Quy luật giá trị & vai trò của nó trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta

Lời Mở Đầu Đất nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với rất nhiều những khó khăn và thách thức mới . Một trong những thách thức đó là việc nhận thức đúng đắn được Quy luật giá trị (QLGT) và vai trò của QLGT đối với nền kinh tế thị trường có tính chất đặc thù riêng của nước ta. Hơn nữa nước ta vừa chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên vẫn còn tàn dư những quan điểm sai lầm của thời kỳ bao cấp , thời kỳ mà rất nhiều quy luật kinh tế cơ ban đã b

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị & vai trò của nó trong nền Kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i lãng quên như QLGT. Chính vì vậy cho ta thấy được tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu “QLGT và vai trò của QLGT trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ” trong giai đoạn hiện nay là rất hợp lý và cần thiết. Để mỗi chúng ta lắm bắt tốt một quy luật kinh tế cơ bản và tạo cơ sở để đưa ra những quyết định kinh tế đúng đắn . Để làm rõ vấn đề mà đề án nghiên cứu thì đề án được bố cục như sau: (Đề án chủ yếu nghiên cứu những vấn đề từ năm 1986 đến nay) Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị. Chương 2 : Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằn vận dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới. Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về Quy luật giá trị 1.1. Một số quan điểm về giá trị . 1.1.1. Quan điểm của trường phái trọng thương . Chủ nghĩa trọng thương là trường phái có tư tưởng kinh tế mở đầu của giai đoạn tư bản chủ nghĩa (TBCN).Những nhà kinh tế của chủ nghĩa trọng thương rất coi trọng đồng tiền. Họ coi tiền là nội dung căn bản của của cải , của giá trị và là biểu hiện của sự giầu có,… Một quốc gia giầu mạnh theo họ phải là quốc gia có thật nhiều tiền. Họ cũng cho rằng sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp không tạo ra giá trị (trong công nghiệp chỉ có công nghiệp khai thác vàng , bạc là tạo ra giá trị). Qua đó ta thấy được phần nào sự sơ khai của những tư tưởng kinh tế thời kỳ đầu. Họ vẫn chưa biết và không thừa nhận và hiểu được QLGT.Trong thời kỳ này có những đại diện tiêu biểu như : Montchretien , Thomas Mun , Kolber,… Các ông cho rằng chỉ có thương mại mói tạo ra giá trị hay tiền cho đất nước .Trong thương mại thì cũng chỉ có ngoại thương mới tạo ra giá trị của cải còn theo họ nội thương không tạo ra giá trị của cải mà nó chỉ làm nhiệm vụ phân phát của cải cho mọi người. Theo các ông thì trong ngoại thương thì cần phải mua rẻ bán đắt để lấy phần chênh lệch giữa mua và bán. Những tư tưởng của các ông được thể hiện phần nào qua những câu phát biểu nổi tiếng : “ Nội thương là một hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm , muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương ” _Montchretien_ “Thương mại là một hòn đá đối với sự phồn thịnh của một quốc gia ” , “Không có phép lạ nào khác kiếm tiền, trừ thương mại ” _Thomas Mun_ Ta thấy những tư tưởng kinh tế thời kỳ này vẫn còn sơ sài ,mang tính chất chủ quan cao ,tính khoa học và tính lý luận hệ thống còn thấp, hơn nữa những tư tưởng kinh tế như mới chỉ là những gì đúc rút từ hoạt động thực tiễn .Nền sản xuất còn rất kém phát triển cũng là lý do mà những nhà kinh tế chưa thể biết đến những quy luật kinh tế cơ bản như QLGT và họ cũng không thừa nhận quy luật kinh tế khác . 1.1.2.Quan điểm của trường phái trọng nông . Những người thuộc trường phái trọng nông thì phê phán quan điểm của những người của chủ nghĩa trọng thương. Họ cho rằng những lợi nhuận mà chủ nghĩa trọng thương có được là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại mà có, còn theo họ trong thương mại chỉ là “ việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang như thế ”. Tức là thương mại chỉ trao đổi chứ không làm cho tài sản tăng nên. Điều này cho ta thấy đã có sự nhận thức tiến bộ và trưởng thành trong quan điểm kinh tế của trường phái trọng nông. Những người trọng nông họ cho rằng giá trị chỉ tạo ra được trong nông nghiệp. Nông nghiệp là nghành kinh tế sản xuất duy nhất , còn đối với công nghiệp chỉ có tiêu dùng chứ hoàn toàn không có sản xuất. Những sản phẩm mới mà trong công nghiệp sản xuất ra chỉ là những gì đã có từ trước và họ ghép chúng vào với nhau. Duy nhất trong nông nghiệp mới có sự tăng nên về chất và lượng, bởi vậy theo họ chỉ có nông nghiệp mới tạo ra giá trị .Còn trong công nghiệp không những nó không làm tăng thêm giá trị mà nó còn làm giảm đi mặt lượng thực tế của thực thể , nên họ đôi khi còn coi công nghiệp là có hại. Đây là một quan điểm sai lầm vì họ đã đơn giản hoá khái niệm về của cải và họ không nhận thấy được tính hai mặt của thực thể là hiện vật và giá trị . Trong thực tế thì khối lượng và giá trị của vật phẩm có thể thay đổi hoàn toàn ngược nhau. Những đại diện tiêu biểu cho trường phái trọng nông phải kể tới gương mặt tiêu biểu là Francois Quesnay (là người sáng lập ra trường phái trọng nông ở Pháp ) ông đã có những đóng góp to lớn cho chủ nghĩa trọng nông ở pháp. Lý thuyết về sản phẩm thuần tuý cũng đã nói rõ nên quan điểm của trường phái trọng nông về giá trị.Ông cũng đã từng tuyên bố: “Chỉ có của cải của dân cư ở nông thôn mới đẻ ra của cải quốc gia”, “Nông dân nghèo thì xứ sở nghèo”. _Francois Quesnay_ Hơn nữa phát hiện tiêu biểu của ông về “ Biểu kinh tế ” được các nhà kinh tế học coi là một trong ba phát minh lớn nhất đương thời (cùng với việc phát hiện ra tiền và máy in) cũng qua biểu kinh tế thì ông là người đầu tiên phân tích một cách khoa học việc tái sản xuất. Nhưng điều quan trọng nhất và đóng góp to lớn nhất của trường phái trọng nông như K . Marx nhận xét : “Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp, và do đó đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất TBCN ”. Hơn nữa ta thấy cả hai trường phái trọng thương và trọng nông thực sự vẫn chưa biết được nguồn gốc của giá trị. Nhưng những gì mà cả hai trường phái đã có được là cơ sở vững chắc cho nền kinh tế học sau này. 1.1.3. Quan niệm của trường phái trọng công. (Trường phái tư sản cổ điển Anh) Trường phái này tiếp tục nghiên cứu giá trị ở trong sản xuất trực tiếp, tư tưởng của những nhà kinh tế ở thời kỳ này đã có những tiến bộ vượt bậc so với những trường phái đã đi trước. Giai đoạn phát triển của trường phái này gắn liền với tư tưởng kinh tế theo cấp độ thăng tiến của ba nhà kinh tế tiêu biểu là : William – Petty(1623- 1687), Adam Smith (1723-1790), David Ricardo (1772-1823). William Petty là người đầu tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên ( giá trị ) là lao động . Ông đã cho rằng giá trị là do thời gian lao động hoa phí quyết định và năng suất lao động có ảng hưởng đến mức hao phí đó. Nhưng ông cho rằng chỉ có lao động khai thác vàng bạc mới tạo ra giá trị ( đây là quan điểm chịu ảnh hưởng của tư tưởng trường phái trọng thương ), bởi vì theo ông mọi lao động khác để có thể so sánh với nhau đều phải đều phải so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Còn giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như “ ánh sáng cảu mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời ” Đó là phần hạn chế trong học thuyết của ông bởi ông chưa thể phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Tuy học thuyết của ông còn rất nhiều thiếu sót và hạn chế ,nhưng thực sự nó đã đặt nền móng quan trọng cho tư tưởng của trường phái trọng công . Adam smith tiếp tục đi theo con đường của W. Petty nhưng ông đã có những bước tiến xa so với W. Petty . Ông đã có quan điểm đúng về giá trị, ông cho rằng giá trị trao đổi là do lao động quyết định và giá trị là do lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định . A. Smith đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi (được coi là công lao chính của ông ). Hơn nữa ông cũng đã đưa ra nguồn gốc cấu thành của giá trị trong sản xuất TBCN là tiền lương , lợi nhuận, địa tô và ông cũng phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. đó cho ta thấy mặc dù học thuyết của ông đã có nhiều phát hiện mới nhưng ông vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy ông luôn cho rằng lao động là “ thước đo thực tế của giá trị ” song trong lý luận của ông vẫn còn luẩn quẩn và sai lầm về giá trị , còn trong nguồn gốc của giá trị ông lẫn lộn giữa hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị , hơn nữa ông cũng xem thường tư bản bất biến C, ông coi giá trị chỉ có v và m tạo thành. David Ricardo là người kế thừa và phát triển học thuyết của W .Petty và A.Smith để đưa ra một học thuyết khá hoàn thiện. Ông đã nhận thức được giá trị lao động được quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người (lao động xã hội) chứ không phải là lượng lao động hao phí cá biệt. ở đây cho ta thấy ông là người đầu tiên đã phân biệt được lao động cá biệt và lao động xã hội. D. Ricardo cũng đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị nhưng ông vẫn chưa thấy được mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Về quan điểm giá trị ông đã bác bỏ lý luận giá trị sử dụng quyết định giá trị hàng hoá, ông cũng phát biểu rằng: “ Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi , mặc dù hàng hoá rất cần thiết giá trị này .” “Giá trị khác xa với của cải, giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay ít của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi.” Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường và theo ông giá cả thị trường luôn luôn biến động. Còn về vấn đề tăng giá theo ông không phải là do cung cầu thị trường quyết định, mà theo ông mức giá ở trong tay những người sản xuất và cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả mà thôi. Ngoài ra D. Ricardo đã chứng minh được rằng giá trị của hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng nên. Và ông cũng đã cho cả phần C1 vào giá trị của hàng hoá, tức là theo ông giá trị của hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc nhà xưởng (ông vẫn chưa biết được phần C). Qua đó cho ta thấy ông đã đóng góp công sức rất lớn vào việc hoàn thiện tư tưởng của trường phái trọng công cũng như những gì để lại cho K. Marx kế thừa và phát triển kinh tế học sau này. Tuy ông vẫn còn có những thiếu sót và hạn chế và đã được K. Marx bổ xung và hoàn thiện . 1.1.4.Quan điểm của Marx về giá trị . K. Marx được xem như một tổng công trình sư, ông đã kế thừa và phát triển những tư tưởng kinh tế của những người đi trước và đưa ra những quan điểm mà được rất nhiều những nhà kinh tế khác trên thế giới lấy đó làm chuẩn mực cho những lý luận của họ. Với việc tìm ra lao động cụ thể và lao động trừu tượng K. Marx đã đưa ra quan điểm đúng về giá trị (giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá). Như vậy chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả cũng riêng. Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động giản đơn nó nêu nên cách tiến hành như thế nào. Còn lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự trao đổi ngang bằng. Lao động trừu tượng nêu nên xem mức hao phí để sản xuất lao động là bao nhiêu. Quả thật việc K. Marx phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sơ khoa học thực sự. Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế như sự vận động trái ngược : khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng nên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi. Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra hàng hoá đó. Ông cũng đã tìm ra được hoàn chỉnh công thực cấu thành giá trị của hàng hoá (Giá trị hàng hoá = giá trị cũ +giá trị mới).Và ông cho rằng lượng của giá trị hàng hoá phụ thuộc vào các nhân tố như: năng suất lao động, hay phụ thuộc vào đó là lao động gian đơn hay là lao động phức tạp, trong đó năng xuất lao động càng cao thì thời gian cần để tạo ra hàng hoá càng giảm và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Còn giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp thì trong cùng một thời gian, lao động phức tạp sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. 1.2.Biểu hiện của QLGT 1.2.1. Nội dung của QLGT QLGT là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của QLGT. Theo QLGT, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong nền sản xuất hàng hoá thì mỗi người sản xuất sẽ có hao phí lao động cá biệt, nhưng giá trị của hàng hoá được quyết định bởi lao động hao phí xã hội cần thiết. Chính vì vậy người sản xuất muốn bán được sản phẩm thì phải điều chỉnh cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí chung của xã hội. Sự vận động của quy luật giá trị là thông qua sự vận độnh của giá cả hàng hoá. Như ta đã biết giá trị là cơ sở của giá cả nên giá cả phải phụ thuộc vào giá trị. Nếu hàng hoá nào mất nhiều thời gian lao động xã hội cần thiết thì nhiều giá trị và giá cả của nó cũng sẽ cao và ngược lại. Hàng hoá trên thị trường ngoài chịu tác động của giá trị còn chịu tác động của các quy luật kinh tế khác như quy luật cạnh trnh quy luật cung cầu,… Những tác động đó làm cho giá cả tăng giảm nhưng nó vẫn xoay quanh trục giá trị của nó. Sự nên xuống quanh trục giá trị của nó đó là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. 1.2.2. Sự vận động của QLGT trong tự do cạnh tranh. Trong tự do cạnh tranh các danh nghiệp tự do sản xuất, để bán được hàng trên thị trường thì các doanh nghiệp phải điều chỉnh để cho hao phí cá biệt của doanh nghiệp nhỏ hơn mức hao phí của xã hội là doanh nghiệp đã có lợi nhuận. Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu. Các doanh nghiệp luôn cải tiến để cho hao phí của mình nhỏ hơn hao phí của xã hội. Các doanh nghiệp cứ cạnh tranh với nhau trong nội bộ ngành và dần cạnh tranh với cả giữa những ngành khác nhau để thu được lợi nhuận, cho tới khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân của xã hội thì lúc này giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Lúc này giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Nếu xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. 1.2.3. Sự vận động của QLGT trong cơ chế độc quyền. Vì các tổ chức chiếm được vị trí độc quyền nên có quyền áp đặt giá cả độc, giá cả độc quyền thấp khi mua, và giá cả độc quyền cao khi bán.Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là quy luật giá trị thặng dư không còn hoạt động.Về thực chất thì giá cả độc quyền vẫn không tách rời và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền thực ra là họ đã chiếm đoạt một phần giá trị thặng dư của người khác, và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Ta thấy nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền, một phần lao động không công của công nhân của các xí nghiệp không độc quyền,…. Qua đó cho ta thấy dù trong môi trường kinh tế nào thì quy luật giá trị vẫn luôn phát huy tác dụng của mình. 1.3. Vai trò của QLGT. 1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Vai trò này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Khi một mặt hàng nào đó mà cung nhỏ hơn cầu thì lúc đó giá cả hàng hoá sẽ cao hơn giá trị, hàng hoá bán sẽ rất chạy, lãi xuất lúc đó sẽ rất cao nên người sản xuất sẽ đổ xô vào sản xuất mặt hàng đó. Do đó sẽ có một lượng vốn được rút ra từ ngành khác để cho vào đầu tư sản xuất mặt hàng bán chạy đó. Trái lại khi mà sản phẩm đó cung đã vượt quá cầu thì giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá không bán chạy được và có thể bị lỗ vốn. Như vậy người sản xuất sẽ buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển sang sản xuất hàng có lãi suất cao hơn. Để lắm bắt được mối quan hệ của cung cầu về hàng hoá đó thì ta thông qua giá cả trên thị trường sẽ thể hiện mối quan hệ đó. Qua đó cho ta thấy giá cả có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Sự biến động của nó có thể ảnh hưởng đến rất nhiều yếu tố khác của thị trường. Liên hệ với nước ta hiện nay đang trong quá trình đổi mới nên vẫn còn rất nhiều điều mới mẻ trong nền kinh tế. Bởi vậy để quản lý nền kinh tế tốt ta phải chú ý quản lý cơ chế giá sao cho thể hiện đúng được thực trạng của thị trường. 1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh mỗi doanh nghiệp sản xuất là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thì các chủ thể hoạt động trong những môi trường khác nhau nên chi phí lao động cá biệt khác nhau, người có chi phí thấp hơn mức chi phí của xã hội, người có chi phí cao hơn chi phí của xã hội. Doanh nghiệp sản xuất nào có chi phí lao động cá biệt càng nhỏ thì lợi nhuận thu được càng cao, còn nếu chi phí cao hơn chi phí cá biệt của xã hội thì doanh nghiệp bị lỗ ở tình thế bất lợi. Chính vì vậy mà doanh nghiệp nào cũng muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh và đều không muốn bị lùi ra khỏi chiến trường. Để làm được điều đó thì doanh nghiệp phải cố gắng tìm mọi cách để giảm chi phí cá biệt của chính mình. Muốn vậy doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý,… tăng năng suất lao động. Tất cả mọi doanh nghiệp đều lỗ lực cạnh tranh và ngày càng thúc đẩy quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển ngày một hoàn thiện hơn. Qua đây cho ta thấy QLGT có vai trò rất lớn đối với nền sản xuất xã hội. Quy luật giá trị kích thích sản xuất dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, nó thúc đẩy giảm những hao phí đó và phát triển sản xuất dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật mỗi ngày một tiến bộ. 1.3.3. Lựa chọn tự nhiên, phân hoá người sản xuất thành kẻ giầu người nghèo. Trong quá trình cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì không phải mọi doanh nghiệp đều giành phần thắng cả, mà phải có kẻ thắng người thua. Những người có chi phí cá biệt thấp thì sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh. Người ta sẽ bán nhiều hàng hơn mở rộng quy mô sản xuất và họ ngày một giàu nên. Còn những người có chi phí cá biệt cao thì sẽ chịu thua trong cuộc cạnh tranh thua lỗ và dẫn tới nghèo khó. Qua đây cho ta thấy QLGT ngoài việc lựa chọn tự nhiên những người tài giỏi trong kinh doanh ra nó còn tự phân hoá giầu nghèo tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội. Chương 2 Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua và giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn QLGT ở Việt Nam trong thời gian tới 2.1. Thực trạng vận dụng QLGT trong thời gian qua ở Việt Nam. Như chúng t a đã biết đại hội VI của đảng ta họp năm 1986 đã có những bước cải tổ lớn về tư tưởng, kinh tế ,… đối với nước ta. Thời gian đó là một bước ngoặt lớn đối với cả dân tộc ta nhất là về mặt kinh tế. Quả thật sau gần 20 năm đổi mới đát nước ta đã có rất nhiều nhưng thay đổi mà nhiều nước trên thế giới cũng phải ngạc nhiên. Đất nước chuyển từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường với rất nhiều những khó khăn đè nặng nên vai chính phủ. Ngay năm 1986 thì lạm phát của nước ta ở mức siêu lạm phát nên tới 774.7 % và lúc đó rất ít người có thể nghĩ rằng chúng ta có thể vượt qua và có được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Nhưng chúng ta đã làm được và đó chính là nhờ vào những đường lối đúng đắn của đảng và nhà nước vận dụng hợp lý, sáng tạo các quy luật kinh tế, những bài học của các nước anh em trên thế giới và cùng với sự quyết tâm không mệt mỏi của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả cùng cố gắng và có được thành quả như ngày hôm nay tuy chưa nhiều nhưng cũng là sự động viên cho ta cố gắng tiếp tục đi theo con đường đã chọn, mặc dù vẫn còn nhiều thiếu sót và sai lầm nhưng chúng ta đã biết và vẫn đang cố gắng sửa chữa về tất cả các mặt nhất là về kinh tế để ngày một hoàn thiện hơn và phát triển hơn nữa . 2.1.1.Vận dụng QLGT vào hoạch toán kinh tế (HTKT). Khái niệm về HTKT: HTKT là phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của các DN trong điều kiện tồn tại sản xuất hàng hoá, đồng thời HTKT là công cụ quản lý kinh tế vi mô. Trên ý nghĩa đó cần phải làm sáng tỏ bản chất của quan hệ này cùng với những điều kiện và nguyên tắc của nó, đặc biệt trong quá trình tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Thời kỳ trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vẫn còn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mọi kế hoạch sản xuất của cả nền kinh tế đều được cơ quan chính phủ vạch định ra sẵn từ: sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? rồi từ đó phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất. Còn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thì cứ như chỉ tiêu của nhà nước đã giao cho mà làm, còn ngoài ra các doanh nghiệp (DN) không phải lo đầu ra đầu vào tất cả đều đã có sự sắp xếp của nhà nước. Nếu DN sản xuất có mà hàng không bán được thì nhà nước sẽ bù lỗ cho DN vì đó có thể coi như “Lỗi của nhà nước”. Nói chung các DN dù là “tồn tại” hay là “sống” cũng gần như nhau cả, vì đã là DN của nhà nước thì chắc chắn sẽ không bị “đói”. Các DN cũng có HTKT nhưng dường như việc đó là thừa đối với các DN vì thực sự HTKT có ra kết quả đi nữa thì lỗ lãi cũng không phải là vấn đề của DN. Điều đó đã không làm phát huy được sự năng động sáng tạo của mỗi DN cũng như mỗi cá nhân trong DN như bị thui chột đi cái năng động trong mỗi người công nhân. Chính vì vậy ta thấy giai đoạn này QLGT thực sự không được vận dụng trong HTKT và không phát huy được vai trò của nó đối với nền kinh tế. Hơn nữa giai đoạn này thì thành phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khác không được khuyến khích nên việc vận dụng QLGT vào HTKT ở thời kỳ này dường như không được chú ý. Sau khi nhà nước ta quyết tâm cải cách sau đại hội Đảng lần thứ VI thì đã có thay đổi trong nền kinh tế của cả nước trong cách quản lý hay đối với từng doanh nghiệp. Từ bước ngoặt đó thì các DN nhà nước đã phải tự HTKT hơn nữa từ 1986 thì các DN tư nhân và các DN ngoài quốc doanh cũng được khuyến khích phát triển (nhất là sau khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận với nước ta năm 1995). Mỗi DN bây giờ là một chủ thể độc lập , họ phải tự tìm hướng đi cho mỗi DN của mình . Đối với các DN nhà nước thì nhà nước tách quyền sử dụng và quyền sở hữu riêng, quyền sở hữu vẫn thuộc về nhà nước nhưng quyền sử dụng thì nhà nước giao cho DN. Doanh nghiệp tự mình tổ chức hoạt động kinh doanh , tự nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng sản xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất cho đến khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước chỉ thể hiện quyền sở hữu của mình thông qua thuế và DN nộp lợi nhuận. Nhà không còn can thiệp vào các hoạt động của công ty và bây giờ nhà nước chỉ can thiệp vào bằng các biện pháp vĩ mô để ổn định thị trường. Trong nền kinh tế thị trường mỗi DN là người sản xuất hàng hoá, để đứng vững được trên thị trường thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí…và phải thường xuyên đối chiếu đầu vào và đầu ra. Đối với các DN thì lợi nhuận luôn luôn là mục tiêu để phấn đấu, để đạt được mục tiêu đó thì các DN phải tự tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hoá sản xuất, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động, … Để làm được điều đó thì DN phải lắm vững và vận dụng tốt QLGT và trong HTKT. Thời gian qua ta đã thấy được đã có rất nhiều DN làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các Dn đã vận dụng khá tốt QLGT vào trong HTKT và các chíng sách của nhà nước thực sự đã có tác động vào nền kinh tế. Nguyên tắc vận dụng QLGT vào HTKT ở các DN nhà nước tuy đã có những tiến bộ trong nhiều DN, nhưng vẫn còn có nhiều DN thực hiện việc HTKT chưa được sát và triệt để. Còn nhiều những DN làm ăn thua lỗ và cả tình trạng lãi giả lỗ thật vẫn còn khá phổ biến trong nhiều DN. Nhiều công ty còn ỉ lại vào cái tiếng là DN nhà nước và chưa thực sự có những khuyến khích thoả đáng về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần nên chưa thực sự phát huy được hết khả năng của mỗi công nhân nói riêng và của mỗi DN nói chung. Để tạo đà phát triển mới cho nền kinh tế đất nước thì nhà nước ta đã quyết định cổ phần hoá phần lớn các DN nhà nước, và nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các DN rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của chính mình để đầu tư vào sản xuất, HTKT và cố gắng sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Bởi vậy việc việc vận dụng QLGT vào để HTKT của mỗi công ty cổ phần thời kỳ này là một việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với mỗi công ty cổ phần. Qua trên cho ta thấy HTKT là một điều kiện cần thiết đối với mỗi DN dù là DN nhà nước hay DN ngoài quốc doanh. Bởi ta thấy thông qua HTKT thì sẽ nâng cao được tính chủ động, sáng tạo của tập thể cũng như của mỗi người lao động và khai thác tốt các tiềm năng của DN. Đồng thời HTKT vận dụng QLGT để tính toán, đưa ra những phương pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa trong quá trình quốc tế hội nhập như hiện nay và việc chúng ta chuẩn bị ra nhập WTO thì các DN phải thực hiện tốt việc vận dụng QLGT vào HTKT để biết được lợi thế và sửa chữa những khuyết điểm và cạnh tranh cùng với các loại hàng hoá khác trên thị trường. Khẳng định vị thế của hàng hoá của Việt Nam trên thị trường quốc tế. 2.1.2. Vận dụng QLGT vào cơ chế tiền lương. Sau đại hội Đảng lần VI (1986), triển khai nghị quyết TW3 về đổi mới quản lý kinh tế thì chính phủ đã ra quyết định 217, quy định mọi người lao động trong các DN nhà nước được thu nhập theo kết quả kinh doanh của DN và năng suất, hiệu quả lao động của mỗi người. Nhưng do nhà nước chưa có hướng dẫn thi hành kịp thời nên mỗi đơn vị hiểu và làm theo cách riêng của mình. Doanh nghiệp nào lương thấp quá thì tìm mọi biện pháp để nâng lương nên và gây ra sự rối loạn chế độ tiền lương đối với DN nhà nước. Bởi vậy năm 1989 nhà nước đã chỉnh lại chế độ quản lý tiền lương theo đơn giá sản phẩm được tính trên cơ sở bảng lương và trượt giá, nhưng do tình hình lạm phát quá cao nên chính sách này cũng không phù hợp. Tới năm 1995 nhà nước lại ban hành chế độ tiền lương tối thiểu là 120.000 (đồng/tháng) .Nhưng mức lương này thực tế vẫn chưa đảm bảo sinh hoạt cho công nhân với giá cả hàng hoá thực tế. Nên tới đầu năm 2000 tăng tiền lương tối thiểu nên180.000 (đồng/tháng), năm 2001 là 210.000 (đồng/tháng) năm 2003 là 290.000(đồng/tháng) và theo dự kiến sẽ là 400.000(đồng/tháng) vào năm 2007. Ta thấy theo sự tăng nên của giá cả thì nhà nước cũng tăng mức tiền lương tối thiểu đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên. Qua đó ta thấy nhà nước đã có sự vận dụng nhạy bén QLGT vào trong cơ chế tiền lương. Tuy tiền lương ở nước ta đã được hoàn thiện nhiều lần nhưng thực sự vẫn còn rất nhiều bất cập. Mức lương vẫn còn thấp, không đủ để tái sản xuất giản đơn sức lao động, tiền lương thực tế bị hạ thấp.Tiền lương tối thiểu tuy đã tăng nên rất nhiều nhưng thực sự vẫn chưa đảm bảo được ổn định mức sống của người lao động. Điều đó cho ta thấy rằng mặc dù đã cố gắng nhưng cơ chế tiền lương vẫn chưa thực sự thay đổi phù hợp với QLGT.Chính vì vậy mà trong thực tế tiền lương vẫn chưa thể trở thành đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động học tập, nâng cao trình độ,nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩn. Chính điều đó cũng hạn chế đi sự tăng trưởng kinh tế. Bởi tiền lương và quan hệ kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế có tăng trưởng thì tiền lương mới tăng và thu nhập tăng kích thích người lao động làm việc và tăng mức tiêu dùng của người lao động là cơ sở để tiêu thụ sản phẩm. Cơ chế tiền lương tiền lương vẫn còn có sự trênh lệch giữa các ngành nghề, các đơn vị khác nhau. Như lương ở DN nhà nước TW là từ 1,5–1,9(triệu đồng/người/tháng) , cũng con số đó với DN nhà nước thành phố là từ 1,0 –1,5 (triệu đồng/người/tháng), DN nhà nước Quận (huyện) là 0,6 – 0,8 (triệu đồng/người/tháng), và DN có vốn đầu tư nước ngoài là 0,975 (triệu đồng/người/tháng). Ngoài ra ta còn thấy được sự phân biệt giữa người lao động nước ngoài và người lao động trong nước, khi làm cùng một công ty cùng bằng cấp và cùng cả chức vụ, nhưng người ngoại quốc vẫn có mức lương cao hơn của người trong nước. Đó là sự khập khiễng khi áp dụng QLGT vào cơ chế tiền lương. Hơn nữa sự phân biệt khoảng cách lớn giữa lương của nhà nước với lương của nước ngoài và các doanh nghiệp liên doanh khác đã và đang thu hút rất nhiều lao động có trình độ và chất lượng cao. Còn trong cơ quan nhà với tiền lương thấp không thoả mãn được nhu cầu đầy đủ của người lao động, nên tình trạng chảy máu chất xám đang là một vấn nạn, vấn đề bức xúc của chính phủ. Rất nhiều những nghiên cứu sinh được nhà nước cử đi học tập kinh nghiệm của nước bạn, nhưng khi học xong lại trốn tránh trách nhiệm và ở lai luôn nước đó làm ăn.Vì họ đã bị cuộc sống lôi kéo nên khi nghĩ đến việc về nước với mức lương quá thấp nên họ đã bỏ lại trách nhiệm và tự tìm cho mình một con đường mới. Phải chăng ở nước ta cơ chế tiền lương chưa hợp lí cũng là lí do của nạn tham nhũng, chân trọng, chân ngoài của không ít cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Ai cũng biết chế độ lương của nhà nước là chưa thể phản ánh đúng sức lao động của mỗi người. Nhưng những cán bộ cơ quan nhà nước lai có rất nhiều tiền, rất giàu. Đó là do đâu? Rất nhiều người có quyền, có chức và lợi dụng quyền chức của mình để tham nhũng. Còn có cả những cán bộ nhà nước làm việc ở cả trong nhà nước và cả ngoài nhà nước. Với họ ở trong là chỗ chắc chân, còn làm ở ngoài mới là thu nhập chính của họ. Cứ như vậy ta thấy sự tận tâm của công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước sẽ không cao bởi họ đã phải quá chú tâm đến đi kiếm miếng ăn ở bên ngoài. Hơn nữa nạn tham nhũng của nhiều cơ quan đã xuất hiện phổ biến. Bởi vậy mà trong thời gian trở lại đây hiện tượng lập trạm kiểm soát để “ăn tiền “của cảnh sát giai thông và ở các trạm cố định của ngành hải quan … diễn ra khá nhiều và gây nhiều bức xúc trong toàn thể dân chúng. Qua đó cho thấy, việc vận dụng không tốt quy luật giá trị vào cơ chế tiền lương còn tạo ra rất nhiều những mặt tiêu cực cho xã hội. Hơn nữa với cơ chế tiền lương như vậy thì ta chưa thể nào kiểm soát được tiền lương của cán bộ nhà nước nói riêng và của những người lao động nói chung. Từ đó sẽ rất khó khăn trong việc đánh thuế thu nhập hay trợ cấp thu nhập cho những người lao động. 2.1.3.Vận dụng quy l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0190.doc