Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta

Mục lục Trang Lời mở đầu Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ tự cung tự cấp còn ở trong tình trạng phổ biến của sản xuất giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém, cản trở cho sự phát tiển và tăng trưởng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang trong quá trình hình thành. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người thấp là một trong số các quốc gia nghèo và chậm phát triển. Vì vậy trong thời kỳ quá

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ cần phải động viên được mọi nguồn lực tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Để sử dụng nguồn lực tổng hợp này một cách tối ưu chúng ta phải sử dụng các đòn bẩy kinh tế như các quy luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế sản xuất hàng hoá là một đòn bẩy quan trọng để phát triển và củng cố nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng quy luật giá trị để thúc đẩy nền sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến tới có một tầm quan trọng lớn lao. Từ nhận thức về vai trò của quy luật giá trị, chúng ta thực hiện việc nghiên cứu “Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta” để vận dụng có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế, hạn chế những khuyết tật thị trường. Với kết cấu 2 chương, đề án giới thiệu những vấn đề lý luận về giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trong thời gian qua và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị trong thời gian tới. Do trình độ có hạn, đề án này không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em mong thầy giáo xem xét giúp em để đề tiểu luận của em hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp em hoàn thành đề tiểu luận này. Chương I Những vấn đề lý luận về quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1. Nội dung quy luật giá trị 1.1.1. Các quan điểm về giá trị Quan điểm về giá trị có hai quan điểm đó là quan điểm của Adam- Smith, và quan điểm của David- Ricardo: * Quan điểm về giá trị của Adam- Smith: Ông phân biệt rõ ràng giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi và bác bỏ quan điểm về sự ích lợi, sự ích lợi không có quan hệ gì đến giá trị trao đổi. Theo ông giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị là do lao động sống làm ra hàng hoá. Mặt khác ông lại đưa ra định nghĩa: giá trị hàng hoá bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng đó. Đây là điều luẩn quẩn và sai lầm của ông. Về cấu thành giá trị của hàng hoá theo ông sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền lương, lợi nhuận và địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Ông phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả thị trường. Ông khẳng định hàng hoá bán theo giá cả tự nhiên. Giá cả tự nhiên là trung tâm, giá trị tiền tệ nhất trí với giá cả tự nhiên khi hàng hoá đưa ra thông tin đủ thoả mãn nhu cầu làm cho giá cả thị trường khác với giá cả tự nhiên. Bản thân giá cả tự nhiên cũng thay đổi cùng với tỷ suất tự nhiên của mỗi bội phận cấu thành nó. Ông nhận thấy giá cả trong chủ nghĩa tư bản được đặt ra khác với trước đây. Công lao chủ yếu của ông là phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, lao động là thước đo thực tế của giá trị. * Quan điểm về giá trị của David Ricardo: Đều dựa trên cơ sở kế thừa phê phán của Adam- Smith. Ông định giá trị hàng hoá, giá trị của hàng hoá hay số lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng hoá đó trao đổi là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động đó quyết định. Phân biệt 2 thuộc tính hàng hoá: Giá trị sử dụng, giá trị trao đổi và chỉ ra là giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Ông cho rằng hàng hoá hữu ích sở dĩ có giá trị trao đổi do 2 nguyên nhân đó là: tính chất khan hiếm và lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng. Giá cả không phải do cung cầu quyết định, quyết định mức giá ở trong tay những người sản xuất, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả. Về cơ cấu giá trị hàng hoá: Giá trị hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp tạo ra, mà còn là lao động cần thiết trước nữa như máy móc, nhà xưởng. Mặt hạn chế của David Ricardo là không nhận được tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hoá và cho rằng quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản nhưng hoạt động như thế nào ông không chứng minh được vì ông không thể giải quyết được vấn đề giá cả sản xuất. 1.1.2. Quan điểm của C.Mac về giá trị Theo C.Mac quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hoá nào mà hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn, và do vậy giá cả thị trường sẽ cao, và ngược lại. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như quan hệ cung cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường. Tác động của các nhân tố trên làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. C.Mac gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hoá là trục, giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của chúng. 1.1.3. Yêu cầu của quy luật giá trị Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Lượng giá trị là số lượng lao động trừu tượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá, lượng lao động hao phí càng nhiều thì lượng giá trị càng lớn. Thời gian lao động tạo ra giá trị không phải là thời gian lao động cá biệt của từng người sản xuất, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết. Vậy thời gian lao động cá biệt là gì? Đó là thời gian sản xuất một hàng hoá của từng người sản xuất riêng biệt, do điều kiện sản xuất khác nhau cho nên thời gian lao động cá biệt cũng khác nhau, ví dụ để sản xuất ra 1m vải. Anh Bình: kỹ thuật mới, chăm chỉ sản xuất ra sản phẩm trong 2 giờ còn anh Kiên kỹ thuật lạc hậu, lười biếng sản xuất ra sản phẩm trong 4 giờ. Chính vì thế mà ta có thể rễ dàng nhận thấy rằng thời gian lao động cá biệt chỉ quyết định giá trị cá biệt của hàng hoá còn trên thị trường thì các hàng hoá phải bán theo giá trị xã hội mà giá trị xã hội do thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện trung bình của xã hội như trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình, cường độ lao đông trung bình. Thông thường đó là thời gian lao động của những người sản xuất và cung cấp tuyệt đại bộ phận một loại hàng hoá nào đó trên thị trường. Hai loại hàng hoá khác nhau mà thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bằng nhau, thì chúng có giá trị ngang nhau. Thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo sự thay đổi của năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội được đo bằng số lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao động xã hội càng cao, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ít, khối lượng lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhỏ, thì giá trị của sản phẩm càng bé, và ngược lại. Như vậy, lượng giá trị của một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Trong kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không. Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng ngang nhau. Theo nghĩa đó thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. 1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh và trong điều kiện độc quyền 1.2.1.Trong điều kiện tự do cạnh tranh Sự tự phát trong ngành kinh tế là nguyên nhân gây nên tình trạng cạnh tranh, gây sự lãng phí giữa những người sản xuất hàng hoá phân tán, là nhân tố phá hoại lợi ích của nền kinh tế quốc dân với tư cách là một chỉnh thể…Trong giai đoạn cạnh tranh: cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng xuất hiện. Tuy mới xuất hiện nhưng nó cũng như cơ chế thị trường đã bộc lộ rõ mặt tích cực và tiêu cực của mình. Cạnh tranh xuất hiện có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Mặt khác nó cũng thể hiện điểm yếu của mình là những thủ đoạn không lành mạnh. Dự báo đúng điều đó, nghị quyết VIII của đảng nhấn mạnh “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích đất nước, chứ không phải vì mục đích thôn tính lẫn nhau”. Trong các chiến lược kinh doanh của mình, mục tiêu của việc cạnh tranh là làm sao thu lại được lợi nhuận lớn nhất. Để đạt được mục tiêu của mình các doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, thủ đoạn. Trong quá trình tự do cạnh tranh, các nhà tư bản có lực lượng kinh tế kỹ thuật cao sẽ dành phần thắng, còn các nhà tư bản vừa và nhỏ thì bị thua lỗ, phá sản, tài sản bị cuốn hút vào xí nghiệp lớn, làm cho quy mô sản xuất của các nhà tư bản lớn mở rộng nhanh chóng. Trong cuộc cạnh tranh kéo dài bất phân thắng bại, buộc hai bên phải bắt tay nhau, liên kết vốn với nhau để sản xuất, kinh doanh chung. Từ một vài nhà tư bản cùng nhau liên kết, lần lượt đến hàng chục, hàng trăm nhà tư bản cùng nhau ký hợp đồng để hình thành xí nghiệp liên hợp hình thành các công ty sản xuất lớn. Khi tập chung sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì nó tự dẫn đến độc quyền. Mặt khác, quy mô to lớn của các xí nghiệp cũng gây khó khăn cho cạnh tranh và làm cho cạnh tranh có sức phá hoại lớn, do đó đẻ ra phương hướng thoả thuận với nhau để hình thành các tổ chức độc quyền. 1.2.2. Trong điều kiện độc quyền Trong giai đoạn thấp của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ chế kinh tế của giai đoạn này là tự do cạnh tranh. Trên thị trường, cung- cầu có giá cả hàng hoá vận động theo cơ chế tự điều tiết thông qua sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá trị chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Đến giai đoạn cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ra đời của các tổ chức độc quyền gắn liền với các yếu tố mới, làm xuất hiện cơ chế kinh tế của giai đoạn mới đó là cơ chế độc quyền và cạnh tranh. Nếu ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa tư bản, nguyên tắc phân phối lợi nhuận dựa trên sở hữu tư bản thì đến giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền, việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa trên sở hữu tư bản nói chung, mà trước hết dựa trên cơ sở quyền lực chi phối cơ bản, dựa trên sở hữu tư bản tài chính. Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông, nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao- lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Song song với việc hình thành lợi nhuận độc quyền, các tổ chức độc quyền không bán hàng theo giá cả sản xuất, mà bán theo giá cả độc quyền (mặc dù lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất không mất đi vì cạnh tranh tự do vẫn tồn tại). Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường các tổ chức độc quyền bán hàng hoá với giá cao hơn giá trị hàng hoá, còn khi mua hàng hoá các xí nghiệp không độc quyền của người sản xuất nhỏ trong nước và nước ngoài thì giá cả thường thấp hơn giá trị. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá trị và lý luận giá trị thặng dư. 1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường Quy luật giá trị hoạt động sinh ra 3 vai trò sau đây: - Tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông tạo ra cân đối giữa cung và cầu trên thị trường: Trong lĩnh vực sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến đổi của giá cả hàng hoá trên thị trường để di chuyển vốn đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa, ta có thể xét ví dụ sau: Ngành A: cung lớn hơn cầu dẫn đến giá cả nhỏ hơn giá trị kết quả là người sản xuất thu được ít lãi. Ngành B: cung nhỏ hơn cầu dẫn đến giá cả lớn hơn giá trị kết quả là người sản xuất thu được nhiều lãi. Như ta đã biết do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Nếu có ngành nào đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó. Ngược lại, khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hoá hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao. Nhờ vậy, mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau. Quá trình tự do di chuyển vốn giữa các ngành đã tạo lập ra sự cân đối giữa cung và cầu ở mỗi ngành khác nhau, và cũng phải nói thêm rằng sự cân đối ở đây chỉ là tạm thời bởi vì cạnh tranh dẫn đến sự mất cân đối. Trong lĩnh vực lưu thông thì quy luật giá trị đã di chuyển hàng hoá từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. - Tự phát kích thích lực lượng sản xuất phát triển: Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất thì có giá trị cá biệt của hàng hoá khác nhau nhưng trên thị trường các hàng hoá phải bán theo giá trị xã hội. Vì vậy người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế thong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên chúng ta không nên lý tưởng hoá ưu điểm này của quy luật giá trị và kinh tế hàng hoá. Quy luật giá trị một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động cá biệt, tức là yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhưng mặt khác, do chạy theo sản xuất những hàng hoá có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa, làm lãng phí lao động xã hội. - Tự phát phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo và đẻ ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đồng thời cũng lựa chọn ra những người kinh doanh giỏi trong nền kinh tế thị trường: Trên thị trường trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng thêm quy mô sản xuất mở rộng doanh nghiệp của mình thuê nhân công bóc lột lao động làm thuê trở thành nhà tư bản. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản trở nên nghèo khó và biến thành vô sản làm thuê. Tuy nhiên, không một tấm huân chương nào lại không có mặt trái của nó. Ngay trong quá trình thực hiện sự bình tuyển tự nhiên đối với người sản xuất, quy luật giá trị đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người nghèo dần dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ, quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, người thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Đó là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường. Chương II Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới. 2.1. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian qua 2.1.1. Từ năm 1986 về trước * Giá bán buôn công nghiệp: Từ năm 1986 trở về trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá- tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xã hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: toàn dân và tập thể. Kinh tế “khép kín” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, giắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng “bế quan toả cảng” tự cung tự cấp và với nền kinh tế “chỉ huy”. Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ. Trên thực tế quy luật giá trị dưới xã hội chủ nghĩa không có tác dụng rộng rãi như dưới chế độ tư bản. Chúng ta cũng thấy rằng trong chế độ kinh tế nước ta thời kỳ năm 1986 trở về trước, quy luật giá trị không thể điều tiết tỷ lệ phân phối lao động giữa các ngành sản xuất khác nhau. Minh chứng rõ nhất là nước ta tập trung phát triển công nghiệp nặng hơn là phát triển công nghiệp nhẹ, mà lợi nhuận do công nghiệp nặng mang lại có lãi ít hơn công nghiệp nhẹ, có khi còn không có lãi. Các xí nghiệp công nghiệp nặng nước ta lại không đóng cửa khi hiện tại không có lãi, công nhân của các ngành công nghiệp không đạt hiệu quả như mong muốn và thay vào đó là mở các xí nghiệp công nghiệp nhẹ làm ăn có lãi hơn nhiều, công nhân làm việc với hiệu quả đạt yêu cầu. Nếu chúng ta làm theo phương pháp chuyển sang hoạt động công nghiệp nhẹ để đạt được lợi nhuận thì chúng ta không phải ưu tiên chế tạo vật phẩm tiêu dùng. Nghĩa là cản bước tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân vì nếu không đồng thời bảo đảm việc ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất thì không thể nào thực hiện được bước tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân. * Giá cả có kế hoạch Quy luật giá trị có một tác dụng điều tiết đối với giá cả “những tư liệu sản xuất” do ngành nông nghiệp làm ra và bán cho nhà nước theo giá mua. Xét trong trường hợp này “những tư liệu sản xuất” là nguyên liệu. Nông nghiệp không sản xuất ra “những tư liệu sản xuất” mà sản xuất ra một trong những tư liệu sản xuất như nguyên liệu. Chúng ta không thể coi một bộ phận của tư liệu sản xuất và toàn bộ tư liệu sản xuất (gồm cả công cụ sản xuất) là như nhau, bởi vì bản thân nguyên liệu thì không thể tạo ra công cụ sản xuất, mặc dù có một vài nguyên liệu cần cho việc chế tạo ra công cụ sản xuất nhưng nếu không có công cụ sản xuất thì cũng không thể chế tạo ra bất cứ nguyên liệu nào. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta nguyên liệu nông nghiệp có một giá cả ổn định, do một kế hoạch ấn định chứ không phải do giá cả “tự do”. Khối lượng sản xuất nguyên liệu nông nghiệp không phải được quy định một cách tự phát, cũng không phải do những yếu tố ngẫu nhiên quy định mà do kế hoạch quy định. Do đó không thể phủ nhận rằng quy luật giá trị có tác động đến sự hình thành của giá cả các nguyên liệu nông nghiệp, rằng nó là một trong những nhân tố quyết định giá cả của nó. 2.1.2. Sau năm 1986 đến nay * Sự hình thành giá cả thị trường như thế nào? Sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển thị trường. Nó cho phép xác lập các mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền. để tạo lập sự cân bằng giữa các loại thị trường. Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trường lên xuống mất ổn định. Sự ổn định giá một loại hàng nào đó, nhất là hàng hoá thuộc loại nhu yếu phẩm sẽ tác động xấu đến sự cân bằng chung giữa các thị trường. Như vậy, tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả thì đồng thời phải bảo đảm sự bình ổn giá cả. Muốn bảo đảm sự bình ổn giá cả cần thết phải đẩy mạnh sự phát triển sản xuất, tạo ra nguồn hàng dồi dào, phong phú, đồng thời Nhà nước phải có lực lượng hàng hoá dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ. Vậy ta đặt ra câu hỏi cơ chế thị trường là gì? có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trường. Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế là bộ máy tính vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. Quan sát thị trường chúng ta thấy có hai nhóm người: người mua hàng hoá và dịch vụ, người bán hàng hoá và dịch vụ. Sự tác động qua lại giữa người mua và người bán tạo thành một hệ thống gọi là hệ thống thị trường. Giá cả thị trường thường phản ánh tương quan cung cầu. Sự tăng hoặc giảm giá cả có ảnh hưởng đến thái độ của người mua và người bán. Nếu cầu một loại hàng hoá nào đó lớn hơn cung thì giá cả hàng hoá đó sẽ tăng lên để điều chỉnh cung và cầu, đồng thời kích thích những người sản xuất lọai hàng hoá đó mở rộng sản xuất do đó tăng cung. Ngược lại, nếu cung một loại hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, thì giá cả hàng hoá đó sẽ giảm, do đó giảm bớt lượng cung. Như vậy sự cân bằng cung- cầu sẽ được tái lập. * Sự hình thành giá cả thị trường trong điều kiện độc quyền: Tổ chức độc quyền là những xí nghiệp lớn hoặc những liên minh giữa các xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá định ra giá cả độc quyền giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường các tổ chức độc quyền bán hàng hoá với giá cả cao hơn giá trị hàng hoá, còn khi mua hàng hóa của các xí nghiệp không độc quyền, của người sản xuất nhỏ trong nước và nước ngoài, thì giá cả thường thấp hơn giá trị. Thông qua cơ chế mua bán theo giá cả độc quyền, các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao. Cơ chế kinh tế hiện nay là tự do cạnh tranh. Trên thị trường, cung cầu và giá cả hàng hoá vận động theo cơ chế tự điều tiết thông qua sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá trị chuyển hoá thành giá cả sản xuất. 2.2. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị trong thời gian tới * Xây dựng cơ chế giá: Đặc trưng của quá trình hình thành các hao phí và giá trị được xác định bởi sự tác động tổng thể của các quy luật kinh tế, mà trước hết là quy luật kinh tế cơ bản, quy luật phát triển có kế hoạch và quy luật giá trị. Do đó, bản thân các nguyên tắc cơ bản của chế độ hình thành giá cả phải có tính chất khách quan như những quy luật xác định chúng. Vì vậy, trong những nguyên tắc ấy không thể bao gồm những việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Việc phân phối tốt nhất nguồn lao động xã hội phải được thực hiện bằng hoạt động có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết phải là tiêu chuẩn để phân phối các nguồn và tiêu chuẩn hiệu quả hao phí. Trên thực tế giá cả đã thực hiện vai trò ấy, điều đó cho phép sử dụng giá cả làm công cụ kinh tế để quản lý có kế hoạch. Về khách quan việc hình thành giá cả phải được thực hiện dưới hình thức hình thành giá có kế hoạch, tập trung và có tính chất nhà nước. Cơ sở để hình thành hao phí lao động xã hội cần thiết chính là sự phân phối lao động chung theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất xã hội, xuất phát từ các nhu cầu của xã hội hiện tại và lâu dài. Do đó, những hao phí của một loại sản phẩm nào đó là một đại lượng phát sinh từ những hao phí về tất cả các sản phẩm của nền sản xuất xét theo quan điểm mục tiêu chiến lược phát triển xã hội. Vì thế muốn cho quá trình hình thành giá cả phù hợp với quá trình hình thành hao phí lao động cần thiết thì nguyên tắc cơ bản của việc hình thành giá là nó phải có một phương hướng có mục đích rõ ràng và triệt để nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội cấp bách. Vì vậy, cần phải xây dựng một cơ chế giá cả có khả năng kích thích nhiều hơn so với tiến bộ khoa học- kỹ thuật. Muốn cho việc hình thành giá phản ánh chính xác nhất quá trình hình thành hao phí lao động xã hội thì cần phải hạch toán giá trong điều kiện chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất tối ưu, phân bố sản xuất tốt nhất, với trình độ tổ chức cao quá trình sản xuất và sử dụng kỹ thuật- công nghệ tiên tiến. Việc quy định giá phù hợp với chi phí bình quân hoặc cả với chi phí khép kín che giấu những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất. Hơn nữa, việc hình thành giá như vậy, các xí nghiệp tiên tiến cũng không có sự ưu tiên nào hơn so với các xí nghiệp trung bình. * Giải quyết sự mâu thuẫn giữa quy luật giá trị và quy luật phát triển : Hiện nay việc kế hoạch hoá ngày càng được sử dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực kinh tế, căn cứ vào mức độ hiệu quả của việc sử dụng nhằm đảm bảo tiến độ công tác của các xí nghiệp đáp ứng lợi ích xã hội. Việc sử dụng đó trở thành một yếu tố cần thiết để quản lý tập trung nền kinh tế, đồng thời bảo đảm một cách linh hoạt việc kích thích vật chất đối với các xí nghiệp và từng người lao động. Đồng thời, còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề gay gắt, trong đó vấn đề quan trọng là xây dựng một cơ chế thích hợp với chủ nghĩa xã hội, nhằm vạch rõ những chi phí sản xuất xã hội cần thiết và buộc người sản xuất phải hướng vào các chi phí đó. Việc thừa nhận tầm quan trọng của việc kích thích sự phát triển hiệu quả của nền kinh tế (hướng vào các hao phí lao động xã hội cần thiết) hiện nay có ý nghĩa là phải nhận thức rõ ràng hơn vai trò to lớn của các yếu tố và tiêu chuẩn giá trị trong quá trình kế hoạch hoá và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, mặt khác không nên quên rằng khác với con đường hình thành một cách tự phát các tỷ lệ, đòi hỏi chi phí ít hơn, cho phép kết hợp tiêu chuẩn cân đối kinh tế với tiêu chuẩn cân đối xã hội, kết hợp các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. * Đào tạo nguồn nhân lực: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng xác định “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” của đất nước. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc phát triển đất nước. Để có nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được các nhiệm vụ hiện nay đòi hỏi hệ thống Giáo dục- đào tạo phải thực sự phát huy vai trò tích cực trong việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người, cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Muốn đạt được điều đó, Giáo dục- đào tạo phải tác động đến nguồn lực con người trên cả ba phương diện là: nâng cao dân trí bảo đảm trình độ học vấn, đào tạo nguồn nhân lực tạo điều kiện để tăng năng suất lao động và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Để phát triển Giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ, ngoài việc sử dụng nguồn lực trong nước cần phải khai thác các nguồn lực bên ngoài thông qua con đường liên kết hợp tác quốc tế. Đảng ta chủ trương tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước về Giáo dục- đào tạo, kết hợp nguồn lực trong nước với quốc tế để phất triển Giáo dục- đào tạo. bên cạnh việc đào tạo nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn cao, thì việc ngăn chặn những cán bộ, đảng viên đang có những hành vi tha hoá, kém phẩm chất chính trị cũng là một công việc cấp bách trong thời đại hiện nay. Bởi vì, sau một vài năm đổi mới đã bắt đầu xuất hiện vấn đề nạn tham nhũng và có chiều hướng gia tăng. Kết luận Từ những phân tích ở các phần trên ta thấy được vai trò tất yếu của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện nhu cầu khách quan của việc định hướng nền sản xuất và trao đổi theo các quan hệ tỷ lệ phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Để đạt được kết quả như vậy là cả một quá trình nhận thức đúng đắn và vận hành tốt quy luật giá trị, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay. Thành tựu đạt được trong suốt những năm đổi mới (1986-2003) đã nói lên tất cả. Bên cạnh những mặt đạt được, chúng ta vẫn còn hạn chế trong việc vận dụng quy luật giá trị, nhất là thực trạng đất nước hiện nay, đang hoà nhập với kinh tế thế giới. Từ đó đặt ra nhiệm vụ khó khăn cho đội ngũ cán bộ quản lý, đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, sáng tạo, hiểu và vận dụng tốt các quy luật kinh tế cơ bản, đặc biệt là quy luật giá trị. Tất cả các quy luật kinh tế cơ bản ra đời và sẽ tồn tại mãi mãi, bên cạnh việc tích cực của nó sẽ không tránh khỏi mặt tiêu cực. Do đó, đòi hỏi trong bối cảnh hiện nay là làm sao chúng ta hiểu và vận dụng tốt các quy luật, hạn chế mức tối đa mặt tiêu cực, chúng ta phải là người chủ động trong việc vận dụng các quy luật chứ không để nó chi phối. Nắm bắt được điều đó sẽ là cơ sở tạo đà, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước, nhằm tiến đến p._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35521.doc