Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ của Lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành Lực lượng sản xuất trực tiếp

Mở Đầu Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất. Vị trí của khoa học trong lực lượng sản xuất ngày càng tăng lên. thực chất của cuộc cách mạng là ở chỗ đã tạo ra kỉ nguyên mới của sản xuất tự động hóa với việc phát triển và ứng dụng điều khiển học và vô tuyến điện tử. Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong sản xuất, tạo ra những ngành sản xuất mới, kết hợp khoa học kĩ thuật thành một thể thống nhất đưa đến những phương phá

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ của Lực lượng sản xuất. Khoa học trở thành Lực lượng sản xuất trực tiếp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p công nghệ mới đem lại những hiệu quả cao trong sản xuất, phát hiện và đề ra những phương pháp khai thác nguồn năng lượng mới, chế tạo vật liệu mới, tạo ra sự thay đổi trong chức năng của người sản xuất. Con người không còn thao tác trực tiếp trong hệ thống kinh tế mà chủ yếu là sáng tạo, điều khiển quá trình đó một cách tự động, tri thức khoa học trở thành một tất yếu trong hoạt động của người sản xuất. Và hiện nay khoa học đang là lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhận thức được điều đó, các nước đang tập trung phát triển khoa học của mình và ứng dụng vào sản xuất tạo thế và lực riêng cho mỗi quốc gia. Mà Việt Nam không phải là ngoại lệ. Nội dung I. Những vấn đề cơ bản về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . 1. Lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa con người lao động với tư liệu lao động. Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố con người lao động và tư liệu sản xuất. Con người lao động gồm có trí thông minh, sáng tạo, sức lực. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu sản xuất trong đó tư liệu sản xuất là quan trọng nhất. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Tư liệu sản xuất luôn thay đổi vì con người luôn tìm tòi sáng tạo và sử dụng những công cụ lao động ngày càng tinh sảo hơn. Vì vậy mà trong lực lượng sản xuất cũng có mâu thuẫn. “ Mâu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất là mâu thuẫn giữa trình độ, khả năng của lực lượng sản xuất với nhu cầu chinh phục, cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối tượng sản xuất ”. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mâu thuẫn bên trong của lực lượng sản xuất quyết định. Mâu thuẫn này thường xuyên xảy ra trong quá trình sản xuất. Vậy việc giải quyết mâu thuẫn này cần đòi hỏi con người phải áp dụng khoa học – kỹ thuật công nghệ vào quá trình sản xuất làm cho công cụ sản xuất ngày càng tân tiến và hoàn thiện để phù hợp với quá trình sản xuất. Vì đó để thúc đẩy sự phát triển của tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất từ thấp đến cao thì phải không ngừng cải thiện kỹ thuật và thay thế công cụ thô sơ bằng máy móc. Trong lực lượng sản xuất thì con người đóng vai trò quyết định. Nhưng ngày nay công cuộc cách mạng đã mở ra một bước nhảy vọt lớn của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học đã quyết định lực lượng sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới của nền sản xuất tự động hoá với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ mới vào nền sản xuất, dần dần thay thế chức năng của người lao động. Do khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nên thành phần người cấu thành lực lượng sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà gồm cả kỹ thuật viên, kỹ sư và các cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Để tiến hành sản xuất con người không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên mà phải có mối quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả của lao động. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mối quan hệ cơ bản. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản xuất xã hội. Ba mối quan hệ này nằm trong mối liên hệ ràng buộc quy định lẫn nhau trong đó quan hệ đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng nhất nó quyết định các mối quan hệ còn lại. Các mối quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm xã hội giữ những vai trò hết sức quan trọng chúng có thể góp phần củng cố, phát triển sản xuất và cũng có thể làm xói mòn quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có tính ổn định tương đối so với lực lượng sản xuất. ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử quan hệ sản xuất tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định, quan hệ sản xuất thống trị của mỗi xã hội quy định bản chất và bộ mặt của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì vậy khi nghiên cứu quá trình sản xuất không chỉ dừng lại ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà phải xét tới tính chất quan hệ sản xuất. II. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất tác động với nhau. Sự liên hệ tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình thành nên quy luật phổ biến của toàn thể loài người. Đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật sự phù hợp này là khả năng phối hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất để tạo ra hiệu quả lao động cao nhất 1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất Trong quá trình sản xuất để giảm nhẹ sức lao động và không ngừng nâng cao hiệu quả lao động thì con người phải tìm cách cải tiến công cụ lao động, chế tạo ra các công cụ lao động mới tình xảo hơn. Cùng với việc cải tiến và chế tạo công cụ lao động thì con người không ngừng hoàn thiện chính mình. Con người đã thu nhận thêm nhiền tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lao động và tri thức khoa học. Trong qúa trình sản xuất, quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dưới sự ảnh hưởng tới trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ. Do lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng thường xuyên vận động, biến đổi, phát triển trong khi đó quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định hơn. Do vậy khi lực lượng sản xuất phát triển tới trình độ mới nó sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất cũ, từ đó xuất hiện một nhu cầu là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất tạo động lực cho sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất cũ xoá bỏ thì có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi thay bằng một phương thức sản xuất, xã hội cũ mất đi, xã hội mới ra đời, lịch sử loài người phát triển lên một giai đoạn mới. 2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định bởi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vì vậy quan hệ sản xuất không phải là yếu tố thụ động mà nó tác động tích cực trở lại với lực lượng sản xuất, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hai mặt tích cực và tiêu cực. + Tích cực: Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì nó tạo thành động lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển. + Tiêu cực: Trong trường hợp ngược lại nó trở thành xiềng xích đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất vì nó quyết định mục đích của lực lượng sản xuất, quy định vai trò tổ chức và quản lý lực lượng sản xuất, quy định phương thức phân phối sản xuất xã hội. III Khoa học là gì? Khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp. 1. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ: Khoa học là một khối liên kết kiến thức được gom góp từ những nỗ lực năng động của con người để hiểu được thế giới dựa trên quan sát và thí nghiệm. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được hiểu như là mối quan hệ giữa thông tin và công nghệ. Nền sản xuất xã hội là phương thức trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin giữa xã hội và tự nhiên. Chính trong quá trình sản xuất, con người bằng trí tụê và lao động được định hướng bởi trí tuệ đã không ngừng biến đổi các dạng vật chất, năng lượng, thông tin. Năng lượng là số đo của các dạng vật chất trong các dạng khác nhau. Trong phương thức sản xuất xã hội, sự vận động biến đổi của vật chất được thực hiện thông qua các hệ thống công nghệ. Bởi vậy, bất kỳ một bước nhảy vọt nào của hệ thống năng lượng cũng đều diễn ra với một cuộc cách mạng trong công nghệ. Thông tin- là một dạng biểu hiện của vật chất đang vận động. Thông tin xã hội gắn liền với sự vận động của dạng vật chất có tổ chức cao nhất - bộ óc con người. Trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội loài người đã từng diễn ra năm bước nhảy vọt về chất của thông tin xã hội, được biểu hiện dưới năm hình thức thông tin điển hình từ thấp đến cao: tiếng nói, chữ viết, kỹ thuật in ấn, các thiết bị truyền thông bằng điện và điện tử, mạng internet. Cùng với đó là năm giai đoạn phát triển của công nghệ với năm hệ thống công nghệ khác nhau về chất và phù hợp với chúng là những hệ thống năng lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử xã hội. Đó là giai đoạn một với hệ thống công nghệ tự nhiên thô sơ, giai đoạn hai với hệ thống công nghệ cơ khí thủ công, giai đoạn ba với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ cơ khí hoá, giai đoạn bốn với hệ thống công nghệ cơ khí máy móc ở trình độ điện khí hoá tự động hoá bậc thấp, giai đoạn năm với hệ thống công nghệ trí tuệ, bao gồm công nghệ thông tin và các loại công nghệ cao khác. So sánh các giai đoạn phát triển cơ bản của thông tin và công nghệ, chúng ta thấy chúng có mối quan hệ chặt chẽ và phù hợp với nhau cả về mặt thời gian và nội dung, tính chất. Các cuộc cách mạng này biểu hiện trình độ phát triển ngày càng cao hơn của vật chất. Sự biến đổi phù hợp này là cơ sở để có thể gọi các cuộc cách mạng đó là cuộc cách mạng thông tin - công nghệ. Thông qua các cuộc cách mạng này mối quan hệ khoa học - công nghệ ngày càng bền chặt và sâu sắc hơn. 1.1. Mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ với LLSX. Vấn đề khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học và công nghệ tham gia vào quá trình biến đổi, cải tạo thế giới tự nhiên và phát triển xã hội vì chúng là những yếu tố quan trọng của LLSX xã hội, chúng có mặt ở tất cả mọi thành phần của LLSX: trong TLSX ( công cụ, kỹ thuật ), trong con người. Cùng với sự phát triển của xã hội, khoa học và công nghệ ( KH - CN ) ngày càng có vai trò quan trọng trong LLSX xã hội. 1.2. Mối quan hệ giữa cách mạng thông tin - công nghệ và cách mạng LLSX. Với cuộc cách mạng thông tin - công nghệ ( CM TT - CN ) lần thứ nhất đã dẫn đến cuộc cách mạng LLSX lần thứ nhất. Con người biết chế tạo công cụ sản xuất ( CCSX ) từ những vật liệu có sẵn trong tự nhiên: gỗ, đất đá, xương - thành các công, tên, hòn đá mài thành các công cụ để săn bắt thú rừng. Bằng những CCSX thô sơ đó, bầy người nguyên thuỷ đã tách mình ra khỏi thế giới động vật. Cuộc CM TT - CN lần thứ hai, LLSX của xã hội đã có sự thay đổi về chất. Con người biết chế tạo ra CCSX bằng kim loại thủ công: cày cuốc, cối xay nước, cối xay gió - nhờ đó việc khai thác tự nhiên của con người có hiệu quả hơn. Cuộc CM TT - CN lần thứ ba làm đảo lộn LLSX xã hội. CCSX cơ khí máy móc ra đời, nó trải qua ba trình độ phát triển: cơ khí hoá, điện khí hoá và tự động hoá. Nhờ đó, đã tạo ra những bước tiến khổng lồ trên con đường chinh phục tự nhiên và phát triển xã hội. Cuộc CM TT - CN lần thứ năm chuyển sang sử dụng nguồn tiềm năng trí tuệ - trí lực, LLSX có một bước đột biến quan trọng chưa từng có trong lịch sử. Lần đầu tiên, trí năng được trao cho máy móc. Đây là thời kỳ tri thức khoa học trở thành LLSX trực tiếp. Như vậy, ngày nay, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp. 2. Khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp trong nền sản xuất hiện đại. Trước đây, nền sản xuất xã hội còn ở trình độ thấp, khoa học không thể trực tiếp đi vào sản xuất mà phải qua khâu thực nghiệm khoa học. Quá trình này diễn ra rất chậm chạp, khoa học chỉ có thể biểu thị như một LLSX tiềm năng. Hiện nay, khi sản xuất xã hội đạt đến trình độ phát triển cao, sản xuất đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi khoa học phải có phương thức sản xuất phù hợp. Khoa học không phục vụ sản xuất, nó đã tham gia một cách tích cực và chủ động và trở thành yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất. Mặt khác, hiện nay, xu hướng phát triển của khoa học là thống hợp khoa học, tổng hợp tri thức. Vì vậy khoa học đã phát triển đến một trình độ nhất định và đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. 2.1. Khoa học trở thành LLSX được biểu hiện dưới nhiều hình thức: 2.1.1. Tri thức khoa học được vật thể hoá thành các công cụ, máy móc tinh vi hiện đại như: máy vi tính, siêu tính, các loại công nghệ tự động hoá, rôbốt; các loại công nghệ mới: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. điều này đã mang lại hiệu quả và năng suất lao động cao, chất lượng tốt. Mặt khác tạo ra các loại vật liệu mới không có sẵn trong tự nhiên, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Thực tế sản xuất ở các nước công nghiệp phát triển, tri thức khoa học ngày càng chiếm một hàm lượng cao trong giá trị sản phẩm. Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bởi lao động trí tuệ. Cụ thể những năm đầu của thế kỷ 20 khi sự phát triển của khoa học công nghệ chưa gắn chặt với sản xuất thì lao động chân tay chiếm một tỷ lệ cao tới 9/10 giá trị sản phẩm. Đến những năm 90 khi ở nhiều nước đang diễn ra cuộc CM KHKT thì tỷ lệ đó giảm xuống còn 1/5 trong khi số lượng sản phẩm tăng 10 lần. Dự kiến tỷ lệ đó còn tiếp tục giảm mạnh. Ngày nay, đối tượng lao động là sản phẩm của lao động, của khoa học công nghệ trong đó hàm lượng vật liệu tự nhiên giảm. Vì vậy, nền kinh tế tiết kiệm được tài nguyên, tài nguyên thiên nhiên không còn là điều kiện tiên quyết mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí tuệ cao. Hiện nay lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động cơ bắp vì thế ngày càng mất giá. Một tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay là thông tin, đặc biệt là thông tin khoa học công nghệ và thông tin thị trường. Nhờ nắm bắt được thông tin mới có thể kịp thời thay đổi công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng giúp cho lưu thông hàng hoá nhanh chóng. Trong thời đại thông tin, chỉ cần chậm một bước trong việc nắm bắt thông tin cũng có thể phải trá giá đắt như thua lỗ mất bạn hàng, thiệt hại, thậm chí dẫn đến phá sản. 2.1.2. Một biểu hiện quan trọng của việc khoa học trở thành LLSX trực tiếp là ở chỗ, khoa học cùng với quá trình giáo dục và đào tạo đã tạo ra những người lao động mới: những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa có tri thức chuyên sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa, bao quát, nhạy bén, vững vàng trong nghề nghiệp. Hiện nay, ngoài chủ thể của quá trình sản xuất, con người là đối tượng khai thác của chính bản thân mình. Trí tuệ con người trở thành nguồn năng lượng vô tận của mọi sự biến đổi KH-CN và sản xuất. Mặt khác, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm không còn là công việc của riêng người lao động mà là của một bộ phận người: Những người trực tiếp quản lý, những kỹ sư, những nhà công nghệ. Người lao động chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực của mọi động lực phát triển xã hội.. 2.1.3. khoa học học còn trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý điều hành sản xuất. đó cũng là một biểu hiện của việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ngày nay ở bất kỳ cấp độ nào: trong một dây chuyền sản xuất, một xí nghiệp, một phân xưởng, hay trong một liên hợp các xí nghiệp.. đều cần đến tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học quản lý. Lao động quản lý chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế tri thức. Sự xích lại gần nhau giữa người lao động và nhà quản lý làm cho giá trị thặng dư được tạo ra do lao động sống sản xuất trực tiếp và lao động vật hoá, lao động quản lý. Như vậy LL-SX có tính xã hội hoá, quốc tế hoá cao. Việc khoa học đang trở thành LL-SX trực tiếp là một đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hiện đại, đồng thời cũng chứng tỏ rằng khoa học công nghệ ngày càng gắn bó và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. 2.2. Tại sao KH-CN lại trở thành LLSX trực tiếp? Trong những giai đoạn lịch sử trước đây, do sự phát triển còn lệch pha giữa KH-CN với sản xuất mà phần nào sức mạnh của KH-CN đối với sản xuất nói riêng, đối với sản xuất xã hội nói chung còn bị hạn chế. Ngày nay, khi sự phát triển đồng điệu của KH-CN đã tạo nên cuộc cách mạng KH-CN hiện đại làm biến đổi tận gốc LLSX xã hội thì ảnh hưởng của những cuộc cách mạng này nên sự phát triển của thế giới là vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt và cũng có thể nói là vô hạn. Vậy, tại sao cuộc cách mạng KH-CN ngày nay lại có được sức mạnh kì diệu đó? Một là, trong cuộc cách mạng KH-CN hiện đại, các yếu tố KH-CN và sản xuất đã thâm nhập, gắn bó bền chặt với nhau với vai trò dẫn đường của khoa học. Nó không chỉ được hiểu đơn thuần là kĩ thuật ( các phương tiện vật chất kĩ thuật) mà gồm 4 yếu tố cơ bản: phần cứng của công nghệ( kĩ thuật) và 3 yếu tố của phần mềm là con người, thông tin và tổ chức quản lý. Với việc KH-CN trở thành LLSX trực tiếp và việc khai thác và sử dụng triệt để 3 yếu tố của phần mềm đã làm cho cuộc cách mạng của KH-CN thực sự trở thành cuộc cách mạng về trí tuệ với vai trò quyết định của tri thức( kinh tế tri thức, vốn tri thức, năng lượng tri thức hay trí năng, vật liệu tri thức...). sự khai thác nguồn trí năng là đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng KH-CN hiện đại. đó chính là sự biến đổi tận gốc LLSX xã hội - làm tiền đề, cơ sở cho mọi sự biến đổi khác trong xã hội. Hai là,với cuộc cách mạng khoa học_ công nghệ hiện đại , các yếu tố riêng biệt của quá trình sản xuất được kết hợp chặt chẽ hưu cơ với nhau thành một hệ thống liên hoàn : máy công tác - máy động lực - các phương tiện vận chuyển ... vừa tiết kiệm được thời gian, công sức, vừa nâng cao hiệu quả và năng suất lao động. Ba là, cuộc cách mạng KH-CN đã cho ra đời những hệ thống công nghệ mới với bốn trụ cột chính:công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Các hệ thống công nghệ đã liên kết đồng bộ với nhau vơi vai trò dãn đầu là công nghệ thông tin đẻ cùng tác động mạnh mẽ , có hiẹu quả cao lên nền sản xuất xã hội. Bốn là, cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đã làm thay đổi về chất quá trình sản xuất. Con người ngày càng có vai trò quan trọng và quyết định đối với sản xuất. Con người dược tách dần ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp. Trí năng- năng lực trí tuệ của con người đã trở thành nguồn năng lượng mới của công nghệ và sản xuất và dã hình thành nên nhưng con ngươi lao động kiểu mới, có tri thức, có kĩ năng,kĩ xảo và năng lực toàn diện. Năm là,cuộc cách mạng KH-CN dã tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc của năng suất lao động nhờ sự thay đổi cua cơ cấu LLSX, của phân công lao đông xã hội trong phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới. Những đặc trưng trên cho thấy KH-CN đã tác động đén sự thay đỗi có tính chất cách mạng trong LLSX và tác đọng mạnh mẽ ,sâu sắc toàn diện lên mọi mặt cũa đòi sống xã hội 3. KHCN hiện đại đã làm cho LLSX thay đổi đồng bộ giữa TLSX hiện đại và con người hiện đại ,nâng cao trình độ xã hội hoá nền sản xuất. - Ứng dụng công nghệ phần mềm vào các quy trình sản xuất ,vào viẹc đánh giá ,thiết kế ,xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng . Nghiên cứu ,ứng dụng một số lĩnh vực chọn lọc ;công nghệ na nô, linh kiện điện tử, ứng dụng tin học. - Phổ cập kiến thức và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo ,trong hệ thông cac trương hiện nay đều có trang bị máy vi tinh dáp ứng nhu cầu công nghệ thông tin . - Về việc ứng dụng công nghệ sinh học : + ứng dụng công nghệ en-zim,protein vào công nghiệp thực phẩm . + ứng dụng công nghệ vi sinh vào chọn giống và tạo giống mứi trong nông ,lâm ,thuỷ sản. Phát triển các xí nghiệp nhân giống cây, sản xuất hạt giống chất lượng cao, tập trung vào nhóm cây lương thực , rau , hoa quả , lâm nghiệp ,vật nuôi , thuỷ sản. + ứng dụng công nghệ vạt liệu tiên tiến vào việc xử lý môi trường ,sử dụng vật liệu nhiệt dẻo cho kĩ thuật điện và điện tử . + ứng dụng công nghệ cơ khí chế tạo máy vào việc tạo phôi ,công nghệ gia công . công nghệ sơ chế được ứng dụng vào trong sơ chế ,phân loại ,lam sạch sản phẩm. Công nghệ chế biến được ứng dụng trong những ngành sản xuất ra những sản phẩm có lợi thế và triển vọng xuất khẩu như: gạo, thuỷ sản ,cà phê ..vv. công nghệ bảo quản được ứng dụng trong công nghệ làm khô lúa và hoa màu ,đặc biệt là công nghiệp bảo quản lạnh rau quả và sản phẩm chăn nuôi. kết quả nổi Kết luận Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Đây là quy luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội, vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Đến lượt mình Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất. Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển, sự biến đổi phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi phát triển của Lực lượng sản xuất. Trước hết là công cụ lao động, công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với Quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi các phương thức sản xuất, sự thay đổi đó bắt đầu từ sự thay đổi của Lực lượng sản xuất. Xã hội loài người trải qua 5 phương thức sản xuất (Cộng sản nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Xã hội phong kiến, Tư bản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa). Lực lượng sản xuất là nội dung, là quá trình sản xuất; Quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất, hình thức bao giờ cũng ổn định hơn. Song sự ổn định đó cũng chỉ là tạm thời và sớm hay muộn cũng phải thay đổi cho phù hợp. Quan hệ sản xuất ra đời từ Lực lượng sản xuất, nhưng khi ra đời nó có vai trò tác động trở lại tích cực hoặc tiêu cực. Nếu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh, ngược lại nó kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Khi ra đời Quan hệ sản xuất quy định mục đích, khuynh hướng phát triển của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Việc tìm ra những điều chỉnh thích ứng của chủ nghĩa tư bản về quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất thúc đẩy, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Chủ nghĩa tư bản điều chỉnh tất cả các yếu tố trong Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, điều chỉnh các lĩnh vực, các khía cạch khác nhau của Quan hệ sản xuất đã tác động, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, tổng hợp lại tạo ra sự thích ứng, phù hợp. Sự điều chỉnh trong Quan hệ sở hữu dưới dạng cổ phiếu dần dần thay thế cho chiếm hữu cá thể và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Những người công nhân làn thuê có thể mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp nên trở thành đồng sở hữu, được hưởng một phần lợi nhuận làm cho họ quan tâm đến quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0482.doc
Tài liệu liên quan