Mở đầu
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Trong quá trình ra đời và phát triển, triết học đã đạt đến đỉnh cao bằng sự ra đời của triết học Mác – Lênin. Đó chính là bước phát triển tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp là những vấn đề về thế giới quan và phương pháp lu
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức vận dụng quy luật này ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận, triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
Triết học rất cần cho mọi người vì nó giúp ta nhận thức được thế giới bên ngoài, từ đó mà ta có thể đa ra quyết định đúng đắn. Và nó rất cần cho chúng ta khi hội nhập WTO, đó vừa là cơ hội vừa là thử thách
Đất nước ta có được như ngày hôm nay là nhờ giác ngộ được chủ nghĩa
Mác – Lênin mà triết học là một phần trong đó. Trong quá trình phát triển đất nước, những nhận thức và vận dụng sáng tạo triết học Mác – Lênin đã góp phần mang lại những thành tựu to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta đặc biệt trong là giai đoạn hiện nay. Những quy luật, những phạm trù triết học Mác – Lênin nghiên cứu hầu hết đều được Đảng và Nhà nớc ta vận dụng linh hoạt trong đường lối lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh .v…v…của đất nớc.
Trong đó phải kể đến quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , nó có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và tồn tại của đất nước ta. Nhng để nắm bắt và vận dụng thì cần có thời gian và công sức . bài tiểu luận này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về vấn đề này.
Mục lục
Trang
A.KHái quát ……………………………………………………………..3
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..3
2.ý nghĩa của đề tài…………………………………………………………..3
3.Khái quát nội dung cần giải quyết trong đề tài…………………………......4
B.nội dung
i. khái niệm qhsx, llsx
1. Lực lượng sản xuất………………………………………………………...4
2.Quan hệ sản xuất…………………………………………………………..5
ii. nội dung quy luật về sự phù hợp qhsx với trình độ phát triển của llsx
1. Quy luật là gì ?…………………………………………………………....7
2.Quy luật về sự phù hợp QHSX với trình độ phát triển của LLSX ………....8
iii. đảng nhận thức vận dụng quy luật về sự phù hợp qhsX với trình độ phát triển của llsx………………………..10
IV.Quá trình vận động quy luật ở Việt Nam……………..........11
C. kết luận……………………………………………………………...17
Khái quát
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi một chế độ lại có LLSX và QHSX riêng,chế độ mất đi là do sự không phù hợp giữa LLSX và QLSX. Chúng đấu tranh để tạo ra sự phù hợp mới, từ đó một chế độ mới. ở nước ta Sự không phù hợp của lực lượng sản xuất so với quan hệ sản xuất như vậy không những không thúc đẩy được nền kinh tế Việt Nam phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Do vậy muốn đất nước bền vững chúng ta cần tìm hiểu và nắm bắt vấn đề này. Cho nên em đã chọn đề tài này để làm tiểu luận. Nó sẽ giúp em nhiều trong học tập và làm việc sau này.
2. ý nghĩa của đề tài.
Đề tài “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa hết sức quan trọng đặc biệt là trong tình hình thực tế của nước ta hiện nay. Khi chúng ta đang từng bứơc đưa Việt Nam nên XHCN. Từng bước đi của chúng ta đều phải dựa vào quy luật trên. Mỗi chúng ta cần phải hiểu rõ quy luật này mới có thể giúp ích cho đất nước, đưa đất nước phát triển nên tầm cao mới.
3. Khái quát nội dung cầm giải quyết trong đề tài
Những vấn đề cần giải quyết:
Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự nhận thức vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
nội dung
I. khái niệm quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất.
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh ngiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tất cả sức mạnh đang có và biểu hiện là lực lượng sản xuất. Nó nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển chứng tỏ kả năng chinh phuc tự nhiên càng cao.
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của mình.
Trình độ phát triển của công cụ lao độnglà thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác đã nêu một tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với viêc thay đổi các quan hệ xã hội. C.Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất mới của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã vạch ra mục tiêu: “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiên trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Khoa hoc tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Khoa học xẫ hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý nghĩa xã hội mới. Sự phát triển của khoa học công nghệ đủ sức cung cấp luận cứ cho viêc hoạch định những chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt.
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên moon hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản”, C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt đông chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có mối liên hệ vàquan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào mong muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Cố nhiên, quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạngbiểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động đến nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – biểu hiện thành chế độ sở hữu – là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuấtcủa mỗi nền kinh tế – xã hội nhất định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuấtluôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu – quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thứcmà các tập đoàn tổ chức quản lý qua trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với sản xuất xã hội. “Định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.
lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liêu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tư liệu chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tự liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối khác xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tồn tại tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhâncủa các xã hội điển hình trong lịch sử (sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong xã hội phong kiến và sở hữu tư nhân trong chủ nghĩa tư bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
II. nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật là gì ?
Trong đời sống hàng ngày , đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lăp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên kháI niệm quy luật . Với tư cách là phạm trùcủa lý luận nhận thức, khái niệm quy luật là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, về tính chỉnh thể của chúng.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trọng hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiên tượng, giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiên tượng.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất , chúng tồn tại không tách nhau , tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng , tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng..
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét cho cùng bao giờ cũng là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”. Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
Sự vận động,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó . Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Trạng thái mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ xuất hiện, thay thế cho trạng thái phù hợp, khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”. Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xẫ hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Mác đã nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có … trong đó từ trước đến nay lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được; cũng như khi mâu thuẫn đã được phát hiện mà không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm chủ quan, v…v… thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội , trong đó quy luật quan hệ sản xuấtphù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
III. sự nhận thức vận dụng quy luật trên của đảng ta ở việt nam hiện nay
Thấy được vai trò to lớn của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đảng ta đã có những nhận thức đúng đắn, và rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn:
Cần phải hiểu rõ sự vận động phát triển của xã hội một cách khoa học, quy luật này chỉ ra nguồn gốc động lực của sự phát triển, chỉ rõ nguyên nhân nội tại của sự vận động trong phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn phải luôn luôn tạo nên sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ khi đó quan hệ sản xuất quan hệ sản xuất mới mới thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa xã hộiphát triển tiến lên. Quan hệ sản xuất đi trước hoặc đi sau lực lượng sản xuất đều kìm hãm sự phát triển đi lên của xã hội.
Phải kiên quyết giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất để tạo ra quan hệ sản xuất mới phu hợp, chống tư tưởng chần chừ, thủ tiêu mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển đi lên của xã hội.
Bằng những phương pháp luận đúng đắn và dựa vào tình hình cụ thể của nước ta mà Đảng ta đã có những vận dụng đúng đắn vào Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước:
Tập trung phát triển lực lượng sản xuất là trọng tâm hàng đầu nhằm giải phóng tiềm năng của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Thực hiện đa dạng hoá các quan hệ sở hữu để tạo nên sự phù hợp với trình độ của các thành phần kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đổi mới và hoàn thiên từng bước cơ chế quản lý thực hiện chính sách phân phối công bằng để kích thích tính tích cực của người lao động thúc đẩy sản xuất phát triển.
IV- Quá trình vận động quy luật ở Việt Nam.
Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển, của lực lượng sản xuất. Tuy vậy không phải lúc nào người ta cũng nhận thức và vận dụng đúng quy luật đó. Chúng ta phải đi vào nghiên cứu quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Từ đó rút ra xem cái gì đúng ,cái gì sai rồi mới điều chỉnh cho đúng.
Khi Miền Bắc nước ta bắt đầu xây dựng CNXH, Đảng đã nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nước ta lực lượng sản xuất còn bị quan hệ sản xuất kìm hạm làm cho lực lượng sản xuất kém phát triển. Đới sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy Đảng ta đã tiền hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” Mặc dầu trong phương pháp thực hiện có nhiều sau lầm song về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ sở hữu rộng đất phong kiến, thực hiện sở hữu ruộng đất cho nhân dân, cởi trói sức sản xuất ở nông thôn, người nông dẫn đã thực sự trở thành người chủ ruộng đất.
Chúng ta lại tiếp tục mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng. Do chưa nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ biên chức giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động, một số nơi gần như là cưỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất được chia. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển cá quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta tạo ra những quy mô lớn là ngộ nhận là đã có quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới chúng ta đã nhầm lẫn trong khi nhấn mạnh quá sức để sở hữu tư liệu sản xuất theo khuynh hưởng tập thể hoá, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, bởi vậy đưa đến tình trạng tách rời, biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ.
Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó sai lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói, mà chủ yếu là có những mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Do vậy việc xác lập quan hễ mới để mở được cho lực lượng sản xuất phát triển là chưa xác đáng. Phải chăng “hợp tác hoá là cái quá rông và quá sớm với tính chất và trình độ phát triển lúc bấy giờ”.
Bởi vậy nhận định trong văn kiện đại hội VI của Đảng có căn cứ vào đã làm phong phú thêm lý luận về bản chất giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thông thường sự lạc hậu của quan hệ sản xuất so với trình độ của lực lượng sản xuất là điều thường xảy ra, ở đó chứng tỏ quan hệ sản xuất bị phá vỡ. Còn nếu có trường hợp “quan hệ sản xuất đi trược lực lượng sản xuất” tuyệt nhiên không thể coi là hình thức biểu hiện đặc thù của quy luật mà đó là dấu hiệu cho thấy sự đi lệch khỏ quy luật. Để hiện chứng cho quan niệm “quan hệ sản xuất đi trước” hoặc nói cách khác để giải phóng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiến lên với lực lượng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các xí nghiệp nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, nhằm xây dựng mô hình lâu dài công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý tổ chức sử dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của bản quan lý hợp tác xã.
Trong lực lượng sản xuất chung ta chỉ chú ý tư liệu sản xuất một cách thuần tuỳ mà thiếu sự cần thiết ở nhân tố con người cả về trình độ lẫn thái độ lao động. Bản thân con người yếu tố quyết định là chủ thể quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Song sản xuất bị đặt trong vòng cương toả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên con người lao động đã trở thành thực thể thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và mất đi một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã dẫn đến sự “ngã gục” trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất và do đó phá vỡ luôn cả nhịp độ phát triển kinh tế xã hội.
Một sai làm cơ bản của chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản khi kinh tế XHCN của ta chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốn đế lực lượng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dài cho xã hội. Cũng vậy, nếu ta xoá sách tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc quanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nối vai trò “người nội trợ cho xã hội” thì sẽ gây ra nhiều khó khăn và ách tác hàng hoá và không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho nhân dân. Rõ ràng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào khi lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang tồn tại và thúc đẩy sức sống.
Nhìn nhận sai lầm nói trên chúng ta không chỉ đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan. Một đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến, nửa thuộc địa lại đè nặng bởi ba mươi năm chiến tranh không tránh khỏi những khó khăn, thiệt thòi nhất định. Tuy nhiên không phải vì thế mà không thừa nhận sai lầm về mặt chủ quan. Cội nguồn của những sai lầm chủ quan đó là do sự nhận tứhc không đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, do đó vận dụng không đúng đắn bản chất của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời gian dài, chúng ta cứ có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là có chủ nghĩa xã hội mà quên đi rằng quan hệ sản xuất đó phải dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất sắn có. Tập trung sức xây dựng quan hệ sản xuất song nội dung ý chí trong việc xây dựng trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức tổ chức kinh tế.
Song với những vấp váp, những thất bại, Đảng ta vẫn còn rất nhiều sự nhìn nhận đúng đắn cũng như các biện pháp kịp thời để khắc phục và phát triển nền kinh tế. Qua quá trình lãnh đạo sản xuất lâu dài Đảng ta rút ra kinh nghiệm bổ ích và đã khẳng định rằng; một trong những nguyên nhân làm cho xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là: Không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó Đảng đã rút ra cái cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật lên hàng đầu. Đồng thời tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định đúng những hình thức và bước đi thích hợp.
Đảng đã nhận thức rằng sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không trao đổi. Sự phù hợp này không bao giờ là sự phù hợp chung mà là sự tồn tại dưới nhiều hình thức cụ thể, thích ứng với đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất là cần xác lập quan hệ sản xuất như thế nào để thực sự là hình thức thích hợp nhất với yêu cầu của sự phát triển từng vùng. Bởi vậy vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất là hoàn toán đúng, cải tạo quan hệ sản xuất ngày càng phát triển. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới đại hội Đảng lần VI đã nhấn mạnh là phải giải phòng đồng bộ cả ba mặt xây dựng chế độ sở hữu, quản lý và chế độ sở hữy mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ bia. Chế độ sở hữu có tầm lý luận, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt cơ bản nhất làm nền tảng cho quan hệ sản xuất khác trong lịch sử xã hội. Về mặt thực tiễn, tính chất sở hữu tư liệu sản xuất mới cũng quy định cả tính chất quản lý và phân phối.
Trong quan hệ sản xuất nếu xét về mặt sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp trước hết là ruộng đất thì ruộng đất giao khoán cho nông dân vẫn thuộc quyền sở hữu tập thể. Còn nếu xét quan hệ quản lý trong quan hệ sản xuất khoán sản phẩm là quá trình hạch toán kinh tế đến nhóm và từng gia đình đã tạo sự liên doanh liên kết tiến bộ. Một yếu tố cũng quan trọng của quan hệ sản xuất là phân phối. ở quan hệ này thể hiện rất rõ trong mỗi quan hệ ba lợi ích. Sự đóng góp của nhân dân đối với phí dịch vụ sản xuất và đổi hàng hoá chiều không ngừng tăng lên. Vì thế nếu cải tạo XHCN là cải tạo quan hệ sản xuất cũ.
Nước ta đi lên XHCN từ những xuất phát triển hình về lực lượng sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật kém lùi sau trình độ của thế giới văn minh hàng trăm năm, cho nên việc lựa chọn và vận dụng những giải pháp thích hợp để đảm bảo sự phát triển lực lượng sản xuất từ đó phát triển nền kinh tế xã hội là vấn đề mong ý nghĩa lý luận và thực tiễn hàng đầu. Để xác định trật tự bước đi, lựa chọn những hình thức tối ưu nhằm phát triển lực lượng sản xuất một cách quy luật thì phải dự trên điều kiện cụ thể của đất nước. Tuy nhiên chúng ta đang ở trong thời đại của đặc điểm lớn: cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, xu hướng hoà hoãn hợp tác và tồn tại hoà bình giữa các nước trên thế giới ngày càng tăng. Những đặc điểm khách quan cho phép chúng ta kết hợp hình thức phát triển tuần tự và nhảy vọt để nhằm vừa có thể đẩy mạnh và rút ngắn thời hạn lịch sử tạo nên bước nhảy vọt về chất và sự tăng trưởng nhanh chóng của lực lượng sản xuất.
Đảng đã nhận thấy, từ nước có nền sản xuất nhỏ như giai đoạn công nghiệp hoá. Trên thực tế chúng ta đã và đang tiến hành công nghiệp hoá đất nước. Song những lệch lạc của thời kỳ công nghiệp hoá theo kiểm cổ điểm không phù hợp nữa.
Đối với thế giới nền văn minh cơ khí hoá đang lùi vào lịch sử, nhưng với chúng ta, có thể từng bộ phận, từng ngành của nền văn minh ấy vẫn còn có giá trị và cần phải được xây dựng và hiện đại hoá. Để tạo điều kiện cho con người chủ động nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, điều chỉnh và hoàn thiện quan hệ sản xuất để thông qua đó phát triển lực lượng sản xuất. Muốn tạo ra những động lực tích cực, kích thích năng lực sáng tạo của người lao động thì đòi hỏi phải có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi mới tích cực về cơ cấu và chiến lược nhân công. Việc cải cách giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý việc ban hành và thực hiện chính sách xã hội, xây dựng xã hội có bầu không khí dần dần phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hướng lên của xã hội là những phương tiện đa dạng trong hệ thống để đi đến phát triển lực lượng sản xuất.
ở nước ta thế mạnh của khoa học kỹ thuật mới chỉ ở dạng tiềm năng, sự tham gia của nó vào quá trình sản xuất còn hạn chế. Đảng ta chủ trương với cơ chế quản lý kinh tế mới với sự mở rộng quyền tự chủ kinh tế của người sản xuất sẽ là những tác nhân kích thích sự thâm nhập của những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chúng ta phải tìm ra con đường đi vào thực tiễn một cách nhanh nhất và có hiệu quả nhất. Điều đó muốn nói đến tính thực tế của các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo, chỉ có tính thực tế đó mới chinh phục được người sản xuất và do đó cũng là con đường ngắn nhất để khoa học kỹ thuật đi nhanh nhất vào cuộc sống và sản xuất. ít ra cũng là giai đoạn này.
Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN, chúng ta chủ t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30457.doc