Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất & trình độ phát triển Lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Mục lục Lời mở đầu 2 Phần I: Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất trong triết học Mác-LêNin 3 Phần II: Thực trạng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam 7 1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật trước đại hội Đảng IV 7 2. Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN 9 Phần III: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tín

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất & trình độ phát triển Lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam 12 1. Nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay 12 2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất. 12 3. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN 13 Phần IV: Sự vận dụng quy luật của Đảng ta trong đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta 15 Kết luận 18 Tài liệu tham khảo................................................................................ 19 Lời mở đầu Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra cho chúng ta nền sản xuất ngày càng hiện đại và đạt hiệu quả cao. Việc nghiên cứu quy luật “ quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH. Việc xây dựng CNXH thắng lợi ở nước ta phụ thuộc vào việc vận dụng tốt quy luật này. Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự kết hợp hài hoà với quan hệ sản xuất. Từ sản xuất sơ khai là con người đã biết tận dụng những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên là cành cây, tảng đá để làm những công cụ lao động có ích thì ngày nay, trong sản xuất con người đã biết kết hợp giữa sản xuất tự động hoá với việc phát triển và ứng dụng tin học, điều khiển học và vô tuyến điện tử trong nhiều ngành kinh tế. Cùng với sự phát triển quy luật đó thì sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Khoảng cách về trình độ hiểu biết của con người ngày càng nới xa. Thực tế khoảng cách đó là không ngừng được gia tăng. Vậy có vấn đề đặt ra là: Vì sao các quốc gia kém phát triển không áp dụng phương thức sản xuất tiên tiến và có thể áp dụng ngay vào sản xuất được hay không. Để vận dụng được điều đó thì chúng ta phải nắm bắt được cái ràng buộc để từ đó áp dụng vào thực tiễn đem lại kết quả tốt nhất. Sở dĩ các quốc gia kém phát triển không làm được điều đó bởi vì họ không đáp ứng được quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Bài tiểu luận này đã giúp chúng ta có được trình độ hiểu biết về quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nó sẽ cung cấp cho chúng ta hiểu biết được quy luật để từ đó áp dụng vào thực tiễn của đất nước ta hiện nay và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Thời gian môn học tuy không nhiều nhưng được sự hướng dẫn của thầy giáo TS Lê Ngọc Thông đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này. Em xin chân thành cảm ơn. Phần I: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong triết học Mác-LêNin Để có thể hiểu rõ về “ Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” thì trước hết chúng ta cần tìm hiểu rõ các khái niệm về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất cũ để tạo ra những lực lượng sản xuất mới. Lực lượng sản xuất vừa mang tính xã hội vừa do các thế hệ nối tiếp nhau tạo ra, vừa do các cá nhân trong mỗi giai đoạn xã hội bảo tồn và không ngừng phát triển lên. Trong mỗi giai đoạn lịch sử xã hội trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở công cụ lao động. Trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động, ở năng xuất lao động. Năng xuất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội. Nó được thể hiện ở ba mặt quan hệ cơ bản sau: - Quan hệ giữa người với người trong việc ở hữu. - Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức và phân công lao động xã hội. - Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm xã hội. Ba mặt của quan hệ sản xuất là một thể thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các mặt quan hệ khác. Trong hệ thống sản xuất xã hội người sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình phân công lao động, phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình còn người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên. Lịch sử xã hội loài người đã có hai hình thức sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở đó, họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Mục đích của nền sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Sở hữu xã hội thể hiện điển hình ở hai hình thức cơ bản: sở hữu thị tộc, bộ lạc. Trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân trong phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Theo quan niệm truyền thống của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ thì sở hữu thường chỉ giới hạn ở sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể. Ngày nay dưới ánh sáng của thực tiễn và tư duy mới ta thấy trong chủ nghĩa xã hội cần phải tồn tại đa dạng hoá tất cả các loại hình sở hữu, bên cạnh những hình thức truyền thống còn có nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Từ khái niệm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ta thấy chúng là hai mặt của phương thức sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong giai đoạn lịch sử đó trình độ lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động càng cao. Trình độ phân công lao động và chuyên môn hoá là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ và phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế cho phương thức sản xuất cũ. C.Mac đã viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có.... Trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và sự hoạt động cải tạo xã hội của con người. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Phần II: Thực trạng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đất nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên nước ta hiện nay vẫn còn nghèo, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao, năng xuất lao động và sức cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu so với các nước phát triển. Thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, Đại hội VIII đã xác định công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm trong những năm trước mắt. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 do Đại hội IX thông qua đã tiếp tục khẳng định quan điểm này. Hội nghị trung ương: 1. Nhìn lại những sai lầm về quy luật trước đại hội Đảng VI. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì lực lượng sản xuất phát triển thuận lợi kéo theo quan hệ sản xuất cũng phát triển. Con người đóng vai trò tác động vào quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nhưng con người không thể tự do định bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn vì quan hệ sản xuất luôn được quy định bởi lực lượng sản xuất. Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ thấp kém chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là chúng ta đã có “Quan hệ sản xuất XHCN” và còn nói rằng: mỗi bước cải tiến quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất XHCN có khả năng “vượt trước”, “mở đường” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế trong nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Sai lầm chủ yếu không phải là ở chỗ chúng ta duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói mà chủ yếu đó là có nhứng mặt của quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ sản xuất thấp kém của lực lượng sản xuất. Bởi vậy, nhận định trong đại hội đảng lần thứ VI là có căn cứ đá làm phóng phú thêm lý luận biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đó là “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ là trong trường hợp quan hệ sản xuất bị lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Để chứng minh cho “quan hệ sản xuất đi trước” hoặc nói theo cách thời bấy giờ là để giải quyết một mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến với lực lượng sản xuất lạc hậu chúng ta đã ra sức đẩy nhanh xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài công – nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không cần tính đến khả năng của cấp đó, khả năng trình độ quản lý, trình độ tổ chức sử dụng của nông dân. Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo XHCN phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không phải coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay. Song chúng ta đã bất chấp thực tiễn khách quan trên mà chỉ vin vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản bằng những đường lối chính sách và những hoạt động tích cực có thể tìm được những cách giải quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội, có đủ khả năng chủ động sáng tạo ra quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển nhưng thực tế chúng ta đã không thể rút ngắn được “những cơn đau của thời kỳ sinh đẻ”. Nỗi đau cứ kéo dài. Dẫu sao cũng “không thể nhảy qua những giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó”. Quan điểm về quan hệ sản xuất đi trước là không đúng đắn và nói đến quan hệ sản xuất XHCN là nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó phiến diện.. Đành rằng yếu tố này là cơ bản nhưng không thể xem nhẹ quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Phải thấy rằng quan hệ sở hữu được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất trao đổi, phân phối và tiêu dùng của người lao động. Ngay cả việc xoá bỏ chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ là thời gian ngắn là xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có. Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi nền kinh tế XHCN của chúng ta còn chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và đã làm mất khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy chúng ta xoá sạch tiểu thương khi quan hệ thống nhất thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của chúng ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội” gây ra nhiều khó khăn, ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho nhân dân. 2. Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước ta đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân sâu xa làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp khó khăn là do “không nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Từ đó Đảng ta đã rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học kỹ thuật phải chú trọng việc tổ chức lại nền xã hội để xác định những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ đi lên xây dựng XHCN, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đại hội Đảng VI đã nhấn mạnh là phải quyết tâm giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối. Không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lý và chế độ phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở lực lượng sản xuất phát triển. Đối với chế độ quản lý, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có những quy định gì? Trước tiên, nó quy định tính chất mục tiêu và phương pháp của quản lý đó là quyền làm chủ của nhân dân lao động đối việc tổ chức quản lý nền kinh tế làm sao cho mọi người lao động trong xã hội cùng làm chủ tư liệu sản xuất có quyền bình đẳng hợp tác trong lao động, sản xuất và trong lợi ích kinh tế. Thứ hai là, cơ chế quản lý kinh tế dựa trên chế độ công hữu là phải có tính kế hoạch, tính tập trung, tính thống nhất. Văn kiện đại hội đảng VI cũng khẳng định điều này: tính kế hoach là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội VI đã chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”. Không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc chọn lựa các hình thức kinh tế cần phải tạo ra nền sản xuất nhỏ, có thể đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ sở sản xuất nhỏ xây dựng những hình thức của quan hệ sản xuất phù hợp từng bước và đồng bộ. Rà soát lại toàn bộ quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp” phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy lớn. Trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo XHCN phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đẩy nhanh lực lượng sản xuất phát triển”. Nhìn chung việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải đảm bảo sự thích ứng đồng bộ giữa ba yếu tố của quan hệ sản xuất cũng như mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Phần III: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. 1. Nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay. Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế còn đang mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa so với các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê ở Việt Nam lao động hoạt động chiếm gần 45% dân số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm gần 75%, công nghiệp chiếm 11% còn lại là trong các hoạt động dịch vụ khác. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo về nguồn nhân lực lao động: “Bước vào thập kỷ 90 nước ta có 66 triệu dân với 33 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2000 có khoảng 80 triệu dân với 40 triệu người trong độ tuổi lao động, tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng ngại, học sinh bỏ học hàng năm có xu thế gia tăng chất lượng giáo dục không đảm bảo. Như giáo dục đại học một số nước Đông Nam á đạt tỷ lệ 60 – 80 sinh viên/ 10 000 dân thì nước ta đạt tỷ lệ có 22 sinh viên/ 10 000 dân. 2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất. Trong tập “Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi soi sáng con đường chúng ta đi” (trang 185-186) đồng chí Lê Khả Phiêu có viết: “Muốn phát triển lực lượng sản xuất phải đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhất là hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn với nội dung mới, phù hợp với phương hướng phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại. Song, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển gắn liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì thế, nhà nước phải nắm những lĩnh vực kinh tế then chốt, kinh tế nhà nước phải đạt hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời phải nghiên cứu phát triển những hình thức tổ chức kinh tế phong phú, đa dạng từ thấp đến cao...” Mặt khác nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tiền vốn ít, khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác quy định thì chưa thể đổi mới ngay lực lượng sản xuất cũ bằng lực lượng sản xuất tiên tiến, do đó những yếu tố của lực lượng truyền thống vẫn cần phải được duy trì và khai thác. Trong hoàn cảnh hiện nay lực lượng sản xuất bổ xung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của lực lượng sản xuất. Cần phải sàng lọc trong lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị bổ xung cho việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với các yếu tố hiện đại, bảo đảm tính phủ định có thừa nhận, tiếp thu những cái có chọn lọc cho phép tạo nên một sự phát triển ổn định lâu dài. Bình thường lực lượng sản xuất cần tránh sự “gãy gục” trong tiến trình phát triển của nó. 3. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đồng chí Tổng bí thư nước ta đã khẳng định rằng: Nếu công nghiệp hoá- hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế tập thể chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nền kinh tế nước ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tập thể được đứng thứ 2. Kinh tế tập thể là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hoá cao hơn kinh tế cá thể, hộ gia đình, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế tập thể là con đường giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh múm và sản xuất hàng hoá lớn trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nhìn chung kinh tế tập thể hiện nay vẫn còn yếu kém thể hiện ở những điểm sau: - Năng lực nội tại còn hạn chế. - Số lượng tập thể làm ăn có hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho người lao động còn chưa nhiều. - Kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội. Chưa đủ sức đảm nhiệm vai trò cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đại hội IX đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng yếu kém trên. Một phần do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nước ta còn thấp, nhưng quan trọng hơn là do nhứng thiếu sót, khuyết điểm chủ quan của các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ trung ương đến địa phương. Như nhận thức về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể chưa thống nhất. Rồi việc giải quyết tuyên truyền chính sách của Đảng và nhà nước phát triển kinh tế chưa được quan tâm đúng mức.... Thực tế cho thấy 5 năm qua kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành, các lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn đã đáp ứng một phần nhu cầu của những người lao động, hộ sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Cùng với nghị quyết về “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 – 2010”, nghị quyết tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do hội nghị trung ương 5 khoá IX thông qua, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta đến sự phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn đưa Việt Nam tiến nhanh theo con đường xã hội chủ nghĩa. Phần IV: Sự vận dụng quy luật của Đảng ta trong đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. ở nước ta đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Đảng ta “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đo kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phải phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta hiện nay cả nứơc độc lập thống nhất đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa, quá trình xây dựng phương thức sản xuất XHCN phải là một quá trình kết hợp chặt chẽ cải tạo với xây dựng, cải tạo để xây dựng và xây dựng là chủ yếu. Phải xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Chúng ta phải tạo ra cả quan hệ sản xuất mới lẫn lực lượng sản xuất mới. Bên cạnh đó Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: “ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn. Từ năm 1996, đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đảng ta xác định cần phải tạo những tiền đề sau đây cho công nghiệp hoá - hiện đại hóa: - Tạo nguồn vốn tích luỹ công nghiệp hoá - hiện đại hoá là để phát triển lực lượng sản xuất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại nên đòi hỏi rất nhiều vốn. Do đó việc tích luỹ vốn là điều hết sức cần thiết. Trong việc tích luỹ vốn Đảng ta xác định phải tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế là chủ yếu, nhưng bên cạnh đó cũng cần phải vận dụng linh hoạt được nguồn vốn đầu tư của nước ngoài nhằm nhanh chóng thực hiện được mục tiêu kinh tế. - Để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải phát triển khoa học và công nghiệp, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong phát triển kinh tế. Khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ. Chúng ta phải tiến hành điều tra thăm dò địa chất nhằm nắm bắt được khả năng vốn có của đất nước, qua đó cũng xác định được quy mô sản xuất, phân bố xí nghiệp một cách hợp lý nhằm triệt để sử dụng nguồn lực của đất nước đem lại hiệu quả tối ưu. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá không thể thiếu bộ phận các cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân hành nghề. Nắm bắt một cách triệt để vấn đề đó Đảng ta đã xác định: “Đẩy nhanh mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực của sự phát triển. Trước mắt phải phổ cập cấp I, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lý, nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ”. Để làm được điều đó, một mặt nhà nước phải tăng đầu tư, mặt khác phải có các chính sách, các hình thức, biện pháp để động viên thúc đẩy toàn dân. Chỉ có như vậy mới nhanh chóng xây dựng được đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng với sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời chúng ta phải đẩy mạnh có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Với sự tác động hết sức mạnh mẽ của cách mạng khoa học thế giới, đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển ra khỏi biên giới một nước, quá trình quốc tế hoá cả về sản xuất và đời sống xã hội đang diễn ra ngày càng sâu sắc. Trước bối cảnh đó yêu cầu chúng ta phải đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý cũng như khai thác nhu cầu, lợi ích và khả năng của nhiều nước. Lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nước và các thế lực kinh tế để tạo ra chỗ đứng ngày càng vững chắc của mình trên trường quốc tế. Kết luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội, vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan vào quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quy luật đã giúp cho từng quốc gia ứng dụng vào thực tiễn nhằm chọn ra cho mình một phương hướng, một mục tiêu đúng đắn trong v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0166.doc
Tài liệu liên quan