QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT
TẠI VIỆT NAM
Đưa Luật pháp của Việt Nam
phù hợp với Công ước Liên Hiệp quốc
về Quyền của Người khuyết tật
Tháng 12, 2009
Tác giả
Eric Rosenthal
và
Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần
thực hiện theo yêu cầu của UNICEF Việt Nam
3mục lục
Viết tắt ........................................................................................................................................................................ 6
Lời tựa đề ..........
53 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
......................................................................................................................................................... 7
Lời cảm ơn ................................................................................................................................................................. 9
1. Bối cảnh thực tế của TKT tại Việt Nam ........................................................................................................13
1.1. Khả năng tiếp cận .....................................................................................................................................13
1.2. Dịch vụ dựa vào cộng đồng và y tế ........................................................................................................14
1.3. Giáo dục .....................................................................................................................................................14
1.4. Thành lập các cơ sở chăm sóc tập trung ...............................................................................................15
1.5. Hệ thống bảo vệ trẻ em............................................................................................................................15
1.6. Tham gia của công dân ............................................................................................................................16
2. Tổng quan Công ước về Quyền của NKT ....................................................................................................16
2.1. Tác động của phê chuẩn và tuân thủ với CRPD .................................................................................16
2.2. Nội dung tổng quát của Công ước về Quyền của Người khuyết tật ...............................................17
3. Tổng quan pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT và Dự thảo Luật Người khuyết tật ....................17
3.1.Cơ sở của pháp luật Việt Nam liên quan đến NKT ............................................................................17
4. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử chỉ vì khuyết tật ..............................................................20
4.1 Định nghĩa khuyết tật ...............................................................................................................................20
4.2. Nâng cao phẩm giá, bình đẳng và không phân biệt đối xử ...............................................................21
4.3. Môi trường sống phù hợp .......................................................................................................................22
5. Quyền tiếp cận ...................................................................................................................................................22
5.1. Quyền tiếp cận môi trường lý tính và phương tiện giao thông .......................................................23
5.2. Quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông .......................................................................24
6. Quyền sống trong cộng đồng ..........................................................................................................................24
6.1. Quyền được gia đình bảo vệ ...................................................................................................................24
6.2. Quyền được sống trong cộng đồng .......................................................................................................25
6.2.1. Quyền được sống trong nền tảng gia đình .................................................................................26
6.2.2. Quyền được ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung ....................................................................27
6.3. Quyền được dịch vụ và đủ tiêu chuẩn cuộc sống ...............................................................................30
6.4. Quyền không bị lạm dụng và bóc lột, và quyền không bị tra tấn, đối xử ác nghiệt, phi nhân bản,
đối xử nhục mạ và trừng phạt .........................................................................................................................31
7. Quyền được chăm sóc sức khỏe .....................................................................................................................32
7.1. Quyền được chăm sóc sức khỏe miễn phí và đặc biệt .......................................................................32
7.2. Quyền được phòng ngừa và can thiệp sớm .........................................................................................34
47.3. Quyền được thể hiện ý nguyện bằng lòng, tự quyết và tự lựa chọn ...............................................34
8. Quyền được giáo dục ........................................................................................................................................35
8.1 Giáo dục hòa nhập .....................................................................................................................................36
8.1.1. Giáo dục hòa nhập theo luật chung của Việt Nam ...................................................................37
8.1.2. Giáo dục hòa nhập theo Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam ..............................39
8.2. Môi trường phù hợp trong các chương trình giáo dục .....................................................................40
9. Quyền về danh tính , khai sinh và năng lực pháp lý ....................................................................................41
9.1. Danh tính và khai sinh .............................................................................................................................41
9.2. Năng lực pháp lý........................................................................................................................................42
10. Giám sát & tăng cường ...................................................................................................................................43
10.1. Hệ thống bảo vệ trẻ em .........................................................................................................................43
10.2. Giám sát thực thi CRPD .......................................................................................................................44
10.3. Thu thập dữ liệu ......................................................................................................................................45
11. Tham gia công dân ..........................................................................................................................................45
12. Kiến nghị cho chính phủ Việt Nam .............................................................................................................46
12.1. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử vì khuyết tật .........................................................46
12.1.1. Tuyên bố về phân biệt đối xử ......................................................................................................46
12.1.2. Tuyên bố về môi trường cư ngụ hợp lý .....................................................................................46
12.2. Quyền tiếp cận ........................................................................................................................................47
12.2.1. Nêu rõ về khái niệm tiếp cận .......................................................................................................47
12.2.2. Tăng cường thực hiện những quy định hiện hành ..................................................................47
12.3. Quyền được sống trong cộng đồng ....................................................................................................47
12.3.1. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với gia đình riêng của mình ................................47
12.3.2. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với một gia đình thay thế ....................................47
12.3.3. Thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai .............47
12.3.4. Tạo lập tiêu chuẩn chăm sóc trong các......................................................................................47
12.3.5. Cấm đưa thêm TKT mới vào các cơ sở chăm sóc tập trung .................................................47
12.3.6. Thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em để phòng ngừa lạm dụng trong gia đình và trong các cơ
sở chăm sóc ..................................................................................................................................................48
12.4. Quyền được chăm sóc sức khỏe ..........................................................................................................48
12.4.1. Cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm ...........................................48
12.4.2. Cải thiện tình hình tại những cơ sở và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng .............48
12.4.3. Tuyên bố về quyền có ý kiến đồng ý .........................................................................................48
12.5. Quyền được giáo dục .............................................................................................................................48
12.5.1. Yêu cầu pháp lý ..............................................................................................................................48
512.5.2. Khảo sát việc tiếp cận ...................................................................................................................48
12.5.3. Đào tạo giáo viên ...........................................................................................................................48
12.5.4. Thay đổi thái độ .............................................................................................................................49
12.5.5. Thu thập dữ liệu .............................................................................................................................49
12.5.6. Tăng cường việc thi hành Chỉ thị của Thủ tướng số 01/2006/CT-TTg .............................49
12.5.7. Chính sách đối với các nhà tài trợ quốc tế................................................................................49
12.6. Quyền về danh tính................................................................................................................................50
12.6.1. Đăng ký khai sinh khi ra đời ........................................................................................................50
12.6.2. Tôn trọng năng lực tham gia của TKT ......................................................................................50
12.7. Tăng cường thực hiện và cơ chế giám sát ...........................................................................................50
12.7.1. Thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em ........................................................................................50
12.7.2. Đào tạo cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp .......................................................................50
12.7.3. Giám sát và thực thi ......................................................................................................................50
12.7.4. Tham gia công dân ........................................................................................................................50
13. Kiến nghị cho các nhà tài trợ .........................................................................................................................50
Phụ bản 1: Ban hành giáo dục hòa nhập ở các nước đang phát triển ..........................................................52
6viết tắt
UBVH,GD Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội.
Bộ GD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ LĐ,TB&XH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Bộ TC Bộ Tài chính
Bộ KH&ĐT Bộ kế hoạch và đầu tư
Bộ YT Bộ Y tế
Bộ GT&VT Bộ Giao thông vận tải
CT-TTg Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ
CNTT&TT Công nghệ thông tin và truyền thông
MDRI Viện Quốc tế bảo vệ quyền người khuyết tật tâm thần
NCCD Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam
VNAH Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
7lời tựa đề
Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và chính phủ Việt Nam ủy nhiệm cho ông Eric Rosenthal
thực hiện đánh giá và phân tích trong báo cáo này, cùng với những chuyên gia khác của Viện Quốc tế
bảo vệ Quyền Người khuyết tật tâm thần (MDRI). Mục đích chính của báo cáo là để giúp chính phủ
Việt Nam đưa luật pháp và những chính sách của mình phù hợp với Công ước mới của Liên Hiệp Quốc
về Quyền của Người khuyết tật (sau đây viết tắt là CRPD), mà Việt Nam đã ký kết vào ngày 22 tháng 10
năm 2007. Những mục tiêu chính của nhiệm vụ tư vấn này là:
Đánh giá và phân tích văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam liên quan đến trẻ khuyết tật ▪
(TKT) cùng với Công ước CRPD và những hiệp ước, chuẩn mực và tiêu chuẩn khác về NKT
(sử dụng phương pháp rà soát những văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam liên quan đến TKT
do chuyên gia luật trong nước thực hiện);
Rà soát dự thảo Luật Người khuyết tật, rà soát những nhận xét và khuyến nghị để sửa đổi và ▪
hoàn chỉnh luật này;
Soạn thảo những khuyến nghị cho chính phủ Việt Nam về thay đổi chính sách và pháp luật để ▪
việc thực thi những tiêu chuẩn pháp lý mới đã được qui định trong CRPD; những gợi ý này dựa
trên phân tích của chúng tôi về luật pháp Việt Nam cùng với các cuộc phỏng vấn với quan chức
chính phủ, các nhà cung cấp dịch vụ, nhà giáo dục, những người hoạt động về khuyết tật; phân
tích của chúng tôi cũng có thông tin từ các chuyến thăm thực địa đến những chương trình dịch
vụ phục vụ cho cả trẻ em và người lớn khuyết tật tại Việt Nam.
Văn bản phân tích luật này đã được ông Eric Rosenthal, Giám đốc điều hành của MDRI soạn thảo, có hỗ
trợ của Arlene S. Kanter, Giáo sư Luật, Đại học luật Syracuse, và Erin Jehn, luật sư trợ lý của MDRI. Giáo
sư Arlene S Kanter đã thăm Việt Nam hồi mùa xuân năm 2009 thay mặt cho VNAH và đã tham gia vào
các buổi họp biên soạn bộ Luật Người khuyết tật mới của Việt Nam. UNICEF đã mời Eric Rosenthal
đến Việt Nam hồi tháng 7 và tháng 9 năm 2009. Hồi tháng 9-2009, Viện Quốc tế bảo vệ Quyền người
Khuyết tật tâm thần (MDRI) đã mời bà Elizabeth Bauer, thư ký của Ban giám đốc MDRI, đồng thời là
ủy viên của Sở Giáo dục tiểu bang Michigan (Hoa Kỳ). Còn hồi tháng 7 năm 2009, Eric Rosenthal đã
tham gia vào một hội thảo do Bộ LĐTB&XH và VNAH bảo trợ để soạn thảo bộ Luật Người khuyết tật
mới. Ông Rosenthal cũng tham gia và một lớp tập huấn các nhà hoạt động khuyết tật do VNAH tổ chức,
và ông cũng đã đến thăm thực địa một Trung tâm Phục hồi chức năng cho TKT tại Hà nội. Rosenthal
và cán bộ của UNICEF đã đến Đà nẵng hồi tháng 7 năm 2009 và thăm một trung tâm phục hồi chức
năng dựa vào cộng đồng cho trẻ em và NKT, một trường học chuyên cho trẻ khuyết tật, một trung tâm
nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và một trung tâm chăm sóc nạn nhân chất độc da cam. Hồi tháng 9 năm 2009,
Rosenthal và Bauer đã gặp gỡ các quan chức chính phủ tại Hà nội, Đà Nẵng và Đồ Sơn, tiến hành hội
thảo cho các quan chức cấp bộ về xây dựng các văn bản pháp lý về NKT. Những chuyên gia này cũng đã
phát biểu tại một hội thảo của Quốc hội về dự thảo Luật Người khuyết tật hồi tháng 9 năm 2009. Cũng
trong tháng 9, MDRI và cán bộ UNICEF đã tới thăm thực địa tại một trường đặc biệt, một cơ sở tâm
thần, một mô hình trung chăm sóc ban ngày dành cho TKT. Chuyên gia Rosenthal và Bauer đã thực
hiện một hội thảo cho UNICEF và các tổ chức phát triển quốc tế khác đang hoạt động tại Việt Nam về
cách áp dụng thích hợp những chương trình do quốc tế tài trợ để đáp ứng những yêu cầu của Công ước
Liên Hiệp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (CRPD).
Phần phân tích pháp luật Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào công trình nghiên cứu rất tỷ mỉ của Tiến
sĩ Tường Duy Kiên. Công trình nghiên cứu này tóm lược pháp luật Việt Nam và phân tích những điểm
mạnh và những hạn chế. Chúng tôi không có bản dịch sang tiếng Anh của một số văn bản luật được đề
8cập trong công trình nghiên cứu này và chúng tôi đã giả định rằng đa phần nội dung công trình nghiên
cứu của Tiến sĩ Kiên là chính xác trong việc miêu tả về pháp luật Việt Nam.
MDRI đã gặp đại diện Bộ Y tế và Tổ chức Y tế thế giới trong chuyến thăm tháng 9 năm 009. MDRI biết
rằng Bộ Y tế đang phác thảo một luật mới về Sức khỏe tâm thần mới, nhưng MDRI chưa thể có được bản
dịch bằng tiếng Anh của luật này. CRPD quy định quyền của những người tâm thần hoặc khuyết tật về
tâm lý xã hội và yêu cầu điều trị cho họ, nhưng việc không được tiếp cận với luật chăm sóc sức khỏe tâm
thần đã tạo nên điểm hạn chế trong phần phân tích này. Quan trọng rằng luật pháp mới này phù hợp với
những tiêu chuẩn nêu trong CRPD.
Báo cáo này chủ yếu tập trung vào những thay đổi lập pháp cần thiết để Việt Nam có các qui định phù
hợp với CRPD. Tuy nhiên, ngoài việc thay đổi luật, CRPD yêu cầu chính phủ Việt Nam cũng phải có
thay đổi trong chính sách và thực hiện để chấm dứt sự phân biệt đối xử với trẻ khuyết tật trong xã hội
Việt Nam, cũng như để tăng cường thực hiện pháp luật sao cho quyền của những NKT được bảo đảm.
Những thay đổi cần thiết này trong chính sách, luật, và thi hành luật được nêu đại cương trong báo cáo
này.
9lời cảm ơn
Chúng tôi chân thành cám ơn nhiều người đã dành thời gian thảo luận với chúng tôi tại Việt Nam. Ban
chuyên gia soạn thảo Luật Người khuyết tật của Bộ Lao động,Thương binh,Xã hội đã nhiều lần họp với
chúng tôi và cung cấp thông tin nền tảng có giá trị về tình hình pháp lý của TKT. Trưởng ban soạn thảo,
ông Lập cùng cán bộ của mình đã hỗ trợ đắc lực để tổ chức những chuyến đi thực địa khắp Việt Nam.
Đại diện của Quốc hội cởi mở và nhiệt tình, cũng như các quan chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y
tế. Các cán bộ của Sở Lao động,Thương binh, Xã hội Đà Nẵng đã nhiệt tình giới thiệu các chương trình
của họ và đã cung cấp cho chúng tôi thông tin nền tảng về những dịch vụ và chương trình giáo dục TKT
trong tỉnh. Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao phần giúp đỡ và hỗ trợ của cán bộ UNICEF, đặc biệt là chị
Naira Avetisyan, người có kiến thức rộng về TKT và mối quan hệ công tác tuyệt vời với các quan chức
Việt Nam, mới làm nên được bản phân tích này.
10
Tóm tắt các quan sát chính
VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Cam kết của chính phủ Việt Nam đưa quốc gia mình tuân thủ với Công ước LHQ về Quyền của Người
khuyết tật (CRPD) rất có ấn tượng. Như bản phân tích này cho thấy, Việt Nam đã ban hành một số luật rất
có giá trị để bảo vệ quyền của người khuyết tật. Nếu Việt Nam thông qua/phê duyệt Luật về NKT mà hiện
nay bản thảo của Luật này đang được xem xét, Việt Nam sẽ đi lâu dài theo hướng tuân thủ với CRPD. Tuy
nhiên, còn một số thiếu sót đáng kể trong bản thảo Luật người khuyết tật, song có thể chỉnh sửa những thiếu
sót này để luật này phù hợp với CPRD. Để phù hợp hoàn toàn với CRPD, chính phủ Việt Nam nên xem xét
những nét chuyển đổi sau đây:
Để bảo vệ chống phân biệt đối xử, đề xuất về Luật người khuyết tật cần bao gồm quyền có điều chỉnh ▪
hợp lý, như yêu cầu của CRPD Điều 5(3) và được xác định trong CRPD Điều 2; một điều khoản như
vậy cần điều chỉnh dịch vụ công và các chương trình cần thiết để cho phép cá nhân khuyết tật tiếp
cận đến được giáo dục, nhà ở, y tế, dịch vụ, giao thông và những lĩnh vực khác của cuộc sống.
Quyền có được công nghệ thông tin và truyền thông phù hợp phải được thiết lập trong đề xuất Luật ▪
về Người khuyết tật, trong khi đó văn bản hiện nay chưa rõ ràng là quyền này có được bảo đảm hay
không.
Luật pháp và quy định về quyền tiếp cận phải được tăng cường; việc này gồm quyền tiếp cận môi ▪
trường vật chất, phương tiện giao thông, truyền thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ khác;
những dạng thức truyền thông có thể tiếp cận đến các dịch vụ công cũng phải được thực thi, kể cả
ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, cassettes, cỡ phông chữ lớn, và những biện pháp công nghệ hỗ trợ
khác.
Quyền của trẻ em khuyết tật sống trong cộng đồng cùng với gia đình, hoặc nếu nên đảm bảo có được ▪
các hình thức các gia đình khác chăm sóc thay thế, nếu cần thiêt.
Can thiệp sớm và chăm sóc sức khỏe cần có sẵn sao cho TKT và gia đình các em dễ tiếp cận. ▪
Cần phải thiết lập quy trình và đánh giá định kỳ việc đưa các em vào các cơ sở chăm sóc tập trung và ▪
luật cần nêu rõ một thời điểm cụ thể khi đã tạo lập được hệ thống hỗ trợ chăm sóc tại cộng đồng thì
chấm dứt đưa các cháu mới vào sống trong các cơ sở chăm sóc tập trung.
Cần thành lập kế hoạch quá độ để chuyển đổi các trường chuyên biệt thành chương trình giáo dục ▪
hòa nhập nhằm đảm bảo rằng tất cả TKT được giáo dục trong hệ thống giáo dục chung.
Dự thảo Luật Người khuyết tật cần yêu cầu rằng tất cả trẻ em khuyết tật phải được làm giấy khai sinh ▪
khi ra đời.
Công tác bảo trợ luật pháp cần được tạo lập để bảo vệ quyền nâng cao năng lực của TKT sao cho ▪
các em có thể diễn đạt được quan điểm của mình và có quyền lựa chọn những vấn đề liên quan đến
mình.
Công tác bảo trợ luật pháp cần phải có để chống lại kiểu chăm sóc ép buộc, không đúng quy cách và ▪
cưỡng chế đưa vào trại tâm thần, như yêu cầu của các Điều 12 và 14 của CRPD; pháp chế mới của
Việt Nam về sức khỏe tâm thần cần được soạn thảo theo tinh thần nhất quán với những điều khoản
này.
Cần phải thiết lập hệ thống bảo trợ trẻ em để báo cáo và điều tra những vụ việc tắc trách và lạm ▪
dụng.
Nên thiết lập một hệ thống giám sát và theo dõi tất cả các chương trình cộng đồng và tất cả các cơ sở ▪
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em khuyết tật.
Tổ chức độc lập của NKT và thành viên gia đình cần phải được lôi cuốn tham gia vào những vấn đề ▪
liên quan đến theo dõi và thực thi CRPD.
11
CHÍNH SÁCH
Luật pháp của Việt Nam cần phản ánh những nguyên tắc cốt lõi của CRPD, gồm có quyền của tất cả
những NKT để họ “tham gia đầy đủ và hiệu quả vào xã hội” − Để có thể làm nên việc này, hệ thống dịch
vụ phải được cải cách sao cho TKT có thể sống và lớn lên cùng gia đình trong cộng đồng. Các em phải được
giáo dục thích hợp trong hệ thống trường học chính.
Dịch vụ y tế, tái phục hồi chức năng, phục hồi chức năng phải có sẵn trong cộng đồng. Thiếu vắng những
chương trình hỗ trợ cộng đồng toàn diện, nhiều TKT sẽ ít có cơ hội sống độc lập khi thành người lớn. Một số
TKT hiện nay đang sống trong các trại mồ côi và các cơ sở chăm sóc tập trung khác mà tại đó các cháu chịu
rủi ro phải sống cả đời tại đó. Trực tiếp đi ngược với Điều 19 của CRPD, MDRI đã thấy rằng Việt Nam đang
mở rộng những cơ sở chăm sóc nội trú tập trung và chương trình chuyên biệt kiểu này.
Việt Nam nên đảo lại những kế hoạch hiện nay mở rộng các cơ sở nội trú cho trẻ em và mở rộng tầm
cỡ của các cơ sở nội trú người tâm thần – Thay vì mở rộng những cơ sở hiện nay, Việt Nam nên thông qua
các kế hoạch chấm dứt việc đưa TKT vào sống trong các cơ sở này. Đây nên được coi là ưu tiên hàng đầu
cho những cố gắng cài cách bởi vì việc chia tách người ta ra khỏi xã hội sẽ góp phần làm tăng thêm khuyết tật
và cản trở việc hưởng thụ những quyền khác. Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ nước ngoài cần hướng
công sức vào hỗ trợ cho các trẻ em tại gia đình và cung cấp dịch vụ theo một nền tảng cơ sở tổng hợp nhất.
Cần dành công sức hỗ trợ và đào tạo cha mẹ các TKT, đặc biệt là cha mẹ các cháu khuyết tật trí tuệ, bởi vì
chính họ là nguồn lực thường xuyên bị coi nhẹ đối với hỗ trợ cộng đồng hiện, mà họ lại đóng tỉ lệ hỗ trợ các
cháu khuyết tật rất lớn.
Vì Việt Nam dành nguồn lực hạn chế để cung cấp dịch vụ hỗ trợ dựa vào cộng đồng và hỗ trợ cho TKT,
Việt Nam nên tránh sai lầm thiết lập những chương trình dịch vụ mới và các trường chuyên biệt, mà
chính những cơ sở này lại không hòa nhập TKT vào xã hội một cách đầy đủ − Cần tránh đầu tư vào các
cơ sở nội trú mới, cho dù những cơ sở này nhỏ hơn, sạch sẽ hơn những cơ sở hiện nay. Tương tự như thế, ta
nên tránh đầu tư vào giáo dục chuyên biệt.
Cải cách giáo dục nên thiết lập giáo dục hòa nhập cho tất cả TKT − Điều 24 của CRPD nêu rằng các
chính phủ “phải bảo đảm có một hệ thống giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp học”. Theo đó, Việt Nam nên
bảo đảm rằng các trường phải nhận, dạy và tiếp nhận TKT. Cộng thêm vào xây dựng, sửa đổi các trường
hiện có, sao cho học sinh khuyết tật các loại có thể tiếp cận đến học, điều thiết yếu là phải đầu tư mới vào các
chương trình đào tạo giáo viên, cung cấp các giáo trình học tập thích hợp và hỗ trợ giảng dạy TKT tật trí tuệ
và các dạng khuyết tật khác.
Chính phủ, NKT và thành viên gia đình có NKT cũng nên tham gia tích cực đóng góp công sức vào
giám sát những chương trình và cố gắng cải cách hiện nay − Cuộc cải cách hiệu quả sẽ bị hạn chế nếu
không minh bạch và không có số liệu về tình hình hiện nay. Như UNICEF và Bộ LĐTB&XH đã mô tả trong
báo cáo năm 2009 “tạo ra một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam”, sẽ không thể có một hệ thống tổng
hợp và toàn diện để bảo vệ trẻ em trong những hoàn cảnh chuyên biệt. CRPD đòi hỏi rằng cơ quan chính
quyền độc lập cần được thành lập để theo dõi giám sát bất cứ chương trình nào phục vụ TKTt. Điều 4(3)
nêu rõ rằng NKT và những tổ chức đại diện cho họ cần được tham gia giám sát như vậy cũng như được tham
gia vào lập kế hoạch thực thi CRPD.
12
THAM GIA CÔNG DÂN & THỰC THI
Thiếu sót chính trong bất cứ một cố gắng cải cách nào tại Việt Nam chính là thiếu một phong trào
mạnh, có tổ chức và độc lập của các bên liên quan – chủ yếu là NKT và thành viên gia đình họ - cam kết
hối thúc việc thực thi và thực hiện luật hiện có tại cấp địa phương và quốc gia. Thiếu một cơ chế cử tri
mạnh giám sát việc thực hiện thì một bộ Luật mới về Người khuyết tật dù có ấn tượng đến đâu cũng không
được tăng cường thực hiện. Để làm cho những cố gắng khổng lồ trong cải cách luật pháp của Việt Nam xứng
đáng, điều thiết yếu là cần trao quyền cho NKT lập chính sách và biện lý chính sách công. Đa phần trên thế
giới, cải cách đã diễn ra tại nơi đâu xã hội dân sự độc lập có lãnh đạo của NKT tìm kiếm được cải cách chính
phủ. Người khuyết tật nên được bổ nhiệm vào UBND và những chức vụ lãnh đạo khác trong các cấp chính
quyền trung ương và địa phương làm chính sách và thực thi những chương trình tác động đến những NKT.
Giả định là từ lâu đã thiếu đào tạo và cơ hội cho NKT, nhóm khuyết tật này trong xã hội có thể thiếu kinh
nghiệm và thiếu trình độ đảm đương những vị trí này. Cách nhanh nhất để phát triển kinh nghiệm đó là thách
thức cá nhân khuyết tật bằng chính trải nghiệm đời thực triển khai và thực thi các chương trình. Cá nhân
khuyết tật phải được hỗ trợ và đào tạo cần thiết cho phép họ làm việc hiệu quả trong những cương vị ấy.
13
1. Bối cảnh thực tế của TKT tại Việt Nam
Giống như bất cứ trẻ em nào, TKT cũng có tiềm năng phát triển trong cộng đồng và ảnh hưởng tích cực
đến cuộc sống của mọi người quanh mình. Khác biệt ở đây là xã hội có thể phải thích ứng để thực hiện
hóa tiềm năng đó của trẻ. Bằng việc ký Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), Việt Nam đã
đánh tín hiệu rằng nước mình cam kết một xã hội thích ứng với nhu cầu của TKT và Việt Nam đã đạt
tiến bộ đầy ý nghĩa trong lĩnh vực này. Tại Việt Nam, như nhiều nơi trên thế giới, TKT đương đầu với
nhiều khó khăn tiếp cận môi trường vật chất, cũng như tiếp cận những dịch vụ dựa vào cộng đồng, dịch
vụ y tế, giáo dục và hệ thống bảo vệ trẻ em. Thực thi CRPD sẽ đòi hỏi nhiều biện pháp tích cực để chấm
dứt tình trạng phân biệt đối xử. Trong khi một số biểu hiện phân biệt đối xử là kết quả của luật pháp có
tính phân biệt, đại đa số phân biệt đối xử lại là kết quả của những chính sách và cách làm có lịch sử từ
lâu là tách biệt TKT ra khỏi xã hội thông thường. Những thách thức đặc biệt đối với TKT tại Việt Nam
được nêu đại cương dưới đây.
1.1. Khả năng tiếp cận
Vấn đề thiếu khả năng tiếp cận đối với NKT tại Việt Nam đặc biệt trầm trọng đối với TKT, nó tạo ra
những rào cản đến dịch vụ y tế, giáo dục, vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao và những hoạt động khác
rất thiết yếu cho sự phát triển của một đứa trẻ. Cụ thể là, TKT tật thiếu khả năng tiếp cận dịch vụ giao
thông công cộng, trường học, bệnh viện, nhà vệ sinh, các tòa nhà văn hóa và những tòa nhà khác.1 Thiếu
tiếp cận đến thông tin liên lạc đối với những người khiếm khuyết về thị lực và thính lực.2 Trẻ em khiếm
khuyết thị lực và thính lực không thể tiếp cận được những chương trình học tập và những thông tin khác
vì những nội dung đó không có bằng chữ nổi Braille, phông chữ lớn, hoặc có phụ đề bằng chữ đi kèm.3
Phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu thì hiếm và NKT phải dựa vào cố gắng của các giáo viên tình nguyện làm
việc với những người điếc.4 Trong kkhi đài truyền hình Việt Nam (VTV) có chương trình thời sự đêm
với phụ đề, các chương trình khác có phụ đề thì lại chưa sẵn có.5
1.2. Dịch vụ dựa vào cộng đồng và y tế
Xét đến những dịch vụ dựa vào cộng đồng và dịch vụ y tế, thiếu những dịch vụ phát hiện sớm, can thiệp
sớm, tái phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng dành cho
TKT trong cộng đồng tại Việt Nam. Trong khi những chính sách chính thống cung cấp dịch vụ tái hồi
chức năng cho NKT cũng có đấy, tổng quan vẫn còn thiếu rất nhiều những dịch vụ như vậy, cũng như
hoàn toàn còn thiếu những dịch vụ lấy TKT làm mục tiêu.6 Thiếu những dịch vụ này là do kinh phí chưa
đầy đủ, thực thi kém, mở rộng dàn trải và thiếu duy trì.7 Nhiều TKT không nhận được chăm sóc sức
khỏe và dịch vụ phục hồi chức năng.8 Còn đối với những em nào nhận được, số lượng trẻ em sử dụng trợ
giúp phục hồi chức năng rất thấp, chỉ khoảng 1/5 TKT được dùng tay giả, chân giả, chỉnh hình, hỗ trợ
nghe và nhìn hoặc xe lăn..9 Dịch vụ phục hồi chức năng không sẵn có tại nhiều cộng đồng và nhân viên
1 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, UNICEF và Bộ LĐ-TB-XH 155 (Hà Nội), 2004.
2 Michael Schwartz, Điếc tại Việt Nam: Liệu Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền của người khuyết tật có l...ề phân biệt đối xử, khẳng định “Phân biệt đối xử
đối với NKT hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người
khác vì lý do khuyết tật của người đó.”74 Định nghĩa này phù hợp với định nghĩa của CRPD và phân biệt
đối xử bị nghiêm cấm theo Dự thảo Luật Người Khuyết tật.75 Tuy nhiên, vấn đề là định nghĩa trong bản
Dự thảo Luật Người Khuyết tật không đủ cụ thể. Thêm vào phần nghiêm cấm phân biệt đối xử chung,
cần đặc biệt nghiêm cấm chuyện phân biệt đối xử đối với NKT trong bối cảnh giáo dục, nhà ở, y tế, tiếp
cận dịch vụ, đi lại và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống.
Bổ sung vào Dự thảo Luật Người Khuyết tật, Hiến pháp 1992 của Việt Nam tái khẳng định những
nguyên tắc tôn trọng phẩm giá, bình đẳng và cấm phân biệt đối xử trong điều 52, nêu rằng “mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật”76 Điều 5 của bộ Luật dân sự, điều 8 của Luật tố tụng dân sự, điều
3 của Luật Xử phạt, điều 5 của Luật tố tụng xử phạt, điều 5 của Luật Lao động và điều 2 của Luật Hôn
nhân và Gia đình cũng có những câu tương tự.77 Tuy nhiên, để làm sáng tỏ thêm và bảo vệ quyền của
NKT, cần bổ sung thêm khẳng định việc áp dụng những quyền này cho NKT và nghiêm cấm phân biệt
đối xử vì lý do khuyết tật.
73 Dự thảo Luật Người Khuyết tật, 5-10-2009, điều 2(2).
74 Như trên tại Điều 2(8).
75 Như trên tại Điều 13(1).
76 Hiến pháp Việt Nam (1992), điều 52.
77 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 11.
22
Điều 15 của CRPD cũng yêu cầu bảo vệ chống lại cách đối xử phi nhân đạo hoặc tra tấn, cấu thành một
dạng thức phân biệt đối xử đối với người khuyết tật. Bảo vệ chống lại lạm dụng tại các trại –kể cả kiểu
giam giữ hoặc nhốt riêng – phải được thiết lập theo luật pháp Việt Nam coi đây là vấn đề chống phân
biệt đối xử. Trong các chuyến thăm của MDRI đến các cơ sở, chúng tôi quan sát thấy cách thức trông
giữ các cháu khuyết tật chưa được kiểm soát.
4.3. Môi trường sống phù hợp
CRPD định nghĩa “môi trường sống hợp ” là sự điều chỉnh thích hợp và cần thiết không phải gây thêm
gánh nặng không đáng có hoặc mất cân đối, là nơi cần trong trường hợp cụ thể, bảo đảm cho người
khuyết tật thoải mái hoặc làm việc trên cơ sở bình đẳng với những người khác có được những quyền con
người và quyền tự do cơ bản.78 Phủ nhận môi trường sống của NKT sẽ tạo nên phân biệt đối xử vì lý do
khuyết tật.79
Khái niệm môi trường cư ngụ hợp lý cực kỳ quan trọng theo CRPD. Không có môi trường cư ngụ hợp lý,
cá nhân khuyết tật se không thể nào thực hiện được quyền về tôn trọng phẩm cách, bình đẳng, và không
bị phân biệt đối xử bởi vì họ sẽ không thể nào tham gia đầy đủ vào xã hội. Như vậy, CRPD khẳng định
rằng “để đề cao bình đẳng và xóa bỏ phân biệt đối xử, các quốc gia thành viên phải thực hiện những bước
thích hợp để bảo đảm cung cấp môi trường cư ngụ hợp lý.”80 Sự cần thiết của môi trường cư ngụ hợp lý
cho trẻ em còn được nhấn mạnh hơn nữa trong điều 7, khẳng định trẻ em phải được đặc biệt “cung cấp
thiết bị hỗ trợ phù hợp lứa tuổi và hỗ trợ khuyết tật.”81
Mặc dầu điều 2 của Dự thảo Luật Người khuyết tật nêu một định nghĩa chung về phân biệt đối xử, luật
không khẳng định rằng việc không cung cấp được môi trường cư ngụ hợp lý cho NKT sẽ cấu thành phân
biệt đối xử.82 Nếu không có môi trường cư ngụ hợp lý, NKT sẽ không thể tham gia đầy đủ vào xã hội và
do đó trở thành chủ thể bị phân biệt đối xử. Kết quả sau đó là, ta nên bổ sung ý đó vào định nghĩa khuyết
tật trong Dự thảo Luật Người khuyết tật điều 2 phần nghiêm cấm điều 13. Nhân đây muốn nói đây là lý
do vì sao việc phát triển xã hội dân sự và trao quyền cho NKT tham gia vào công tác biện lý chính sách
là rất thiết yếu. Trừ phi những người hiện nay đang bị từ chối có được cơ hội làm cùng với những người
khác để phát hiện và làm nên những cải tiến, nếu không kiểu làm không giao quyền hiện hiện nay chắc
chắn vẫn tiếp tục diễn ra.
5. Quyền tiếp cận
Một trong những vấn đề tràn lan nhất mà tất cả những NKT đối mặt là tình trạng thiếu tiếp cận đến
những khu vực công và dịch vụ công. NKT không thể đến trường, đến trung tâm y tế, nơi công cộng bởi
vì các tòa nhà đó và phương tiện giao thông đó không thiết kế làm môi trường cư ngụ cho họ. Tương tự
như thế, NKT mắt và tai bị chối từ tiếp cận các chương trình học tập, đầu ra truyền thông, tin tức khác.
Việt Nam có luật và quy định hứa hẹn sẽ tạo môi trường lý tính và phương tiện giao thông sẵn sàng,
nhưng còn đối với mảng truyền thông tin tức cho người mù điếc thì mới chỉ ở mức khuyến khích phát
triển. Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam không nêu rõ ai chịu trách nhiệm làm cho mảng
thông tin truyền thông này tiếp cận được, thời gian nào loại thông tin truyền thông này phải có, và hệ
lụy sau đó đưa đến là gì. Dự thảo Luật Người khuyết tật sẽ có chất lượng tốt hơn rất nhiều nếu luật nêu
78 CRPD, 22-10- 2007, điều 2.
79 Như trên
80 Như trên tại Điều 5.
81 Như trên tại Điều 7(3).
82 Dự thảo Luật người Khuyết tật 5-10-2009, điều 2.
23
cụ thể bảo đảm cho NKT quyền được có công nghệ thông tin truyền thông và đề ra một kế hoạch bảo
đảm quyền này.
5.1. Quyền tiếp cận môi trường lý tính và phương tiện giao thông
Đối với những NKT nhất định, quyền bình đẳng có ý nghĩa rất ít nếu như họ không thể tiếp cận môi
trường của họ. Quyền tiếp cận môi trường giúp cho NKT sống độc lập và tham gia đầy đủ vào môi
trường xung quanh. Tính tiếp cận không chỉ là một vấn đề đối với NKT thể chất khi họ gặp khó khăn đi
vào và sử dụng tòa nhà, nhà ở, đường đi và phương tiện giao thông. Tính tiếp cận cũng còn là một vấn
đề đối với những người khiếm khuyết thị lực và thính lực. Để họ tiệm cận được xã hội, cần thiết phải có
ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille, băng casset, phông chữ cỡ to, và những công cụ phương tiện sử dụng
công nghệ hỗ trợ.83
Như là thế này, điều 9 của CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên thi hành những biện pháp thích hợp
để bảo đảm “việc tiếp cận của NKT, trên cơ sở bình đẳng với những người khác, đến (1) môi trường lý
tính, (2) phương tiện giao thông, (3) thông tin và truyền thông, kể cả công nghệ và hệ thống thông tin
và truyền thông, và (4) những cơ sở cùng dịch vụ khác mở ra và cung cấp cho công chúng, ở cả những
vùng nông thôn và đô thị.”
Xét về việc tiếp cận đến môi trường lý tính và phương tiện giao thông, Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông
vận tải đã ban hành một loạt quy định đòi hỏi các tòa nhà và phương tiện giao thông phải được thiết kế
sao cho NKT có thể tiếp cận sử dụng được.84 Xét về việc tiếp cận đến thông tin và truyền thông, Luật
công nghệ thông tin có một điều khoản riêng liên quan đến NKT. Mặc dầu quy định khuyến khích phát
triển công nghệ thông tin, không có điều khoản cụ thể về sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, cỡ
chữ lớn và những hình thức truyền thông khác, như các loại chữ và thiết bị hỗ trợ ngôn ngữ cho các dạng
khuyết tật khác nhau.85
Còn đối với Dự thảo Luật Người khuyết tật, dự thảo đòi hỏi nâng cấp và cải tạo tất cả các tòa nhà công
cộng để bảo đảm NKT tiếp cận được.86 Luật cũng đòi hỏi rằng tất cả những thiết kế trong tương lai phải
tuân thủ với tiêu chuẩn xây dựng quốc gia.87 Phương tiện giao thông công cộng cũng phải được bố trí
là sao cho NKT có thể dùng được.88 Còn đối với công nghệ thông tin và truyền thông, Dự thảo Luật
Người khuyết tật đặt nghĩa vụ đối với “các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân” thiết lập những
chương trình triển khai lộ trình sử dụng ngôn ngữ tín hiệu, chữ nổi Braille, và những thiết bị kỹ thuật
cho NKT.89 Tuy nhiên, theo cách nói này, vẫn chưa rõ ai chịu trách nhiệm thực thi hoặc thi hành những
luật này. Hiện nay vẫn còn thiếu một lịch biểu thời gian và ngày hoàn thành. Tất cả những yếu tố đó cần
được làm sáng tỏ trong luật để bảo đảm quyền tiếp cận.
Mặc dầu Việt Nam đã đạt những tiến bộ trong việc thông qua những quy định để điều chỉnh môi trường
vật chất và phương tiện giao thông khả dụng cho NKT, vẫn còn nhiều yếu tố cần cải tiến như đã nêu trên.
83 CRPD, 22-10-2007, điều 9(1).
84 Những quy định này gồm: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXD Viet Nam 01:2002 về luật xây dựng; Tiêu chuẩn
xây dựng Việt Nam TCXD 264:2002 về thiết kế và xây dựng cơ bản cho người khuyết tật; Tiêu chuẩn xây dựng Việt
Nam TCXD 265:2002 quy định về đường và hè đường; Tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXD 266-2002 xây dựng
nhà ở; Quyết định số 08/2005/QD-BGTVT ngày 10/01/ 2005 của Bộ Giao thông vận tải về ban hành quy định về
các bến đỗ xe buýt.
85 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 12-13.
86 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 30(1).
87 Như trên tại Điều 30(2).
88 Như trên tại Điều 32(1).
89 Như trên tại Điều 33.
24
Xét về tiếp cận môi trường vật chất và phương tiện giao thông, vẫn chưa rõ ngay rằng liệu luật pháp hiện
nay có đủ cụ thể để cải thiện việc tiếp cận của NKT hay chưa. Trong nhiều trường hợp, xe buýt, tàu hỏa,
nhà ở, tòa nhà công, đường đi vẫn chưa thuận tiện cho NKT. Tuy nhiên, một phần lý do thiếu tiếp cận
này là vì thiếu động thái tăng cường thi hành pháp luật hiện hành. Bất chấp việc đã có những quy định,
NKT vẫn chưa thể tiếp cận phương tiện giao thông công cộng, trường học, bệnh viện, nhà vệ sinh, cửa
hàng và tất cả các loại tòa nhà công sở khác.90
5.2. Quyền tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông
Xét về việc tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông, luật hiện nay của Việt Nam không đòi hỏi
rằng công nghệ thông tin phải có cho NKT. Nhưng mà luật của Việt Nam lại khuyến khích phổ biến
công nghệ thông tin.91 Như vậy, người khiếm khuyết nghe-nhìn không được bảo đảm có được chữ nổi
Braille, băng cassettes, chữ phông lớn và các loại công nghệ khác.92 Mặc dầu bản thảo mới nhất của Dự
thảo Luật Người khuyết tật yêu cầu các tổ chức truyền thông bắt đầu quy hoạch để tiếp cận thông tin
và công nghệ,93 luật chưa nêu rõ ai chịu trách nhiệm thực thi những thay đổi này, tiêu chuẩn là gì, cách
thức thi hành ra sao.
Như vậy, luật của Việt Nam sẽ tốt hơn nếu đặc biệt bảo đảm được NKT có quyền tiếp cận sử dụng chữ
nổi Braille, băng cassettes, chữ phông lớn và các loại công nghệ khác trong một kế hoạch rõ ràng để
thực thi. Những môi trường ngụ cư khác cũng cần được xem xét, kể cả làm phụ đề cho các băng videos,
chương trình vi tính làm sao nghe được đối với những người khiếm thị, đèn tín hiệu giao thông không
chỉ thể hiện bằng màu sắc mà cũng thể bằng lời thông báo an toàn cho người đi bộ, hệ thống báo cháy
trong các tòa nhà cần có đèn nhấp nháy cho người khiếm thính và các thang máy cần có tín hiệu Braille
và thông báo bằng âm thanh, xin kể tên ra đây một vài ví dụ.
6. Quyền sống trong cộng đồng
Hơn 6 vạn TKT tại Việt Nam, mà quyền được sống với gia đình của chính mình bị phủ nhận vì các cháu
bị khuyết tật, cũng như quyền sống trong cộng đồng bình thường không thấy nêu trong luật của Việt
Nam. Cần nhiều thay đổi pháp lý để đưa luật Việt Nam phù hợp với điều 19 của CRPD, thiết lập “quyền
bình đẳng của tất cả những NKT được sống trong cộng đồng, quyền lựa chọn bình đẳng như những
người khác”. Dự thảo Luật Người khuyết tật nên được điều chỉnh để: (1) gộp một điều khoản cụ thể bảo
đảm quyền của trẻ em được sống với gia đình và (2) bảo đảm quyền của trẻ em sống với một gia đình
thay thế nếu gia đình của em đó không thể cưu mang được. Pháp chế mới cũng nên được chỉnh sửa để
thiết lập một hệ thống chăm sóc hỗ trợ cho tất cả TKT bất kể mức độ khuyết tật ra sao. Để bảo đảm rằng
TKT có thể sống an toàn trong cộng đồng, như yêu cầu của CRPD điều 16, Việt Nam nên thiết lập hệ
thống bảo vệ trẻ em ngăn ngừa lạm dụng tại gia đình, công sở và tại bất cứ chương trình nào khác phục
vụ TKT. Chính phủ Việt Nam cũng nên lập những tiêu chuẩn chăm sóc và quy chế phân loại TKT trong
những cơ sở, trung tâm hiện nay.
6.1. Quyền được gia đình bảo vệ
Theo luật nhân quyền quốc tế, mọi TKT đều có quyền không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì khuyết tật.
CRPD yêu cầu các quốc gia thành viên “bảo đảm rằng trẻ em không bị chia ly khỏi cha mẹ nếu cháu
90 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 155.
91 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 12.
92 Như trên at 13.
93 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 33.
25
không muốn, ngoại trừ khi cơ quan chức năng chiểu theo bản án quyết định, tuân thủ theo luật định
và quy chế áp dụng, rằng việc chia ly đó là cần thiết vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Ngoài ra không có trường
hợp nào trẻ em bị chia tách khỏi cha mẹ chúng chỉ vì lý do khuyết tật của trẻ hoặc của một hoặc cả hai
bố mẹ.”94
Luật Hôn nhân & Gia đình có nhiều nghĩa vụ mà các thành viên trong gia đình đều phải chia sẻ gánh
vác giúp nhau. Tuy nhiên, trong những nghĩa vụ đó không có điều nào cụ thể giải quyết quyền của TKT
được sống với gia đình mình và không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì khuyết tật. Luật Bảo vệ Chăm sóc và
Giáo dục trẻ em của Việt Nam thì cụ thể hơn, nhưng vẫn chưa đủ mức cụ thể cần thiết. Luật này khẳng
định rằng trẻ em (nói chung, chứ không chỉ TKT) có quyền sống với cha mẹ mình và không ai có quyền
đưa trẻ xa khỏi cha mẹ chúng, trừ phi đó là vì lợi ích của trẻ.95 Luật cũng khẳng định rằng việc chăm sóc
trẻ em bị thiệt thòi trong các cơ sở bảo trợ chỉ áp dụng cho các cháu bị thiệt thòi hoặc các cháu không
được nuôi dưỡng trong gia đình riêng của mình.96 Tuy nhiên, không có điều khoản nào áp dụng đặc biệt
riêng cho TKT quyền được sống với gia đình. Tương tự, Dự thảo Luật Người khuyết tật không gồm có
điều khoản thiết lập quyền của trẻ em được sống cùng gia đình, và không bị chia ly khỏi gia đình chỉ vì
khuyết tật.
Để phù hợp với CRPD, Việt Nam nên điều chỉnh các văn bản luật nêu rõ ràng dứt khoát rằng TKT có
quyền sống với gia đình. Câu này nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật. Khi trẻ em bị
đưa xa khỏi gia đình, các cháu gặp phải rất nhiều gian khó. Như vậy, cách giám sát này cần được sửa, và
cần có những cố gắng đặc biệt để dành cơ hội cho TKT được sống với gia đình mình. Cần nêu rõ trong
Dự thảo Luật Người khuyết tật các bước cần thiết phải làm để xác định những gia đình có TKT và những
dịch vụ dành cho những gia đình này tại nhà họ.
Để tăng cường quyền được bảo vệ của gia đình, Việt Nam cần hỗ trợ cho cả TKT và gia đình của TKT.
Hỗ trợ này gồm một loạt những dịch vụ giáo dục, xã hội và y tế cần phải có cho TKT tật nơi trẻ sống
trong cộng đồng, như phúc lợi xã hội (hỗ trợ tài chính); hỗ trợ tạo thu nhập, các chương trình hỗ trợ và
đến thăm gia đình; những trung tâm hỗ trợ gia đình; điều trị cai nghiện rượu và ma túy; dịch vụ tư vấn;
chăm sóc an ủi; các nhóm hỗ trợ đồng đẳng; các lớp giáo dục làm cha làm mẹ.97 Các gia đình có TKT
cũng nên được tư vấn để họ học được cách không xấu hổ vì có con khuyết tật thay vào đó nhin nhận
được tiềm năng của con mình.98 Những gia đình này cũng cần hỗ trợ thêm về thu nhập và chăm sóc an
ủi.
6.2. Quyền được sống trong cộng đồng
Quyền được hòa nhập cộng đồng là một nguyên tắc cốt lõi của luật quốc tế đi trước khi ra đời CRPD.99
Trong 30 năm qua, quyền này được khẳng định và tái khẳng định trong những nguyên tắc của LHQ
bảo vệ người đau ốm về thần kinh, những quy định tiêu chuẩn về Cơ hội công bằng cho NKT, và Nghị
quyết về dịch vụ xã hội cho người bị tật nguyền thể chất và trí tuệ.100 Tuy nhiên, CRC là hiệp ước ràng
buộc đầu tiên công nhận rằng TKT có quyền “tham gia tích cực vào cộng đồng.”101 Các quốc gia thành
94 CRPD, 22-10-2007, điều 23(4).
95 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, No.25/2004/QH 11-6-2004, điều 13.
96 Như trên
97 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, at 23.
98 Như trên
99 Eric Rosenthal, Elizabeth Bauer, Mary F. Hayden, và Andrea Holley, Thực hiện quyền hòa nhập cộng đồng cho trẻ em
khuyết tật tại Nga: Một khuôn khổ nhân quyền cho Hành động quốc tế, 4 Health and Hum. Rts. 83, 85 (1999).
100 Như trên at 85-86.
101 CRC, 28-2-1990, tại Điều 23(1).
26
viên có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ xã hội để bảo đảm quyền này.102 Điều 23(3) của CRC nêu rõ rằng các
chính phủ phải bảo đảm chắc chắn rằng “TKT tiếp cận hiệu quả và nhận được những dịch vụ giáo dục,
đào tạo, y tế, dịch vụ phục hồi chức năng, chuẩn bị nghề cho có việc làm và những cơ hội giải trí theo
cách có lợi cho trẻ để TKT đạt được hòa nhập xã hội đầy đủ nhất và phát triển cá nhân tốt nhất, kể cả
phát triển văn hóa và tinh thần.”
Ủy ban về Quyền trẻ em đã bày tỏ quan tâm về việc đưa TKT vào các trung tâm chăm sóc tập trung.103
Mặc dầu ủy ban dứt khoát khẳng định rằng tất cả TKT đều có quyền được sống trong cộng đồng, ủy ban
“thúc giục các quốc gia thành viên chỉ đưa TKT vào các trại như là biện pháp cứu cánh cuối cùng, khi
hoàn toàn cần thiết và vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ””104 Ủy ban kêu gọi các quốc gia “xây dựng những
chương trình dần dần đưa TKT ra khỏi các trại, về với gia đình hoặc người thân và các cơ sở nuôi dưỡng
chăm sóc như gia đình.”105
Điều 19 của CRPD nêu rõ rằng tất cả TKT có quyền sống trong cộng đồng với những lựa chọn bình
đẳng với những người khác. Gộp chung lại, CRC và CRPD đặt ra rằng chính phủ phải có kế hoạch đưa
trẻ em nào hiện nay đang bị chia tách khỏi xã hội được hòa nhập đầy đủ vào xã hội. Việc này dẫn đến một
kế hoạch cung cấp dịch vụ dựa vào cộng đồng để chấm dứt tình trạng phụ thuộc vào các trại tế bần, các
trường nội trú, viện tâm thần và những cơ sở bảo trợ xã hội để nuôi dưỡng các em.
6.2.1. Quyền được sống trong nền tảng gia đình
Điều 19 của CRPD, đặc biệt đòi hỏi các chính phủ công nhận “tất cả những NKT được sống trong cộng
đồng, có quyền lựa chọn bình đẳng với những người khác”106 Điều này áp dụng bình đẳng cho cả trẻ
em và NKT, bất kể cấp độ khiếm khuyết ra sao. Nếu gia đình ruột hoặc gia đình người thân của trẻ không
thể hoặc không nuôi được trẻ thì những gia đình “thay thế” hoặc cơ sở “nuôi như gia đình” sẽ là phương
án tiếp sau tốt nhất. CRPD giữ quan điểm rằng “tại đâu gia đình không có khả năng chăm sóc một TKT,
[quốc gia thành viên sẽ] thực hiện mọi cố gắng để cung cấp chăm sóc thay thế trong một gia đình lớn,
và cứ theo như thế, trong cộng đồng có nền tảng gia đình.”107 Tới mức độ những cơ sở chăm sóc như gia
đình miễn cưỡng nhận TKT mà các cháu này có thể cần chăm sóc đặc biệt do tình trạng khuyết tật về
thể chất, giác quan, tâm lý và trí tuệ, Ủy ban về quyền trẻ em kiến nghị rằng “những tổ chức chịu trách
nhiệm đưa các TKT vào các cơ sở chăm sóc như gia đình phải tiến hành đào tạo cần thiết và khuyến
khích các gia đình thích hợp, cung cấp hỗ trợ cho phép cơ sở gia đình này chăm sóc TKT đầy đủ.”108
Tuy nhiên, không có phần nào trong Dự thảo Luật Người khuyết tật của Việt Nam thiết lập quyền của
TKT được sống trong một bối cảnh gia đình trong cộng đồng. Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được
sửa đổi để nêu dứt khoát rằng TKT thực tế có được quyền này. Trong khi Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em Việt Nam khẳng định rằng tất cả trẻ em đều có quyền sống cùng cha mẹ và không ai có quyền
đưa trẻ em rời xa cha mẹ, trừ phi vì lợi ích của trẻ,109 nhưng lại không áp dụng cụ thể riêng cho TKT.
Hiện nay, cách làm tách biệt TKT ra khỏi cha mẹ chúng phần nào vẫn đang tiếp tục diễn ra vì dịch vụ
dựa vào cộng đồng hiện nay chưa đủ để cho phép thực hiện quyền này.110 Việt Nam với cơ chế còn bị
102 Như trên
103 Ý kiến nhận xét chung 9, U.N. CRC, Phiên họp 43, đoạn 47 U.N. Doc. CRC/C/GC/9 (2006).
104 Như trên
105 Như trên
106 CRPD, 22-10-2007, tại Điều 19.
107 Như trên tại Điều 23(5).
108 Ý kiến nhận xét chung 9, U.N. CRC, 43rd Sess., at 790, U.N. Doc. CRC/C/GC/9 (2006).
109 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, No.25/2004/QH 11 June, 2004, điều 13.
110 Phân tích tình hình các cơ sở và chương trình chăm sóc thay thế tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 17, tại 38-39.
27
hạn chế để cung cấp tài chính và các dạng hỗ trợ khác cho những gia đình có TKT.111 Luật Việt Nam có
một số điều khoản cho chăm sóc dựa vào cộng đồng thông qua (1) bà con họ hàng, (2) người bảo trợ,
(3) nhận con nuôi, (4) cơ sở chăm sóc như gia đình, và (5) các cơ sở chăm sóc tập trung.112 Tuy nhiên,
vẫn thiếu hệ thống chăm sóc như gia đình được điều tiết công khai cho những tình huống mà gia đình
không thể nuôi dưỡng con cái bị khuyết tật.113 Nên chỉnh sửa những thiếu sót này để bảo đảm TKT có
quyền sống trong một nền tảng gia đình.
6.2.2. Quyền được ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung
Hơn 50 năm vừa qua, các nhà nghiên cứu đã thu thập tài liệu về hậu quả đưa trẻ em vào các trại.114 Trong
khi nguy hiểm đặc biệt lớn đối với tuổi ấu thơ, thì các cháu già dặn hơn cũng dễ bị tổn thương.115 Những
nguy hiểm này gồm vấn đề nhận thức, rối loạn hành vi và tình cảm nghiêm trọng, hội chứng bắt chước
tự kỷ, những vấn đề nhập loạn giác quan, chậm nói và khả năng ngôn ngữ, bệnh tật, và thiếu chất phát
triển thể chất.116 Trong khi trẻ em có thể hồi phục khỏi nhiều yếu tố cản trở phát triển do các trại gây ra,
tổn thương tâm lý do trại gây ra chắc sẽ tồn tại suốt đời.117
Cao ủy LHQ về Nhân quyền đã dứt khoát khẳng định rằng “Nhất định phải bãi bỏ pháp chế cho quyền
đưa những NKT vào trại vì họ khuyết tật mà không được sự đồng ý và tự do lựa chọn của họ.”118 Bổ
sung vào việc đơn thuần bãi bỏ kiểu đưa NKT vào trại mà không được họ đồng ý, Điều 19 của CRPD
tạo nghĩa vụ tích cực cho chính phủ cần lập kế hoạch đưa NKT ra khỏi các cơ sở chăm sóc tập trung và
tạo ra những dịch vụ cần thiết làm phương án thay thế dựa vào cộng đồng có ý nghĩa hơn so với các trại.
Như Cao ủy LHQ về Nhân quyền nêu rõ, một chính sách được khẳng định để đưa người ra khỏi trại là
chưa đủ:
“Các khoản của Điều 19 của Công ước mang theo nhiều hàm ý xa vời đối với tất cả
hình thức chăm sóc NKT trong trại. Sự công nhận quyền của NKT được sống độc
lập và hòa nhập cộng đồng đòi hỏi sự chuyển biến của những chính sách chính phủ
từ việc chăm sóc trong các trại sang những dịch vụ hỗ trợ dựa vào cộng đồng và tại
gia đình. Yếu tố cơ bản của bất cứ sự can thiệp nào nhằm vào tác động đến quyền
111 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 24.
112 Như trên at 31.
113 Như trên
114 Charles H. Zeanah và tất cả., Nghiên cứu thiết kế để tìm hiểu tác động của cuộc sống trong trại lên não bộ và phát triển hành
vi: dự án can thiệp sớm Bukaret, 15 Phát triển và Bệnh học tâm lý 885, 886 (2003) (tổng kết 5 thập niên nghiên cứu
tài liệu về tác hại của cuộc sống trong trại); D.A. Frank và tất cả. Nhi đồng và trẻ nhỏ tuổi trong các trại trẻ em mồ côi:
Một quan điểm từ các nhà tâm lý trẻ em và nhi khoa, 95 Nhi khoa (1996); JAMES CONROY và VALERY BRADLEY,
Nghiên cứu ngành dọc PENNHURST: Báo cáo 5 năm Nghiên cứu và Phân tích (1985).
115 Dana Johnson, Trình tự y tế và phát triển của việc đưa trẻ em nhỏ tuổi vào trại tại các cơ sở nhận nuôi dưỡng trẻ em Đông
Âu, trong cuốn Tác động bất lợi sớm lên phát triển thần kinh 147 (C. Nelson, xuất bản., 2000).
116 Zeanah và tất cả., như đã trích dẫn chú giải 114, tại 15. Xem Kim Chisholm, Báo cáo 3 năm theo dõi tình trạng lệ
thuộc và phân biệt đối xử quan hệ bạn bè trong số trẻ em tại các trại trẻ mồ côi ở Ru-ma-ni, 69 Phát triển của trẻ em
1092 (1998); Megan Gunner, Jacqueline Bruse, và Harold Grotevant, Nhận làm con nuôi quốc tế các cháu được nuôi
dưỡng trong các trại: Nghiên cứu và chính sách, 12 Phát triển và Nghiên cứu bệnh tâm lý 677 (2000); Dana Johnson,
Những vấn đề y học trong nhận con nuôi quốc tế: Những tác nhân ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ trước khi được nhận, 30
Những gia đình nhận con nuôi 18 (1997); T.C. Benoit, và tất cả., Tình hình nhận con nuôi tại Ru-ma-ni: Kinh nghiệm
Manitoba, 150 Hồ sơ lưu trữ về y học tuổi nhi đồng và tuổi dậy thì 1278 (1996); Michael Rutter, và tất cả., Kiểu tự kỷ
ám thị sau tình hình sớm bị tước đoạt nặng nề, 40 Tạp chí Tâm lý trẻ em và Nhi khoa và những nguyên lý ứng dụng 547
(1999).
117 Johnson, như đã trích dẫn chú giải 115, at 147
118 Báo cáo thường niên của Cao ủy LHQ về Nhân quyền và Báo cáo của văn phòng Cao ủy và Tổng thư ký, như đã trích
dẫn chú giải 40 đoạn 49.
28
được sống độc lập và hòa nhập cộng đồng là sự công nhận pháp lý rõ ràng về quyền
của NKT được quyết định cho mình sống ở đâu và sống với ai. Sự công nhận này
cũng nên phản ánh công khai việc thu xếp bố trí chăm sóc nội trú không đúng luật
đã đi ngược lại với mong mỏi của NKT.”119
“Việc đưa NKT ra khỏi cơ sở chăm sóc tập trung là cần thiết nhưng không đủ để đạt
được mục đích sống độc lập. Trong nhiều trường hợp, chiến lược quốc gia là phối
kết hợp can thiệp vào những lĩnh vực dịch vụ xã hội, sức khỏe, nhà ở và việc làm, ở
mức độ rất tối thiểu, sẽ là cần thiết. Để thực hiện hiệu quả những chiến lược như vậy
điều cần thiết là nguyên tắc sống độc lập cần phải bắt nguồn trong khuôn khổ pháp
lý được thiết lập rõ ràng là một quyền pháp lý và đến lượt nó đặt trách nhiệm vào
chính quyền và các nhà cung cấp dịch vụ, trong khi đó cũng cho phép việc cầu viện
trong trường hợp vi phạm. Những khuôn khổ pháp lý như vậy sẽ gồm có công nhận
quyền tiếp cận những dịch vụ hỗ trợ cần thiết để cho phép sống độc lập và hòa nhập
cuộc sống cộng đồng và bảo đảm rằng hỗ trợ sống độc lập được sắp xếp bố trí trên
cơ sở lựa chọn và mong muốn cá nhân, theo đúng với những nguyên tắc của Công
ước.”120
Vậy mà bất chấp cách nói này, những chính sách hiện nay tại Việt Nam không giải quyết tình huống
của trẻ em đang sống trong các trại, và không có chiến lược quốc gia để đưa các em ra khỏi trại. Theo
UNICEF và Bộ LĐTB&XH, TKT tại Việt Nam thường được đưa vào các trại là theo một quy trình tiêu
chuẩn.121 Hơn thế nữa các em phải ở một thời gian lâu, thường là cho tới tận năm 18 tuổi và ngoài tuổi
đó.122 Việc đưa các em vào trại hiếm khi được tổng kết, và khi có tổng kết thì trọng tâm lại đặt vào điều
kiện vật chất của trẻ.123 Như vậy là chính phủ Việt Nam sau này nên chấm dứt việc đưa thêm các cháu
khuyết tật vào các cơ sở tập trung. Trong thời gian này, cũng nên đề ra một lịch biểu để giảm dần việc
sử dụng các trại hiện nay và đưa các em đang ở cơ sở đó về với gia đình trong cộng đồng.
Mặc dù dự thảo Luật Người khuyết tật nêu rằng các cơ sở chăm sóc, trại cần phải đề cao cuộc sống cộng
đồng và gia đình cho trẻ em và người lớn khuyết tật,124 không có vẻ chắc chắn là việc này sẽ có tác động
trong thực hành bởi vì một số lý do. Thứ nhất các trại này có thể có lợi ích khi giữ người tại đó để họ duy
trì đội ngũ nhân viên và ngân sách của trại. Lý do thứ hai, một khi những cá nhân sống trong một cơ sở
chăm sóc tập trung một thời gian khá lâu, họ trở nên bị “trại hóa”, hay nói cách khác là quen sống trong
cơ sở tập trung và như vậy họ thường sợ bị thả ra thế giới bên ngoài nơi mà họ không hề hiểu biết. Hơn
nữa, dự thảo Luật Người khuyết tật lại không gồm có tiêu chuẩn liên quan đến ai là người quyết định
bệnh nhân nào là “đủ tiêu chuẩn” và “sẵn lòng” rời khỏi cơ sở tập trung. Nếu không có những tiêu chí
như vậy, quyết định cho ra khỏi cơ sở chăm sóc tập trung là do đội ngũ cán bộ chuyên môn điều trị phán
xét, mà việc này có thể khác với ý kiến của gia đình hoặc của người trong cơ sở. Trong những trường
hợp như vậy, phán xét của đội ngũ cán bộ ở cơ sở thường chiếm ưu thế. Như vậy, Chính phủ Việt Nam
nên chú trọng tạo ra một chiến lược để cung cấp những lựa chọn khác dựa vào cộng đồng thực sự thay
thế cho chăm sóc trong cơ sở tập trung, thay thế cho việc tiếp tục thực hiện chăm sóc trong cơ sở tập
trung.
119 Như trên ở đoạn 50.
120 Như trên ở đoạn 51.
121 Tạo lập một môi trường bảo vệ trẻ em tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 6, tại 33.
122 Như trên
123 Như trên
124 Dự thảo Luật Người khuyết tật, 5-10-2009, điều. 37(5). Luật khẳng định rằng các cơ sở chịu trách nhiệm nuôi dưỡng
người khuyết tật phải “cộng tác với UBND cấp xã/phường nơi người khuyết tật cư trú để đưa trở về gia đình hoặc
cộng đồng những ai đủ trình độ và sẵn lòng ra khỏi các trung tâm bảo trợ xã hội về với gia đình và cộng đồng.”
29
Còn đối với việc tạo ra một chiến lược để cung cấp việc chăm sóc thay thế dựa vào cộng đồng, hiện nay
tại Việt Nam chưa tồn tại hệ thống chăm sóc như gia đình dược điều tiết công khai. Tuy nhiên Việt Nam
đã bắt đầu quá độ từ các thể chế trại sang chăm sóc dựa vào gia đình.125 Vào ngày 25/3/2005, Thủ tướng
ra quyết định số 65/2005/QĐ-TTg, đệ trình một kế hoạch “chăm sóc dựa vào cộng đồng trẻ em mồ côi
vô gia cư, trẻ em bị bỏ rơi, TKT nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em sống chung với
HIV/AID cho giai đoạn 2005 - 2010”126 Quyết định này có những kế hoạch làm những việc sau đây: thí
điểm đưa trẻ em trong những hoàn cảnh đặc biệt hiện đang được chăm sóc tại các trung tâm bảo trợ xã
hội của nhà nước về với cộng đồng theo hình thức những gia đình chăm sóc, cán bộ chăm sóc như cha
mẹ hoặc chăm sóc tại nhà xã hội ; phát triển mô hình nhà xã hội thí điểm để chăm sóc trẻ em có những
hoàn cảnh đặc biệt tại cấp xã ; thí điểm việc chuyển từ chăm sóc trong cơ sở trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt ở những trung tâm bảo trợ xã hội nhà nước sang hình thức chăm sóc tập trung với “gia đình quy mô
nhỏ” trong các trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước.”127
Định hướng chính sách chung do quyết định số 65/2005/QĐ-TTg đề ra là một bước tích cực trong
việc chuyển đổi sang hệ thống chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai. Là một biện pháp đảm
bảo quyền được sống với một gia đình, cố gắng cung cấp những phương án lựa chọn dựa vào cộng đồng
được thiết lập trong chương trình thí điểm triển khai theo quyết định số 65/2005/QĐ-TTg nên được áp
dụng cho tất cả TKT và thực thi đầy đủ. Trẻ em hiện nay đang sống trong các trại nên được hòa nhập trở
lại vào xã hội mà không trì hoãn nữa.
Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg là đưa trẻ em Việt Nam “trong các trung tâm bảo trợ xã hội vào “gia
đình quy mô nhỏ” nằm bên trong những trung tâm bảo trợ xã hội của nhà nước.”128 Mô hình này dường
như đơn thuần là ... Bộ nào chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu.
Tuy nhiên, điều rõ ràng là cần phải có một hệ thống để thu nhập dữ liệu theo cách thức tuân thủ với tiêu
chuẩn quốc tế. Cần phải chỉ định một bộ phụ trách thu thập dữ liệu, và việc chỉ định này cũng nên được
thừa nhận trong Luật Người khuyết tật mới.
11. Tham gia công dân
Để làm cho những cố gắng lớn lao của Việt Nam trong công cuộc cải cách pháp luật xứng đáng hơn điều
thiết yếu là cần phải cố gắng trao quyền cho NKT trong tất cả tầng lớp nhân dân. Tại nhiều nơi trên thế
giới cải cách diễn ra tại nơi nào xã hội dân sự độc lập có cả sự lãnh đạo của NKT tìm kiếm được cải cách
241 Những bộ này gồm: Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính; Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND.
242 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 53.
243 Như trên
244 Như trên
245 Như trên
246 CRPD, 22-10-2007, điều 31.
247 Như trên tại Điều 31(1)(a)(b).
248 Như trên tại điều 31(2).
46
của chính phủ. NKT nên được bổ nhiệm vào Ủy ban nhân dân và những vị trí lãnh đạo khác trong chính
quyền địa phương và quốc gia đề ra chính sách và thực thi những chương trình tác động tới cá nhân
những NKT.
Điều 4(3) của CRPD thiết lập nền tảng rằng NKT thông qua những tổ chức đại diện cho mình nên
được lôi cuốn vào quy hoạch chương trình và thực thi ở tất cả các cấp xã hội và chính phủ. Điều 31 đòi
hỏi các quốc gia thành viên lôi cuốn xã hội dân sự vào việc thực thi CRPD và cho phép xã hội tham gia
đầy đủ vào tiến trình theo dõi. Điều đặc biệt quan trọng là NKT và những tổ chức đại diện cho họ cũng
nằm trong số đó.249
Tham gia và biện lý công dân của NKT và gia đình họ là điều cốt yếu đối với cải cách pháp luật và thực
thi chương trình.250 NKT và gia đình họ là những người hiểu biết nhất về nhu cầu của mình mà cải cách
cần phải công nhận và nâng cao quyền và nhu cầu của họ. Nói chung, quyền của NKT vẫn chưa nhận
được sự công nhận từ những tổ chức nhân quyền khác.251 Đào tạo biện lý cho các nhóm khuyết tật là một
cách thức hiệu quả giúp nhóm khuyết tật tham gia vào tiến trình ra chính sách và thực thi những chương
trình mới nếu những nhóm khuyết tật chưa có kinh nghiệm trong những vấn đề như vậy.252
Hiện nay những điều khoản pháp lý quy định quyền hạn của những tổ chức NKT liên quan vào tiến
trình làm luật và giám sát còn thiếu trong Luật Việt Nam. Đa số các tổ chức làm công tác hoặc là xã hội
hoặc là công tác từ thiện và có năng lực biện lý chính sách hạn chế để tác động tới quyết định, tới chính
sách ở cấp địa phương và cấp quốc gia. Như Tiến sĩ T.Duy Kiên khẳng định trong báo cáo so sánh của
mình “hoạt động của hiệp hội chủ yếu có tính chất hỗ trợ và từ thiện, có tác động rất ít đến công tác điều
phối cũng như tham gia vào giám sát và chất vấn xã hội về chính sách, pháp chế và việc thực thi những
chính sách pháp chế liên quan tới NKT.”253 Vai trò của các tổ chức cần phải được tăng cường gồm có
quyền được kiến nghị và tác động tới chính sách. Những tổ chức này cần phải có năng lực chất vấn độc
lập và giám sát luật của Việt Nam về NKT.254 Cũng cần phải khuyến khích công tác đào tạo kỹ năng biện
lý chính sách.
12. Kiến nghị cho chính phủ Việt Nam
12.1. Quyền được bảo vệ không bị phân biệt đối xử vì khuyết tật
12.1.1. Tuyên bố về phân biệt đối xử − Dự thảo Luật Người khuyết tật nên gồm có một mệnh đề rõ ràng
đặc biệt nghiêm cấm phân biệt đối xử trên vì lý do khuyết tật trong bối cảnh giáo dục, nhà ở, chăm sóc y
tế, tiếp cận các dịch vụ, giao thông vận tải và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống.
12.1.2. Tuyên bố về môi trường cư ngụ hợp lý − Định nghĩa phân biệt đối xử trong Dự thảo Luật Người
khuyết tật của Việt Nam nên gồm có phần điều kiện nếu không cung cấp được môi trường cư ngụ hợp
lý.
249 Như trên tại điều 33(3).
250 Eric Rosenthal và tất cả, như đã trích dẫn chú giải 99, tại-103.
251 Như trên
252 Như trên
253 Tiến sĩ T. Duy Kiên, như đã trích dẫn chú giải 35, at 54.
254 Như trên
47
12.2. Quyền tiếp cận
12.2.1. Nêu rõ về khái niệm tiếp cận − Việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat- set, cỡ
chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ cần phải được công nhận là một phần của quyền
được tiếp cận đối với NKT.
12.2.2. Tăng cường thực hiện những quy định hiện hành − Những quy định hiện hành của Việt Nam
cho phép môi trường lý tính, phương tiện giao thông, thông tin và truyền thông, và những cơ sở cùng
dịch vụ khác tiếp cận được đối với NKT phải được thực hiện và tăng cường, đặc biệt việc sử dụng ngôn
ngữ ký hiệu, chữ nổi Braille, băng cat-set, cỡ chữ lớn và những biện pháp khác của công nghệ hỗ trợ.
12.3. Quyền được sống trong cộng đồng
12.3.1. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với gia đình riêng của mình − Một điều khoản đặc biệt
nên được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật bảo đảm quyền của tất TKT được sống trong gia
đình riêng của mình hoặc gia đình thay thế.
12.3.2. Tuyên bố về quyền của TKT được sống với một gia đình thay thế − Một điều khoản đặc biệt nên
được bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật để đảm bảo quyền của trẻ em được sống với một gia
đình lựa chọn thay thế nếu như gia đình riêng không thể chăm sóc trẻ em đó.
12.3.3. Thiết lập một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai − Phải thiết lập
một hệ thống toàn diện chăm sóc như gia đình có điều tiết công khai cho tất cả TKT bất kể mức độ
khuyết tật nặng tới đâu.
12.3.4. Tạo lập tiêu chuẩn chăm sóc trong các cơ sở chăm sóc tập trung− Trong tình huống TKT được
chăm sóc tại một cơ sở nội trú, cần phải tạo lập những tiêu chuẩn để điều tiết điều kiện của những cơ sở
đó, thời hạn cho phép giữ trẻ em đến tuổi 18, cũng như những yêu cầu tổng kết định kỳ để xác định xem
có nên tiếp tục đưa các em ra khỏi gia đình như là một biện pháp hoàn toàn cần thiết hay không và xem
có những phương án thay thế nào khác sẵn có trong cộng đồng hay không.
12.3.5. Cấm đưa thêm TKT mới vào các cơ sở chăm sóc tập trung − Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng
cách dễ nhất và hiệu quả nhất để bắt đầu trên con đường này là chấm dứt bất cứ việc nhận thêm các em
mới vào cơ sở chăm sóc tập trung. Để có thể làm được việc này phải thiết lập một loạt hệ thống hỗ trợ
vào dịch vụ dựa vào cộng đồng cho số lượng nhỏ TKT cần đươc đến nơi mới. Luật cũng nên thiết lập
một ủy quyền đặc biệt để ưu tiên việc tạo ra những dịch vụ cần thiết nhằm chấm dứt việc đưa các em mới
vào cơ sở chăm sóc tập trung. Một thời điểm mục tiêu để chấm dứt việc nhận thêm các em mới cũng nên
được đưa ra , có lẽ vào năm 2011.
12.3.6. Thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em để phòng ngừa lạm dụng trong gia đình và trong các cơ sở
chăm sóc − Hiện nay chưa có một hệ thống tổng hợp và toàn diện để thực thi mà điều đó sẽ cản trở việc
đáp ứng lại những báo cáo về lạm dụng trẻ em tại gia đình hoặc trong một trại. Cũng chưa có những cán
bộ bảo trợ xã hội được chính thức giao nhiệm vụ đáp ứng những trường hợp bảo vệ trẻ em. Dịch vụ xã
hội hiện có chủ yếu dựa vào những cố gắng từ thiện, đối lập với phương pháp tiếp cận dựa vào quyền.
Như vậy, một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện cần phải có mà hệ thống này sẽ gồm những hệ thống sau
đây: (1) Hệ thống phát hiện và báo cáo, (2) Hệ thống điều tra và đánh giá, (3) Hệ thống phục hồi và tái
hòa nhập, và (4) Hệ thống chăm sóc thay thế.
48
12.4. Quyền được chăm sóc sức khỏe
12.4.1. Cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe can thiệp sớm − Vì có nhiều TKT không tiếp
cận được chăm sóc sức khỏe, Việt Nam cần cải thiện tình hình tiếp cận chăm sóc sức khỏe của TKT và
gia đình các em.
12.4.2. Cải thiện tình hình tại những cơ sở và phương tiện thiết bị phục hồi chức năng − Thiếu những
cơ sở phương tiện và thiết bị phục hồi chức năng đưa đến kết quả là rất ít TKT được chăm sóc sức khỏe
chuyên biệt. Do vậy Việt Nam cần cải thiện tình hình tại những cơ sở chăm sóc và phương tiện thiết bị
phục hồi chức năng.
12.4.3. Tuyên bố về quyền có ý kiến đồng ý − Một chương cần được bổ sung vào Dự thảo Luật NKT để
bảo vệ quyền của NKT có ý kiến đồng ý, tự quyết và tự lựa chọn và không bị ép buộc điều trị.
12.5. Quyền được giáo dục
12.5.1. Yêu cầu pháp lý − Bước đầu tiên để đảm bảo quyền được giáo dục cho tất cả TKT tại Việt Nam
là đưa vào trong Luật Khuyết tật mới một yêu cầu có một hệ thống giáo dục hòa nhập (thay cho hệ
thống hai kiểu, kiểu chung và kiểu chuyên biệt) cũng như là yêu cầu dạy nghề cho trẻ em và thanh thiếu
niên khuyết tật. Để đạt được mục đích này, nên đưa đại ý sau vào Điều 21: Giáo dục hòa nhập phải là
phương thức giáo dục chính có mục đích với NKT và mục đích của cải cách giáo dục là đưa nền giáo dục chung
cho tất cả trẻ khuyết tật. Trong tiến trình cải cách, giáo dục chuyên biệt sẽ được chuyển thể, khi những nguồn
lực có sẵn, thành những trung tâm nguồn để hỗ trợ cho các trường chung và số lượng nhập học tăng của TKT
vào các trường chung. Luật giáo dục 2005 và Luật dạy nghề cũng cần được thay đổi để phù hợp với Luật
Người khuyết tật sửa đổi. Để mang lại hiệu quả, tính pháp của việc hòa nhập này cần phải thực hiện
nghiêm túc, kể cả việc cấm xây dựng thêm hoặc mở thêm những chương trình chuyên biệt hoặc tách biệt
mới, trường và trại mới cho TKT cũng như là cần phải đóng cửa hoặc sử dụng các trường chuyên biệt đó
vào mục đích khác, những chương trình, cơ sở và việc chuyển ngân sách cho các trường tách lập sang hỗ
trợ phát triển các trường hòa nhập, nơi cư ngụ cần thiết, đào tạo giáo viên, và phát triển các chương trình
dạy nghề và hướng nghiệp cho thanh thiếu niên và người lớn khuyết tật. Quyết định của Bộ GD&ĐTsố
23/2006/QĐ-BGDĐT ngày 22/5/2006 về giáo dục hòa nhập cần phải được thực thi đầy đủ.
12.5.2. Khảo sát việc tiếp cận − Bổ sung vào việc cấm lập thêm các trường và chương trình tách biệt
mới, cần tiến hành những cuộc khảo sát tiếp cận liên quan tới việc xây dựng chương trình giáo dục và
dạy nghề hiện nay, kế hoạch và ngân sách cần được soạn ra để cải tạo chỉnh trang những công trình và để
cung cấp nơi cư ngụ cần thiết và cải tạo để sử dụng như những trường hòa nhập. Để tránh hình thức rập
khuôn trong cách thức cải thiện sự tiếp cận, Điều 20 của Dự thảo Luật Người khuyết tật cần được thay
đổi như sau: Hệ thống giáo dục phải hết sức linh hoạt cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đến trường. TKT cũng
cần được tính toán đến theo mức linh hoạt như vậy như những học sinh khác. Môi trường cư ngụ hợp lý phải có
sẵn cho TKT xét về độ tuổi đến trường, lệ phí, điều kiện của nhà trường, và những hình thức giao tiếp.
12.5.3. Đào tạo giáo viên − Bước tiếp sau trong việc chuyển đổi hệ thống giáo dục hiện nay sang hệ
thống giáo dục hòa nhập là phát triển những chương trình đào tạo giáo viên mới (và đào tạo lại). Vì giáo
viên là nhân tố chính trong việc tiên lượng thành công của học sinh, giáo viên phải được học cách dạy
học sinh, học sinh khuyết tật và không khuyết tật, để có được hỗ trợ đầy đủ giúp học sinh học những kỹ
năng mới. Những chương trình như vậy có thể được chính phủ hỗ trợ hoặc được các chuyên gia tư vấn
hỗ trợ do các nhà tài trợ quốc tế cấp kinh phí.
49
12.5.4. Thay đổi thái độ − Một điều kiện tất yếu có liên quan đến việc tạo lập một hệ thống giáo dục
hòa nhập là cần phải thay đổi có hệ thống những rào cản thái độ do giáo viên, phụ huynh và xã hội tạo
ra. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng và sẽ phải cần cộng tác của nhiều bộ, tổ chức phi chính phủ,
các nhà tài trợ quốc tế và UNICEF. Giáo viên, những người được đào tạo và trưởng thành trong một xã
hội đã kỳ thị, đã gạt ra ngoài lề và đã phân lập TKT cần thiết phải học lại không chỉ cách giảng dạy học
sinh khuyết tật mà còn học cách giải quyết những vấn đề rập khuôn riêng của mình suy nghĩ về TKT mà
họ đang giảng dạy. Giáo viên và tất cả cán bộ trong trường cũng như phụ huynh và các nhà quản lý hành
chính cần phải học cách tôn trọng sự khác biệt, kể cả những hình thức khác biệt mà TKT có thể phải
học và thể hiện trong lớp học. Tới mức độ đó hàng rào thái độ trong hệ thống nhà trường song song với
thái độ chung của xã hội Việt Nam đối với trẻ em và NKT, nó sẽ kết nối liên tục và có mối quan hệ khăng
khít với những trẻ em có những dạng khiếm khuyết khác nhau để tháo dỡ những hàng rào này ngay trong
giáo viên, phụ huynh và những người khác trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
12.5.5. Thu thập dữ liệu − Một bước quan trọng khác trong chuyển đổi hệ thống hiện nay sang hệ thống
giáo dục hòa nhập liên quan đến thu thập dữ liệu. Chính phủ Việt Nam nên bổ nhiệm một văn phòng
tại mỗi bộ để thu thập dữ liệu liên quan tới NKT nói chung, và liên quan đến những vấn đề giáo dục nói
riêng. Những dữ liệu như vậy nên gồm có số lượng và vị trí của TKT (phân hạng theo lứa tuổi, giới tính,
loại khuyết tật) những cháu chưa đi học tí nào, số lượng các cháu đang theo học tại các trường chung,
số lượng các cháu đang theo học tại các trường chuyên biệt, hoặc đang học trong các trại. Những số liệu
cũng cần được thu thập liên quan tới số lượng học sinh đã hoàn thành bậc tiểu học, và bậc trung học;
các loại cơ sở chăm sóc và chương trình giáo dục hiện có và nguồn kinh phí; tỷ lệ giáo viên với học sinh
cho các chương trình giáo dục, kể cả tỷ lệ này trong các trại chăm sóc và các trại trẻ mồ côi. Thu thập
những số liệu này sẽ giúp Việt Nam theo dõi số lượng học sinh khuyết tật, những cháu có quyền được đi
học cũng như là số lượng học sinh không đi học và nơi sinh sống của các em. Một khi chính phủ biết có
bao nhiêu học sinh cần đưa vào các trường chung, nơi mà học sinh rồi sẽ phải đến, Bộ GD&ĐT lúc đó
có thể triển khai một tiến trình phân bổ nguồn lực cần thiết và một thời điểm thích hợp để chuyển tất
cả các cháu vào các trường hòa nhập chung. Số liệu bổ sung, gồm có tỷ lệ tốt nghiệp và tỷ lệ có việc làm
trên tỷ lệ tốt nghiệp, cũng rất quan trọng để theo dõi và tăng cường thực thi Luật giáo dục hòa nhập mới
chưa kể đến những việc cần phải làm như một phần của trách nhiệm theo dõi và tăng cường thực thi mà
Việt Nam sẽ gánh vác một khi phê chuẩn CRPD.
12.5.6. Tăng cường việc thi hành Chỉ thị của Thủ tướng số 01/2006/CT-TTg − Việt Nam nên tăng
cường thi hành chỉ thị số 01/2006/CT-TTg, ngày 9/1/2006 về đề cao những chính sách hỗ trợ NKT
trong tình hình kinh tế xã hội hiện nay, giao nhiệm vụ cho Bộ GD&ĐT “soạn thảo và đệ trình lên Thủ
tướng chiến lược và kế hoạch hành động giáo dục TKT cho giai đoạn 2006 – 2010 và những năm sau
theo hướng dựa vào cộng đồng trên cơ sở giáo dục hòa nhập”. Sau 3 năm, vì nhiều lý do khác nhau, chiến
lược như vậy chưa được ban hành.
12.5.7. Chính sách đối với các nhà tài trợ quốc tế − Cần phải thu thập thông tin liên quan tới nguồn
kinh phí cho các trường và chương trình chuyên biệt cũng như là các trường và chương trình hòa nhập.
Tới mức độ là các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ kinh phí cho một số trường và chương trình tách biệt, cũng
nên khuyến khích họ thay vào đó cấp kinh phí cho các chương trình hòa nhập dựa trên quan điểm rằng
tất cả NKT đều có quyền được giáo dục. Những chương trình giáo dục như vậy nên tạo điều kiện cho
TKT hiện thực hóa được đầy đủ tiềm năng của mình và sẽ cung cấp những kỹ năng cần thiết để tham
gia đầy đủ vào tất cả những lĩnh vực của cộng đồng và cuộc sống xã hội. Với quan điểm hiện thực hóa
quyền này không phân biệt đối xử và có cơ hội bình đẳng, hệ thống giáo dục sẽ được cải cách với những
cố gắng thực hiện hòa nhập đầy đủ tất cả TKT vào hệ thống giáo dục chung. Nhà nước sẽ cấp ngân sách
cần thiết để chuyển đổi hệ thống giáo dục thông qua tiến trình cải cách để làm cho hệ thống giáo dục
chính có thể tiếp cận đầy đủ và thích hợp cho tất cả những NKT.
50
12.6. Quyền về danh tính
12.6.1. Đăng ký khai sinh khi ra đời − Việt Nam hiện còn thiếu bảo trợ đầy đủ để bảo đảm tất cả TKT
được khai sinh khi chào đời. Như vậy, cần bổ sung vào Dự thảo Luật Người khuyết tật một phần bảo đảm
rằng TKT được đăng ký khai sinh lúc chào đời và năng lực pháp lý tham gia của TKT được công nhận.
12.6.2. Tôn trọng năng lực tham gia của TKT − TKT có quyền tự do diễn đạt quan điểm về tất cả
những vấn đề tác động đến mình và những quan điểm đó “có sức nặng theo lứa tuổi và độ trưởng thành
trên cơ sở bình đẳng với những trẻ em khác”. Quyền được tôn trọng đối với năng lực tham gia của TKT
cần phải được công nhận theo luật pháp Việt Nam sao cho TKT có được hỗ trợ khi cần để được lựa chọn
và chuẩn bị hưởng những quyền này khi thành người lớn.
12.7. Tăng cường thực hiện và cơ chế giám sát
12.7.1. Thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em − phải thiết lập một hệ thống bảo vệ trẻ em toàn diện gồm
hệ thống phát hiện, báo cáo, điều tra, đánh giá, phục hồi và những biện pháp tái hòa nhập.
12.7.2. Đào tạo cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp − Một trong những vấn đề liên quan đến tăng
cường thực thi và theo dõi là thiếu cán bộ làm công tác xã hội chuyên nghiệp được đào tạo để thực hiện
những trách nhiệm trong hệ thống bảo trợ trẻ em.
12.7.3. Giám sát và thực thi− Một bộ của chính phủ hoặc một cục mới thành lập phải đảm đương trách
nhiệm giám sát và thực thi CRPD.
12.7.4. Tham gia công dân − Các tổ chức công dân phải được tạo lập để tham gia vào thực thi và lập kế
hoạch chương trình. Những tổ chức này phải có khả năng chất vấn độc lập và giám sát luật Việt Nam đối
với NKT.
13. Kiến nghị cho các nhà tài trợ
CRPD có những ảnh hưởng chính cho công việc của UNICEF và tất cả các nhà tài trợ quốc tế đang hoạt
động tại Việt Nam. Điều 32 của CRPD cam kết các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ “những cố gắng quốc gia
để thực hiện mục đích và những mục tiêu của Công ước hiện nay”. Công ước không chỉ kêu gọi các nhà
tài trợ quốc tế thiết lập những chương trình đặc biệt để thúc đẩy việc thực thi Công ước, mà Điều 31(1)
(a) cam kết các nhà tài trợ bảo đảm rằng tất cả những chương trình phục vụ nhân dân rộng khắp phải
“hòa nhập và có thể tiếp cận cho NKT”.
Ví dụ, điều này có nghĩa là tất cả những tòa nhà dùng kinh phí của các nhà tài trợ quốc tế cần phải tiếp
cận được về lý tính cho NKT. Thông tin cho công chúng cũng cần phải có những dạng thức có thể tiếp
cận được cho NKT. Những dự án dịch vụ y tế và dịch vụ công cộng cần phải có theo cách thức mà TKT
và gia đình họ có thể tiếp cận được. Các chương trình giáo dục cần phải được làm thích ứng sao cho
thích hợp và hòa nhập với TKT về thể chất, giác quan và nhận thức. Những chương trình tách biệt TKT
khỏi cộng đồng là vi phạm những nguyên tắc cốt lõi của CRPD. Theo đó, kinh phí và hỗ trợ quốc tế
không nên để tạo lập thêm những trường chuyên biệt và tách biệt hoặc những cơ sở chăm sóc nội trú
mới, hoặc những chương trình không phục vụ trẻ em tại gia đình và trong cộng đồng. Nhất quán với
Điều 19 của CRPD, hỗ trợ quốc tế nên khuyến khích đề cao hòa nhập cộng đồng toàn bộ TKT.
Hỗ trợ quốc tế có thể rất quan trọng để giúp Việt Nam thực thi được CRPD và áp dụng cải cách những
chính sách nêu ra trong báo cáo này. Điều 32(b) nêu lên sự cần thiết “xây dựng năng lực, kể cả thông qua
51
trao đổi và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chương trình đào tạo và những cách làm hay.” Hỗ trợ quốc tế
có thể đặc biệt quan trọng hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi từ giáo dục tách biệt sang giáo dục hòa nhập và
dịch vụ dựa vào cộng đồng. Trong khi định hướng chung cho trẻ em vào với cộng đồng có thể giảm chi
phí xã hội cho cung cấp dịch vụ, giai đoạn qua độ có thể rất tốn kém. Một khi những trường tách biệt
đóng cửa, những khoản kinh phí được dùng cho các chương trình này có thể được chuyển sang hỗ trợ
dịch vụ dựa vào cộng đồng. Nhưng các cơ sở chăm sóc bảo trợ xã hội không thể đóng cửa ngay, phải đợi
đến khi những chương trình hỗ trợ được thiết lập xong để giúp cho các gia đình nuôi dưỡng TKT tại
nhà. Kinh phí quốc tế có thể đặc biệt quan trọng giúp cho Việt Nam qua được giai đoạn quá độ đắt giá
này.
Đạt được kết quả cuối cùng này, suất đầu tư mới cần thực hiện vào những chương trình phục vụ trẻ em
trong những bối cảnh nền tảng hòa nhập nhất. Nguồn lực hạn chế nên được sử dụng để đề cao những
cách làm hay, hơn là những chương trình và dịch vụ phải mất hàng năm trời mới có. Một trong những
sai lầm mà các nhà tài trợ mắc phải là đầu tư vào những chương trình không hòa nhập TKT đầy đủ vào
cộng đồng.255 Chuyển trẻ em từ các trung tâm chăm sóc tập trung lớn sang những trung tâm nhỏ, có vẻ
như là một sự cải tiến, song nghiên cứu quốc tế cho thấy rằng TKT không phấn đấu khi chúng được nuôi
dưỡng trong bối cảnh chăm sóc tập trung. Trong khi các tòa nhà mới trông sạch sẽ hơn, tốt hơn để thay
thể những cơ sở chăm sóc tập trung, những cơ sở tách biệt này thành ra gánh nặng tốn kém đè lên hệ
thống dịch vụ xã hội, mà việc này có thể đã sử dụng không đúng những nguồn lực vốn đã hạn chế đáng
ra nên để dùng cho cải cách khác.
Để tác động cải cách tích cực và hiểu thấu đáo vấn đề, các nhà tài trợ quốc tế có thể đưa ra những ý kiến
tư vấn kỹ thuật về cách thức thực hiện những kinh nghiệm đã làm tốt nhất. Các nước khác đã trải qua
giai đoạn quá độ tương tự, nên có thể đặc biệt giá trị học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế trong pha lập kế
hoạch chuyển đổi pháp lý và kế hoạch phát triển chính sách mới.256 Các nhà tài trợ quốc tế nên giữ quan
hệ chặt chẽ với chính quyền của tỉnh, huyện và xã.257
Khi các nhà tài trợ quốc tế xúc tiến thực thi những cách làm tốt nhất, cũng rất giá trị nếu ta thu hút sử
dụng các chuyên gia của cộng đồng khuyết tật quốc tế. Lôi cuốn những NKT vào những vị trí lãnh đạo
có thể giúp phá bỏ hình thức rập khuôn coi thường NKT và cung cấp những mô hình lãnh đạo cho NKT
tại Việt Nam. Việc này có thể đặc biệt quan trọng đối với những NKT trí thức tâm thần, mà đối với họ
hiện nay tại Việt Nam không có mô hình lãnh tụ tích cực. Theo yêu cầu của Điều 4(3), chính phủ nên
“tham vấn chặt chẽ với những NKT tham gia tích cực, kể cả TKT, thông qua những tổ chức đại diện của
họ.”
Một trong những trở ngại chính cho công tác thực thi CRPD là thiếu vắng một phong trào của NKT độc
lập và đủ mạnh. Các nhà tài trợ nước ngoài có thể đóng một vai trò quyết định xây dựng năng lực cho
các nhóm khuyết tật Việt Nam. Các nhà tài trợ nên làm việc với các tổ chức công dân và các Tổ chức của
NKT để đánh giá tình hình soạn thảo và thực hiện pháp chế, sao cho các văn bản luật phản ánh chính
xác nhu cầu của NKT.258 Các nhà tài trợ quốc tế cũng nên hỗ trợ các tổ chức của công dân và các Tổ chức
của NKT như một tổng thể sao cho các tổ chức công dân và các Tổ chức của NKT có thể nắm những vai
trò lãnh đạo trong biện lý chính sách vì quyền của họ.
255 Xem Viện quốc tế quyền của NKT tâm thần, Khổ đau âm thầm: Chia tách và lạm dụng nhi đồng và TKT ở Ru-ma-ni
(2006) (mô tả kinh nghiệm của Ru-ma-ni chuyển trẻ em từ các trại lớn sang các trại nhỏ).
256 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam, như đã trích dẫn chú giải 1, at 145.
257 Như trên
258 Như trên
52
phụ lục 1: Ban hành giáo dục hòa nhập ở các nước đang phát triển
Tại Hoa Kỳ, Quốc hội đã phê chuẩn ban hành Đạo luật giáo dục cho tất cả trẻ em tật nguyền trong năm
1975, lần đầu tiên yêu cầu tất cả TKT có quyền “hưởng giáo dục công thích hợp và miễn phí”. Mặc dầu
luật này, hiện được biết tới là luật Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật, có nhiều ý kiến phê bình,
nhưng không thể phủ nhận rằng từ khi Đạo luật cho những cá nhân khuyết tật được phê chuẩn ban
hành, TKT tại Hoa Kỳ đã được hưởng quyền giáo dục như những trẻ em khác không khuyết tật.
Các nước khác cũng công nhận quyền được giáo dục hòa nhập cho NKT và hiện đang cung cấp những
nguồn lực cần thiết để hỗ trợ mô hình này. Ví dụ, kết quả của Khuôn khổ Hành động Dakar dẫn đến
kết quả Đánh giá EFA toàn cầu 2000, các nước như Bangladesh, Brazil và Ai cập hiện nay đang dành sít
soát 6% của Tổng sản phẩm quốc nội (GNP) cho giáo dục.259 Đối với các nước châu Phi, giáo dục hút
khoảng 1/3 ngân sách quốc gia, mặc dầu một vài nước chi tiêu cho y tế và giáo dục cộng lại bằng các
khoản nợ trả dần.260
Báo cáo năm 2000 của UNESCO về khu tự trị Quảng Tây, trong năm 1996 đã chuyển đổi một trường
chuyên biệt có 500 học sinh khiếm thị thành một trường hòa nhập bình thường đến nay đã giáo dục cho
1.700 cháu, thấy rằng các em này đã được hưởng lợi qua giúp đỡ của giáo viên được đào tạo trong dự án,
và trường hòa nhập này đã mang lại những lợi ích bổ sung cho cộng đồng, đó là xóa bỏ được định kiến
từ bao lâu nay đối với NKT.261
Tại Constanta, Ru-ma-ni, UNESCO đã báo cáo rằng nơi nào có cản trở chính cho giáo dục hòa nhập
là đối kháng của một số phụ huynh và giáo viên thì “ kiên trì và sử dụng thông minh những chiến lược
đầy đủ” sẽ vượt qua được những mối lo và sự đối kháng. “bà hiệu trưởng và cán bộ nhà trường ước tính
rằng tương lai của giáo dục hòa nhập mà trường họ mang lại sẽ tốt đẹp và họ dự định tiếp tục phát triển
kinh nghiệm này.”262 Xa hơn nữa, tại Kenya, Hội Người mù Kenya cũng đã tăng số lượng tuyển sinh trẻ
em mù vào các trường phổ thông.263
UNESCO cũng đã báo cáo rằng tại Trung tâm Silahis Kaunlaran (Manila) tất cả trẻ em theo học các
chương trình chính khóa và thực hành hòa nhập cũng được lưu ý về nhu cầu và điều kiện cụ thể của các
cháu. Ví dụ, mặc dầu những học sinh khó khăn về thính lực được đào tạo kỹ năng nghe-nói bổ sung đặc
biệt, các cháu vẫn theo cùng chương trình như những học sinh khác. Tình hình tương tự áp dụng cho
học sinh mù, các cháu này được giáo viên chính khóa hướng dẫn trên lớp và dạy bổ sung và giao bài tập
bằng chữ nổi Braille.264 Còn tại Ấn Độ, Ngân hàng Thế giới báo cáo trong năm 2003 rằng Dự án sáng
kiến xóa đói giảm nghèo huyện Andhra Pradesh đã giúp đỡ giáo dục hòa nhập bằng cách lên tiếng ủng
hộ cha mẹ TKT và kêu gọi những phụ huynh khác hỗ trợ, tạo tự tin cho TKT, công nhận, và tạo cơ hội
259 Xem báo cáo của UNESCO, hiện có tại để có báo cáo cụ thể về
giáo dục hòa nhập, và tình hình đáp ứng của các quốc gia đối với nhiệm vụ pháp lý quốc tế trong lĩnh vực này, xin xem
thêm tại
260 Xem báo cáo của UNESCO,
261 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998.
images/0012/001234/123486e.pdf
262 Như trên (trích đoạn báo cáo trường hợp nghiên cứu điển hình Ru-ma-ni về hòa nhập, do UNESCO tiến hành trong
năm 1999).
263 UNESCO, Giáo dục hòa nhập theo lịch biểu chương trình, Paris, UNESCO, 1998.
images/0012/001234/123486e.pdf
264 Như trên (được tóm tắt từ nghiên cứu trường hợp quốc gia về Philippines, do UNESCO tiến hành).
53
thích hợp các cấp và gợi nên hy vọng.”265 Đây chỉ là một vài ví dụ của rất nhiều sáng kiến thành công trên
toàn thế giới nhằm xúc tiến giáo dục hòa nhập.
Hơn nữa, một báo cáo về châu Á do tổ chức Người hướng dẫn Quyền Người khuyết tật quốc tế cho thấy
rằng trong năm 2005 đa số các quốc gia trong báo cáo đã có những chính sách giáo dục đề cao giáo dục
hòa nhập cho NKT, dẫu rằng còn trộn chung các trường hòa nhập và các trường chuyên biệt và thực thi
thực tế có khác nhau. Tại Trung quốc trong năm 2004, ví dụ, có đến 66.23% học sinh với nhu cầu đặc
biệt được học tại các trường phổ thông chung. Mặt khác, tại Philippin, chỉ có 23 trên tổng 49,779 trường
hòa nhập học sinh khuyết tật vào hệ thống giáo dục chung. Hơn nữa, có nhiều mối quan tâm về chất
lượng của giáo dục hòa nhập tại một số nước như Ấn Độ và Philippin, tại đó số lượng mỗi lớp học sinh
khuyết tật gần như đông gấp đôi mức trung bình quốc gia. Chỉ có Căm-pu-chia và Nhật Bản chú trọng
riêng vào giáo dục chuyên biệt.266
Những ví dụ này tạo tự tin cho chính phủ Việt Nam và những đối tác để thấy đích đến giáo dục hòa nhập
đã hoàn thành tại nhiều nước trên toàn thế giới ngày nay, bất chấp những cản trở và mối lo kinh phí. Báo
cáo từ nhiều nước khác nhau chỉ ra rằng phát triển hòa nhập đầy đủ trong giáo dục đòi hỏi tập trung
không chỉ vào cấu trúc nhà trường và lớp học, mà còn vào những điều kiện liên quan thúc đẩy học tập
cho tất cả, cũng như phát triển và hỗ trợ quan hệ đối tác sáng tạo, lôi cuốn cả các tổ chức của chính phủ
và phi chính phủ, giáo viên gia đình và chính những NKT.
Tóm tắt lại, quyền được giáo dục hòa nhập, ở tất cả các cấp, cho TKT là có thể thực hiện được tại Việt
Nam như đã thực hiện được ở các nước khác. Luật pháp và những chính sách quốc tế hỗ trợ công tác loại
bỏ hệ thống các trường chuyên biệt và chương trình chuyên biệt cho TKT hiện nay của Việt Nam, và
tạo lập pháp nhân mới cho hệ thống giáo dục hòa nhập. Việt Nam còn nhiều khó khăn thử thách trước
mặt trước khi có thể phát triển và thực thi được một hệ thống giáo dục hòa nhập. Tuy nhiên, để tuân
thủ hoàn toàn với pháp nhân hòa nhập của CRPD, Việt Nam phải sử dụng cơ hội này để chỉnh sửa Luật
Người khuyết tật nhằm bảo đảm chương trình giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em. Luật pháp và những
chính sách có thể thực thi được là cần thiết để chấm dứt kiểu đưa trẻ sơ sinh và các TKT vào các trại mồ
côi và các trung tâm nuôi dưỡng, và cần phải có kế hoạch trả các em này về với cộng đồng và hệ thống
giáo dục hòa nhập chung.
Tất cả trẻ em Việt Nam có quyền được hưởng nền tảng giáo dục hòa nhập, sẽ giúp các cháu lớn lên
thành những công dân hữu ích và khỏe mạnh. Như đã bàn ở phần trên, giai đoạn quá độ sang hệ thống
giáo dục hòa nhập sẽ đòi hỏi nhiều bước, và quan hệ đối tác giữa chính phủ, các tổ chức phi chính phủ,
cán bộ nhà trường và gia đình để bảo đảm chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị
thiệt thòi. Việt Nam giờ đây có cơ hội tăng cường quyền được giáo dục cho tất cả TKT theo Luật Người
Khuyết tật mới và để tạo lập một hệ thống chăm sóc mới khuyến khích hòa nhập TKT vào cộng đồng
và các trường chung, hơn là vào các trường chuyên biệt, các trại trẻ mồ côi và những kiểu cơ sở chăm
sóc tập trung khác.
265 Ngân hàng Thế giới, Khuyết tật và Phát triển tại Ấn Độ (2003)
NEWS/0,,contentMDK:20092924~menuPK:34457~pagePK:34370~piPK:34424~theSitePK:4607,00.html
266 IDRM Báo cáo về châu Á (2005), Tóm tắt thực hiện, phần. XIV.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_cua_tre_em_khuyet_tat_tai_viet_nam.pdf