Lời nói đầu
Nền kinh tế thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần nhưng sự vận động phát triển của nó phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh để giữ vững định hướng là một quá trình khó khăn, phức tạp, do nền kinh tế nhiều thành phần tự nó tiềm ẩn khả năng phát triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa. Khả năng này càng trở nên hiện thực đối với nước ta vì sản xuất nhỏ chiếm ưu thế trong khi lực lượng thù địch với Chủ nghĩa xã hội còn nhiều thế mạnh để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển Lực lượng sản xuất & vận dụng vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Lý luận về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam là cách tiếp cận dodọc đáo của Hồ Chí Minh về mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, về con đường đạt tới mục tiêu ấy trong gia đoạn thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung và sự hình thành nền kinh tế thị trường ddịnh hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng đều tuân theo quy luật sự phù hợp quan hệ sản xuất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về sự phiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta, em đã chọn nghiên cứu đề tài “ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và vanạ dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam “
Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thày giáo đã giúp em hiểu sâu sắc đề tài và hoàn thành bài tiểu luận này.
I - Đặt vấn đề :
Sau chiến thắng mùa xuân 1975 cả nước ta bước vào thoài kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tổ chức lãnh đạo toàn dân tộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu thu được sau khi thống nhất đó là tién hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, đưa nông dân vào con đường làm ăn hợp tác, xây dựng quốc phòng vững mạnh, đánh bại cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, giữ vững toàn vẹn chủ quyền dân tộc, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Song, thiếu sót lớn nhất đó là tư tưởng chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế, Nhà nước ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với lực lượng sản xuất dẫn đến vi phạm quy luật sản xuất. Hậu quả là sản xuất bị trì trệ, người lao động không chú ý đến nhà máy và hợp tác của họ. Đó chính là do quá đề cao lợi ích xã hội và tập thể còn lợi ích cá nhân người lao động bị coi nhẹ. Về mặt xã hội, do chủ quan quy ý chí nên Nhà nước còn duy trì cơ chế quan lưu bao cấp quá lâu. Đất nước đã hoà bình, nhưng phương thức hoạt động của Nhà nước chưa vận động theo quy luật của hoà bình xây dựng. Một lý do không kém phần quan trọng là đội nhũ cán bộ phân flớn trưởng thành trong chiến đấu baỏ vệ tổ quốc, nay chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, điều hành xây dựng đất nươc svà trực tiếp quản lý kinh tế – xã hội không đáp ứng được nhiệm vụ mới. Do một loạt những nguyên nhân trên làm cho đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài băts đầu năm 1980 và mãi tận sau này. Những sai lầm nói trên là saio lầm nghiêm trọng về các chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong một thời gian dài do quá nhấn mạnh mặt quan hệ sản xuất, đặc biệt là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không phát từ lực lượng sản xuất nên đã nảy sinh tư tưởng nóng vội chủ quan muốn thông qua cải tạo để nhánh chóng xoá bỏ các hình thức sở hữu tư nhận để kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế chỉ còn một loại hình sở hữu công hữu. Từ thực tiễn những năm qua, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Ngay từ Đạihội IV, Đảng đã chỉ rõ : Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn thâu sốt đặc điểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn gắn
bó nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Đến Đại hội VI, Đảng ta lại nhấn mạnh việc chủ trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung cũng như sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng đều tuân theo quy luạt sự phù hợp này. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được cọi là một chính sách có tính chiến lược, được thực hiện nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Chính sách này ra đời xuất phát từ thực tiễn của nước ta, đồng thời cũng là sản phẩm của sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.
II/ Giải quyết vấn đề :
II1/ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển lực lượng sản xuất :
II1a / Các định nghĩa :
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Để tiến hành sản xuất, con người sử dụng các yếu tốt vật chất, ký thuật nhất định, tổng thể nhân tốt đó là lực lượng sản xuất. Nó bao gồm toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ta, trước hết là những công cụ lao động và những người lao động. Trong tư liệu sản xuất, lại phân chia thành tư liệu lao động và đối tượng lao động có thể hiểu là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Còn tư liệu lao động là một hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Trong đó công cụ lao động là yếu tốt quan trọng để trình độ kỹ thuật của sản xuất. Công cụ lao động càng tinh xảo, hiện đại thì nền sản xuất càng tiến bộ. Tư liệu lao động gồm công cụ lao dodọng và những vật liệu phụ trợ khác. Trong lực lượng sản xuất, người lao động giữ vai trò quyết định do họ chính là người sáng chế công cụ lao động. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của công cụ lao động và lao động cung cụ mang tính chất cá nhân thì lao động cũng mang tính chất cá nhân. Chỉ cần một người sử dụng công cụ lao động đó có thể tạo ra được của cải vật chất. Khi công cụ lao động mang tính chất xã hội thì lao động cũng mang tính xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên trình độ của công cụ lao động, kỹ năng người lao động…… Trong đó trình độ phân công lao
động biểu hiện tập trung nhất định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Yếu tố quan trọng hơn cả là người lao động. Người lao động chính là người người sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nhưng người lao động đó phải là người có kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định trình độ chuyên môn mới có thể phát huy tối đa tác dụng của tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt cơ bản :
+ Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất.
+ Quan hệ phân phối sản xuất.
Trong đó quan hệ sở hữu có vai trò quyết định. Có hai hình thức sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất : Sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân là hình thức quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về cá nhân riêng biệt trong xã hội. Hình thức thức này tồn tại trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa là chủ yếu. Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc mọi thành viên trong xã hội. Hình thức này thể hiện ở hai xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ và cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Nếu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, thì mối quan hệ giữa người với người, trong quá trình sản xuất là bình đẳng, hiệp tác. Nếu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Mặt khác, quan hệ tổ chức và quản lý xã hội, quan hệ phân phối sản phẩm có tác dụng tích cực đối với quan hệ sở hữu khi có tích ứng và ngược lại. Cũng như lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực ôừi sống vật chất của xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Ba mặt cơ bản trên của quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận dodọng không ngừng của lực lươngj sản xuất.
II1b / Nội dung quy luật :
Lực lượng sản xuất và uan hệ sản xuất là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng trong mỗi phuương thức sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của nội dung của chính quan hệ sản xuất là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của công cụ lao dodọng, quá trình phân công lao động. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất bao giờ cũng kéo theo sự biến dodỏi của quan hệ sản xuất cho phù hợp, Sự phù hợp của quan hệ sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “ Hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tốt cấu thành quan hệ sản xuất “ tạo địa bàn đầy đủ “ cho lực lượng sản xuất phát triển. Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp lao động và tư liệu sản xuất. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản xuất sẽ có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Trạng thái mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ xuất hiện, thay thế cho trạng thái phù hợp, khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hoá ở mức cao hơn. Lúc đó, tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó quan hệ sản xuất “ Trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất “ . Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời một phương thức sản xuất mới.
Chủ nghĩa duy vật chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất nên nó tác động trở lại đối với nội dung của nó là lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ từ đó hình thành một hệ thống những yếu tốt hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tiễn đã cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản
xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Ngươic lại quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “ tiên tiến “ hơn một các giả tạo nghĩa là không phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của luực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đã tác động trực tiếp đến tinh thần, thái độ của ngườilao động mà người lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội nên hoặc làm cho người lao động tích cực cải tiến công cụ, áp dụng những thành tựu mới vào sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển hay ngươic lại. Nếu lợi ích của họ không được đảm bảo thì hoạt động của họ sẽ thụ động, cầm chừng thậm chí tiêu cực. Vì vậy quan hệ sản xuất có vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng dản xuất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất biểu hiện ở chỗ lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ nào thì đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải phát triển đến trình độ tương ứng. Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hienẹ có không phải là tự thân mà qua một phương thức chính trị, pháp quyền như : Cách mạng, cải cách…. Tiêu chuẩn để đánh giá sự phù hợp là nhịp điệu và tốc độ tăng năng xuất lao động không ngừng. Đời sống vật chất và tinh thần của người lao động ngày càng được nâng cao.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đo lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Vì vậy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta luôn phải theo sát quy luật sự phù hợp này. Trong việc xác lập, hoàn thiện, thay đổi hệ thống quan hệ sản xuất cần phải căn cứ vào thực trạng lực lượng sản xuất hiện có về mặt tổ chức, trình độ của chúng. Xuất phát từ điều kiện nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đường lối kinh tế Đảng ta đã xác định : Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xâydựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chăm lo phát triển phương thức sản xuất, đi đồng bộ cả 2 mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong cách đi ưu tiên cho lực lượng sản xuất và tuỳ vào bước bbi, trình độ của lực lượng sản xuất mà chúng ta chủ động xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp, phản ánh đúng tính quy luật về mối quan hệ giữa chúng : quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và tình dodọ của lực
lượng sản xuất. Đây chính là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nước ta hiện nay.
II2 / Vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, nền kinh tế lạc hậu, công cụ sản xuất là thủ công nửa cơ khí. Đồng thời bản thân đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản do đó ta phải coi trọng hình thức kinh tế trung gian quá độ từ thấp lên cao. Đặc trung của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về các tư kiện sản xuất chủ yếu. Muốn thiết lập chế độ cuông hữu phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phải xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Vì vậy qua thời gian tìm tòi, thử nghiệm, có thành công và không thành công, thu được những thành tực những cũng có lúc phải trả giá đắt, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, Đại hội IX của Đảng đã xác định : “ Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhana dân, thực hiện công bằng xã hội “. Nói ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất không có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất một cách đơn dodọc, lại càng không có nghĩa chỉ phát triển lực lượng sản xuất. Thực ra ở đâu có quan hệ sản xuất thì ở đó có lực lượng sản xuất và ngược lại, lực lượng sản xuất không lúc nào tách rời quan hệ sản xuất. Một phương thức sản xuất bao giờ cũng có 2 mặt đó dính liền mật với nhau. Vì vậy, đường lối, chủ trương Đảng ta là vừa chăm lo xây dựng quan hệ sản xuất vừa phát triển lực lượng sản xuất. Mục đích trực tiếp của lựclượng sản xuất là tạo cơ sở vật chất cho quan hệ sản xuất tương ứng, mục đích trực tiếo của xây dựng quan hệ sản xuất là để phát triển lực lượng sản xuất mạnh hơn, cao hơn nữa. Việc chủ động xây dựng quan hệ sản xuất mang tính khách quan fo lực lượng sản xuất vẫn là quá trình và đó là một biểu hiện tính tự giác của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tính quá đó được thể hiện trước hết ở quan hệ sản xuất. Tính quá độ của quan hệ sản xuất lại thể hiện trước hết ở chỗ vừa có những hình thức kinh tế của xã hội chủ nghĩa vừa có những hình thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề phức tạp ở chỗ : Trong điều kiện cụ thể nước ta, trước hết về trình độ lực lượng sản xuất, thì đường lối và chính sách của chúng ta là cho phát triển cả hai mặt đó, thực hiện nhất quán nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài những nhìn toàn cục phải luôn luôn giữ và phát triển cho được dòng chủ luưu là xã hội chủ nghĩa
, là chế độ công hữu để cuối cùng khi kết thúc thời kỳ quá độ thì chế độ công hữu chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Đó chính là đực trung quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Song song với xây dựng quan hệ sản xuất ta phải phát triển lực lượng sản xuất. Như Đại hội lần thứ VI, Đảng đã nhận định : “ Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tốt đi quá xa với trình độ của lực lượng sản xuất” ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Đảng cộng sản Việt Nam, nhà xuất bản sự thật – Hà Nội – Trang 57 ). Do đó không thể chủ quan, nôn nóng, xoá bỏ nhanh các hình thức sở hữu khác, mà phải thiết lập tưng fbước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao, phù hợp với trạng thái của lực lượng sản xuất. Đây là sự vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và luật này là quy luật triết học cũng như các khoa học kinh tế, đồng thời là kim chỉ nam cho các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.
Đại hội VI của Đảng đánh đấu bước ngặt căn bản trong tư duy kinh tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước Đại hội đưa ra quan điểm có ý nghĩa tơ lớn với sự phát triển kinh tế nước ta : Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được khẳng định coi là tính chiến lược lâu dài, là một quy luật phát triển trong giai đoạn lịch sử đất nước. Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu khác nhau, hình thành nhiều tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Nền kinh tế nước ta hiện có ba loại hình sở hữu : Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhận. Từ các hình thức sở hữu đó hình thành các thành phần kinh tế khác nhau. Nói thành phân fkinh tế là nói một phương thức sản xuất cụ thể, nghĩa hẹp theo đó có lực lượng sản xuất, có quan hệ sản xuất trong đó có người chủ sở hữu rất cụ thể. Nói xây dựng quan hệ sản xuất thì trong thực tiễn đó là xây dựng các thành phần kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là vận hành để nền kinh tế nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu khách quan. Do trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, do lực lượng sản xuất chưa phát triển cao nên còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu. Tính đa dạng về sở hữu chính là do lực lượng sản xuất chưa phát triển đủ
mức độ để có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu và thiết lập hoàn toàn chế độ công hữu. Chính vì sự tồn tại rất nhiều thành phần kinh tế là một hienẹ tượng khách quan cho nên chúng đều có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất cũ chỉ mất đi khi nó không còn tác dụng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất mới ngày càng phát triển dẫn dắt, chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới. Ngoài ra tất yếu khách quan khác dẫn đến sự ra đời kinh tế nhiều thành phần do trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều kiện cơ sở vật chất còn yếu kém, lạc hậu, trình độ lao động khác nhau, lực lượng sản xuất không đồng đều tất yếu dẫn đến sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động theo quy mô cách thức trình độ khác nhau, dẫn tới hình thành kinh tế nhiều thành nhận. Mặt khách sự phát triển sản xuất hàng hoá dẫn tới ngày càng nhiều hình thức sở hữu tư liệu khác nhau khuyến khích sự ra đời của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Vì vậy Đại hội lần thứ VII Đảng đã khẳng định quan điểm : “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quan rlý của Nhà nước “. Cơ chế thị trường ra đời, tồn tại, phát triển gắn liền với trình độ xã hội hoá quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xã hội hoá quan hệ sở hữu gồm 2 khía cạnh “ Tồn tại nhiều người chủ sở hữu khác nhau và tư liệu sản xuất được sử dụng có tính xã hội để tạo ra hàng hoá của người khác cho xã hội hội dùng. Xã hội hoá quan hệ sở hữu này chỉ diễn ra khi quan hệ sở hữu được đa dạng và do đó nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Bởi lẽ, gắn với mỗi thành phần kinh tế có hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tương ứng. ở nước ta sau nhiều năm do nhận thức không đúng về tính xã hội của sở hữu đã nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và tập thể. Hoạt động này xét về thực chất là sự thủ tiêu cơ sở kinh tế của kinh tế hang fhoá. Từ Đại hội lần IV của Đnảg đến nay, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành bước đầu làm cho cơ chế thị trường, từ điều chỉnh xuất hiện. Đảng ta có chủ trương các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân. Trong văn kiện Đội hội IX của Đảng đã nêu rõ các thành phần kinh tế : 1 - Kinh tế nhà nước; 2 - Kinh tế tập thể; 3 - Kinh tế cá thể, thiểu chủ; 4 –
Kinh tế tư bản tư nhân; 5 - kinh tế tư bản nhà nước; 6 - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Việc xác định các loại hình sở hữu và phân định các loại hình kinh tế là rất cần thiết để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển nền kinh tế nói chung, cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng, nhằm không phải để phân biệt đối xử mà là để có chính sách đúng âns, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc khẳng định sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế, chính sách hiện khoán sản phẩm đến nhóm người lao động chính là sự áp dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển quá độ lên CNXH xét về mặt xây dựng nền tảng vật chất, phát triển lục lượng sản xuất không còn có con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là một kết luận đã đựơc nêu ra từ Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1969. Nước ta xuất phát từ một nước sản xuất nhỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa tiến lên CNXH thì cái thieéu thốn nhất là chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, mà chừng nào chưa có cái đó thì chưa thể nói lên sự thay đổi căn bản về năng xuất lao động, đời sống nhân dân, về quan hệ sản xuất ...... Vì vậy từ lâu Dảng và nhân dân ta đã xác định Công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Có những nước đã từng đựơc xem là thực hiện xong Công nghiệp hoá từ nhiều thập kỷ trước đây, nay thấy cần phải thực hiện thêm một quá trình Công nghiệp hoá mới gắn liền với hiện đại hoá. Xét riêng về mục tiêu và nội dung Công nghiệp hoá có thể có điểm dừng song về mục tiêu của Hiện đại hoá thì hầu như không có điểm dừng, quá rình nầy sẽ diễn ra liên tục gắn với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ. Vì vậy khi bàn đến khái niệm Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Báo cáo của Bộ chính trị Đại hội lần thứ VII Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII ( năm 1994 ) đã đưa ra định nghĩa ( Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng vơí công nghệ, phương hướng và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến độ khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động xã hội cao. Như vậy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại mhoá của nước ta cũng nhằm mục đích cuối cùng là để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Các chủ trương đúng đắn của Đảng tạo sự phù hợp quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất tạo cho sản xuất phát triển, lao động hăng hái tham gia sản xuất, khơi dậy tiềm năng, phát huy sáng tạo, chủ động của chủ thể lao động sản xuất kinh doanh chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng là nền kinh thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nói chung có thể tư duy, quan điểm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và tính chất và trình độ cuả lực lượng sản xuất đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
III – Kết luận - giải pháp :
Như vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam ta hiện nay, trong đó xâydựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu trọng tâm. Để đạt được hiệu quả cao, đúng đắn nhất thiết phải nắm vững qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam vì vậy, ta phải giải quyết song song hai nhiệm vụ cơ bản: xây dựng nền kinhtế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và tiến hành Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Quy luật phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản chi phối toàn bộ đời sống xã hội trong nền kinh tế thị trường ngày nay nói chung và nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất có tác dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế của Nhà nước, tuy nhiên so với các nước trên thế giới lực lượng sản xuất ở nước ta vẫn còn vẫn còn trong tình trạng thấp kém, chính vì thế, các chủ trương chính sách cuả Đảng càng phải vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất. sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, lực lượng sản xuất còn thấp kém, chưa đủ để thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu các thành phần kinh tế là đặc trưng cho phương thức sản xuất.
Các phương thức sản xuất này chỉ bị thay thế bằng phương thức sản xuất mới hơn khi nó không còn tác dụng đối với lực lượng sản xuất vì vậy, các thành phần kinh tế các tác dụng tích cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần nhưng sự vận động phát triển của nó phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế vận động theo hướng kinh tế nhà nước, thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình sử dụng các thành phần kinh tế cần quán triệt các quan điểm lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trongvà bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu cho việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức, kinh doanh chủ động đối với việc nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác làm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng nền kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ người lao động trong nền kinh tế sản xuất xã hội thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích Quốc gia, độc lập dân tộc trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác – Lê Nin - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
2. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác – Lê Nin – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
3. Tạp trí kinh tế và phát triển số 61 tháng 7 năm 2002
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
6. Tìm hiểu đường lối kinh tế trong Nghị quyết đại hội IX của Đảng – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0401.doc