thuyết kỹ năng lập ý với
phương pháp rèn luyện kỹ năng này, quan hệ giữa các phân môn trong việc rèn kỹ
năng lập ý...
4.2 Phương pháp thực nghiệm khoa học
Luận văn tiến hành hai loại thực nghiệm đó là thực nghiệm điều tra và thực
nghiệm dạy học.
Thực nghiệm điều tra: Đối tượng điều tra khảo sát chính là bài làm và việc làm
dàn ý của học sinh. Mục đích điều tra là xác định được thực trạng của vấn đề dạy –
học lập ý bằng những số liệu từ những phép đo cụ thể.
Thực nghiệm dạy học: Loại thực nghiệm này nhằm đưa ra những hình thức rèn
luyện kỹ năng lập ý mà luận văn đề xuất vào dạy học cụ thể ở trường THPT để
kiểm tra hiệu quả của chúng.
4.3 Các phương pháp khác
Ngoài hai phương pháp trên, trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn còn vận
dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê – phân loại, phương
pháp miêu tả, phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu – so sánh...
Chương 1: THỰC TRẠNG DẠY – HỌC LẬP Ý
Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
1.1. Nghiên cứu khả năng lập ý của học sinh
Theo quan điểm của tác giả luận văn, bộ môn phương pháp giảng dạy phải là bộ
môn phục vụ thiết thân nhất cho những người làm công tác giáo dục bộ môn Ngữ
văn ở các cấp và những đề tài về phương pháp phải là những đề tài gắn liền với thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn. Đồng thời tác giả luận văn cũng mong muốn vấn đề
“Rèn kỹ năng lập ý ở loại bài NLXH cho HS THPT” là một vấn đề của thực tế công
tác, xuất phát từ thực tế công tác và có thể góp phần thiết thực nhất vào công cuộc
đổi mới phương pháp dạy học bộ môn hiện nay.
Chính vì thế, tác giả luận văn xác định phần thực trạng dạy – học lập ý ở trường
THPT hiện nay là một trong những phần quan trọng, đòi hỏi phải có sự phản ánh
trung thực, chính xác, toàn diện để lấy đó là cơ sở đề ra những biện pháp giải quyết
vấn đề một cách tốt nhất.
Xuất phát từ tinh thần nêu trên, tác giải luận văn xây dựng phần nghiên cứu khả
năng lập ý của HS với những nội dung sau:
1.1.1. Mục đích – đối tượng – mẫu khảo sát và phạm vi khảo sát
1.1.1.1 Mục đích: Bằng phép đo, xác định được năng lực lập ý của HS
THPT đối với loại bài NLXH.
1.1.1.2 Đối tượng: Học sinh khối lớp 10 trung học phổ thông.
1.1.1.3 Mẫu khảo sát và phạm vi khảo sát: Tác giả luận văn tiến hành khảo
sát ở các trường có trình độ học sinh từ trung bình đến khá giỏi trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh để có cái nhìn khách quan, chính xác và bao quát
nhất về thực trạng lập ý cho bài văn nghị luận xã hội của học sinh.
1.1.2. Phép đo: Chúng tôi đã tiến hành 03 cách đo như sau:
1.1.2.1 Cách thứ nhất: Cho một đề văn (NLXH), yêu cầu học sinh làm dàn
ý trong thời gian 10 – 15 phút. Sau đó chấm dàn ý và thống kê kết quả. Qui
định 10 – 15 phút theo chúng tôi, đó là thời gian cần thiết để HS lập ý trước
khi bắt tay vào viết thành văn (bài làm văn thời gian từ 120 – 180 phút).
Cách này gọi là phép đo 1.
1.1.2.2 Cách thứ hai: Ra một ._.đề văn NLXH yêu cầu HS làm dàn ý đại
cương và triển khai dàn ý đại cương đó thành một bài văn hoàn chỉnh tại nhà,
sau đó chấm dàn ý và bài văn. Ở phép đo này, người chấm phải tiến hành
bước chấm dàn ý và bài văn kết hợp với việc so sánh kết quả của dàn ý và
bài văn xem chúng có tỷ lệ thuận với nhau không, từ đó mà đánh giá kết quả
ở nhiều khía cạnh khác nhau. (Cách này gọi là phép đo 2)
1.1.2.3 Cách thứ ba: Ngoài hai phép đo cơ bản trên, chúng tôi cũng đã tiến
hành điều tra HS và GV để xác định thực trạng lập dàn ý của HS THPT hiện
nay? (Cách này gọi là phép đo 3)
1.1.3. Cách đánh giá kết quả
Để xác định được năng lực lập ý của HSTHPT trong quá trình thực
nghiệm điều tra này, chúng tôi áp dụng 4 cách đánh giá sau đây:
1.1.3.1 Đánh giá kết quả đạt và không đạt yêu cầu về lập ý
Theo tác giả luận văn, một dàn ý thiết thực với HS THPT, làm trong thời
gian qui định trên được đánh giá đạt yêu cầu là:
Mở bài: Nêu được luận đề (ý khái quát bao trùm toàn bài mà thân bài
phải làm sáng tỏ).
Thân bài: Nêu được các luận điểm (ý lớn) và các ý này đều tập trung
làm sáng tỏ cho luận đề đã nêu ở mở bài. Số lượng luận điểm tuỳ
thuộc vào nội dung cụ thể của từng đề văn được giao.
Kết bài: Nêu ý tóm tắt, nhấn mạnh nội dung chính toàn bài. Rút ra
được bài học cho bản thân.
(Ngoài yêu cầu dàn ý nêu trên, tất nhiên bài làm đạt yêu cầu không
được mắc các lỗi cơ bản về lập ý.)
1.1.3.2 Đánh giá các lỗi về lập ý mà HS thường mắc phải
- Lỗi thiếu ý: Là loại lỗi mà đề bài yêu cầu 3 luận điểm HS chỉ nêu được 1
hoặc 2.
- Lỗi trùng lặp ý: Là loại lỗi mà các luận điểm có sự trùng lặp hoặc bao
hàm lẫn nhau.
- Lỗi lạc ý: Là loại lỗi mà HS xác định sai luận đề, đề ra một nơi, người
viết một nẻo gọi là lạc đề. Hoặc bài xác định đúng luận đề, nhưng các
luận điểm không thuộc luận đề, không làm sáng tỏ cho luận đề đó. (thừa
ý là một trường hợp của lạc ý).
- Lỗi lôgic: Là loại lỗi mà các luận điểm được sắp xếp một cách lộn xộn,
không theo một trình tự nào hoặc trật tự các luận điểm không thích hợp
hoặc luận điểm mà bài làm đưa ra chỉ là luận cứ (ý nhỏ tương đương với
ý lớn), hoặc các luận điểm mâu thuẫn với nhau, hoặc trong dàn ý có luận
điểm 1 mà không có luận điểm 2.
- Không biết làm dàn ý: Là loại lỗi mà ở bài làm HS viết luôn thành văn,
không phân biệt mở bài, thân bài, kết bài; luận đề, luận điểm, luận cứ.
Hoặc phần mở bài và kết bài viết luôn thành văn, không có phần mở bài,
kết bài…
1.1.3.3 Đánh giá mức độ quan trọng của việc lập dàn ý đối với kết quả
của một bài văn
Với đánh giá này, chúng ta sẽ xem xét và rút ra những kết luận bước đầu về
ảnh hưởng của việc lập ý đối với kết quả chung của bài làm. Từ đó, giúp cho giáo
viên, học sinh và ngừoi đọc nói chung thật sự nhận thức được tầm quan trọng của
việc lập ý trước khi bắt tay vào viết một bài làm văn. Ngoài những cách đánh giá
kết quả cơ bản nêu trên, tác giả luận văn cũng tiến hành điều tra HS và GV để đánh
giá thực trạng năng lực lập ý của HS THPT trên địa bàn TP. HCM hiện nay.
1.1.4. Thực nghiệm đo thực trạng lập ý của HS THPT
Tác giả luận văn đã tiến hành thực nghiệm đo năng lực lập ý của HS lớp 10
các trường THPT Diên Hồng, THPT Lê Minh Xuân, THPT Trần Quang Khải,
THPT Nguyễn Văn Cừ, THPT Nguyễn Du, THPT Hùng Vương, THTH ĐHSP Tp.
HCM, THPT Lê Hồng Phong.
Tác giả luận văn chọn đối tượng HS lớp 10 để tiến hành khảo sát, đề ra phương
pháp rèn luyện và thực nghiệm rèn cách lập ý cho bài văn NLXH vì 3 lý do sau:
- Dạy môn Ngữ văn nói chung và làm văn nói riêng, muốn có hiệu quả thật sự
phải được tiến hành trong thời gian dài, với HS lớp 10 chúng ta sẽ có một
thời gian dài (3 năm) để giúp các em rèn luyện kỹ năng lập ý.
- Nếu HS được trang bị kỹ năng lập dàn ý bài bản, có hiệu quả ngay từ năm
lớp 10 thì sẽ giúp các em một cách thiết thực và hiệu quả trong quá trình học
tập môn Văn của chương trình THPT.
- HS lớp 10 mới vừa được học và tiếp xúc với chương trình làm văn ở cấp 2,
đặt biệt là năm lớp 9. Chọn HS lớp 10, chúng tôi một mặt muốn khảo sát
hiệu quả của chương trình làm văn, tình hình giảng dạy làm văn đặc biệt là
giảng dạy kỹ năng lập dàn ý của HS ở cấp 2; mặt khác, chúng tôi muốn nhấn
mạnh đến khía cạnh: việc dạy kỹ năng làm văn nói chung và dạy kỹ năng lập
ý nói riêng phải được tiến hành một cách liên tục và thường xuyên.
Cụ thể như sau:
Ở phép đo 1, tổng số HS tham gia 355 em, thời gian làm thực nghiệm tháng
2 năm 2009.
Ở phép đo 2, tổng số HS tham gia 206 em (nhưng làm tròn thành 200 bài để
đo kết quả), thời gian làm thực nghiệm tháng 2 năm 2009.
Ở phép đo 3 (phép đo bổ sung), tổng số HS tham gia là 1125 em (số phiếu
hợp lệ là 1040 phiếu), tổng số GV tham gia là 24 thầy cô.
Căn cứ vào thực tế giảng dạy của bản thân và thực tế học tập của học sinh tại
trường THPT, tác giả luận văn nhận thấy loại dàn bài chi tiết (dàn bài bao gồm luận
đề, luận điểm và luận cứ) không có khả năng ứng dụng vào quá trình làm bài của
học sinh mà chí có loại dàn bài đại cương (dàn bài chỉ bao gồm luận đề, luận điểm)
mới có “đất dụng võ”. Vì thế trong quá trình điều tra thực trạng năng lực lập ý và
rèn luyện kỹ năng lập ý cho học sinh ở loại bài NLXH, tác giả luận văn chú trọng
đến việc rèn kỹ năng lập dàn ý đại cương cho học sinh. Cũng chính vì vậy, trong
quá trình khảo sát học sinh, xây dựng dàn ý chuẩn để làm căn cứ đánh giá, xây dựng
dàn bài mẫu cho các bài tập thực hành, xây dựng phương pháp lập dàn ý, xây dựng
giáo án thực nghiệm… tác giả luận văn đều thiết kế để giúp học sinh rèn luyện thật
tốt kỹ năng lập dàn ý đại cương cho bài văn NLXH.
1.1.4.1 Phép đo 1:
Bài tập: Hãy lập dàn ý đại cương cho đề bài sau trong thời gian 15
phút: “Anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý nghĩa của câu ngạn ngữ
Hy Lạp: Học – hành có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại
ngọt ngào.”
Yêu cầu dàn ý chuẩn:
Mở bài: Giới thiệu khái quát câu ngạn ngữ: Việc học – hành là công việc
hết sức gian nan nhưng thành quả mà nó mang lại thì vô cùng hạnh phúc
và vẻ vang.
Thân bài:
- Giải thích: khái niệm “học”, ‘hành”; hình ảnh “chùm rễ đắng cay”,
“hoa quả ngọt ngào”; tại sao “học vấn lại là chùm rễ đắng cay”,
“những chùm hoa trái của học – hành lại ngọt ngào”
- Nêu những khó khăn, gian khổ của việc học – hành
- Nêu tác dụng, thành quả của việc học – hành
- Nêu nhận thức và hành động của bản thân
Kết bài:
- Tóm tắt sự gian khổ của việc học – hành và nhấn mạnh thành quả do
việc học – hành đem lại
- Bài học rút ra cho bản thân.
Kết quả đo:
Kết quả tổng hợp (số HS đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu)
Tổng số bài Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
355 75 = 21,1% 280 = 78,9%
Thống kê kết quả các loại lỗi về lập ý HS thường gặp:
- Trong quá trình tiến hành thực nghiệm và khảo sát, tác giả luận văn nhận
thấy ở hầu hết tất cả các bài làm của HS đều mắc nhiều loại lỗi khác nhau và trong
số lỗi đó có 1-2 lỗi tiêu biểu. Hơn thế, bất kỳ lớp nào và trường nào được khảo sát
ngay tại lớp hay cho về nhà làm cũng mắc phải các lỗi tương tự nhau.
- Sau đây là bảng thống kê cụ thể:
Tổng
số bài Thiếu ý Lạc ý Lôgic Trùng ý
Không
biết làm
355
312 =
90,4%
140 =
39,4%
165 =
46,5%
62 =
17.5%
167 = 47%
(Lưu ý: Một bài làm của HS có thể mắc nhiều loại lỗi khác nhau, cho nên chỉ tính
từng loại lỗi so với tổng số bài)
1.1.4.2 Phép đo 2:
Bài tập: Hãy lập dàn ý đại cương và triển khai dàn ý đại cương đó
thành một bài văn hoàn chỉnh cho đề bài sau “Anh/chị hãy giải thích
và làm sáng tỏ ý nghĩa của ý kiến: Học – hành cũng như việc chèo
thuyền vượt thác.”
Yêu cầu dàn ý chuẩn:
Mở bài: Giới thiệu khái quát câu ngạn ngữ: Việc học – hành là công việc
hết sức gian nan đòi hỏi phải có niềm tin, lòng quyết tâm, sự kiên trì, can
đảm, sáng tạo...
Thân bài:
- Giải thích: khái niệm “học”, ‘hành”; hình ảnh “chèo thuyền vượt
thác”; tại sao “Học – hành cũng như việc chèo thuyền vượt thác”
- Việc học – hành là công việc vô cùng gian khó
- Việc học – hành đòi hỏi phải có niềm tin, lòng quyết tâm, sự kiên trì,
can đảm, sáng tạo...
- Nêu nhận thức và hành động của bản thân
Kết bài:
- Tóm tắt sự gian khổ của việc học – hành và nhấn mạnh yếu tố kiên trì,
can đảm, sáng tạo... trong quá trình học – hành
- Bài học rút ra cho bản thân.
Kết quả đo:
Kết quả tổng hợp (số HS đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu)
Tổng số bài Đạt yêu cầu Không đạt yêu cầu
200 59 = 29,5% 141 = 70,5%
Thống kê kết quả các loại lỗi về lập ý HS thường gặp:
Tổng số
bài
Thiếu ý Lạc ý Lôgic Trùng ý Không biết
làm
200 179 =
89,5%
118 =
59%
144 =
72%
42 = 21% 37 =
18,5%
(Lưu ý: Một bài làm của HS có thể mắc nhiều loại lỗi khác nhau, cho nên chỉ tính
từng loại lỗi so với tổng số bài)
Thống kê về tầm ảnh hưởng của việc lập dàn ý đối với kết quả của bài làm
Thống kê 1
Tổng số bài Tổng số bài có
dàn ý đạt yêu
cầu
Số bài có dàn ý
đạt yêu cầu và
bài làm đạt yêu
cầu
Số bài có dàn ý
đạt yêu cầu và
bài làm không
đạt yêu cầu
200 59 49 = 83,1% 10 = 16,9%
Thống kê 2
Tổng số bài Tổng số bài có
dàn ý không
đạt yêu cầu
Số bài có dàn ý
không đạt yêu
cầu và bài làm
đạt yêu cầu
Số bài có dàn ý
đạt yêu cầu và
bài làm không
đạt yêu cầu
200 141 13 = 9,2% 128 90,8%
1.1.4.3 Phép đo 3:
Tác giả luận văn đã tiến hành phỏng vấn HS về thực trạng lập ý bằng
phiếu với 5 câu hỏi và phỏng vấn GV bằng phiếu với 9 câu hỏi, kết quả như
sau:
Thống kê kết quả phiếu khảo sát HS:
Câu hỏi 1: Trong 3 phân môn của bộ môn Ngữ Văn, em
thấy phân môn nào là khó nhất?
Tổng số HS tham gia
trả lời
1040
Câu trả lời
Làm văn 874 = 84%
Đọc văn 66 = 6,4%
Tiếng việt 100 = 9,6%
Câu hỏi 2: Khi làm một bài văn nghị luận xã hội, em thấy
khó nhất là khâu nào? (chỉ được trả lời 1
khâu)
Tổng số HS tham gia
trả lời
1040
Câu trả lời
Lập dàn ý 423 = 41,5%
Viết phần mở bài 92 = 8,8%
Viết phần kết bài 35 = 3,4%
Viết phần chuyển ý 481 = 46,3%
Câu hỏi 3: Nếu phải chọn để bổ sung thêm kiến thức và
kỹ năng nhằm giúp cho bài làm văn của em tốt
hơn, em sẽ chọn phân môn nào?
Tổng số HS tham gia
trả lời
1040
Câu trả lời
Làm văn 641 = 61,6%
Đọc văn 262 = 25,5%
Tiếng việt 137 = 13,2 %
Câu hỏi 4: Em có lập dàn ý trước khi viết một bài văn
không?
Tổng số HS tham gia
trả lời
1040
Câu trả lời
Thường xuyên 59 = 5,7%
Thỉnh thoảng 274 = 26,3%
Ít khi 418 = 40,2%
Không 289 = 27,8%
Câu hỏi 5: Trong giờ làm văn, em mong muốn ở
GV điều nào sau đây?
Tổng số HS tham gia trả lời 1040
Câu trả lời
Chú ý nhiều đến việc rèn
luyện khả năng lập ý của HS.
Đồng thời hướng dẫn cụ thể
cách vận dụng kiến thức và
cách làm một bài làm văn
819 = 78,8%
Cung cấp thật nhiều kiến thức 263 = 25,3%
Đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt
cụ thể
315 = 30,3%
Thống kê phiếu khảo sát GV:
Tiêu chí đánh giá Đồng ý
Đánh giá về KHẢ NĂNG LẬP Ý CÚA HS
- Khả năng lập ý trong làm văn NLXH của HS hiện nay là
TỐT
- Khả năng lập ý trong làm văn NLXH của HS hiện nay là
KHÁ
- Khả năng lập ý trong làm văn NLXH của HS hiện nay là
TRUNG BÌNH
- Khả năng lập ý trong làm văn NLXH của HS hiện nay là
YẾU
0%
5,5%
16,7%
77,8%
Đánh giá về TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY LẬP Ý CỦA
GV
- Dạy làm văn NLXH khó hơn so với dạy đọc văn và
tiếng việt
- Dạy làm văn NLXH dễ hơn so với dạy đọc văn và tiếng
việt
- Dạy làm văn NLXH GV còn gặp những khó khăn vì
việc đào tạo, tổ chức bồi dưỡng GV về kỹ năng dạy học
làm văn chưa thiết thực và hiệu quả
100%
0%
5,6%
- Dạy làm văn NLXH GV còn gặp những khó khăn vì
tư liệu mang tính ứng dụng thực hành cao phục vụ cho
môn học còn ít
- Dạy làm văn NLXH GV còn gặp những khó khăn vì
HS không chăm, thiếu kĩ năng tự học, bị hổng kiến thức
từ cấp dưới
- Dạy làm văn NLXH GV còn gặp những khó khăn vì
thời lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng
tiết dạy quá ít
- Dạy làm văn NLXH GV còn gặp những khó khăn vì
chương trình SGK còn nhiều kiến thức xa lạ và trừu
tượng đối với học sinh, khó áp dụng vào thực tiễn, chưa
mang tính thực hành cao, còn thiếu đồng nhất
- Các thầy cô còn cảm thấy lúng túng khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH ở việc đưa ra một qui trình lập ý mang
tính ứng dụng, thực hành cao đồng thời với việc hướng
dẫn học sinh vận dụng hiệu quả qui trình ấy vào thực tế
học tập
- Các thầy cô còn cảm thấy lúng túng khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH ở việc hướng dẫn học sinh áp dụng các
kiến thức lý thuyết ở SGK để thực hành lập ý
- Các thầy cô còn cảm thấy lúng túng khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH ở việc thiết kế một giáo án dạy lập ý hiệu
quả
- Các thầy cô còn cảm thấy lúng túng khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH ở việc đưa ra các biện pháp để học sinh
chuẩn bị bài ở nhà thật tốt
- Các thầy cô còn cảm thấy lúng túng khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH ở việc đưa ra các biện pháp và hệ thống
55,6%
83,3%
88,9%
77,8%
61,1%
83,3%
72,2%
38,9%
16,7%
bài tập giúp học sinh luyện tập thêm hiệu quả ở nhà
Đánh giá về CÁC ĐIỀU KIỆN PHỤC VỤ CHO VIỆC
GIẢNG DẠY
- Để dạy kỹ năng lập ý trong bài làm văn NLXH tốt, cần
trang bị cho HS hệ thống các kỹ năng làm văn một cách
bài bản từ cấp dưới
- Để dạy kỹ năng lập ý trong bài làm văn NLXH tốt, cần
trang bị đầy đủ cho GV SGK, SGV, tài liệu tham khảo
có khả năng áp dụng, thực hành cao
- Để dạy kỹ năng lập ý trong bài làm văn NLXH tốt, cần
dạy cho HS cách học, cách suy nghĩ, kỹ năng giải quyết
vấn đề không cần nặng về truyền thụ kiến thức
- Để dạy kỹ năng lập ý trong bài làm văn NLXH tốt, cần
thay đổi cách đánh giá họat động dạy học của giáo viên
- Chương trình SGK cần biên soạn có hệ thống, gần gũi
với HS, mang tính ứng dụng-thực hành cao và tinh giản
hơn
- Thay đổi cách đánh giá-kiểm tra, thi cử của HS
- Tăng thời lượng dạy học làm văn trên lớp
- Dạy cho HS phương pháp, cách thức làm văn và phương
pháp, cách thức vận dụng kiến thức đọc văn, tiếng việt
để làm văn
- Tỉ lệ giữa việc dạy văn nghị luận xã hội và việc dạy văn
nghị luận văn học ở trường THPT hiện nay là cân đối,
hợp lý
- Tỉ lệ giữa việc dạy văn nghị luận xã hội và việc dạy văn
nghị luận văn học ở trường THPT hiện nay không cân
đối, hợp lý
77,8%
66,7%
61,1%
90,3%
72,2%
72,2%
75%
61,1%
55,6%
5,5%
- Tỉ lệ giữa việc dạy văn nghị luận xã hội và việc dạy văn
nghị luận văn học ở trường THPT hiện nay tạm được
33,3%
Đánh giá về NHỮNG HIỆN TƯỢNG CÒN TỒN TẠI
VÀ MỨC ĐỘ TỒN TẠI TRONG THỰC TẾ DẠY
HỌC MÔN LÀM VĂN HIỆN NAY
- Không có GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng để
dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
- Có ít GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng để dạy
lí thuyết và kĩ năng làm văn
- Có nhiều GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng để
dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
- Có rất nhiều GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng
để dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
- Không có GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
trong giờ trả bài
- Có ít GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn trong
giờ trả bài
- Có nhiều GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
trong giờ trả bài
- Có rất nhiều GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm
văn trong giờ trả bài
- Không có GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng một cách
hào hứng
- Có ít GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng một cách hào
hứng
- Có nhiều GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng một cách hào
hứng
- Có rất nhiều GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng một cách
hào hứng
38,9%
16,7%
16,7%
27,8%
11,1%
55,6%
22,2%
11,1%
16,7%
66,7%
5,5%
5,5%
- Không có GV dạy tiết trả bài một cách hào hứng
- Có ít GV dạy tiết trả bài một cách hào hứng
- Có nhiều GV dạy tiết trả bài một cách hào hứng
- Có rất nhiều GV dạy tiết trả bài một cách hào hứng
- Không có GV dạy các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn một
cách đơn điệu, chiếu lệ
- Có ít GV dạy các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn một
cách đơn điệu, chiếu lệ
- Có nhiều GV dạy các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn một
cách đơn điệu, chiếu lệ
- Có rất nhiều GV dạy các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn
một cách đơn điệu, chiếu lệ
- Không có GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán, chiếu
lệ
- Có ít GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán, chiếu lệ
- Có nhiều GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán, chiếu
lệ
- Có rất nhiều GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán,
chiếu lệ
- Không có GV thật sự lúng túng, không biết bằng cách
nào để rèn kĩ năng lập ý cho HS
- Có ít GV thật sự lúng túng, không biết bằng cách nào để
rèn kĩ năng lập ý cho HS
- Có nhiều GV thật sự lúng túng, không biết bằng cách
nào để rèn kĩ năng lập ý cho HS
- Có rất nhiều GV thật sự lúng túng, không biết bằng cách
nào để rèn kĩ năng lập ý cho HS
- Không có tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết sửa câu sai,
từ sai, chữ sai
16,7%
55,6%
22,2%
5,5%
11,1%
27,8%
16,7%
44,4%
16,7%
33,3%
22,2%
33,3%
11,1%
44,4%
33,3%
11,1%
11,1%
- Có ít tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết sửa câu sai, từ sai,
chữ sai
- Có nhiều tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết sửa câu sai, từ
sai, chữ sai
- Có rất nhiều tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết sửa câu
sai, từ sai, chữ sai
5,5%
44,4%
38,9%
1.2. KẾT LUẬN VỀ NĂNG LỰC LẬP Ý CỦA HS VÀ THỰC TRẠNG
DẠY HỌC LẬP Ý Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY:
Từ kết quả của những phép đo nêu trên, tác giả luận văn xin đưa ra một số
nhận xét về năng lực lập ý của HS và thực trạng dạy học lập ý ở trường THPT
hiện nay, cụ thể như sau:
1.2.1. Về năng lực lập ý của HS
Căn cứ vào kết quả tổng hợp của phép đo 1 và phép đo 2 thì có đến 74.7%
học sinh được khảo sát không đạt yêu cầu về lập ý, do đó ta có thể dễ dàng
khẳng định năng lực lập ý của đa số HS THPT hiện nay rất yếu. Cũng căn cứ
vào kết quả tổng hợp của phép đo 1 và phép đo 2, chúng ta có thể thấy những lỗi
phổ biến mà đa số HS thường mắc phải trong quá trình lập dàn ý đó là lỗi thiếu
ý (90% học sinh mắc lỗi này), lỗi logic (59.3% học sinh mắc lỗi này), đặc biệt
lỗi không biết làm dàn ý cũng có khá nhiều HS mắc phải.
Căn cứ vào kết quả của phiếu phỏng vấn GV thì không 0% GV cho rằng khả
năng lập ý của HS hiện nay là tốt và có đến 77,8% GV cho rằng khả năng lập ý
của HS hiện nay là yếu.
1.2.2. Về thực trạng lập ý của HS
Có đến 40.2% HS ít khi lập dàn ý và 27.8% HS không lập dàn ý trước khi
viết một bài làm văn trong khi số HS thường xuyên làm công đoạn này chỉ có
5.7%. Đa số HS (41.5%) cho rằng khâu khó nhất khi làm một bài văn NLXH là
khâu lập dàn ý. Thậm chí, có đến 84% HS có cảm nhận rằng, phân môn làm văn
là phân môn rất khó để tiếp thu.
Trong quá trình học tập phân môn làm văn nói chung và văn NLXH nói
riêng, 78.8% HS được khảo sát mong muốn giáo viên chú ý nhiều đến việc rèn
khả năng lập ý của các em kết hợp với việc cung cấp, hướng dẫn cụ thể cách vận
dụng kiến thức và cách làm một bài làm văn. Đặc biệt, nếu có quyền được lựa
chọn 1 trong 3 phân môn của bộ môn Ngữ văn để học thêm giờ thì có đến 61.6%
HS chọn phân môn làm văn.
1.2.3. Về thực trạng giảng dạy của GV
Đại đa số GV nhận thấy việc dạy làm văn nói chung và dạy làm văn NLXH
nói riêng rất khó khăn. 100% GV được khảo sát nhận thấy việc dạy làm văn nói
chung và dạy làm văn NLXH nói riêng khó hơn so với dạy đọc văn và tiếng việt.
Các khó khăn mà GV thường gặp phải đó là: chương trình SGK còn nhiều kiến
thức trừu tượng, khó hiểu đối với học sinh, khó áp dụng vào thực tiễn, chưa
mang tính thực hành cao, còn thiếu đồng nhất (61.1%); tư liệu mang tính ứng
dụng thực hành cao phục vụ cho môn học còn ít (83.3%); HS không chăm, thiếu
kĩ năng tự học, bị hổng kiến thức từ cấp dưới (88.9%); thời lượng phân phối cho
phân môn làm văn và cho từng tiết dạy quá ít (77.8%).
Cũng chính vì vậy, có đến 83.3% GV còn cảm thấy lúng túng ở việc đưa ra
các biện pháp và hệ thống bài tập giúp học sinh luyện tập thêm hiệu quả ở nhà;
hướng dẫn học sinh áp dụng các kiến thức lý thuyết ở SGK để thực hành lập ý;
việc đưa ra một qui trình lập ý mang tính ứng dụng, thực hành cao đồng thời với
việc hướng dẫn học sinh vận dụng hiệu quả qui trình ấy vào thực tế học tập
Trong quá trình dạy học làm văn nói chung và dạy làm văn NLXH nói riêng
vẫn còn tồn tại những hiện tượng: GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng để
dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn (16.7% GV được khảo sát xác nhận điều này);
có khá ít GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn trong giờ trả bài (55.5%
GV được khảo sát xác nhận điều này); rất ít GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng
một cách hào hứng (66.7% GV được khảo sát xác nhận điều này); đa số GV dạy
các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn một cách đơn điệu, chiếu lệ (44.4% GV được
khảo sát xác nhận điều này); khá nhiều GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán,
chiếu lệ (33.3% GV được khảo sát xác nhận điều này); vẫn còn khá đông GV
thật sự lúng túng, không biết bằng cách nào để rèn kĩ năng lập ý cho HS (33.3%
GV được khảo sát xác nhận điều này); đại đa số tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết
sửa câu sai, từ sai, chữ sai (trên 44.4% GV được khảo sát xác nhận điều này)
Nguyên nhân của những vấn đề nêu trên là do: HS quen cách học theo bài
mẫu ở cấp 2 nên lười tư duy, không chịu thực hành, chưa được trang bị một cách
hệ thống các kỹ năng làm văn một cách bài bản từ cấp dưới, không có điều kiện
rèn luyện nhiều, kiến thức xã hội hạn chế, nhiều HS học đối phó, không chăm;
tư liệu ít, tư liệu đã có thì lạc hậu và GV chưa được trang bị đầy đủ tài liệu phục
vụ cho giảng dạy có khả năng áp dụng, thực hành cao; cách đánh giá họat động
dạy học của giáo viên có nhiều điểm chưa hợp lý; Chương trình SGK biên soạn
còn hàn lâm, chưa mang tính ứng dụng-thực hành cao, chưa có độ tinh giản hợp
lý, và nội dung chưa đáp ứng được yêu cầu dạy cho HS cách học, cách suy nghĩ,
kỹ năng giải quyết vấn đề mà còn nặng về truyền thụ kiến thức; cách đánh giá-
kiểm tra, thi cử của HS còn nhiều bất cập; thời lượng phân phối chương trình
cho môn văn còn quá ít và chưa hợp lý giữa số tiết dành cho lý thuyết và thực
hành trong nội bộ phân môn làm văn; văn NLXH cần có kiến thức thực tế rộng,
lập luận chặt chẽ; giờ học khô khan, các vấn đề đưa ra bàn luận còn đơn điệu
nhàm chán, đa số HS không thích thú thậm chí xem thường học văn; GV chưa
chú trọng dạy NLXH; tỷ lệ giữa việc dạy văn nghị luận xã hội và việc dạy văn
nghị luận văn học ở trường THPT hiện nay chưa thật sự hợp lý. Đa số GV đều
cho rằng để việc dạy và học phân môn làm văn nói chung và văn NLXH nói
riêng cần phải khắc phục tất cả những nguyên nhân dẫn đến thực trạng dạy – học
đã nêu ở trên. Đồng thời phải có một qui trình hóa hệ thống các thao tác lập ý
khả thi trong quá trình dạy-học lập ý.
1.2.4. Về tầm quan trọng của việc lập dàn ý
Qua kết quả thống kê về tầm ảnh hưởng của việc lập dàn ý đối với kết quả
của bài làm có thể khẳng định nếu một HS có kỹ năng lập dàn ý tốt thì bài làm
của HS đó sẽ đạt kết quả cao (có đến 83.1% số bài có dàn ý đạt yêu cầu và bài
làm đạt yêu cầu), ngược lại nếu một HS có kỹ năng diễn đạt tốt nhưng kỹ năng
lập dàn ý không tốt thì có đến 90,8% bài làm của HS đó không đạt yêu cầu.
Từ những kết luận nêu trên, một lần nữa chúng ta lại thấy được sự cấp thiết
phải rèn luyện cho học sinh kỹ năng lập ý và cũng một lần nữa có thể khẳng
định: Lập ý là một kỹ năng quan trọng cần hình thành và rèn luyện. Thế nhưng,
chúng ta đã, đang và sẽ phải bắt đầu từ một mặt bằng chất lượng về lập ý rất
thấp. Vì thế rèn kỹ năng lập ý cho HS THPT hiện nay là một vấn đề vô cùng cấp
bách và cũng cực kỳ nan giải. Theo tác giả luận văn, để thực hiện thành công
phải xác định và xây dựng được một hệ thống lý thuyết tinh giản, nhưng đầy đủ,
dễ hiểu dễ nhớ, mang tính thực hành cao. Đặc biệt phải đề ra được một qui trình
lập ý với các thao tác lập ý cụ thể để căn cứ vào đó hướng dẫn học sinh thực
hành một cách hiệu quả nhất.
Chương 2:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT XUNG QUANH KỸ NĂNG
LẬP Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
2.1. Khái quát về văn nghị luận và kiểu bài NLXH
2.1.1. Khái niệm, vị trí
2.1.1.1. Khái niệm
Văn nghị luận là một thể loại nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ,
quan điểm của người viết (người nói) bằng cách dùng lý lẽ, dẫn chứng và cả những
ý kiến bàn bạc mở rộng với một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn, những lập luận
chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục... để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó nhằm
thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình và hành động theo những
điều mà người viết (người nói) đề xuất.
2.1.1.2. Vị trí
Văn nghị luận đã hình thành từ xa xưa và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Trong thời đại ngày nay, văn nghị luận đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và hướng dẫn, thúc đẩy họat động thực tiễn của con người.
Do đó, học làm văn nghị luận là một công việc trọng yếu của việc học văn
trong nhà trường, đặc biệt là nhà trường THPT. Bởi lẽ, ở tất cả các kỳ thi của bậc
học này thì văn nghi luận đều có mặt và ảnh hưởng lớn đến kết quả bộ môn cũng
như kết quả chung của học sinh.
Ví dụ 1: Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2009. Trong phần chung dành cho tất
cả các thí sinh có câu (3,0 điểm) yêu cầu học sinh làm văn nghị luận xã hội với đề
bài như sau: “Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý
kiến về tác dụng của việc đọc sách.”
(Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2009)
Ví dụ 2: Đề thi đại học năm 2009 (khối D). Trong phần chung dành cho tất
cả các thí sinh có câu (3,0 điểm) yêu cầu học sinh làm văn nghị luận xã hội với đề
bài như sau: “Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn
sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa”. (Theo sách Dám thành công –
Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr.90)”
(Đề thi đại học năm 2009-khối D)
Hơn thế, văn nghị luận đặt ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi
người học sinh phải giải quyết, từ đó giúp các em vận dụng tổng hợp các tri thức từ
tự nhiên đến xã hội, rèn luyện kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ, khả năng tư duy
logic khoa học, nghĩa là có phương pháp tư duy đúng để hiểu đúng vấn đề và có thái
độ đúng trước các sự việc xảy ra trong cuộc sống. Từ đó góp phần tích cực vào việc
xây dựng và hoàn thiện nhân cách người học sinh.
2.1.2 Các yếu tố tạo nên nội dung và cấu trúc bài văn NLXH
Nội dung và cấu trúc của một bài nghị luận được hình thành từ các yếu tố
cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề), luận điểm, luận cứ (bao gồm
cả lý lẽ và dẫn chứng), lập luận (còn gọi là luận chứng)
Luận đề trong bài nghị luận là vấn đề bao trùm cần được làm sáng tỏ, cần
được đem ra để bàn luận, để bảo vệ, để chứng minh trong toàn bộ bài viết.
Ví dụ: Với đề bài “Anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý nghĩa của câu
ngạn ngữ Hy Lạp: Học – hành có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt
ngào.” [86, Trần Đình Sử] có thể đưa ra luận đề: Việc học – hành là công việc hết
sức gian nan nhưng thành quả mà nó mang lại thì vô cùng hạnh phúc và vẻ vang.
Ví dụ: Với đề bài “Anh/chị hãy giải thích và làm sáng tỏ ý nghĩa của ý kiến:
Học – hành cũng như việc chèo thuyền vượt thác.” [47, Lê Huy-Ngô Thanh Tùng]
có thể đưa ra luận đề: Việc học – hành là công việc hết sức gian nan đòi hỏi phải có
niềm tin, lòng quyết tâm, sự kiên trì, can đảm, sáng tạo...
Luận điểm (còn gọi là ý lớn) là những ý kiến, quan điểm chính được nêu ra
ở trong bài văn nghị luận. Luận điểm thường được thể hiện bằng một phán đoán
(câu văn) mang ý nghĩa khẳng định những tính chất, những thuộc tính của vấn đề,
những nội dung được triển khai để làm sáng tỏ cho luận đề. Các luận điểm trong bài
nghị luận được sắp xếp, trình bày theo một hệ thống hợp lý, đầy đủ và được triển
khai bằng những hệ thống luận cứ hợp lý để làm sáng tỏ vấn đề mà luận điểm đặt
ra.
Ví dụ: Từ luận đề Sống đẹp của đề bài “Anh/chị hãy trả lời câu hỏi sau của
nhà thơ Tố Hữu: “Ôi!Sống đẹp là thế nào hỡi bạn” [61, Phan Trọng luận] ta có thể
đưa ra các luận điểm và sắp xếp các luận điểm ấy theo trình tự sau:
Luận điểm 1: Quan niệm về sống đẹp
Luận điểm 2: Phê phán những người chỉ biết sống đồng nghĩa với tồn tại
Luận điểm 3: Tuổi trẻ phải biết sống đẹp
Luận điểm 4: Phương hướng và biện pháp phấn đấu để sống đẹp
Luận cứ là các lí lẽ và dẫn chứng (chứng cứ) cụ thể được sắp xếp và trình
bày theo một hệ thống hợp lý nhằm làm sáng tỏ cho luận điểm.
Ví dụ: Với luận điểm “Tuổi trẻ phải biết sống đẹp” ta có thể đưa ra các
luận cứ và sắp xếp các luận cứ ấy theo trình tự sau:
- Luận cứ 1: Tuổi trẻ là thời kì đẹp nhất và cho con người những điều kiện
tốt nhất để thực hiện những gì mà con người mong muốn
- Luận cứ 2: Những gì mà con người thành công hay thất bại thời tuổi trẻ sẽ
để lại dấu ấn cho cả cuộc đời.
Nghị luận là bàn luận, là nói lý nói lẽ, là thuyết phục người đọc bằng lập
luận lôgic chặt chẽ. Cái hay, cái đẹp của bài văn nghị luận cũng là ở chỗ đó. Có luận
điểm mới mẻ độc đáo là hết sức quan trọng, nhưng để bài văn có sức thuyết phục
cao thì riêng luận điểm chưa đủ. Ở đây còn cần đến vai trò của lập luận. Phải biết
lập luận, tức là phải biết trình bày và triển khai luận điểm; biết nêu vấn đề và giải
quyết vấn đề; biết dùng lý lẽ và dẫn chứng để làm sáng tỏ điều mình muốn nói, để
người đọc hiểu, tin và đồng tình với mình. Luận điểm là nội dung còn lập luận là
hình thức diễn đạt nội dung; lập luận là cách nói (viết)…
Cùng một nội dung, cùng hướng tới một mục đích nhưng hai cách nói, hai
cách trình bày khác nhau có thể dẫn đến hai kết cục khác xa nhau. Ngày xưa, vua
Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi. Một hôm, con
ngựa tự nhiên lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để
phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử (Án Tử túc Án Anh, tên tự là Bình Trọng,
người nước Tề, thời Xuân Thu) đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại hỏi vua rằng:
“Vua Nghiêu Thuấn ngày xưa phanh thây người th._.c cơ bản,
thích ứng với mọi thời đại. Vừa học
vừa hành, giúp nắm vững tri thức lý
thuyết, rèn luyện kỹ năng thực tế.Kết
bài: Đóng
(9) Kết bài: Đóng
Khẳng định lại tính đúng đắn và cần
thiết của phương châm “Học đi đôi với
hành”.
HOẠT ĐỘNG 4: SỬA CÁC LỖI SAI
GV: Nêu các lỗi sai
GV: Sửa các lỗi cụ thể
HS: Nghe, rút kinh nghiệm và chép vào
vở nếu thấy cần thiết
- Lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu
- Lỗi thiếu ý
- Lỗi trùng lặp ý
- Lỗi lạc ý
- Lỗi lôgic
PHỤ LỤC 2: PHIẾU KHẢO SÁT
PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH
(Về việc dạy – học làm văn nghị luận xã hội ở THPT)
Các em học sinh thân mến, các em vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây
bằng cách đánh dấu x vào một hoặc nhiều ô vuông mà các em cho là phù hợp.
1/ Trong 3 phân môn của bộ môn Ngữ Văn, em thấy phân môn nào là khó nhất?
Làm văn
Đọc văn (giảng văn)
Tiếng việt
2/ Trong giờ Làm văn, em mong muốn ở giáo viên điều nào sau đây:
Cung cấp thật nhiều kiến thức
Đặt câu hỏi sáng rõ và dẫn dắt cụ thể
Chú ý nhiều đến việc rèn luyện khả năng lập ý của HS. Đồng thời
hướng dẫn cụ thể cách vận dụng kiến thức và cách làm một bài làm văn
3/ Khi làm một bài văn nghị luận xã hội, em thấy khó nhất là khâu nào? (chỉ được trả lời 1
khâu)
Lập dàn ý
Viết phần mở bài
Viết phần kết bài
Viết phần chuyển ý
4/ Nếu phải chọn để bổ sung thêm kiến thức và kỹ năng nhằm giúp cho bài làm văn của em
tốt hơn, em sẽ chọn phân môn nào?
Làm văn
Đọc văn
Tiếng việt
5/ Em có lập dàn ý trước khi viết một bài làm văn không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng
Ít khi Không
Cảm ơn các em đã cho biết ý kiến
PHIẾU PHỎNG VẤN GIÁO VIÊN
(Về việc dạy – học làm văn nghị luận xã hội ở THPT)
Kính gởi: Thầy (cô):………………………………………………………………
Dạy lớp:….……Trường:……………………………………………...
Xin thầy (Cô) vui lòng trả lời giúp chúng tôi các câu hỏi dưới đây:
- Đối với câu hỏi đã có sẵn câu trả lời, thầy (cô) hãy đánh dấu x vào một hoặc
nhiều ô vuông mà thầy (cô) cho là phù hợp.
- Đối với câu hỏi chưa có câu trả lời, thầy (cô) hãy viết ngắn gọn ý kiến của mình
vào phần để trống sau câu hỏi.
CÂU HỎI
1/ Theo thầy (cô), dạy làm văn NLXH so với dạy đọc văn (giảng văn) và dạy tiếng
việt khó hơn hay dễ hơn? Vì sao?
Khó Dễ
Vì:………………………………………………………………………………
2/ Theo thầy (cô), khả năng lập ý trong làm văn nghị luận xã hội của HS hiện nay
là:
Tốt Khá Trung bình Yếu
3/ Dạy học làm văn nghị luận xã hội, thầy (cô) còn gặp khó khăn gì?
Việc đào tạo, tổ chức bồi dưỡng GV về kỹ năng dạy học làm văn chưa thiết
thực và hiệu quả
Ít tư liệu mang tính ứng dụng, thực hành cao
HS không chăm, thiếu kĩ năng tự học, bị hổng kiến thức từ cấp dưới
Thời lượng phân phối cho phân môn làm văn và cho từng tiết dạy quá ít
Chương trình SGK còn nhiều kiến thức hàn lâm đối với học sinh, khó áp dụng
vào thực tiễn, chưa mang tính thực hành cao, còn thiếu đồng nhất
Những khó khăn khác:………………………………………………………………
4/ Bản thân các thầy cô còn cảm thấy lúng túng ở những việc nào khi dạy HS lập ý
cho bài NLXH?
Việc đưa ra một qui trình lập ý mang tính ứng dụng, thực hành cao đồng thời
với việc hướng dẫn học sinh vận dụng hiệu quả qui trình ấy vào thực tế học tập
Việc hướng dẫn học sinh áp dụng các kiến thức lý thuyết ở SGK để thực hành
lập ý
Việc thiết kế một giáo án dạy lập ý hiệu quả
Việc đưa ra các biện pháp để học sinh chuẩn bị bài ở nhà thật tốt
Việc đưa ra các biện pháp và hệ thống bài tập giúp học sinh luyện tập thêm
hiệu quả ở nhà
Những việc khác:…………………………………………………………………
5/ Theo thầy(cô), để dạy kỹ năng lập ý trong bài làm văn NLXH tốt, cần có những
yêu cầu gì?
Trang bị đầy đủ cho GV SGK, SGV, tài liệu tham khảo có khả năng áp dụng,
thực hành cao
Thay đổi cách đánh giá họat động dạy học của giáo viên
HS được trang bị hệ thống các kỹ năng làm văn một cách bài bản từ cấp dưới,
chuẩn bị bài chu đáo
Tăng thời lượng dạy làm văn trên lớp
Không nặng về truyền thụ kiến thức mà chủ yếu dạy cho HS cách học, cách
suy nghĩ, kỹ năng giải quyết vấn đề
6/ Theo thầy (cô) cần rút kinh nghiệm về vấn đề nào cho họat động dạy học Làm
văn
Chương trình SGK cần biên soạn có hệ thống, gần gũi với HS, mang tính ứng
dụng-thực hành cao và tinh giản hơn
Thay đổi cách đánh giá-kiểm tra, thi cử của HS
Tăng thời lượng dạy học làm văn trên lớp
Dạy cho HS phương pháp, cách thức làm văn và phương pháp, cách thức vận
dụng kiến thức đọc văn, tiếng việt để làm văn
7/ Trong thực tế dạy học môn làm văn hiện nay, theo thây cô, vẫn còn tồn tại hiện
tượng nào sau đây? Và tồn tại ở mức độ nào?
* GV bỏ, không thực hiện các tiết dành riêng để dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV tích hợp dạy lí thuyết và kĩ năng làm văn trong giờ trả bài
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV dạy các tiết lí thuyết, kĩ năng một cách hào hứng
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV dạy tiết trả bài một cách hào hứng
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV dạy các giờ lí thuyết, kĩ năng làm văn một cách đơn điệu, chiếu lệ
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV dạy tiết trả bài một cách nhàm chán, chiếu lệ
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* GV thật sự lúng túng, không biết bằng cách nào để rèn kĩ năng lập ý cho HS
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
* Tiết trả bài chủ yếu trở thành tiết sửa câu sai, từ sai, chữ sai
Có nhiều Có rất nhiều Có ít Không có
8/ Xin thầy cô cho biết một số nguyên nhân của tình trạng dạy làm văn nêu ở câu 7
(chỉ cần nêu dưới hình thức “gạch đầu dòng”)
- …………………………………………………………………………………
- …………………………………………………………………………………
- …………………………………………………………………………………
- …………………………………………………………………………………
9/ Theo thầy cô tỉ lệ giữa việc dạy học văn nghị luận xã hội và việc dạy văn nghi
luận văn học ở trường THPT hiện nay có cân đối, hợp lý không? (không /có/tạm
được)
Không Có Tạm được
Xin trân trọng cám ơn thầy cô
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ ĐỀ BÀI LÀM VĂN THAM KHẢO
1. Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về
tác dụng của việc đọc sách. (Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2009)
2. Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì
chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa”.(Đề thi đại
học năm 2009-khối D)
3. Suy nghĩ của anh (chị) về cái danh và cái thực của con người trong cuộc
sống. (Đề thi học sinh giỏi quốc gia khối 10-2009)
4. Có hai người bạn thân cùng bị lạc đường trong sa mạc. Họ cứ đi, đi mãi
và tới một lúc trong cuộc hành trình họ bắt đầu tranh cãi với nhau nên đi
về hướng nào để thoát ra. Không kìm chế được sự bực tức và tuyệt vọng,
một người đã tát vào mặt người kia. Người bị đánh rất đau nhưng không
nói gì, chỉ viết một dòng lên cát: “Hôm nay, người bạn thân nhất đã tát
tôi”. Họ lại đi tiếp, và gặp một ốc đảo với một hồ nước lớn. Người bạn bị
đánh vì vội vàng uống nước và tắm rửa nên đã bị trượt chân và bắt đầu
chìm dần. Người bạn kia vội nhảy xuống cứu anh ta lên. Khi mọi sự đã
qua, người bạn bị đánh khắc một dòng lên một phiến đá: “Hôm nay người
bạn thân nhất đã cứu tôi”. Người bạn đã đánh và cũng là người cứu anh
ta thực sự ngạc nhiên nên hỏi: “Tại sao khi tớ đánh cậu, cậu viết lên cát,
còn bây giờ cậu lại khắc lên phiến đá?”. Người kia mỉm cười đáp: “Khi
một người bạn đã làm ta đau, hãy viết lên cát để ngọn gió của sự tha thứ
thổi qua mang nó đi cùng. Còn khi điều tốt lành đến, chúng ta nên khắc
nó lên đá, như khắc thành kỷ niệm trong tim vậy, không cơn gió nào có
thể xóa đi được!”. Câu hỏi đặt ra ở cuối câu chuyện trên gợi cho anh
(chị) suy nghĩ gì? (Đề thi học sinh giỏi Olympic khối 10 năm 2009)
5. Các dấu chấm câu: Có người đánh mất dấu phẩy, trở nên sợ sự phức tạp,
cố tìm những câu đơn giản. Đằng sau những cái đơn giản là những ý nghĩ
đơn giản. Sau đó anh ta đánh mất dấu chấm than và bắt đầu nói khe khẽ,
không có ngữ điệu. chẳng còn gì làm anh ta sung sướng hay phẫn nộ. anh
ta thờ ơ với mọi chuyện. kế đó anh ta đánh mất dấu hỏi và chẳng bao giờ
hỏi gì nữa. Mọi sự kiện bất kỳ xảy ra ở đâu, dù trên vũ trụ, trên mặt đất
hay ngay trong nhà cũng không làm anh ta quan tâm. Một vài năm sau
anh ta quên mất dấu hai chấm và không còn giải thích hành vi của mình
nữa. Cuối đời, anh ta chỉ còn lại có dấu ngoặc kép mà thôi. Anh ta không
phát biểu ý kiến nào của riêng mình nữa, lúc nào cũng trích dẫn lời của
người khác. Thế là anh ta quên mất cách tư duy hoàn toàn. Cứ như vậy
anh ta đi cho tới dấu chấm hết. (Theo báo Hà Nội Mới, Chủ nhật 15 – 3 –
1993). Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa được gợi ra từ câu chuyện trên.
(Đề thi học sinh giỏi Olympic khối 11 năm 2009)
6. Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì
chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa”. (Theo
sách Dám thành công – Nhiều tác giả, NXB Trẻ, 2008, tr.90)” có thế đưa
ra luận đề: Vai trò quyết định của lòng tự tin trong cuộc sống.
7. Bàn về vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời sống tinh thần của
con người, nhà văn M. Go-rơ-ki có viết: “Sách mở rộng trước mắt tôi
những chân trời mới”. Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.” [SGK lớp
10 tập 2-Ban cơ bản-năm 2006]
8. Anh/chị hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu: “Ôi!Sống đẹp là thế
nào hỡi bạn”[SGK lớp 12 tập 1-Ban cơ bản-năm 2007].
9. Tục ngữ có câu “Có chí thì nên”. Vận dụng tư liệu từ lịch sử, từ đời sống
thực tế và từ văn học nghệ thuật, hãy bình luận về vai trò, ý chí, nghị lực
trong cuộc sống?
10. Suy nghĩ của anh chị về lời phát biểu của một nhạc sỹ: Năm 20 tuổi, tôi
nói: “Tôi và Mô-da”. Năm 30 tuổi, tôi nói “Mô-da và tôi”. Năm 40 tuổi,
tôi nói: “Chỉ có Mô-da”. [Lê Huy-Ngô Thanh Tùng (2007), Những bài
văn mẫu 11 (chương trình chuẩn), NXB ĐHQG TP. HCM].
11. Đức Phật dạy: “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi”.
Anh chị nghĩ gì về lời dạy trên?
12. Phải chăng bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi.
13. Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không
có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương
hướng thì không có cuộc sống”. Vận dụng tư liệu từ lịch sử, từ đời sống
thực tế và từ văn học nghệ thuật, anh(chị) hãy chứng minh vai trò của lí
tưởng trong cuộc sống của con người.
14. Tục ngữ có câu “Có chí thì nên”. Vận dụng tư liệu từ lịch sử, từ đời sống
thực tế và từ văn học nghệ thuật, hãy bình luận về vai trò, ý chí, nghị lực
trong cuộc sống?
15. Từ 2 câu thơ: “Ai chiến thắng mà không hề thất bại – Ai nên khôn mà
chẳng dại đôi lần?”(Tố Hữu – Dậy mà đi), hãy viết bài văn bàn về thắng
và bại, khôn và dại trong cuộc sống.
16. Bàn về đức tính trung thực.
17. Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” – một
“căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội hiện
nay.
18. “Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần
kiệm; xóa bỏ những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động” (Hồ Chí
Minh).
19. “Trước đây trong kháng chiến chống xâm lược, những người có nhiều
chiến công xuất sắc là những người đáng yêu nhất. Ngày nay trong lao
động hòa bình, những người đáng yêu nhất là những người nhiệt tình lao
động, có trí sáng tạo, say mê phát minh sáng chế làm cho đất nước giàu
mạnh” (Phạm Văn Đồng). Hãy bình luận lời phát biểu trên.
20. Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ
nhỡ, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm
tình thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống
lành mạnh, tốt đẹp. Anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về hiện tượng đó.
21. Anh/chị suy nghĩ gì về hiện tượng nghiện karaoke và internet trong giới
trẻ hiện nay?
22. Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông.
23. Bàn về việc hút thuốc lá
24. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng biết ơn
25. Bàn về đạo lý uống nước nhớ nguồn
26. Bàn về vấn đề sai hẹn
27. Bàn về thói ăn chơi đua đòi
28. Hãy trình bày quan niệm của anh/chị về việc đỗ - trượt trong thi cử và
tầm quan trọng của vấn đề đối với sự thành đạt của một con người.
29. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về được và mất trong cuộc sống.
30. Hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh/chị về mối
quan hệ giữa bộ phận và toàn thể.
31. Hãy viết một bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò
của cá nhân và tập thể trong cuộc sống.
32. Hãy viết một bài văn nghị luận trình bày quan niệm của anh/chị về câu
cách ngôn “Thất bại là mẹ của thành công”.
33. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về vị tha và ích kỷ.
34. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về tự phụ và tự ti.
35. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về lòng đố kị trong cuộc sống.
36. Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về bàn về sự nôn nóng.
37. Nêu quan niệm của anh (chị) về lối sống giản dị của một con người.
38. Phải chăng “Một điều nhịn, chín điều lành”? Viết bài văn trình bày suy
nghĩ của anh (chị). [SGK lớp 10 tập 2-Bam cơ bản-năm 2006].
39. Quan niệm của Nguyễn Du về đồng tiền trong Truyện Kiều và quan niệm
của anh (chị) về đồng tiền trong cuộc sống ngày hôm nay.
40. Từ bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến, anh (chị) hãy viết một bài
văn bàn về danh và thực trong cuộc sống hiện nay.
41. Từ các bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Đây mùa thu tới, Thơ
duyên (Xuân Diệu), Tràng Giang (Huy Cận), Chiều Xuân (Anh Thơ),…
Hãy viết bài văn trình bày quan niệm của anh (chị) về lòng yêu nước.
42. Trình bày quan điểm của anh (chị) về quan niệm chọn nghề nghiệp trong
tương lai: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình; chọn nghề
đang được ưa chuộng trong đời sống hay nhất quyết theo đuổi nghề mà
mình vẫn thiết tha yêu thích?
43. Theo anh (chị) làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng
sạch đẹp?
44. Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội
hiện nay.
45. Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” – một
“căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội hiện
nay.
46. Phân tích tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử. Theo anh (chị)
làm thế nào để khắc phục được thái độ đó?
47. “Kỹ năng đầu tiên và quan trọng nhất mà bạn cần có trong một thế giới
hiện đại là khả năng “học phương pháp học” – nghĩa là thường xuyên tiếp
thu và học hỏi những phương pháp mới để làm những công việc cũ hay
những phương pháp mới để làm những công việc mới… Trong một thế
giới như vậy không chỉ cần kiến thức mà cả phương pháp học hỏi của bạn
mới tạo ra giá trị riêng. Bởi những kiến thức bạn có ngày hôm nay sẽ trở
nên lỗi thời nhanh hơn bạn tưởng nhiều”. (Theo Phrít-men, thế giới
phẳng – Friedman, NXB Trẻ, 2005). Nghĩ về lời khuyên của Phrit-men
về vai trò của “học phương pháp học” đối với mỗi con người trong thế
giới hiện đai. (Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
48. Phê phán thái độ thờ ơ, ghê lạnh đối với con người cũng quan trọng và
cần thiết như ngợi ca lòng vị tha, tình đoàn kết. Anh (chị) suy nghĩ như
thế nào về ý kiến trên? (Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
49. Bàn về tình trạng ô nhiễm môi trường sống và trách nhiệm của mỗi người
dân.
50. Bàn về vai trò của tin học đối với thanh niên ngày nay.
51. Bàn về vai trò của ngoại ngữ đối với thanh niên ngày nay.
52. Từ trích đoạn vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ,
hãy trình bày suy nghĩa của anh chị về niềm hạnh phúc khi được sống
thực với mình và với mọi người.
53. Bàn về tiền tài và hạnh phúc
54. “Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận
dữ”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó.
55. Bàn về lợi ích và hướng thú của việc tự học.
56. Theo anh/chị làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng
sạch đẹp?
57. Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề
xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng
định mình”. [Lê Huy-Ngô Thanh Tùng (2007), Những bài văn mẫu 11
(chương trình chuẩn), NXB ĐHQG TP. HCM].
58. Hãy trình bày quan điểm của anh (chị) về ý kiến : “Tuổi trẻ phải biết sống
đẹp”.
59. Bàn về tính hai mặt của hiện tượng “ngôi sao” trong họat động văn hóa –
nghệ thuật ở nước ta hiện nay.
60. Bàn về tác hại của chủ nghĩa trung bình trong học tập.
61. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ ngay từ khi còn rất trẻ từng viết: “Đã mang
tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông”. Ý kiến của anh chị
về danh – thực, danh – giả?
62. Có ý kiến cho rằng: Lòng tin là chất xi-măng kết dính con người trong
khuôn khổ đời sống xã hội, tạo ra động lực thôi thúc con người tìm đến
nhau và dựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển. Ý kiến của bạn về vấn
đề hệ trọng này? Có ý kiến cho rằng: “Thói quen tạo nên tính cách, tính
cách tạo ra số phận”. Quan niệm của anh chị về ý kiến đó.
63. Nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì lớn lên sẽ chẳng thể làm được
việc gì có ích.
64. Phải chăng bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi? (Ngữ văn
12 – bộ cơ bản)
65. “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”.
66. Anh chị nghĩ thế nào về câu nói của nhà văn Nga: “Nơi lạnh nhất không
phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình thương”. [Lê Huy-
NgôThanh Tùng (2007), Những bài văn mẫu 11 (chương trình chuẩn),
NXB ĐHQG TP. HCM].
67. Trong một lần nói chuyện với học sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì
làm việc gì cũng khó”. Theo anh (chị) nên hiểu và vận dụng lời dạy đó
như thế nào?
68. Có người cho rằng “Cái khó bó cái khôn” lại cũng có người nói rằng “Cái
khó ló cái khôn”. Anh chị hiểu và vận dụng 2 câu tục ngữ này như thế
nào?
69. “Một con người thì làm sao có thể nhận thức được chính mình? Đó không
phải là công việc của tư duy mà là công việc của thực tiễn. Hãy ra sức
thực hiện bổn phận của mình, lúc đó bạn lập tức hiểu được giá trị của
mình”. Em hiểu và suy nghĩ gì về ý kiến trên. (Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
70. Có ý kiến cho rằng: “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường,
sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ
nhà khó tính” Anh chị nghĩ như thế nào về ý kiến đó?
71. Sách là người bạn lớn của con người.
72. Hãy nêu ý kiến của anh chị về câu tục ngữ: “Đi một ngày đàng học một
sàng khôn”.
73. Anh chị suy nghĩ gì về câu nói của Tuân Tử (313 – 235 TCN): “Người
chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn của
ta, những kẻ vuốt ve nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”.
74. Đọc cuốn sách hay cũng như trò chuyện với người bạn thông minh.
75. Đọc cuốn sách hay đối với trí tuệ giống như thể dục đối với cơ thể.
76. Trong một bài báo có câu “Đằng sau tất cả những người đàn ông thành
đạt có một người phụ nữ dám hi sinh”. Hãy viết bài văn bình luận ý kiến
đó.
77. Suy nghĩ của anh (chị) về phong trào ủng hộ quỹ “vì người nghèo”.
78. Nhà triết học Hi Lạp, Dê-nông (346 – 264 TCN) nói với một người bẻm
mép: “Chúng ta có hai tai và một miệng để nghe nhiều hơn và nói ít hơn”.
Anh (chị) hãy giải thích ý nghĩ câu nói trên.
79. Lí tưởng là nguồn sáng và sức mạnh trong đời.
80. Nhà thơ Ấn Độ Ta-go nói: “Yêu là tên gọi khác của sự hiểu nhau”.
81. Nhà thơ Anh Brao-ninh: “Nếu tước bỏ tình yêu thì trái đất sẽ trở thành
nấm mồ”.
82. Con người không thể thiếu bạn.
83. Tình cảm ruột thịt giữa cha mẹ và con cái là tình cảm tự nhiên nhất, chân
thành nhất và thiêng liêng nhất.
84. Bình luận câu nói của Nguyễn Bá Học “Đường đi khó, không khó vì
ngăn sông cách núi, mà khó vì ngại núi e sông”. (Ngữ văn 12 – bộ cơ
bản)
85. Nhà văn Pháp Đi-đơ-rô khẳng định: “Nếu không có mục đích, anh không
làm được gì cả. Anh cũng không làm cái gì vĩ đại nếu như mục đích tầm
thường”. Hãy bình luận ý kiến trên.
86. Nêu suy nghĩ của em về ý kiến: “Khoa học mà không có lương tâm chỉ là
sự tàn rụi của tâm hồn” (Ra-bơ-le).
87. Đacuyn đã nói về kinh nghiệm thành công của mình: “Tôi nghĩ rằng tất
cả những gì có giá trị một chút, tôi đã thu nhận được bằng cách tự học”.
Suy nghĩ của anh chị về câu nói trên.
88. “Văn hóa, đó là cái còn lại khi người ta đã quên tất cả” (Hê-ri-ô). Suy
nghĩ của anh chị về câu nói trên.
89. “Một quyển sách tốt là một người bạn hiền” (La Rốt-sơ-phu-côn). Hãy
giải thích và chứng minh ý kiến trên.
90. Một nhà triết học nói: “Mỗi con vật khi sinh ra đều là tất cả những gì mà
nó có. Chỉ có con người là ngay từ thưở lọt lòng thì chẳng là gì cả. Nó
phải làm như thế nào thì nó sẽ trở thành như thế ấy, và nó phải tự làm
bằng tự do của chính nó. Tôi chỉ có thể trở thành kẻ do chính tôi tạo ra”.
Hãy bình luận câu nói trên.
91. Nhà văn Đức Sile có nói: “Tình yêu là niềm say mê làm cho ngưởi khác
được hạnh phúc”. Anh chị nghĩ gì về ý kiến đó?
92. Tục ngữ Pháp có câu: “Tiền bạc là người tớ tốt và là người chủ xấu”.
Anh/chị hiểu câu tục ngữ ấy như thế nào?
93. Hãy nêu suy nghĩ của anh/chị về câu nói: Đọc sách là tìm đến một thế
giới khác.
94. Phải chăng “Đời là một cuộc thám hiểm bất tận, hành trang cho cuộc
thám hiểm đó ở mỗi người luôn luôn phải là một đôi mắt mới” (Phan
Đình Diệu)?
95. Xưa nay, người ta thường lấy sự nghiệp lớn của vĩ nhân để giáo dục
thanh niên. Anh/chị có suy nghĩ gì về cách dạy ấy?
96. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về câu nói của nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken
đơ Mông-te-nhơ (1533 – 1592): “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo
nàn về tâm hồn rất khó chữa”.
97. “Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần
kiệm; xóa bỏ những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động” (Hồ Chí
Minh). (Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
98. Phải chăng chỉ ở các thành phố lớn môi trường mới bị ô nhiễm nặng nề?
(Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
99. Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông.
100. Hãy thể hiện quan điểm của bản thân với cuộc vận động “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
101. Anh/chị suy nghĩ gì về hiện tượng nghiện karaoke và internet trong giới
trẻ hiện nay?
102. Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh vô cảm trong xã hội
hiện nay.
103. Viết một bài văn với chủ đề “Hiểu cuộc sống, hiểu cha mẹ”
104. Viết một bài văn với tiêu đề: “Tôi muốn nắm chặt tay bạn”.
105. Trong cuộc sống có rất nhiều câu hỏi, có người ham hỏi, có người ngại
hỏi. Hãy lấy Hỏi làm chủ đề và viết một bài văn khoảng 800 chữ.
106. Lấy đôi vai làm chủ đề và viết một bài văn 800 chữ.
107. “Cuộc sống cần nghỉ ngơi, cuộc sống không ngơi nghỉ”. Em có suy nghĩ
gì về vấn đề này? Hãy viết bài văn không dưới 800 chữ với chủ đề này,
có thể viết một mặt cũng có thể viết về cả hai mặt.
108. Hãy lấy chủ đề “Bước đi và dừng lại” để viết một bài viết 600 chữ.
109. “Lỗ Tấn nói, trước kia thế giới vốn không có đường, người đi nhiều nên
đã tạo ra đường. Cũng có người nói, thế giới vốn ngay từ đầu đã có
đường, người đi nhiều nên đường bị mất đi. Lấy chủ đề “Con người và
con đường” để viết một bài dài khoảng 800 chữ.
110. Có một câu chuyện ngụ ngôn Trung Quốc như sau: Một nhà điêu khắc
đang khắc một tảng đá, bức tượng vẫn chưa thành hình, dần dần, đầu, vai
đã lộ ra, cuối cùng nhà điêu khắc đã tạc ra tượng một thiên sứ xinh đẹp.
Một bé gái nhìn thấy liền hỏi: Làm sao ông biết trong tảng đá có giấu
thiên sứ? Nhà điêu khắc nói: trong đá vốn không có thiên sứ nhưng ta đã
dồn hết tâm trí để tạc. Lấy thiên sứ trong lòng nhà điêu khắc làm chủ đề
để viết một bài dài 800 chữ.
111. Có một câu chuyện ngụ ngôn Trung Quốc như sau: Có con chim yến nọ
sau khi ấp trứng trở nên rất béo, không thể bay được cao. Mẹ của chim
yến khuyên nó nên tăng cường tập luyện để giảm béo, như thế mới có thể
bay được cao. Lấy “Chim yến giảm béo” làm chủ đề, tự đặt tiêu đề và
viết một bài 800 chữ.
112. Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Đứng từ dưới đất nhìn lên, con
người đều thấy sao trời lấp lánh, sáng ngời, nhưng khi con người tiến gần
sao trời sẽ phát hiện ra rằng các ngôi sao cũng giống như trái đất - gồ ghề,
không bằng phẳng, xung quanh đầy bụi bặm. Từ câu chuyện ngụ ngôn
này em cảm ngộ được điều gì? Lấy đó làm chủ đề và viết một bài viết dài
800 chữ.
113. Nếu không có sách nhân loại sẽ như thế nào? (Ngữ văn THPT – bộ nâng
cao)
114. Anh/chị nghĩ gì khi nhìn những cánh rừng tiếp tục bị tàn phá? (Ngữ văn
THPT – bộ nâng cao)
115. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò của rừng trong cuộc sống.
116. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc
tiết kiệm thời gian.
117. Nhà văn Nga Lép Tôn-xtoi nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không
có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương
hướng thì không có cuộc sống”. Anh(chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của
lí tưởng trong cuộc sống của con người. (Ngữ văn 12 – bộ cơ bản)
118. Hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu thương.
119. Người xưa thường nói: “Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng
thấy việc ác nhỏ mà làm.” Anh/chị suy nghĩ như thế nào về lời khuyên
ấy. (Ngữ văn THPT – bộ nâng cao)
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCGD : Cải cách giáo dục
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
SGK : Sách giáo khoa
HS : Học sinh
GV : Giáo viên
NLXH : Nghị luận xã hội
NLVH : Nghị luận văn học
NL : Nghị luận
ĐHSP : Đại học sư phạm
GD : Giáo dục
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: THỰC TRẠNG DẠY – HỌC LẬP Ý Ở TRƯỜNG THPT
HIỆN NAY
1.1. Nghiên cứu khả năng lập ý của học sinh .........................................................15
1.1.1. Mục đích – đối tượng – mẫu khảo sát và phạm vi khảo sát .................15
1.1.2. Phép đo .................................................................................................15
1.1.3. Cách đánh giá kết quả ...........................................................................16
1.1.4. Thực nghiệm đo thực trạng lập ý của HS THPT ..................................17
1.2. Kết luận về năng lực lập ý của học sinh và thực trạng dạy học lập ý ở
trường THPT hiện nay .....................................................................................29
1.2.1. Về năng lực lập ý của HS ......................................................................29
1.2.2. Về thực trạng lập ý của HS ....................................................................29
1.2.3. Về thực trạng giảng dạy của GV ...........................................................30
1.2.4. Về tầm quan trọng của việc lập dàn ý ....................................................32
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT XUNG QUANH KỸ NĂNG
LẬP Ý CHO BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
2.1. Khái quát về văn nghị luận và kiểu bài nghị luận xã hội ...................................33
2.1.1. Khái niệm, vị trí .....................................................................................33
2.1.2. Các yếu tố tạo nên nội dung và cấu trúc bài văn nghị luận xã hội ........34
2.2. Lập dàn ý cho bài nghị luận xã hội ...................................................................39
2.2.1. Lập ý là gì? ............................................................................................39
2.2.2. Các bước của việc lập ý .........................................................................40
2.2.3. Qui trình lập ý bài văn nghị luận xã hội ................................................41
2.3. Yêu cầu về mô hình ý và qui trình chung khi làm bài văn nghị luận xã
hội đối với học sinh THPT.................................................................................53
2.3.1. Yêu cầu về mô hình ý ...........................................................................53
2.3.2. Qui trình chung khi làm bài văn NLXH ..............................................58
Chương 3: BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG LẬP Ý TRONG VĂN NLXH
VÀ NHỮNG THỬ NGHIỆM BƯỚC ĐẦU
3.1. Biện pháp rèn kỹ năng lập ý qua việc tích hợp với giờ đọc văn ......................59
3.2. Biện pháp rèn kỹ năng lập ý ở phân môn làm văn ...........................................61
3.2.1. Rèn ý thức và kỹ năng lập ý trong giờ lý thuyết làm văn ......................61
3.2.2. Rèn ý thức và kỹ năng lập ý trong giờ thực hành làm văn ....................66
3.2.3. Rèn ý thức và kỹ năng lập ý trong giờ trả bài làm văn ..........................66
3.2.4. Rèn ý thức và kỹ năng lập ý thông qua các bài tập ở nhà .....................68
3.3. Thử nghiệm giảng dạy ......................................................................................95
3.3.1. Mô tả thử nghiệm .................................................................................95
3.3.2. Nội dung thử nghiệm ............................................................................96
3.3.3. Địa điểm thử nghiệm ............................................................................97
3.3.4. Cách thức tiến hành ..............................................................................97
3.3.5. Cách thức đánh giá ...............................................................................98
3.3.6. Kết quả thử nghiệm ..............................................................................99
3.3.7. Đánh giá chung về kết quả thử nghiệm ..............................................104
KẾT LUẬN ...........................................................................................................107
THƯ MỤC THAM KHẢO ..................................................................................111
PHỤ LỤC ..............................................................................................................118
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7629.pdf