Mục lục
Trang
Lời nói đầU............................................................................2
A.KHái quát …………………………………………………………….3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….3
2.ý nghĩa của đề tài………………………………………………………….3
3.Khái quát nội dung cần giải quyết trong đề tài………………………….....4
4.Khái quát kết cấu đề………………………………………………………..4 B.nội dung
i. khái niệm ptsx, qhsx, llsx
1. Phương thức sản xuất………………………………………………………5
2. Lực lượng sản xuất………………………………………………………...5
3.Qua
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất & sự nhận thức vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hệ sản xuất…………………………………………………………..8
ii. nội dung quy luật về sự phù hợp qhsx với trình độ phát triển của llsx
1.Khái niệm chung về quy luật……………………………………………..11
2.Quy luật về sự phù hợp QHSX với trình độ phát triển của LLSX ………..11
iii. sự nhận thức vận dụng quy luật về sự phù hợp qhsX với trình độ phát triển của llsx
IV.Quá trình vận động quy luật ở Việt Nam……………......15
C. kết luận……………………………………………………………...21
Lời nói đầu
Triết học ra đời từ đời sống xã hội, những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp là những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận, triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
Trong quá trình ra đời và phát triển, triết học đã đạt đến đỉnh cao bằng sự ra đời của triết học Mác – Lênin. Đó chính là bước phát triển tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
Triết học Mác – Lênin là một môn học hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo, không ngừng nâng cao chất lượng từ khâu biên soạn giáo trình, giảng dạy, học tập, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục của cả nước. Nó đã và đang được tuổi trẻ học đường, cán bộ đảng viên và toàn dân ta tiếp đón nhiệt tìnhvà say mê học tập nghiên cứu nghiêm túc. Chính vì thế nghị quyết Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: “ Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng cao trình độ lí luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động từ phong trào cách mạng quần chúng”.
Nhận thức và vận dụng sáng tạo triết học Mác – Lênin đã góp phần mang lại những thành tựu to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta đặc biệt trong là giai đoạn hiện nay. Những quy luật, những phạm trù triết học Mác – Lênin nghiên cứu hầu hết đều được Đảng và Nhà nước ta vận dụng linh hoạt trong đường lối lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh .v…v…của đất nước.
Đặc biệt phải kể đến quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – một ảnh hưởng không nhỏ trong xu hướng phát triển kinh tế – chính trị nước ta hiện nay.
Khái quát
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
ở Việt Nam, quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa là một minh chứng cho sự đúng đắn của quy luật này. Chúng ta đã có những kết quả không như mong đợi từ sự vận dụng không triệt để quy luật trên. Khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam với lực lượng sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển trong khi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là đỉnh cao của quan hệ xã hội. Sự không phù hợp của lực lượng sản xuất so với quan hệ sản xuất như vậy không những không thúc đẩy được nền kinh tế Việt Nam phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng nên tôi chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. ý nghĩa của đề tài.
Việc nghiên cứu đề tài “Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự nhận thức vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa hết sức quan trọng đặc biệt là trong tình hình thực tế của nước ta hiện nay. Hiện nay nước ta đang từng bước đẩy nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất thông qua công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cải thiện chất lượng lao động trong nước để từng bước phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hạn chế tối đa những tác dụng ngược lại của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất như đã nói ở trên. Làm cho mỗi chúng ta hiểu rõ nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự ảnh hưởng trực tiếp và đặc biệt quan trọng của nó đối với nền kinh tế nước ta là một điều có ý nghĩa hết sức to lớn.
3. Khái quát nội dung cầm giải quyết trong đề tài
Đề tài sẽ tập trung vào giải quyết những nội dung chủ yếu sau:
Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự nhận thức vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
4. Khái quát kết cấu đề cương
Đề cương bao gồm ba phần chính:
- Phần A: Phần khái quát – tập trung giải quyết những vấn đề lý luậncơ bản trước khi đi vào nghiên cứu nội dung chính của đề tài.
- Phần B: Phần nội dung – tập trung giải quyết những nội dung chủ yếu mà đề tài đã nêu ra.
- Phần C: Phần kết luận – tóm tắt nội dung và ý nghĩa, vận dụng của đề tài
nội dung
I. khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1. Phương thức sản xuất.
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện thông quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định của sự sản xuất xã hội, trong đời sồn xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết cấu và đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi mang tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội … được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau.
Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng mỗi của mỗi thời đại lịch sử người ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã hội nào.
C.Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. (C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị quỗsc gia, Hà Nội, 1993, Tr.23, Tr.269).
Phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
2. Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lức lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là những khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là “quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của con người với tự nhiên và quan hệ của con người với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất, trong đó, “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công dân, là người lao động”.
Do đặc trưng sinh học - xã hội riêng có của mình, con người, trong nền sản xuất xã hội có sức mạnh và kĩ năng lao động thần kinh – cơ bắp. Trong lao động, sức mạnh và kĩ năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ của con người không phải là cái gì siêu tự nhiên, mà là phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người,trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện cảu khoa học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt cảu sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Cùng với con người – người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo Ph.Ăngghen là: “Khí quan của bộ óc con người “là” sức mạnh của tri thức đã được “ vật thể hoá” có tác dụng “ nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ cảu con người”. Bởi vậy, khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá, được tự động hoá … thì vai trò “khí quan vật chất” cảu nó trở nên hết sức kì diệu.Trong mọi thời đại, công cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện năng lực thực tiễn của con người ngày một tăng thêm. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên nhân sâu xa của mọ biến cải xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao độnglà thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác đã nêu một tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với viêc thay đổi các quan hệ xã hội. C.Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất mới của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày nay càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Ngày nay, cách thức mà nhà khoa học xâm nhập và thể hiện trong hiện thức khác nhiều so với vài thập kỉ trước đây. C.Mác dự kiến rằng khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành “lực lượng sản xuất độc lập”. Tư tưởng ấy của Mác có ý nghĩa định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt động khoa học.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là thời điểm hiện tại của sản xuất và do vậy, nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của nền khoa học nói riêng như sau: “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”.
Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiên trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Khoa hoc tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Khoa học xẫ hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý nghĩa xã hội mới. Sự phát triển của khoa học công nghệ đủ sức cung cấp luận cứ cho viêc hoạch định những chính sách chiến lược và quy hoạch phát triển.
3. Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống những khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực lượng sản xuấtbiểu hiện mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội – quan hệ của con người với tự nhiên; còn khái niệm quan hệ sản xuất biểu thị mặt thứ hai của mối quan hệ đó – quan hệ của con người với con người trong sản xuất. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng trong và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người và người, tức là những quan hệ sản xuất. Trong tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản”, C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt đông chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có mối liên hệ vàquan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù muốn hay không cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định với nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào mong muốn của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất. Cố nhiên, quan hệ sản xuất là do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), bao gồm:
Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất
Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người, quan hệ sản xuất là quan hệ mang tính vật chất thuộc vào đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa cảu đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạngbiểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động đến nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất – biểu hiện thành chế độ sở hữu – là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuấtcủa mỗi nền kinh tế – xã hội nhất định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuấtluôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sở hữu – quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thứcmà các tập đoàn tổ chức quản lý qua trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với sản xuất xã hội. “Định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản xuất tư sản”.
Trong các hình thái kinh tế – xã hội mà loài người đã phải trải qua, lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liêu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tư liệu chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tự liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối khác xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tồn tại tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhâncủa các xã hội điển hình trong lịch sử (sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong xã hội phong kiến và sở hữu tư nhân trong chủ nghĩa tư bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là hình thức cuối cùng trong lịch sử lại người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản ký sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của kinh tế – xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng được những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiên đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt là đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô, trên thức tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập kỉ trước đây. Đây là điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trò của các quan hệ sản xuất hiện đại.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức – quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng như là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế – xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, nên các quan hệ phân phối là “chất xúc tác” của các quá trình kinh tế – xã hội. Quan hệ phân phối co thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội
II. nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khái niệm chung về quy luật.
Từ hàng ngàn năm về trước, con người đã phần nào đoán nhân được tính trật tự và tính lặp lại của các hiện tượng. Cái đó đã in vào tư duy con người về sự tồn tại có tính quy luật nào đó của thế giới khách quan. Khái niệm quy luật là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, về tính chỉnh thể của chúng.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trọng hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiên tượng, giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiên tượng.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội – quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét cho cùng bao giờ cũng là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở:
Trình độ của công cụ lao động
Trình độ tổ chức lao động xã hội
Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
Kinh nghiệm và kĩ năng lao độn của con người
Trình độ phân công lao động
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, còn có khái niệm tính chất của lực lượng sản xuất. Chính Ph.Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Khi nền sản xuất được thực hiện ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc, cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá. Ph.Ăngghen nhận định giai cấp tư sản “Không thể biến những tư liệu sản xuất có hạn ấy thành lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng từ chỗ là những tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”. Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Trạng thái mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ xuất hiện, thay thế cho trạng thái phù hợp, khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn, lúc đó tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”. Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xẫ hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Mác đã nhận định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có … trong đó từ trước đến nay lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được; cũng như khi mâu thuẫn đã được phát hiện mà không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm chủ quan, v…v… thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội , trong đó quy luật quan hệ sản xuấtphù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
III. sự nhận thức vận dụng quy luật trên của đảng ta ở việt nam hiện nay
Nhận rõ được vai trò to lớn của quy luậtquan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Đảng ta đã có những nhận thức đúng đắn, và rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn:
Hiểu rõ sự vận động phát triển của xã hội một cách khoa học, quy luật này chỉ ra nguồn gốc động lực của sự phát triển, chỉ rõ nguyên nhân nội tại của sự vận động trong phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn phải luôn luôn tạo nên sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ khi đó quan hệ sản xuất quan hệ sản xuất mới mới thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa xã hộiphát triển tiến lên. Quan hệ sản xuất đi trước hoặc đi sau lực lượng sản xuất đều kìm hãm sự phát triển đi lên của xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn phải kiên quyết giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất để tạo ra quan hệ sản xuất mới phu hợp, chống tư tưởng chần chừ, thủ tiêu mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển đi lên của xã hội.
Bằng những phương pháp luận đúng đắn và dựa vào tình hình cụ thể của nước ta mà Đảng ta đã có những vận dụng đúng đắn vào Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước:
Tập trung phát triển lực lượng sản xuất là trọng tâm hàng đầu nhằm giải phóng tiềm năng của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Thực hiện đa dạng hoá các quan hệ sở hữu để tạo nên sự phù hợp với trình độ của các thành phần kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đổi mới và hoàn thiên từng bước cơ chế quản lý thực hiện chính sách phân phối công bằng để kích thích tính tích cực của người lao động thúc đẩy sản xuất phát triển.
IV- Quá trình vận động quy luật ở Việt Nam.
Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển, của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật phổ biến hàn sâu vào trí thức của các nhà lãnh đạo. Tuy vậy không phải lúc nào người ta cũng nhận tứhc và vận dụng đúng quy luật đó. Theo phương châm: chỉ có sự tinh tế nếu mình nhìn nhận được những việc đúng sai của mình. Sau đó ta hay đi vào nghiên cứ quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam, phát hiện ra xem có những hành động đúng đắn hay sai lầm nào.
ở thời kỳ đầu khi mà Miền Bắc nước ta bắt đầu xây dựng CNXH, Đảng đã nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nước ta lực lượng sản xuất còn bị quan hệ sản xuất kìm hạm làm cho lực lượng sản xuất kém phát triển. Đới sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy Đảng ta đã tiền hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” Mặc dầu trong phương pháp thực hiện có nhiều sau lầm song về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ sở hữu rộng đất phong kiến, thực hiện sở hữu ruộng đất cho nhân dân, cởi trói sức sản xuất ở nông thôn, người nông dẫn đã thực sự trở thành người chủ ruộng đất.
ở các bước tiếp sau chúng ta lại tiếp tục mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng. Do chưa nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ biên chức giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động, một số nơi gần như là cưỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất được chia. Có thể chúng chưa tuân thủ lời giám huấn của Lênin: Muốn dụng một phương pháp mau lẹ nào đó, một sắc lệnh, một tác động ngoài vào để cải tạo hệ cá thể ấy thì thật là một tư tưởng hoàn toàn phi lý. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển cá quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta tạo ra những quy mô lớn là ngộ nhận là đã có quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới chúng ta đã nhầm lẫn trong khi nhấn mạnh quá sức để sở hữu tư liệu sản xuất theo khuynh hưởng tập thể hoá, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, bởi vậy đưa đến tình trạng tách rời, biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó sai lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói, mà chủ yếu là có những mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Do vậy việc xác lập quan hễ mới để mở được cho lực lượng sản xuất phát triển là chưa xác đáng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0111.doc