Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó việc tăng cường chất lượng công tố của Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời g
186 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quyền công tố ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ian tới đã chỉ rõ: "Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp". Nghị quyết đã nhấn mạnh:
"Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...".
Việc thực hành quyền công tố ở nước ta do Viện kiểm sát thực hiện trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên so với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm thì còn nhiều tồn tại, hạn chế. Một trong những nguyên nhân là do việc nghiên cứu lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự còn chưa được làm sáng tỏ. Cho đến nay vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất trong các cơ quan tư pháp về khái niệm quyền công tố cũng như thế nào là thực hành quyền công tố?
Hiện tại tuy đã có một số tài liệu đề cập về quyền công tố nhưng chủ yếu được bàn dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, hoặc dưới góc độ tổ chức thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Trong những năm vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tổ chức toàn ngành nghiên cứu về những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự, nhưng kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ chuyên đề tổng kết thực tiễn. Có thể nói, cho đến bây giờ vẫn chưa có một công trình nào khảo cứu một cách toàn diện về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.
Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, để góp phần bảo đảm Viện kiểm sát tập trung làm tốt chức năng công tố, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền công tố trong tố tụng hình sự là vấn đề bức xúc và cần thiết. Với tất cả các ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài "Quyền công tố ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự đã được một số sách, báo, công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập. Nổi bật lên ở trong nước, một số tác giả đã có các bài viết về vấn đề này như Tiến sĩ Trần Văn Độ có bài "Một số vấn đề về quyền công tố", Tiến sĩ Phạm Tuấn Khải về "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố" trong tập kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện nay" do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành năm 1999. Tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tình hình mới" do ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 4/10/2001, đã thu hút đông đảo các nhà khoa học và thực tiễn bàn luận sôi nổi về quyền công tố. Đáng chú ý là các bài của Tiến sĩ luật học Lê Cảm về "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Tiến sĩ luật học Trần Đình Nhã đã đề cập đến "Chức năng công tố của Viện kiểm sát nhân dân, mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử".
Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các tác giả đăng tải trên Tạp chí kiểm sát, Tạp chí Luật học, cũng đề cập đến quyền công tố. Nhưng cho đến nay, khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, của thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự như thế nào vẫn chưa được rõ ràng, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề quyền công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích
Làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt Nam dưới góc độ hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực tiễn.
Để đạt được mục đích trên luận án cần phải giải quyết được các nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ
- Nghiên cứu lịch sử quyền công tố, mối quan hệ giữa công tố và tư tố;
- Việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới; đại diện cho các trường phái: án lệ, châu Âu lục địa và châu á.
- Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần đây, tìm ra nguyên nhân của những thành tích đạt được và những tồn tại, hạn chế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là: quyền công tố nói chung nhưng chủ yếu là quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam; thực trạng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự những năm gần đây, bảo đảm phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu đề tài.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm; những thành tựu khoa học luật tố tụng hình sự của một số nước trong khu vực và trên thế giới; các học thuyết chính trị và pháp lý về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng; luận án cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về chức năng công tố của Viện kiểm sát và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở nước ta từ 1945 đến nay.
Dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án đặc biệt coi trọng phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn, để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của quyền công tố, luận án xây dựng các khái niệm mới về: quyền công tố nói chung và quyền công tố trong tố tụng hình sự nói riêng; làm rõ đối tượng, nội dung, phạm vi quyền công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự; phân biệt giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố; phân biệt giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Đề xuất những giải pháp về hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực tiễn để nâng cao chất lượng hoạt động công tố của Viện kiểm sát trong tình hình mới.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Những kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào việc nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nước, khoa học luật tố tụng hình sự trong việc xác định thẩm quyền các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Các trường giảng dạy pháp luật có thể sử dụng kết quả nghiên cứu để biên soạn giáo trình, nhất là các trường đào tạo cán bộ, Kiểm sát viên ngành kiểm sát nhân dân.
- Viện kiểm sát các cấp có thể khai thác kết quả nghiên cứu của luận án để nâng cao chất lượng hoạt động công tố trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương với 10 mục, tổng cộng 176 trang.
Chương 1
những vấn đề lý luận về quyền công tố trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.1. Những vấn đề lý luận chung về quyền công tố
Để làm rõ vấn đề quyền công tố trong tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam, chúng ta không thể không tìm hiểu những vấn đề có liên quan làm cơ sở cho việc xây dựng khái niệm, nội dung và phạm vi quyền công tố trong TTHS. Đó là những vấn đề sau đây:
1.1.1. Sự ra đời của quyền công tố
Việc làm sáng tỏ nguồn gốc ra đời của quyền công tố có ý nghĩa quan trọng đối với việc nhận thức đầy đủ hơn về bản chất của quyền công tố. V.I. Lênin đã viết:
Điều quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên sự liên hệ lịch sử căn bản, là nhận xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: Một hiện tượng nào đó đã xuất hiện trong quá trình lịch sử như thế nào? Các giai đoạn chính của nó là những gì? Và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện tượng đó đã trở nên như thế nào? [48, tr. 55]
Về sự xuất hiện của quyền công tố trong lịch sử hiện nay, còn có những ý kiến khác nhau, nhưng nổi bật lên có bốn loại quan điểm chính sau đây:
- Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, mãi đến cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến, với sự tách Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, với sự phát triển của hệ thống pháp luật, quyền công tố mới xuất hiện. Tuy không xuất hiện cùng với Nhà nước nhưng lịch sử quyền công tố luôn luôn gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước, gắn liền với sự hoàn thiện và văn minh của pháp luật. Trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính đảm nhiệm và họ là những người đại diện cho nhà Vua để xét xử chứ không phải đại diện cho công quyền. Những người theo quan điểm này còn cho rằng các đạo luật đầu tiên của các Nhà nước cổ đại chỉ quy định về mối quan hệ dân sự, còn về hình sự và TTHS chưa được quy định [56, tr. 118-119].
Có thể nhận thấy, quan điểm này thiếu cơ sở khoa học nên không có sức thuyết phục, bởi vì lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới đã chứng minh rằng: Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy không hề có nhà nước và pháp luật, ở đó con người xử sự với nhau dựa trên các qui tắc đạo đức, phong tục và tập quán; giải quyết các tranh chấp trong thị tộc, bộ lạc lúc bấy giờ do cá nhân hay một nhóm người thực hiện, hoàn toàn chưa có một lớp người đặc biệt thay mặt xã hội đứng ra giải quyết.
Khi Nhà nước xuất hiện, ngoài nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, để duy trì sự xung đột xã hội trong vòng trật tự do giai cấp nắm Nhà nước thiết lập lên, Nhà nước đã giành lấy quyền trừng trị những hành vi xâm hại lợi ích chung từ tay cá nhân. Vì vậy, quyền lực nhà nước cũng được hiểu là quyền lực công cộng, theo đó quyền công tố với tính cách là công quyền hoàn toàn không thể tách rời sự ra đời của Nhà nước. Vấn đề này được thể hiện rõ nét trong các đạo luật của các Nhà nước cổ đại, nhiều Bộ luật của các Nhà nước cổ đại (như La Mã, Hy Lạp...) đã có những quy định tương đối cụ thể về tội phạm và các thủ tục trừng trị tội phạm, trong đó có vấn đề buộc tội; đã có sự phân biệt hành vi phạm tội với vi phạm dân sự, phân biệt TTHS và tố tụng dân sự [63, tr. 133 -135].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại tại phiên tòa và thực hiện quyền đó theo quy định của pháp luật. Cơ quan thực hiện quyền công tố là mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật. Đại diện cho trường phái này là Eistadt Hermann và tập thể tác giả trong cuốn sách "Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính trị". Các tác giả nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì cần có một loại cơ quan được đặt ra để thực hiện quyền hành pháp nhưng lại chống đối quyền xét xử để bảo vệ Chính phủ, đó là quyền công tố. Như vậy, quyền công tố tồn tại song song với quyền xét xử của Tòa án. Khi nào có xét xử, khi đó cần phải thực hiện việc bảo vệ lợi ích của các đương sự mà các Công tố viên cho rằng có vi phạm pháp luật [46, tr. 95-103].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi con người tự bảo vệ được mình khỏi những ảnh hưởng của các thế lực như tập thể bộ lạc, thị tộc, trước đội quân chiến thắng đối với họ (con người là tù binh) thể hiện bằng lời nói cuối cùng trước khi bị áp dụng hình phạt, bị đem bán hoặc treo cổ... Lúc này, khái niệm công tố chưa mang tính Nhà nước mà chỉ mang tính xã hội thuần túy thể hiện sự phản kháng lại đối với các thế lực áp bức. Sự phát triển của quyền công tố về sau này gắn liền với sự phát triển dân chủ, quyền con người được đề cao. Đòi hỏi đó cần phải có cơ quan thay mặt Nhà nước đứng ra bảo vệ người bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp [46, tr. 95-103]. Tuy nhiên, các tác giả cho rằng, quyền công tố là một quyền tư pháp phải do các cơ quan tư pháp thực hiện với hai lý do: Một là, khái niệm công tố theo nghĩa rộng, bao gồm từ khâu điều tra, truy tố, buộc tội hoặc rút một phần hoặc toàn bộ việc buộc tội. Quá trình này gắn liền với hoạt động của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Hai là, công tố là sự bảo vệ quyền và lợi ích nói chung trước mọi sự lấn át từ phía các cơ quan nhà nước chứ không chỉ có Tòa án. Trong điều kiện ba quyền phân lập và "khi người ta chưa thể định rõ tiêu chí chính xác sự phân lập giữa ba quyền đó, hoặc khi mà những nguyên nhân khách quan làm suy yếu không ngừng mối quan hệ của ba loại quyền đó thì việc phải đặt ra một cơ quan đặc biệt - cơ quan công tố không tham dự vào bất cứ bộ phận nào là một việc làm cần thiết. Đây là những giai đoạn đầu của thuyết tam quyền có sự lấn át từ phía lập pháp và hành pháp quá lớn đối với tư pháp [70, tr. 174]
- Nhóm quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật; Quyền công tố tồn tại trong tất cả các Nhà nước từ Nhà nước chiếm hữu nô lệ đến Nhà nước hiện đại.
Tán thành với quan điểm này, chúng tôi cho rằng, quyền công tố luôn luôn là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước, đúng như C.Mác đã nhấn mạnh:
Quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội và mối quan hệ ấy do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra;...
Sự trừng phạt là quyền của Nhà nước không thể chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng là nghĩa vụ của người đó đối với Nhà nước bởi vì bản chất phạm tội của hành vi không phải là việc xâm phạm đến rừng cây với tính cách là thứ vật chất mà là việc xâm phạm đến hệ thần kinh của Nhà nước, đến quyền sở hữu [51, tr. 218-219].
Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm rằng, quyền công tố gắn liền với bản chất từng kiểu nhà nước và gắn liền với cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thời kỳ đầu Nhà nước sơ khai, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn giản đơn và hệ thống pháp luật mới hình thành, quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và chưa có một cơ quan riêng biệt để thực hiện quyền công tố. Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, việc phân chia quyền lực nhà nước chưa rõ ràng, chưa có sự phân định giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc điều tra, truy tố và thi hành án xét xử thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Đến cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Nhà nước La Mã cổ đại mới thành lập cơ quan xét xử tách khỏi cơ quan hành pháp.
Trong Nhà nước Phong kiến, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn hóa. ở chế độ phong kiến Tây Âu, quyền tư pháp nằm trong tay nhà Vua, Lãnh chúa và Giáo hội. Vào thế kỷ XVIII - XIX, cùng với quá trình xác lập Nhà nước Trung ương tập quyền, các Tòa án của nhà Vua ngày càng có quyền lực lớn, đã hạn chế dần sự lũng đoạn của Lãnh chúa. Viện công tố lần lượt ra đời, đầu tiên xuất hiện ở Pháp (1285 - 1314), ủy viên công tố đứng bên cạnh Tòa án để bảo vệ quyền lợi của nhà Vua, cũng như bảo vệ lợi ích quốc gia. Một thời gian sau đó vào thế kỷ XVI - XVII, Viện công tố được thành lập ở nhiều nước châu Âu như: Italia, Hà Lan, Đức, Nga... Ngoài việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, cơ quan công tố thời kỳ này còn có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Chẳng hạn, trong Sắc lệnh về "bảo vệ quyền công dân" ngày 17/4/1772 của nước Nga có quy định: "Nếu như có người nào phạm tội làm trái Sắc lệnh này thì xem là kẻ phá hoại Quốc lập sẽ dẫn đến tội chết không thương tiếc, và không ai được ỷ lại vào công lao để làm trái luật".
Nhờ các cuộc cách mạng chính trị, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị đã xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến và Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư sản ra đời. Trong Nhà nước Tư sản đã có sự tách bạch rõ ràng hơn trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, quyền tư pháp cũng từng bước được hoàn thiện, vai trò của Tòa án được đề cao; Viện công tố trở thành người đại diện cho quyền lợi công cộng để đưa vụ án ra Tòa nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước và bảo đảm sự tuân thủ trật tự công cộng. Trong lĩnh vực hình sự, vai trò của công tố luôn luôn là một bên trong vụ án nhân danh Nhà nước để cáo buộc người phạm tội [56, tr. 118 -119].
Đến cuối năm 1922, khi Nhà nước công nông đầu tiên ra đời, theo sáng kiến của V.I. Lênin, Viện công tố được chuyển thành Viện kiểm sát, ngoài chức năng công tố còn làm nhiệm vụ quan trọng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Mô hình Viện kiểm sát, cơ quan thực hiện quyền công tố xuất hiện đầu tiên ở nước Nga, sau đó là các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó có Việt Nam. Với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, vai trò của Viện kiểm sát được đề cao trong bộ máy nhà nước XHCN. Viện kiểm sát là cơ quan trực thuộc Quốc hội với tư cách cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương.
Như vậy, quyền công tố xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và càng về sau, cùng với sự phát triển, hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, việc phân định chức năng nhà nước giữa các cơ quan ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng chuyên môn hóa; nhận thức xã hội về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Dần dần Nhà nước càng có sự can thiệp sâu hơn để bảo vệ các lợi ích cá nhân khi chúng bị vi phạm. Chính vì lẽ đó, vai trò công tố ngày càng được đề cao, vai trò tư tố ngày càng mờ nhạt, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự.
1.1.2. Công tố và tư tố
1.1.2.1. Công tố
Công tố là một từ ghép Hán - Việt được hình thành bởi hai từ đơn công và tố. Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người khác, còn "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với tư"; "công tố" là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án".
Trong Từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết tại trang 1 và trang 907, khái niệm công tố cũng được hợp thành bởi hai từ, từ "sự buộc tội" với tính cách là danh từ và từ "công" với tính cách là tính từ. Từ "sự buộc tội" được dùng theo hai nghĩa, thứ nhất đó là "nội dung của sự buộc tội nêu trong quyết định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án", thứ hai đó là "một loại hoạt động của người buộc tội của Nhà nước, của xã hội hoặc thậm chí của người bị hại hay người đại diện của người này trong việc chứng minh lỗi của bị cáo". Khi ghép từ "sự buộc tội" với từ "công" thành "công tố" thì được hiểu là sự buộc tội của Nhà nước đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, qua so sánh nội dung của hai khái niệm trong hai cuốn từ điển Việt - Nga, đã cho thấy khái niệm "công tố" được hiểu khác nhau. "Công tố" theo Từ điển tiếng Việt là một khái niệm bao gồm bốn nội dung: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu trước Tòa án. Còn trong Từ điển tiếng Nga, "công tố" được hiểu là sự buộc tội của Nhà nước đối với người bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, giữa hai khái niệm trên có một điểm chung: công tố đó là sự buộc tội của Nhà nước đối với người phạm pháp. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1994, tại trang 933 thì từ "tố" thường đi kèm theo từ "cáo" thành "tố cáo" và vì vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học, tố cáo cũng được hiểu gần giống nghĩa với từ tố, đó là việc báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người có hành vi phạm pháp. Trong thực tế, đối tượng của việc tố (tố cáo) không chỉ dừng lại ở phạm vi những người có hành vi vi phạm pháp luật mà rộng hơn, tới cả những người vi phạm đạo đức, vi phạm điều lệ của cơ quan, tổ chức... Tố bao giờ cũng được thực hiện dưới hình thức hành động như thông qua lời nói hoặc văn bản để tố giác việc làm sai trái của một người hay một nhóm người với người khác. Hành vi phao tin, loan truyền về việc người nào đó có sai phạm không được gọi là tố. Hành vi tố luôn luôn có mục đích rõ ràng, người tố người khác mong muốn người có thẩm quyền tiếp nhận ý kiến của mình và xử lý đối với người bị tố. Đối tượng bị tố bao giờ cũng là người cụ thể (cá nhân hoặc pháp nhân). Trong xã hội ta, việc phát hiện và tố cáo những người có hành động phạm pháp vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân, cơ quan, tổ chức. Vì vậy, có thể nói rằng mọi công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đều có thể là chủ thể đồng thời là đối tượng của hành vi tố cáo.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng cần hiểu khái niệm tố theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, đó là "sự cáo buộc công khai của một người hoặc một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về hành vi vi phạm pháp luật, hành vi sai trái khác của người, tổ chức hoặc cơ quan trước người hoặc cơ quan có thẩm quyền".
Căn cứ vào phạm vi chủ thể thực hiện hành vi tố (tố cáo người phạm pháp) có thể phân chia thành sự cáo buộc của Nhà nước (công tố), sự cáo buộc của cá nhân (tư tố).
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản năm 1995, tại trang 594 quyển 1 thì khái niệm công tố chưa được hoàn chỉnh bởi quan niệm của các nhà làm từ điển. Có chăng, chỉ có khái niệm "Công tố viên" là người đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố. Công tố viên nghiên cứu các chứng cứ, kết luận về tội phạm và đưa vụ án ra Tòa xét xử, thực hiện quyền buộc tội bị cáo. Ngoài ra, cũng còn có khái niệm Công tố viên xã hội, đó là người đại diện của tổ chức xã hội, của tập thể lao động được cử tham gia phiên tòa xét xử vụ án hình sự bên cạnh Công tố viên nhà nước với tư cách là người buộc tội, Công tố viên xã hội là người nói lên tiếng nói của tập thể, của tổ chức xã hội mà mình đại diện về vụ án (quan điểm có thể không trùng với quan điểm của Công tố viên nhà nước). Vấn đề Công tố viên xã hội là một chế định được áp dụng phổ biến ở các nước XHCN Đông Âu trước đây, hiện nay vẫn còn tồn tại ở Cu Ba, Trung Quốc. ở một số bang của Hoa Kỳ, khái niệm này cũng được sử dụng [46, tr. 95-103].
Công tố, trong tiếng Anh (prosecute) có nghĩa là thẩm quyền về mặt Nhà nước đại diện cho quyền lực công thực hiện một số quyền năng pháp lý để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân [52, tr. 75-80].
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng, cần hiểu khái niệm tố theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, đó là "sự cáo buộc công khai của một người hoặc một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về hành vi vi phạm pháp luật, hành vi sai trái khác của người, tổ chức hoặc cơ quan trước người hoặc cơ quan có thẩm quyền".
Căn cứ vào phạm vi chủ thể thực hiện hành vi tố (tố cáo người phạm pháp) có thể phân chia thành sự cáo buộc của Nhà nước (công tố), sự cáo buộc của cá nhân (tư tố).
Như vậy, công tố là một trong những hình thức cáo buộc người khác thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Trong công tố người thực hiện sự cáo buộc ấy là Nhà nước, đối tượng bị Nhà nước cáo buộc không chỉ là một con người cụ thể mà còn có thể là một pháp nhân và việc cáo buộc này không hạn chế trong một lĩnh vực nào mà nó được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới quan hệ pháp luật nào. Công tố, vì vậy, theo chúng tôi cần được hiểu là sự cáo buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật trước Tòa án. Đồng thời, theo chúng tôi, các khái niệm "công tố", "quyền công tố" là đồng nhất với nhau và đồng nghĩa với các khái niệm "công tố nhà nước" và "quyền công tố nhà nước". Bởi vì công tố và quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất giai cấp của Nhà nước, với quyền lực nhà nước. Xuất phát từ đó, chúng tôi cũng khẳng định rằng, không thể có khái niệm "công tố nhà nước" tồn tại đồng nghĩa cùng khái niệm "công tố xã hội". Đây là những khái niệm khác nhau được sử dụng trong luật TTHS Xô viết trước đây. Chế định "người buộc tội xã hội" là người được một tập thể hoặc một tổ chức cử ra để tham gia vào việc buộc tội bị cáo cùng với Công tố viên tại phiên tòa. Người buộc tội xã hội thực hiện nhiệm vụ chỉ là người đại diện cho một bộ phận rất nhỏ của xã hội chứ không phải là người đại diện cho Nhà nước để thực hiện công quyền.
Xuất phát từ những nhận thức trên chúng tôi cho rằng: Công tố là hình thức nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra trước Tòa án để xét xử, nên công tố được hiểu là sản phẩm của xã hội có Nhà nước. Khái niệm công tố hoàn toàn đối lập với khái niệm tư tố (tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để cáo giác, khởi kiện ra Tòa).
1.1.2.2 Mối quan hệ giữa công tố và tư tố
Một trong những khái niệm có mối liên hệ hết sức chặt chẽ với công tố đó là "tư tố". Có thể nói đây là những hiện tượng cùng tồn tại và phát triển không tách rời nhau trong xã hội có Nhà nước.
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy, "tư tố" là một chế định pháp lý cổ xưa nhất mà pháp luật cổ đại cho người bị hại hoặc người thân thiết của họ sử dụng để khởi kiện chống lại người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm hại các quyền và lợi ích cá nhân. Cái quyền đó của người bị hại (hay của người thân thích của họ) được gọi là "quyền tư tố" và các vụ án loại này có tên gọi là các "vụ án tư tố" [21, tr. 117-118].
Trong các vụ án tư tố, Tư tố viên giữ vai trò quyết định về cung cấp chứng cứ, thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án và đề nghị áp dụng các chế tài hình sự, mức bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội. Họ cũng có thể kết thúc vụ án bằng việc hòa giải với người đã gây thiệt hại cho mình [21, tr. 117-118].
Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật cổ đại xuất phát trước hết từ quan niệm của người xưa cho rằng, việc bảo vệ lợi ích cá nhân bị người khác xâm phạm là việc riêng tư của mỗi người. Nhà nước không cần thiết và không có trách nhiệm phải can thiệp vào công việc riêng tư đó. Mặt khác, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn giản đơn và hệ thống pháp luật mới hình thành nên chưa có các cơ quan chuyên trách để đảm nhiệm công việc này. Theo đó quyền công tố chỉ được sử dụng trong một phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích công bao gồm lợi ích của Nhà nước và lợi ích chung liên quan đến cả cộng đồng.
Cùng với sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước cũng như hệ thống pháp luật, sự nhận thức của xã hội về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội đã có sự thay đổi đáng kể. Càng về sau, giai cấp thống trị nhận ra rằng trong nhiều trường hợp khi các lợi ích cá nhân bị xâm phạm thì lợi ích công (như trật tự công cộng, an ninh xã hội...) cũng bị đe dọa hoặc bị xâm hại. Nhà nước thấy cần thiết phải can thiệp vào đời sống riêng tư khi các lợi ích cá nhân bị xâm phạm nhằm bảo vệ trước hết là lợi ích của Nhà nước, lợi ích cộng đồng và cả lợi ích cá nhân. Chính vì vậy, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, còn tư tố ngày càng mờ nhạt dần nhường chỗ cho công tố. Ngày nay tư tố vẫn tồn tại song song cùng với công tố ở hầu hết các nước nhưng phạm vi của quyền này đã bị thu hẹp lại và thông thường chỉ bao gồm quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi thường thiệt hại và thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa trong các vụ án tư tố. Tuy nhiên, ở một số ít quốc gia theo truyền thống Luật lục địa, tư tố vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết một số vụ án. Tại các nước này chỉ có người bị hại mới có quyền khởi tố đối với các vụ án ít nghiêm trọng như tội vu khống, làm nhục người khác, gây thương tích nhẹ hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản... Trong các vụ án đó Công tố viên được gọi là bên chính tố còn người bị hại được gọi là người "truy tố phụ" cũng thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án nhưng hoàn toàn độc lập với Công tố viên [52, tr. 75-80].
Pháp luật TTHS Việt Nam cũng ghi nhận quyền tư tố của người bị hại. Điều 88 BLTTHS đã quy định cụ thể những vụ án về các tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Đó là các tội phạm sau đây: tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (khoản 1 Điều 104); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 1 Điều 105); tội làm nhục người khác (khoản 1 Điều 121); tội vu khống (khoản 1 Điều 122); tội xâm phạm quyền tác giả (khoản 1 Điều 131)...
Vì những vụ án về các tội trên đây chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại, nên trong trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước phiên tòa thì vụ án phải được đình chỉ. Tuy nhiên, điều luật cũng quy định là trong trường hợp đặc biệt tuy người bị hại rút yêu cầu, Viện kiểm sát hoặc Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Đó là những trường hợp tội phạm bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ hoặc người bị hại vì không hiểu hoặc sợ bị can, bị cáo trả thù nên rút yêu cầu khởi tố. Ngược lại, đối với vụ án đã được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có quyền đình chỉ vụ án nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 89, 139 và 155 BLTTHS. Trong trường hợp này người bị hại có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan điều tra, hoặc của Viện kiểm sát theo Điều 144 BLTTHS; kháng cáo quyết định của Tòa án theo Điều 213 BLTTHS.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng, cùng với sự phát triển của xã hội, cơ chế vận hành của quyền công tố và quyền tư tố đã có sự thay đổi rất cơ bản. Vai trò của Công tố viên ngày càng trở lên chiếm ưu thế trong việc thực hiện quyền đòi trừng phạt tội phạm, trừng trị những hành vi xâm hại đến lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích cá nhân. Khi tham gia vào các vụ án tư tố, Công tố viên vừa là người đại diện cho công ._.quyền, vừa thay mặt cho người bị hại để buộc tội bị cáo. Công tố viên hành động vì xã hội và bảo vệ không chỉ lợi ích nhà nước mà cả lợi ích cá nhân và lợi ích của cả cộng đồng, bảo đảm sự công bằng xã hội. Mặc dù hiện nay pháp luật các nước còn giành cho người bị hại quyền tư tố nhưng trên thực tế họ ít khi sử dụng quyền này. Việc một cá nhân theo đuổi vụ án hình sự thường gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém về thời gian, công sức và tiền của cho quá trình chứng minh, thực hiện việc buộc tội. Thêm nữa, nếu pháp luật cho phép cá nhân có toàn quyền hòa giải, thỏa thuận với người phạm tội sẽ dẫn đến tình trạng nhiều vụ án hình sự không được đưa ra xét xử là bỏ lọt người phạm tội. Điều này làm cho pháp luật không được tuân thủ nghiêm minh, công bằng xã hội không được bảo đảm... Do vậy, việc Nhà nước cần can thiệp vào quá trình giải quyết các vụ án tư tố nghiêm trọng trong trường hợp người bị hại không thực hiện quyền tư tố là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chung.
1.1.3. Khái niệm về quyền công tố
Hiện nay vấn đề quyền công tố trong lịch sử nhà nước và pháp luật nói chung và khoa học luật TTHS nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng, rằng quyền công tố là gì ? Phạm vi đến đâu và ai là chủ thể thực hiện quyền công tố vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Các ý kiến có những điểm gặp nhau, song cũng còn nhiều ý kiến tranh cãi nhau gay gắt. Xoay quanh những vấn đề này ở nước ta nổi bật lên các quan điểm chính như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố được thực hiện trong lĩnh vực TTHS. Từ đó họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là:
Quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, để truy tố và để buộc tội người phạm tội trước Tòa án nhằm đạt được mục đích xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần bảo đảm các quyền tự do của con người, cũng như các lợi ích của xã hội và của Nhà nước [24, tr. 1-12].
Những người theo quan điểm này đã coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm thì khi ấy và ở đó mới có thể nói đến sự buộc tội nhân danh Nhà nước. Chúng tôi nhận thấy, chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là một, mà chúng hoàn toàn độc lập với nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Tuy nhiên, không phải trong mọi công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, trong mọi hoạt động của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng ấy. Có hoạt động chỉ là thực hiện chức năng công tố và ngược lại, có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mặc dù chúng đều do một Kiểm sát viên thực hiện trong cùng một thời gian.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS, bởi vì quyền công tố như bất cứ quyền nào mà Viện kiểm sát thực hiện luôn luôn phải được xem xét trong mối liên hệ với tính đặc thù ở một lĩnh vực pháp luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể xem xét trong lĩnh vực pháp luật mà cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền và không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất đó là tội phạm. Từ những nội dung đó, họ đưa ra khái niệm về quyền công tố là:
"quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; quyền này giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [71, tr. 12-15].
Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ có trong TTHS, không có trong lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Nhiều người đã không tán thành với quan điểm này vì hiểu phạm vi tác động của quyền công tố như vậy là quá hẹp. Bởi vì, V.I. Lênin khi đề cập đến quyền của ủy viên công tố đã viết: "ủy viên công tố có quyền và bổn phận duy nhất là đưa vụ án ra Tòa" [50, tr. 232]. Điều đó đồng nghĩa với việc đưa các vụ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân liên quan đến lợi ích chung ra xét xử công khai trước phiên tòa. Do đó việc cơ quan Viện kiểm sát đứng ra khởi tố các vụ án dân sự liên quan đến lợi ích chung cũng là nhân danh quyền lực công đưa vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa để xét xử. Chúng tôi đồng ý với ý kiến này, rằng quyền công tố theo bản chất của mình được thực hiện nhân danh xã hội đưa người phạm pháp ra Tòa để xét xử nhằm bảo đảm trật tự chung. Quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực TTHS mà còn có cả trong các lĩnh vực pháp luật khác.
Quan điểm thứ ba và cũng là quan điểm tương đối phổ biến trong ngành kiểm sát nhân dân, được đưa vào giáo trình giảng dạy về công tác kiểm sát của Trường Cao đẳng Kiểm sát. Quan điểm này cho rằng, quyền công tố được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS, về sau cùng với sự phát triển của xã hội và sự hoàn thiện hệ thống pháp luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác. Theo họ, quyền công tố là quyền của Nhà nước XHCN giao cho Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hiện theo luật định, đó là: "Quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước bảo vệ trật tự pháp luật", phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và được tiến hành trong khi thực hiện các công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kiểm sát thi hành án, kiểm sát việc giam, giữ - cải tạo và công tác điều tra tội phạm [76, tr. 85-86].
Những người không tán thành quan điểm này cho rằng: Quyền công tố nhà nước (ở nước ta quyền này giao cho Viện kiểm sát) được thực hiện ở lĩnh vực TTHS nên việc đồng nhất quyền công tố với thẩm quyền của VKSND trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính là đã mở rộng quyền công tố một cách không có căn cứ nên đã xóa nhòa ranh giới đặc thù của TTHS với các lĩnh vực tố tụng khác. Đồng thời họ cho rằng, quyền công tố là một khái niệm luôn luôn gắn liền với tội phạm và sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy quyền này chỉ có thể thực hiện ở một phạm vi, lĩnh vực duy nhất là lĩnh vực TTHS. Điều này đã quy định rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước ta (Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS). Lĩnh vực thực hành quyền công tố của VKSND cũng được nhắc đến trong Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa VII là: "Viện kiểm sát nhân dân phải làm tốt quyền công tố, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời. Đối với việc bắt giữ, giam, xét xử oan, sai cần truy cứu trách nhiệm đối với người ra lệnh và người thực hành, đồng thời minh oan công khai, thỏa đáng đối với người bị bắt, giữ, xét xử sai, bảo đảm quyền công dân, đúng pháp luật...".
Quan điểm thứ tư cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát mà trực tiếp là Kiểm sát viên thay mặt Nhà nước thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra lời buộc tội những cá nhân cụ thể về những tội danh cụ thể trong bản cáo trạng và hoạt động chứng minh tính có căn cứ và tính hợp pháp của cáo trạng đó tại phiên tòa sơ thẩm. Những người theo quan điểm này cho rằng cách hiểu về quyền công tố như vậy mới đem lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho hoạt động của VKSND ở Việt Nam vì quyền công tố đã có nội dung cụ thể, giới hạn được xác định rõ ràng nên không còn là những ngôn từ chung nữa [73, tr. 86-88]. Chúng tôi nhận thấy, việc đưa ra quan niệm về quyền công tố trên đây đã mắc một sai lầm có tính nguyên tắc ở chỗ đã coi quyền công tố chỉ là sự buộc tội tại phiên tòa khi thấy việc thực hành quyền đó là thuộc Viện kiểm sát, họ đã cắt khúc nội dung quyền công tố và lấy một số hoạt động phổ biến dễ thấy của quyền này như truy tố, luận tội tại phiên tòa là quyền công tố nên đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố. Việc thu hẹp khái niệm, nội dung và phạm vi thực hiện quyền công tố như thế là không có căn cứ, bởi vì trên thực tế hoạt động truy tố và duy trì quyền công tố của Kiểm sát viên trước Tòa chỉ là một phần thực hành quyền công tố theo đúng nghĩa của nó.
Từ những điều vừa trình bày trên cho thấy, cội nguồn của các quan điểm khác nhau về quyền công tố là do chưa xác định đúng đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật. Do vậy dẫn đến có quan điểm thu hẹp hoặc mở rộng phạm vi của quyền công tố, hoặc nhầm lẫn giữa quyền công tố với việc tổ chức thực hiện quyền công tố, giữa quyền năng công tố với thẩm quyền tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc quyền khởi kiện của đương sự với quyền khởi tố của cơ quan công tố trong lĩnh vực tố tụng dân sự.
Xuất phát từ kết quả nghiên cứu lịch sử ra đời của quyền công tố, những đặc trưng khác biệt giữa hoạt động công tố và tư tố cũng như sự khác nhau về cách thức tổ chức thực hiện quyền công tố trong lịch sử và ở mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay cho phép đi đến nhận xét rằng, để xác định đúng đắn khái niệm về quyền công tố cần phải xuất phát từ những cơ sở có tính nguyên tắc sau đây:
Một là: Quyền công tố là quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất Nhà nước. Với tính cách là một quyền lực công được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ nhà nước nào (chủ nô, phong kiến, tư sản hay XHCN) cũng đều cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường tồn tại của Nhà nước, là trách nhiệm xã hội của Nhà nước chứ không phải trách nhiệm cá nhân hay một nhóm người, bởi vì Nhà nước nói chung "dường như" là người nhân danh xã hội duy trì các xung đột trong vòng trật tự. Vì vậy, cần phải làm rõ yếu tố lợi ích chung của Nhà nước với tính cách là đối tượng bảo vệ của quyền công tố.
Hai là: Quyền công tố là quyền lực công đòi hỏi phải tố giác và xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Tòa án nên quyền công tố phải gắn với quyền tài phán của Tòa án. Đây cũng là điểm gặp nhau rất cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về quyền công tố - quyền đưa vụ án ra Tòa và "buộc tội" người phạm pháp tại Tòa án. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng, không có nghĩa cứ phải đưa vụ án ra Tòa mới là thực hành quyền công tố, vì cũng như các quyền năng tố tụng khác, nó được thể hiện ở các mặt (nội dung), các giai đoạn khác nhau trên con đường đi tới cái đích của việc thực hiện quyền đó. Các quyền năng ấy, trong đó có quyền công tố vì thế có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác động của quyền công tố có đủ căn cứ để quyết tụng. Như vậy, để làm rõ phạm vi của quyền công tố không thể không xem xét đến các căn cứ làm triệt tiêu quyền công tố.
Ba là: Quyền công tố theo bản chất của mình là quyền yêu cầu trừng trị công khai những hành vi phạm pháp liên quan đến lợi ích chung, do đó để bảo đảm tính khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với quyền tài phán của Tòa án. Theo đó, về mặt nguyên tắc quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan thực hiện và được gọi là cơ quan công tố (ở nước ta thực hiện chức năng này là Viện kiểm sát). Đồng thời cũng như bất cứ loại quyền lực nào, quyền công tố phải được thể hiện ở nội dung cụ thể của nó. Đây là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết để phân biệt quyền công tố với các thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như cơ quan điều tra, Tòa án, hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, đối tượng tác động của quyền công tố chính là vụ việc mà quyền công tố tác động vào nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội trong đó có lợi ích của công dân. Các lợi ích trên được bảo đảm bằng việc duy trì trật tự pháp luật do Nhà nước đặt ra, trật tự pháp luật ấy thể hiện và bảo vệ những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã hội. Những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng không chỉ được xác lập và bảo vệ bằng luật hình sự, luật TTHS mà còn cả các lĩnh vực pháp luật khác như Luật dân sự, Luật hành chính... Do đó những hành vi phạm tội và những hành vi vi phạm pháp luật khác liên quan đến lợi ích chung, lẽ tất nhiên nó xâm phạm đến một hay một số cá nhân trong cộng đồng. Nhưng cái chính là nó xâm hại đến sự tồn tại của chế độ, đến hệ thần kinh của Nhà nước, của cả xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất ở hành vi phạm tội nên quyền công tố được thể hiện rõ nét nhất, đậm nét trong các giai đoạn TTHS, còn trong các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính, lao động thì quyền công tố dường như nhường chỗ cho quyền tự định đoạt của các đương sự. Chỉ trong những trường hợp trật tự công cộng và lợi ích của Nhà nước có nguy cơ bị xâm hại thì Nhà nước mới đứng ra để can thiệp. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho thấy, cơ quan công tố ở nhiều nước trên thế giới đều được trao quyền nhân danh công quyền để can thiệp vào những vụ án dân sự, hành chính, kinh tế quan trọng liên quan đến lợi ích công cộng. Chẳng hạn, ở Cộng hòa Pháp, Viện công tố có chức năng:
Đại diện cho quyền lợi của xã hội, của Nhà nước trước Tòa án, bảo đảm cho pháp luật được được tuân thủ, những hành vi phạm pháp được xét xử nghiêm minh, việc xét xử được đúng đắn. Về hình sự Công tố viên truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; về dân sự Công tố viên khởi tố những việc gây thiệt hại đến trật tự chung như yêu cầu: cấm quyền của một số người, hủy bỏ một cuộc hôn nhân bất hợp pháp, tham gia một số việc kiện khác. Công tố ủy viên là người đại diện cho Nhà nước, cho xã hội điều tra phát hiện những vụ việc phạm pháp và quyết định khởi tố, lập cáo trạng đưa vụ án hình sự ra Tòa. Trong lĩnh vực dân sự, Công tố ủy viên đứng phụ đơn trong các vụ như bảo vệ quyền trẻ em, những người tàn tật, tâm thần, hủy bỏ hôn nhân bất hợp pháp, lập hội bất chính [59, tr. 212-232].
ở Việt Nam, theo quy định của các pháp lệnh: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, thì Viện kiểm sát - cơ quan thực hành quyền công tố đều có quyền khởi tố đối với một số vụ án dân sự, lao động, hành chính liên quan đến trật tự chung hoặc khi một bên đương sự không đủ điều kiện để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật trong lĩnh vực tố tụng dân sự, lao động hành chính, Viện kiểm sát còn có quyền tham gia bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi xét thấy cần thiết. Như vậy, với bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước ta đã cho phép Viện kiểm sát sử dụng quyền công tố trong các lĩnh vực tố tụng đối với các vụ án quan trọng để bảo vệ lợi ích chung, trong đó có lợi ích cá nhân bị vi phạm. ở đây Viện kiểm sát tham gia với tư cách là chủ thể của quyền lực công chứ không phải là một bên đương sự. Bởi vậy, bên cạnh việc khởi tố Viện kiểm sát còn có quyền điều tra, yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời [84].
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì trong lĩnh vực tố tụng kinh tế ở nước ta Viện kiểm sát lại không có quyền khởi tố vụ án. Theo chúng tôi quy định như vậy là không phù hợp, không bảo đảm tính thống nhất trong việc sử dụng quyền công tố của Nhà nước ta. Cũng giống như các lĩnh vực tố tụng khác, khi Viện kiểm sát phát hiện thấy cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước do thiếu trách nhiệm đã gây thiệt hại cho lợi ích nhà nước hoặc lợi ích của người thứ ba thì cần được thực hiện quyền khởi tố để bảo vệ lợi ích chung là đúng với bản chất và mục đích của quyền công tố. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm cho rằng: Viện kiểm sát có quyền khởi tố khi cơ quan, tổ chức được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình dẫn đến tài sản Nhà nước có nguy cơ bị thất thoát, thiệt hại thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định khởi tố của mình [52, tr. 75-80].
Như vậy, trong lần sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế sắp tới cần bổ sung quyền khởi tố vụ án kinh tế của Viện kiểm sát là cần thiết, trong tình hình hiện nay quyền công tố càng cần phải tăng cường can thiệp vào lĩnh vực kinh tế để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tài sản của nhân dân khi bị xâm phạm.
Quyền công tố thể hiện trong các lĩnh vực tố tụng là một quá trình xuyên suốt tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra đến đưa vụ án ra Tòa để xét xử và buộc tội trước Tòa án. Những hoạt động như khởi tố vụ án, duy trì quyền công tố trước Tòa... chỉ là những hoạt động cụ thể của quyền công tố. Hoàn toàn không thể đồng tình với quan điểm cho rằng: Nếu nội dung quyền công tố của VKSND trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, lao động... chỉ bao gồm quyền khởi tố vụ án (tức là Viện kiểm sát thay mặt cho đương sự để khởi kiện vụ án) thì không chỉ Viện kiểm sát mà cả một số tổ chức, đoàn thể xã hội có quyền khởi kiện vụ án theo quy định của pháp luật cũng là những chủ thể thực hiện quyền công tố. Quan điểm này cho rằng quyền khởi tố và quyền khởi kiện chỉ khác nhau về mặt thuật ngữ còn về bản chất thì quyền khởi tố và quyền khởi kiện vụ án chỉ là một: đều là quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích các đương sự. Mặt khác, nếu hiểu khái niệm quyền công tố chỉ bao gồm quyền khởi tố vụ án thì trong TTHS sẽ có rất nhiều chủ thể thực hiện quyền công tố (Tòa án, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng...) [52, tr. 75-80].
Chúng tôi nhận thấy, theo bản tính của mình quyền công tố như một sợi dây quyện chặt vào suốt quá trình tố tụng về vụ án mà nòng cốt là việc đưa vụ án ra Tòa. Việc chia cắt hoặc lấy một vài quyền năng thuộc nội dung quyền công tố và cho rằng có nhiều cơ quan thực hành quyền công tố là sai lầm không thể chấp nhận được, không phải chủ thể nào có quyền khởi tố vụ án hình sự, chủ thể nào có quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính, lao động đều là chủ thể thực hành quyền công tố mà phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra Tòa thì chủ thể ấy chính là cơ quan thực hành quyền công tố vì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước đưa vụ án ra Tòa, quyền yêu cầu xử lý các vụ việc xâm phạm đến lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Tòa án.
Tuy nhiên, việc tổ chức thực hành quyền công tố được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Ngay trong cùng một nước với một chế độ chính trị xác định, ở mỗi giai đoạn phát triển của nó cũng có những thay đổi nhất định trong việc thực hành quyền công tố. Trên thế giới phần lớn các nước chỉ giao quyền này cho Viện công tố, nhưng có nước, ngoài Viện công tố người ta còn giao cho cơ quan Hải quan, Thuế vụ (Vương quốc Anh) với tính cách là cơ quan chuyên môn cũng có quyền trực tiếp đưa vụ án ra Tòa trong lĩnh vực mà các cơ quan đó phụ trách [101, tr. 185-186].
ở nước ta, trước Hiến pháp năm 1959 cũng đã tồn tại quyền công tố. Từ năm 1960 đến nay chức năng công tố được giao cho hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, đó là VKSND như mô hình các nước XHCN khác. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND ở nước ta là cơ quan đồng thời thực hiện hai chức năng: kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Từ điều vừa trình bày càng cho thấy việc Viện kiểm sát được giao một số quyền năng tố tụng trong lĩnh vực dân sự, lao động, hành chính như: khởi tố vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời... chính là Viện kiểm sát nhân danh công quyền để bảo vệ lợi ích chung chứ không phải thay mặt cho một bên đương sự nào. Các vụ kiện dân sự chỉ thuần túy liên quan đến lợi ích cá nhân của đương sự thì do các bên đương sự tự định đoạt, tự hòa giải hoặc khởi kiện ra Tòa để giải quyết tranh chấp, vì những vụ kiện đó không liên quan đến lợi ích chung nên không cần có sự can thiệp của quyền công tố. Còn trong lĩnh vực hành chính rõ ràng có sự liên quan đến trật tự chung vì một bên tranh chấp là công dân với một bên là cơ quan nhà nước, vấn đề "dân kiện quan" càng cần sự can thiệp của cơ quan công tố để bảo đảm sự công bằng xã hội; trong lĩnh vực lao động, vấn đề quyền lao động là một trong những lợi ích cơ bản của con người trong xã hội ta được Hiến pháp và pháp luật quy định bởi vậy sự can thiệp của công quyền trong lĩnh vực này để bảo vệ quyền của người lao động là cần thiết.
Rõ ràng việc thực hiện một số quyền năng tố tụng như khởi tố vụ án, yêu cầu điều tra, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, lao động, hành chính là những quyền năng thuộc nội dung thực hành quyền công tố để bảo vệ lợi ích chung chứ không phải là thẩm quyền khác của Viện kiểm sát như một số người thường quan niệm và càng không phải những quyền năng pháp lý đó thuộc nội dung chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Bởi vì theo quy định của pháp luật thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo đúng nghĩa của nó là hoạt động kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong quyết định và hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. ở đây ngoài quyền kiến nghị, kháng nghị và quyền yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát không có quyền tự quyết định như khi thực hành quyền công tố.
Do quyền công tố thuộc về Nhà nước, nên đến lượt mình Nhà nước có thể giao cho một loại cơ quan nhà nước thực hiện, như ở nước ta là Viện kiểm sát. Thẩm quyền công tố của Viện kiểm sát không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực tư pháp hình sự mà còn thể hiện ở các lĩnh vực tố tụng khác. Có thể nói nơi nào mà pháp luật cho phép Viện kiểm sát nhân danh lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội đưa vụ án ra Tòa để xét xử thì nơi đó có việc thực hành quyền công tố. Thực hành quyền công tố chính là quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người phạm pháp (bị can, bị cáo, bị đơn dân sự...) nên quá trình này bắt đầu từ việc khởi tố vụ án hoặc khởi kiện và chấm dứt khi có phán quyết có hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử hoặc khi có căn cứ triệt tiêu quyền công tố ở giai đoạn sớm hơn.
Từ những điều trình bày trên cho phép đi đến kết luận rằng: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát đưa vụ án ra Tòa xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích chung và bảo vệ lợi ích của công dân được thực hiện trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và trong các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
1.2. Quyền công tố trong tố tụng hình sự
Quyền công tố trong TTHS là một trong những vấn đề được bàn luận sôi nổi trong giới nghiên cứu lý luận và ngay cả trong những người làm công tác thực tiễn, xoay quanh vấn đề này nổi bật lên một số nội dung sau đây:
1.2.1. Phạm vi quyền công tố trong tố tụng hình sự
Đến nay khi đề cập đến phạm vi quyền công tố trong TTHS các luật gia còn có nhiều ý kiến khác nhau song chung quy là có ba loại ý kiến đó là:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định truy tố và kết thúc khi Công tố viên buộc tội xong tại phiên tòa sơ thẩm. Quan niệm như vậy về phạm vi quyền công tố là đúng với bản chất của công tố là quyền đại diện cho lợi ích công để đưa vụ án ra Tòa và buộc tội bị cáo. Họ cho rằng, quyền công tố không có trong giai đoạn điều tra, vì giai đoạn điều tra chỉ là giai đoạn thu thập tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc đưa vụ án ra Tòa. Cơ sở lý luận mà họ dựa vào là quan điểm của V.I.Lênin, rằng "quyền và bổn phận duy nhất của Công tố viên là đưa vụ án ra Tòa"; họ cũng dựa vào quy định của pháp luật ở nhiều nước trên thế giới và khu vực về chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố là truy tố và thực hiện việc buộc tội. ở một số nước, cơ quan công tố nằm ngay trong Tòa sơ thẩm, các Công tố viên với tính cách là người đại diện cho quyền lực công đưa vụ án ra Tòa và đứng ra phê phán tội lỗi của bị cáo, yêu cầu Tòa án tuyên hình phạt đối với bị cáo. Chúng tôi nhận thấy, loại ý kiến này đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố dẫn đến thu hẹp không chỉ nội dung mà còn thu hẹp cả phạm vi của quyền công tố. Điều này đã gặp khó khăn khi cắt nghĩa các hoạt động tố tụng khác, chẳng hạn: việc quyết định khởi tố vụ án để mở đầu quá trình tố tụng nhằm làm rõ tội phạm xảy ra; việc khởi tố bị can, tức là đưa một người nghi vấn vào vòng tố tụng để chứng minh lỗi của họ trong khi thực hiện tội phạm... thì đó là quyền gì? Việc kháng nghị các bản án hoặc quyết định của Tòa án có sai lầm trong việc áp dụng Luật hình sự hoặc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục TTHS có phải là những biện pháp thuộc nội dung của quyền công tố hay không? Rõ ràng, quan niệm về phạm vi quyền công tố như đã nêu trên là chưa có cơ sở thuyết phục, còn nhiều điểm bất hợp lý.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Quan điểm này tuy đã mở rộng thời điểm bắt đầu nhưng lại giới hạn thời điểm kết thúc của quyền công tố trong TTHS quá sớm nên gặp nhiều vướng mắc khó mà cắt nghĩa được. Đó là việc tại các phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hình sự, sự có mặt của Công tố viên (Kiểm sát viên) vẫn là người đại diện cho lợi ích công trình bày quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Như vậy, nếu quan niệm phạm vi kết thúc của quyền công tố tại thời điểm bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sẽ không lý giải được vấn đề vị trí, vai trò của Công tố viên khi tham gia phiên tòa phúc thẩm và giám đốc thẩm với tính cách là nhân vật đại diện cho công quyền tiếp tục thực hiện việc buộc tội bị cáo.
Loại ý kiến thứ ba cho rằng, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án [34, tr. 142]. Những người theo quan điểm này đã mở rộng phạm vi của quyền công tố trong TTHS coi quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội. Bản án kết tội có hiệu lực pháp luật cũng chỉ là căn cứ để Nhà nước tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự, ở đây là hình phạt mà người bị kết án có nghĩa vụ phải thi hành. Khi người phạm tội chưa thực hiện xong nghĩa vụ này đối với Nhà nước thì điều đó cũng có nghĩa là họ chưa chấp hành xong trách nhiệm hình sự, theo đó quyền công tố vẫn phải tiếp tục tác động để bảo đảm hiệu quả của cả quá trình tố tụng, bảo đảm mục đích của quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội. Theo chúng tôi, việc mở rộng phạm vi quyền công tố như đã nêu trên là không chính xác, đã đồng nhất việc truy cứu trách nhiệm hình sự với việc thực hiện trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện tội phạm. Cần nhấn mạnh rằng, về bản chất ở giai đoạn thi hành án là không có việc tiến hành tố tụng, không có việc chứng minh và buộc tội nữa, ở đây đơn giản chỉ là sự thi hành bản án hoặc quyết định của Tòa án. Quyền công tố, quyền bào chữa cũng như quyền tài phán của Tòa án đã chấm dứt. Do vậy không thể coi quyền công tố có ở giai đoạn thi hành án mà nó chấm dứt khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Những quan điểm trên đây tuy khác nhau về phạm vi quyền công tố trong TTHS nhưng có điểm chung nhất bao gồm quyền truy tố và buộc tội bị cáo. Theo chúng tôi để xác định đúng đắn phạm vi quyền công tố cần phải xuất phát từ những quan điểm sau đây:
- Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này phát sinh ngay từ khi có hành vi phạm tội xảy ra và kết thúc khi cơ quan tài phán nhân danh công lý tuyên phạt đối với người đã thực hiện tội phạm ấy. Bởi vì quyền công tố thể hiện rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội do chính hành vi phạm tội làm phát sinh ra. C.Mác đã viết: "Sự trừng phạt là quyền của Nhà nước không thể chuyển giao cho tư nhân. Mọi quyền của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng là nghĩa vụ của người đó đối với Nhà nước" [51, tr. 218-219].
- Không thể đồng nhất quyền công tố trong TTHS với việc thực hành quyền công tố, bởi vì thực hành quyền công tố là việc sử dụng các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và thực hiện sự buộc tội đối với người đó trước Tòa án. Trên thực tế mặc dù có tội phạm xảy ra, có nhu cầu thực hành quyền công tố nhưng cơ quan được giao thực hiện quyền này có thực hiện được hay không lại là vấn đề khác.
- Quyền công tố trong TTHS là quyền đòi trừng phạt người phạm tội một cách công khai bằng con đường Tòa án, do đó khi bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, tức là quyền tài phán chấm dứt thì quyền công tố cũng bị triệt tiêu.
Từ những vấn đề vừa trình bày trên, cho phép đi đến quan niệm rằng: Phạm vi quyền công tố trong tố tụng hình sự bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.2. Đối tượng và nội dung của quyền công tố trong tố tụng hình sự
Hiện nay, do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, theo đó cũng có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng và nội dung của quyền công tố. Tuy vậy, đối tượng của quyền công tố trong từng lĩnh vực tố tụng không giống nhau. Hành vi phạm tội và các tranh chấp dân sự là khác nhau nên hoạt động TTHS và tố tụng dân sự được thực hiện theo các nguyên tắc khác nhau. Một trong những nguyên tắc đặc thù của TTHS là nguyên tắc công tố (quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước) và nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nguyên tắc công tố chưa được nhắc tới trong TTHS Việt Nam, nhưng căn cứ vào pháp luật hiện hành có thể nhận thấy nguyên tắc này có nội dung: Toàn bộ hoạt động TTHS chủ yếu và trước hết vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội. Chính lợi ích này là động lực làm TTHS xuất hiện, phát triển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác và chấm dứt, không phụ thuộc vào ý chí của những người ._. 156 BLTTHS hiện hành thì: "Nếu xét thấy có những căn cứ quy định tại Điều 89 Bộ luật này hoặc khi có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án". Chúng tôi cho rằng, quy định này không phù hợp, không bảo đảm tính độc lập của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố, bởi vì khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt việc thực hành quyền công tố. Do đó, cần phải sửa đổi quy định này theo hướng khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố thì đồng thời Viện kiểm sát có quyền đình chỉ vụ án.
Tương tự như vậy, để khẳng định rõ vai trò của Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố, cũng như vai trò của Tòa án là cơ quan xét xử, cần sửa đổi một số quy định tại Điều 169 của BLTTHS theo hướng: tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Trong trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố, vụ án phải được đình chỉ, nếu rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án chỉ xét xử phần còn lại.
Thứ ba, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Bởi vì không một công dân nào có thể bị Tòa án đưa ra xét xử về mặt hình sự nếu không bị Viện kiểm sát truy tố. Điều 170 BLTTHS nước ta đã phản ánh đúng đắn quan điểm này rằng: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã đưa ra xét xử". Đây không phải là vấn đề mới trong hoạt động tư pháp hiện đại. Ngay ở nước ta, cách đây hàng trăm năm, Điều 670 Bộ Quốc triều hình luật đã quy định: "Cơ quan xét án phải theo tố cáo trạng mà xét hỏi. Nếu ra ngoài tố cáo trạng, tìm người khác để buộc tội thì phải xử là tội cố ý bắt tội người". Do đó, gần đây có một số quan điểm đề nghị sửa đổi điều này theo hướng "Tòa án xét xử những bị cáo và hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã đưa ra xét xử", là quan điểm không đúng. Điều luật này cần tiếp tục giữ nguyên như luật hiện hành là phù hợp.
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, cần sửa đổi các quy định để nâng cao tính chủ động và tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát viên tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, ngoài việc công bố cáo trạng hoặc quyết định khác của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên phải tích cực thẩm vấn, tranh luận với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án. Đồng thời, Kiểm sát viên phải chú ý phát hiện kịp thời những vi phạm của Hội đồng xét xử để đề ra biện pháp khắc phục. Những bản án và quyết định của Tòa án không có căn cứ và trái pháp luật phải được kháng nghị kịp thời theo quy định của pháp luật.
- Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS để nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, nhất là trong giai đoạn điều tra tội phạm. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiều quyền năng quan trọng, từ việc quyết định việc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam đến việc truy tố. Đây là những quyết định trực tiếp liên quan đến sinh mạng chính trị, những quyền cơ bản của công dân. Do vậy, theo nguyên tắc "quyền càng cao thì trách nhiệm càng lớn", cần thiết phải quy định đầy đủ và làm rõ hơn trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trong việc khởi tố, truy tố và ra các quyết định khác về việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp để xảy ra oan, sai thì Viện kiểm sát phải bồi thường, cá nhân Kiểm sát viên tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS mà trước hết là những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên, của Kiểm sát viên theo hướng cụ thể hơn nhằm nâng cao tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm về những hành vi và quyết định của mình trong điều tra khám phá tội phạm. Trong BLTTHS hiện hành, cũng như Kiểm sát viên, Điều tra viên là người tiến hành tố tụng nhưng nhiệm vụ và quyền hạn của họ chưa được quy định rõ là một hạn chế cần được khắc phục trong lần sửa đổi toàn diện BLTTHS vào thời gian tới đây.
- Cần sửa đổi, bổ sung các quy định để bảo đảm phát huy tác dụng nguyên tắc bào chữa trong TTHS Việt Nam theo hướng tăng cường vai trò của Luật sư và những người bào chữa khác, mở rộng khả năng tham gia tố tụng của họ ở các giai đoạn TTHS, nhất là ở giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. Sự có mặt của người bào chữa có tác dụng to lớn trong việc phát huy tính tích cực và tính thận trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là đối với hoạt động công tố của Viện kiểm sát các cấp.
3.3.3. Nâng cao năng lực cho Viện kiểm sát các cấp có điều kiện tập trung làm tốt chức năng công tố
Kết quả khảo sát về thực trạng cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm sát các cấp nói riêng cho thấy: cơ sở vật chất, điều kiện và phương tiện làm việc phần lớn ở các địa phương còn thô sơ, lạc hậu. Khả năng ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa bố trí đủ theo yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Đáng chú ý là khi phân bổ ngân sách, cũng như khi quy định tiêu chuẩn, định mức diện tích trụ sở làm việc, trang thiết bị phương tiện làm việc, định mức chi tiêu ngân sách, Nhà nước vẫn coi ngành kiểm sát như các ngành hành chính sự nghiệp khác. Theo số liệu quyết toán hàng năm thì mức chi cho cán bộ, Kiểm sát viên còn rất thấp, mức chi cho công tác nghiệp vụ, mua sắm, sửa chữa trụ sở… không đáp ứng nhu cầu. Trong khi đó khối lượng công việc ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh vực giải quyết án hình sự. Thực tế cho thấy hoạt động phạm tội ở nước ta hiện nay diễn biến rất phức tạp trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội; bọn tội phạm có xu hướng hoạt động theo ổ nhóm, theo đường dây, hoạt động lưu động trên nhiều địa bàn; có những tổ chức phạm tội âm ỉ hoạt động nhiều năm liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật và công nghệ thông tin, bọn phạm tội ngày càng sử dụng sâu rộng những thành tựu đó vào quá trình phạm tội nên việc đấu tranh chống tội phạm cũng ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Đặc biệt đáng lưu ý là tình trạng gia tăng của các loại tội phạm dẫn đến quá tải trong việc giải quyết án do lực lượng biên chế còn mỏng đã hạn chế hiệu quả công tác kiểm sát điều tra từ đầu.
Để khắc phục tình trạng yếu kém trong việc tổ chức thực hiện quyền công tố trong TTHS cần phải nâng cao năng lực cho các cơ quan tư pháp về nhiều mặt.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý đối với các cán bộ tư pháp". Quán triệt tinh thần của Nghị quyết này, Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã có nhiều quy định mới để bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát. Nếu như trước đây, kinh phí hoạt động của ngành kiểm sát do Chính phủ lập dự toán, thì nay Luật mới đã quy định cho VKSNDTC chủ động lập dự toán kinh phí hoạt động của ngành; một trong những điểm đổi mới quan trọng là Luật mới còn quy định rõ việc Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin và các phương tiện khác để đảm bảo cho ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình (Điều 49 Luật tổ chức VKSND). Trên tinh thần đó, VKSNDTC cần chủ động đánh giá, thống kê rõ nhu cầu của việc cấp kinh phí, trang thiết bị… cho các khâu công tác ở Viện kiểm sát mỗi cấp và của toàn ngành nói chung để đề xuất với Chính phủ trình Quốc hội xem xét quyết định. Theo chúng tôi, trước hết là chú trọng nâng cao năng lực về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, Viện kiểm sát các cấp cần được trang bị máy vi tính để cập nhật, lưu giữ và khai thác thông tin tội phạm, thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo. Ngoài ra, các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông cũng cần được sớm tăng cường, nhất là ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời cần có chế độ, chính sách hợp lý cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, nhất là ở cấp huyện, khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích, chiến công trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý. Cải cách một bước cơ bản chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên nhằm từng bước khắc phục sự bất cập về đời sống của cán bộ ngành kiểm sát với các thành phần xã hội khác trong điều kiện cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp tăng cường nhân lực và vật lực cho ngành kiểm sát là những bảo đảm hết sức quan trọng để Viện kiểm sát các cấp thực hành quyền công tố có chất lượng trong tình hình mới.
kết luận chương 3
Những yếu tố thường xuyên tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến việc tổ chức thực hiện quyền công tố đã đặt ra một cách bức xúc nhu cầu khách quan và phương hướng hoàn thiện công tác này của Viện kiểm sát trong tình hình mới. Để thực hiện được điều đó cần thiết phải làm rõ hơn về tính độc lập của cơ quan thực hành quyền công tố, những vấn đề lý luận và thực tiễn của các biện pháp thực hành quyền công tố và mối quan hệ của chúng với kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề khởi tố vụ án hình sự, làm rõ phương pháp kiểm sát điều tra để bảo đảm việc thu thập tài liệu chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan, các biện pháp bảo đảm quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn một cách có căn cứ và đúng pháp luật; bảo đảm các quyết định truy tố, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án có căn cứ và đúng pháp luật. Trong giai đoạn xét xử, cần tăng cường vai trò của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa thông qua các hành vi tranh luận, luận tội, các biện pháp để nâng cao chất lượng kháng nghị của Viện kiểm sát theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Những kiến giải hoàn thiện cơ sở pháp lý của việc thực hành quyền công tố như sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002, Bộ luật TTHS, cũng như về tăng cường cơ sở vật chất... là những bảo đảm quan trọng cho việc nâng cao năng lực của Viện kiểm sát các cấp để ngày càng thực hiện tốt hơn quyền công tố trong tình hình mới.
Kết luận
Trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh Viện Kiểm sát tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã thể chế các quan điểm của Đảng về chức năng của VKSND trong thời kỳ mới và quy định: VKSND thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên thế nào là quyền công tố, nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố đến đâu là những vấn đề phức tạp, còn có những ý kiến khác nhau. Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, tác giả luận án không có tham vọng giải quyết trọn vẹn được tất cả các khía cạnh của vấn đề quyền công tố, chỉ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề đối tượng, khái niệm, nội dung của quyền công tố và việc tổ chức thực hành quyền công tố trong TTHS Việt Nam. Để giải quyết được mục đích và nhiệm vụ đó của đề tài, tác giả luận án đã sử dụng và kết hợp hài hòa các phương pháp nghiên cứu để tìm hiểu lịch sử và bản chất quyền công tố, của thực hành quyền công tố trong TTHS. Bằng việc nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những tri thức về khoa học tổ chức bộ máy nhà nước, về việc thực hiện quyền tư pháp trong lịch sử và trong thế giới hiện đại, phân tích các quan điểm khác nhau về tổ chức thực hành quyền công tố, trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành để đánh giá nội dung và thực trạng thực hành quyền công tố ở nước ta trong những năm gần đây, luận án đã tiếp cận và giải quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn diện vấn đề "Quyền công tố ở Việt Nam" trong phạm vi nghiên cứu của đề tài trên các phương diện sau đây:
1- Đã phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền công tố trong TTHS. Trên cơ sở nghiên cứu đã chỉ ra được nguồn gốc của quyền công tố là quyền của Nhà nước, xuất hiện và cùng phát triển với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật. Việc tổ chức thực hành quyền công tố ở mỗi quốc gia rất khác nhau, điều đó tùy thuộc vào chế độ chính trị cũng như đặc điểm, điều kiện của mỗi nước.
2- Đã chỉ ra sự khác nhau giữa tư tố và công tố, vai trò ngày càng được đề cao của quyền công tố trong các Nhà nước hiện đại, tuy nhiên trong pháp luật của nhiều quốc gia hiện nay, trong đó có Việt Nam quyền tư tố của người bị hại vẫn được ghi nhận ở một số trường hợp nhất định để bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích công và lợi ích riêng. Sau khi phân tích và phê phán các quan điểm khác nhau về quyền công tố và trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đã xây dựng khái niệm về quyền công tố với ý nghĩa là quyền của Nhà nước giao cho Viện Kiểm sát để đưa vụ án ra Tòa, bảo vệ lợi ích chung được thực hiện trong TTHS và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
3- Đã phân tích và đi đến đề xuất khái niệm và phạm vi của quyền công tố trong TTHS và chỉ rõ: Quyền công tố trong TTHS chính là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được thực hiện trong các giai đoạn của TTHS (từ khi có tội phạm xảy ra đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực, không bị kháng nghị hoặc có căn cứ triệt tiêu quyền công tố).
4- Tác giả luận án cũng nghiên cứu và đi đến việc hoàn thiện các vấn đề về thực hành quyền công tố. Nếu như nội dung của quyền công tố là sự buộc tội, thì nội dung của thực hành quyền công tố là tất cả những biện pháp do luật định để thực hiện việc buộc tội ấy; thực hành quyền công tố trong TTHS được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án cho đến khi có căn cứ triệt tiêu quyền công tố.
5- Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật ở Việt Nam, luận án đã làm rõ: thực hành quyền công tố trong TTHS là một trong những chức năng của VKSND ở Việt Nam. VKSND là cơ quan duy nhất được giao trách nhiệm thực hành quyền công tố và chức năng này được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp.
6- Luận án đã đánh giá khoa học nội dung và thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố trong TTHS ở Việt Nam những năm gần đây và chỉ ra rằng, bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ thì chất lượng hoạt động công tố của Viện Kiểm sát các cấp còn bộc lộ những tồn tại, thiếu sót nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ quyền công dân trong tình hình hiện nay. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan mà trình độ, năng lực nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm của phần lớn đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả luận án đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố.
7- Luận án đã đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố dưới góc độ tổ chức thực tiễn và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đáng chú ý nhất là các giải pháp để phát huy quyền chủ động và quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra; việc bảo đảm quyết định truy tố, quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; vấn đề nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa; biện pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị, nhất là kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; vấn đề quản lý, chỉ đạo điều hành công tác thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát các cấp; vấn đề đổi mới công tác tổ chức và cán bộ ngành kiểm sát nhân dân theo hướng nâng cao chất lượng và tăng cường về số lượng đội ngũ Kiểm sát viên...
Dưới góc độ hoàn thiện pháp luật, mà trước hết là Luật tổ chức VKSND, pháp luật về TTHS, luận án đã chỉ rõ cần hoàn thiện theo hướng quy định rõ ràng và đầy đủ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Viện Kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố cũng như cơ chế và những điều kiện bảo đảm thực hành quyền công tố trong TTHS có hiệu quả.
Có thể nói rằng, tuy chưa phải là đầy đủ và sâu sắc nhưng hệ thống các giải pháp được nêu ra trong nội dung của luận án là có cơ sở thuyết phục, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, thực hiện tốt các giải pháp này sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong nhận thức cũng như hành động trên thực tiễn, bảo đảm việc thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát các cấp phát huy hiệu quả trong cuộc đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.
Những kết quả đạt được trong toàn bộ nội dung của luận án thể hiện sự nỗ lực của bản thân tác giả luận án trong suốt thời gian làm nghiên cứu sinh (từ 1995 đến nay), thể hiện sự giúp đỡ tận tình của các nhà nghiên cứu mà nhất là người hướng dẫn khoa học. Tuy vậy, do điều kiện nghiên cứu và khả năng của tác giả luận án có hạn, chắc chắn rằng kết quả nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định, nghiên cứu sinh kính mong sự tiếp tục chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu đề tài này trong quá trình hoạt động khoa học và thực tiễn công tác.
những công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án
1. Lê Tuyết Hoa (2001), "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm", Kiểm sát, (10), tr.
2. Lê Tuyết Hoa (2001), "Bàn về quyền công tố", Nhà nước và pháp luật, (162), tr.
3. Lê Tuyết Hoa (2002), "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra tội phạm", Kiểm sát, (8), tr.
danh mục Tài liệu tham khảo
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Liên bang Nga (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành (2001), Nxb Công an nhân dân.
Bộ luật hình sự Tây úc (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Canađa (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Hàn Quốc (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga (1999), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Malayxia (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự Thái Lan (1998), Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Công an - Tổng cục cảnh sát nhân dân (1994), Tội phạm ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài KX-04-14, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Bộ Nội vụ (1996), Chứng cứ đấu tranh chống tội phạm.
Bộ Nội vụ - Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1997), Đấu tranh chống tội phạm hình sự, Thông tin chuyên đề, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội.
Bộ Tư pháp - Tạp chí dân chủ và pháp luật (1983), Số chuyên đề Luật hình sự của một số nước trên thế giới, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (1996), Các văn bản pháp luật về công tác tư pháp, tập I, II, III, IV.
Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1996), Chuyên đề về Luật hình sự, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (1999), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin khoa học pháp lý, tr. 177-118.
Bộ Tư pháp - Ban dự thảo BLHS (sửa đổi), BLHS Nhật Bản, Người dịch: Nguyễn Văn Hoàn, Người hiệu đính: TS. Uông Chung Lưu.
Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền (một số vấn đề cơ bản của phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố", Báo cáo tại Hội nghị khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình mới, do ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức (Tp. Hồ Chí Minh, ngày 2/4/2001), tr. 1-12.
Canueda, Tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản hiện đại (1994), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53/CTcủa Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp trong năm 2000.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
Đảng Lao động Việt Nam (1963), Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị ngày 2/3/1963 về công tác kiểm sát.
Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 48-56.
Đỗ Văn Đương (1999), "Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 134-144.
Thạch Giản (1982), Tìm hiểu bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Phạm Hồng Hải (1994), "Về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 23-25.
Phạm Hồng Hải (1999), "Bàn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 82-94.
Phạm Hồng Hải (chủ biên) (2000), Tội phạm học Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Phạm Hồng Hải (2001), "Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng chế định này trong thực tiễn", Luật học, tr. 31-36.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992).
Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2000), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 95-103.
Lênin, V.I. (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Lênin, V.I. (1980), Toàn tập, tập 39, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Lênin, V.I. (1980), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Lênin, V.I. (1980), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Mác, C (1978), Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Đức Mai (1999), "Một số ý kiến về quyền công tố" Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, tr. 75-80
Hồ Chí Minh (1986), Toàn tập, tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1986), Toàn tập, tập 10, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Minh Spielmen (2000), "Vai trò của hệ thống công tố ở Pháp và tiến hành cải cách tư pháp hiện nay", Trong sách: Một số khuyến nghị về xây dựng bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 110-115.
Vũ Mộc (1995), "Về thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị", Trong sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, VKSNDTC, tr. 118-119.
Mônteckiơ (1995), Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Khuất Văn Nga (1998), "Hệ thống tư pháp hình sự hoa kỳ", Thông tin khoa học pháp lý, (3); tr. 3-7.
Nhà xuất bản Thế giới (1992), Từ điển Pháp - Việt - Pháp luật - Hành chính, tr. 212-232.
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (1994), Hoàng Việt Luật lệ, tập 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Đình Nhã (1999), "Bàn về khái niệm công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, VKSNDTC, tr. 208-210.
Võ Quang Nhạn (1984), "Bàn về quyền công tố", Kiểm sát, (2), tr. 17-20.
Nguyễn Thái Phúc (1995), "Một số vấn đề về quyền công tố", Trong sách: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, VKSNDTC, tr. 133-135.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1993), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1993), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 2/4/2002.
Rousseau, Jean Jacques (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Hữu Thể (1997), "Giới thiệu vài nét về các cơ quan tư pháp của Vương Quốc Anh", Thông tin khoa học pháp lý, (3), tr. 12-15.
Lê Hữu Thể (1999), Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay, Đề tài khoa học cấp bộ, VKSNDTC, Hà Nội, tr.19-21.
Võ Thọ (1985), Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr. 86-88.
Tòa án nhân dân tối cao (1994), Hệ thống hóa các văn bản về hình sự, tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội (1984), Giáo trình công tác kiểm sát phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác kiểm sát phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình: Công tác điều tra vụ án hình sự, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Trường Sĩ quan An ninh, Công tác chấp pháp, giáo trình nghiệp vụ, Hà Nội.
Đào Trí úc (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đào Trí úc (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Bản tiếp thu ý kiến của ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 15/03/1994.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1990), Báo cáo tổng kết 30 năm hoạt động ngành Kiểm sát nhân dân.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ 1992-1997, tr. 9.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chuyên đề khoa học.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) lần thứ VII.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo về kết quả hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và phương hướng, biện pháp thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII trong ngành Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 1997.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 1998.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Số liệu thống kê án hình sự năm 1998.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Số liệu thống kê án hình sự năm 1999.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Chuyên đề về "Công tác kiểm sát xét xử án hình sự có bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội năm 1999", số 994/KSXXHS, Hà Nội, ngày 19/5.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Sơ kết công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm năm 1999.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 1999.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Số liệu thống kê án hình sự năm 2000.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 2000.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Chuyên đề về công tác kiểm sát xét xử án hình sự có bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội năm 2000, số 01/KSXXHS, Hà Nội, ngày 5/1.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tình hình án đình chỉ điều tra năm 2000, số 01/KSĐT, ngày 5/1.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), "Chỉ dẫn về công tác công tố", Trong sách: Khuyến nghị sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự và sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, Dự án VIE/018.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Số liệu thống kê án hình sự năm 2001.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2001.
Viện viện sát nhân dân tối cao (2002), Tờ trình về Dự án luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) trình trước Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11, ngày 26/3.
Nguyễn Xuân Yêm (1997), "Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội", Quản lý nhà nước, (5), tr. 25-29.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2665.DOC