Quy luật về sự phù hợp Quan hệ sản xuất với trình độ của Lực lượng sản xuất

Lời nói đầu Hiện nay tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có rất nhiều sự biến động và chuyển đổi. Các nước theo xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Bungari, Hungari…ở Đông Âu đã sụp đổ nhưng bên cạnh đó khối các nước TBCN đang dần lớn mạnh và bành trướng thế lực ra toàn cầu. Nếu Việt Nam là một nước từ nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu nay đã trở thành một nước có nền kinh tế nhiều thành phần và cũng dần chuyển mình rõ rệt. Vậy sự khác biệt về nền kinh tế của các nước là do n

doc10 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật về sự phù hợp Quan hệ sản xuất với trình độ của Lực lượng sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guyên nhân nào gây nên? Những sự thay đổi khác biệt đó không thể không khiến chúng ta quan tâm đến vấn đề quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Vậy có phải nền kinh tế của các nước khác nhau có phải là do quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác nhau? Chúng ta cần quan tâm đến việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và thực tế diễn ra như thế nào đối với các nước TBCN, các nước XHCN và với Việt Nam ? Đã có những quan điểm nhìn nhận về vấn đề này một cách sai lệch, chưa được xác đáng, nhìn nhận một cách chủ quan, họ cho rằng mỗi thời đại đã được ấn định bằng một phương thức sản xuất cố định mà không cần xem xét quan hệ sản xuất có phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất hay không. Trên thực tế cho ta thấy chỉ có cái nhìn khách quan mới nhìn nhận đúng quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô và đặc biệt là thầy Thậm đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. Nội dung I. Những vấn đề cơ bản về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . 1. Lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa con người lao động với tư liệu lao động. Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố con người lao động và tư liệu sản xuất. Con người lao động gồm có trí thông minh, sáng tạo, sức lực. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu sản xuất trong đó tư liệu sản xuất là quan trọng nhất. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Tư liệu sản xuất luôn thay đổi vì con người luôn tìm tòi sáng tạo và sử dụng những công cụ lao động ngày càng tinh sảo hơn. Vì vậy mà trong lực lượng sản xuất cũng có mâu thuẫn. “ Mâu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất là mâu thuẫn giữa trình độ, khả năng của lực lượng sản xuất với nhu cầu chinh phục, cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối tượng sản xuất ”. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mâu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất quyết định. Mâu thuẫn này thường xuyên xảy ra trong quá trình sản xuất. Vậy việc giải quyết mâu thuẫn này cần đòi hỏi con người phải áp dụng khoa học – kỹ thuật công nghệ vào quá trình sản xuất làm cho công cụ sản xuất ngày càng tân tiến và hoàn thiện để phù hợp với quá trình sản xuất. Vì đó để thúc đẩy sự phát triển của tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất từ thấp đến cao thì phải không ngừng cải thiện kỹ thuật và thay thế công cụ thô sơ bằng máy móc. Trong lực lượng sản xuất thì con người đóng vai trò quyết định. Nhưng ngày nay công cuộc cách mạng đã mở ra một bước nhảy vọt lớn của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học đã quyết định lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới của nền sản xuất tự động hoá với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ mới vào nền sản xuất, dần dần thay thế chức năng của người lao động. Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nên thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và các cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Để tiến hành sản xuất con người không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên mà phải có mối quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả của lao động. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mối quan hệ cơ bản. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản xuất xã hội. Ba mối quan hệ này nằm trong mối liên hệ ràng buộc quy định lẫn nhau trong đó quan hệ đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng nhất nó quyết định các mối quan hệ còn lại. Các mối quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm xã hội giữ những vai trò hết sức quan trọng chúng có thể góp phần củng cố, phát triển sản xuất và cũng có thể làm xói mòn quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất. ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử quan hệ sản xuất tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định, quan hệ sản xuất thống trị của mỗi xã hội quy định bản chất và bộ mặt của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì vậy khi nghiên cứu quá trình sản xuất không chỉ dừng lại ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà phải xét tới tính chất quan hệ sản xuất. II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất tác động với nhau. Sự liên hệ tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình thành nên quy luật phổ biến của toàn thể loài người. Đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật sự phù hợp này là khả năng phối hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất để tạo ra hiệu quả lao động cao nhất 1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất Trong quá trình sản xuất để giảm nhẹ sức lao động và không ngừng nâng cao hiệu quả lao động thì con người phải tìm cách cải tiến công cụ lao động, chế tạo ra các công cụ lao động mới tình xảo hơn. Cùng với việc cải tiến và chế tạo công cụ lao động thì con người không ngừng hoàn thiện chính mình. Con người đã thu nhận thêm nhiền tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lao động và tri thức khoa học. Trong qúa trình sản xuất, quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dưới sự ảnh hưởng tới trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ. Do lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng thường xuyên vận động, biến đổi, phát triển trong khi đó quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định hơn. Do vậy khi lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ mới nó sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất cũ, từ đó xuất hiện một nhu cầu là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất tạo động lực cho sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất cũ xoá bỏ thì có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi thay bằng một phương thức sản xuất, xã hội cũ mất đi, xã hội mới ra đời, lịch sử loài người phát triển lên một giai đoạn mới. 2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định bởi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vì vậy quan hệ sản xuất không phải là yếu tố thụ động mà nó tác động tích cực trở lại với lực lượng sản xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hai mặt tích cực và tiêu cực. + Tích cực: Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó tạo thành động lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển. + Tiêu cực: Trong trường hợp ngược lại nó trở thành xiềng xích đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích của lực lượng sản xuất, quy định vai trò tổ chức và quản lý lực lượng sản xuất, quy định phương thức phân phối sản xuất xã hội. III. Chứng minh quan hệ sản xuất thay thế là do sự phát triển của lực lượng sản xuất qua quá trình lịch sử phát triển của 3 phương thức sản xuất trước TBCN. Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của lịch sử, nó chi phối sự vận động phát triển của xã hội loài người qua các giai đoạn khác nhau từ thất tới cao, từ công xã nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, phong kiến… Trước hết từ công xã nguyên thuỷ, trải qua những biến đổi tự nhiên, con người thoát thai từ loài vượn, qua quá trình tiến hoá, con người đã biết lao động, chính lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người.Lao động là đặc điểm của xã hội loài người, nhờ có lao động loài người tác động tích cực đến thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên và trong quá trình chinh phục thiên nhiên con người đã biết tạo ra công cụ lao động ( hòn đá, cây gậy), biết phát hiện ra lửa và nhận thấy được tầm quan trọng của nó trong lao động và việc sáng chế ra cung tên là một bước ngoặt quan trọng trong việc cải tiến công cụ. Lực lượng sản xuất của xã hội nguyên thuỷ đạt tới điểm cao nhất, khi loài người biết nấu quặng ( đồng). Với trình độ sản xuất thấp kém như vậy của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của xã hội nguyên thuỷ mang tính chất sở hữu công xã về tư liệu sản xuất. Họ lao động theo hình thức tập thể, tư liệu sản xuất thuộc sở hữu chung của công xã và chưa có ý niệm gì về của riêng. Vì chưa biết sản xuất ra sản phẩm thừa vì vậy lúc ấy chưa có giai cấp nên không có hiện tượng người bóc lột người. Tiến tới phương thức chế độ chiếm hữu nô lệ, từ việc biết luyện sắt và chế tạo công cụ bằng sắt là giai đoạn phát triển cao nhất của lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thuỷ. Công cụ được cải tiến thúc đẩy nghề nông và chăn nuôi phát triển sau đó hình thành kết cấu nhân công lao động xã hội đầu tiên là thứ hai là phân công lao đông sau việc phát triển của các ngành nghề như dệt, rèn, làm đồn gốm… Việc phân công lao động đã kích thích nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa hai mặt nông nghiệp, chăn nuôi. Những trận đánh nhau giữa các bộ lạc, tù binh được sử dụng vào công việc sản xuất lúc bấy giờ đang mở rộng và đòi hỏi thêm nhân lực. Tù binh biến thành nô lệ và hình thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Công xã thị tộc dần dần phân hoá thành những gia đình riêng lẻ, thế là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thay thế cho chế độ sở hữu công xã. Như trên ta thấy, quan hệ sản xuất công xã nguyên thuỷ dần dần tan rã vì nó không còn phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất nữa. Quan hệ sản xuất mới phải ra đời, chế độ tư hữu thay thế cho chế độ công hữu, xã hội có giai cấp thay thế công xã thị tộc và cuối cùng, chế độ chiếm hữu nô lệ đã ra đời. Trong giai đoạn nhất định nào đó của lịch sử, chế độ chiếm hữu nô lệ là một bước tiến. Nhưng đi đôi với sự phát triển của chế độ ấy, những mâu thuẫn chứa chất bên trong nó ngày càng trở nên sâu sắc, và cuối cùng đã đưa nó đến chỗ tan rã. Chế độ chiếm hữu nô lệ càng mở rộng thì lao động càng bị coi là hèn hạ, chỉ dành riêng cho nô lệ chứ không phải là công việc của những người dân tự do. Vì sự khinh rẻ đó đã đến việc phá hoại sản xuất, khởi nghĩa nhưng không thành và nô lệ bị giết chết vì những lẽ ấy nền kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ bị phá hoại nặng và hình thành chế độ chiếm hữu phong kiến. Vì lực lượng sản xuất bị phá hoại ruộng đất bỏ hoang, nghề thủ công suy đồi, thương nghiệp đình đốn. Điều đó chứng tỏ rằng quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ đã trở thành lỗi thời, nó kìm hãm sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất.Quy luật quan hệ sản xuất nhất định phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất đỏi hỏi phải thay thế nô lệ bằng những người lao động có quan tâm ít nhiều đến kết quả lao động của họ. Và nô lệ chuyển thành nông nô, nền sản xuất lớn dựa trên lao động của nô lệ không còn có lợi gì nữa. Bọn chủ nô lần lượt đem đất đai của họ chia thành những mảnh nhỏ, giao cho nô lệ cày cấy. Ruộng đất ngày càng thuộc về tay bọn địa chủ và vua chúa. Cơ sở của quan hệ sản xuất phong kiến là chế độ chiếm hữu phong kiến về ruộng đất, bọn phong kiến nắm toàn bộ ruộng đất tức là những tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng chúng không trực tiếp kinh doanh mà giao từng mảnh nhỏ cho những người nông dân lệ thuộc cày cấy rồi nộp tô cho chúng. Tóm lại, thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sản xuất mới có động lực phát triển – còn trong các trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, hoặc phát triển hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì đều tạo ra lực cản đối với phát triển sản xuất. IV. Quá trình vận động quy luật thực tế ở Việt Nam Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy vậy không phải lúc nào người ta cũng nhận thức và vận dụng đúng quy luật đó. Vậy ta hãy đi vào nghiên cứu quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam, phát hiện ra xem có những hành động đúng đắn hay sai lầm nào. ở thời kỳ đầu khi mà Miền Bắc nước ta bắt đầu xây dựng CNXH, Đảng đã nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nước ta lực lượng sản xuất còn bị quan hệ sản xuất kìm hãm làm cho lực lượng sản xuất kém phát triển. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy Đảng ta đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực hiện khẩu hiệu: “ người cày có ruộng”. Mặc dầu trong phương pháp thực hiện có nhiều sai lầm song về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, thực hiện sở hữu ruộng đất cho nhân dân, người nông dân đã thực sự trở thành người chủ ruộng đất. ở các bước tiếp sau chúng ta lại tiếp tục mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng. Do chưa nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất . Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động, một số nơi gần như là cưỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất được chia. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển các quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có quan hệ sản xuất cũ, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới bởi vậy đưa đến tình trạng tách rời, biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó sai lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói, mà chủ yếu là có những mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Thông thường sự lạc hậu của quan hệ sản xuất so với trình độ của lực lượng sản xuất là điều thường xảy ra, ở đó chứng tỏ quan hệ sản xuất bị phá vỡ. Còn nếu có trường hợp “quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất” tuyệt nhiên không thể coi là hình thức biểu hiện đặc thù của quy luật mà đó là dấu hiệu cho thấy sự đi lệch khỏi quy luật. Để hiện chứng cho quan niệm “quan hệ sản xuất đi trước” hoặc nói cách khác để giải phóng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiến lên với lực lượng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các xí nghiệp nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, nhằm xây dựng mô hình lâu dài công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý tổ chức sử dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của ban quản lý hợp tác xã. Trong lực lượng sản xuất chúng ta chỉ chú ý tư liệu sản xuất một cách thuần tuý mà thiếu sự cần thiết ở nhân tố con người cả về trình độ lẫn thái độ lao động. Bản thân con người yếu tố quyết định là chủ thể quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Con người lao động đã trở thành thực thể thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và mất đi một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã dân đến sự “ngã gục” trong tiến trình phát triển của lực lượng và do đó phá vỡ luôn cả nhịp độ phát triển kinh tế xã hội . Một sai lầm cơ bản của chúng ta đã vấp phải là phá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản khi kinh tế XHCN của ta chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốn đến lực lượng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Rõ ràng ta không thể xóa bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào khi lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang tồn tại và thúc đẩy sức sống. Nhìn lại sai lầm nói trên chúng ta không chỉ đổi lỗi cho nguyên nhân khách quan. Một đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến, nửa thuộc địa đè nặng bởi 30 năm chiến tranh không tránh khỏi những khó khăn, thiệt thòi nhất định. Song với những vấp váp, những thất bại, Đảng ta vẫn còn rất nhiều sự nhìn nhận đúng đắn cũng như các biện pháp kịp thời để khắc phục và phát triển nền kinh tế. Qua quá trình lãnh đạo sản xuất lâu dài Đảng ta rút kinh nghiệm bổ ích và khẳng định rằng; một trong những nguyên nhân làm cho xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là: Không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó Đảng rút ra cái cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật lên hàng đầu. Đồng thời tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định đúng những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng đã nhận thức rằng sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không trao đổi. Bởi vậy vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất là hoàn toàn đúng, cải tạo quan hệ sản xuất ngày càng phát triển. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới Đại hội Đảng lần VI đã nhấn mạnh là giải phóng đồng bộ cả ba mặt xây dựng chế độ sở hữu, quản lý và chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Nước ta đi lên XHCN từ những phát triển về lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật kém lùi sau trình độ của thế giới văn minh hàng trăm năm, cho nên việc lựa chọn và vận dụng những giải pháp thích hợp để đảm bảo sự phát triển của lực lượng sản xuất từ đó phát triển nền kinh tế xã hội là vấn đề mong ý nghĩa lý luận và thực tiễn hàng đầu. Tuy nhiên chúng ta đang ở trong thời đại của đặc điểm lớn: cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, xu hướng hoà hoãn hợp tác và tồn tại hoà bình giữa các nước trên thế giới ngày càng tăng. Những đặc điểm khách quan cho phép chúng ta kết hợp hình thức phát triển tuần tự và nhảy vọt để nhằm vừa có thể đẩy mạnh và rút ngắn thời hạn lịch sử tạo nên bước nhảy vọt về chất và sự tăng trưởng nhanh chóng của lực lượng sản xuất. ở nước ta thế mạnh của khoa học kỹ thuật mới chỉ ở dạng tiềm năng, sự tham gia của nó vào quá trình sản xuất còn hạn chế. Đảng ta chủ trương với cơ chế quản lý kinh tế mới kích thích sự thâm nhập của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chúng ta phải tìm ra con đường đi vào thực tiễn một cách nhanh nhất và có hiệu quả nhất. Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, chỉ có tính thực tế của khoa học – kĩ thuật mới chinh phục được người sản xuất và do đó cũng là con đường ngắn nhất để khoa học kỹ thuật đi nhanh nhất vào cuộc sống và sản xuất. ít ra cũng là giai đoạn này. kết luận Vậy quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Nó đã đưa loài người trải qua nhiều phương thức sản xuất. ở nước ta, khi có những nhìn nhận đúng về quy luật này, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời chấn chỉnh những sai lầm trước đó, đưa đất nước lên CNXH mang lại cho nhân dân một cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0401.doc