Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đang có những bước phát triển mạnh mẽ, khoa học và công nghệ đang có những bước tiến thần kỳ, lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh, hội nhập hoá và toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu khách quan. Nhưng bên cạnh sự phát triển đó vẫn là là sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường và hàng loạt các vấn đề têu cực khác. Nguyên nhân sâu xa của nó là gì?, lực lượng vô hình nào đã điều khiển và chi phối những điều ấy? Bằng nhận thức khoa học và kinh nghiệm thực t
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễn của mình C.Mac đã chỉ ra chính là những tác động của qui luật giá trị. Từ đó cho đến nay đã trải qua gần 200 năm liệu những kết luận của Mác còn đúng nữa không và nếu còn thì có gì thay đổi, bản chất nó là gì và đang có những tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam là điều cần phải bàn cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên trong đề án này, em xin giới hạn nội dung đề tài ở việc trình bày nội dung của qui luật giá trị và các vấn đề có liên quan, một số vai trò của qui luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của qui luật giá trị trong thời gian tới.
Với trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế không nhiều chắc hẳn nội dung đề án còn nhiều thiếu sót, em xin các thầy cô thông cảm và chỉ bảo thêm.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Việt Tiến đã giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành đề án này!
qui luật giá trị và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Chương 1: quy luật giá trị và những vấn đề có liên quan
Nội dung của quy luật giá trị
Khái niệm về giá trị hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động mà một là nó có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, hai là nó sản xuất ra để bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính : giá trị và giá trị sử dụng .
Giá trị sử dụng là công dụng, tính năng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, nó thể hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.
Về mặt lượng, giá trị hàng hoá được tính bằng TGLĐXHCT để sản xuất ra hàng hoá, đó là thời gian cần để sản xuất ra hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, tức là trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình. Thông thường đó là thơì gian lao động của những người sản xuất cung cấp tuyệt đại bộ phận một loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
Nội dung của qui luật giá trị
Yêu cầu của qui luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Tính khách quan của qui luật này thể hiện ở chỗ nó không phải là sự suy diễn chủ quan mà phải đợi đến khi sản xuất hàng hoá phát triển hoàn toàn rồi, thì người ta mới nhận thấy rằng các thứ lao động tư nhân tiến hành độc lập đối với nhau tuy ràng buộc với nhau vì là những chi nhánh của hệ thống và tự phát của sự phân công nhưng luôn luôn được quy ra thước đo xã hội theo tỷ lệ của các lao động đó. Tại sao vậy? Vì trong quan hệ trao đổi ngẫu nhiên và luôn luôn thay đổi giữa các sản phẩm của lao động thì TGLĐXHCT để sản xuất ra các sản phẩm đó nhờ sức mạnh của sự phổ biến mà trở lên thắng thế và trở thành một quy luật tự nhiên mang tính chất điều tiết quá trao đổi, nó nằm ngay trong các quan hệ trao đổi nhưng lại độc lập đối với ý chí của những người tham gia và hoạt động của sản xuất.
Qui luật giá trị là qui luật mang tính lịch sử, nó chỉ tồn tại trong những điều kiện khách quan cho phép nó tồn tại đó là còn phạm trù giá trị, mà phạm trù giá trị chỉ hình thành và tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá. Trong quan hệ trao đổi hai vật có hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau nhờ chúng có chung một TGLĐXHCT, theo nghĩa đó thì nguyên tắc của sự trao đổi là ngang giá. Chính nguyên tắc này đã làm cho quy luật giá trị trở thành quy luật căn bản của nền sản xuất hàng hoá.
Qui luật giá trị có tính phổ biến đối với suốt các thời kỳ sản xuất hàng hoá giản đơn, tức là cho đến lúc mà nền sản xuất hàng hoá giản đơn bị thay thế bởi nền sản xuất TBCN. Từ trước cho đến nay, các giá cả đều xoay quanh giá trị và lên xuống xung quanh giá trị ; thành thử sản xuất hàng hoá giản đơn càng phát triển thì những giá cả trung bình lưu hành trong những thời kỳ khá dài, những giá cả không bị bất cứ những biến động ngoại lai dữ dội nào làm cho rối loạn và không có sự chênh lệnh quá lớn nào.
Các hình thái biểu hiện sự vận động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Qua các giai đoạn phát triển của nền sản xuất hàng hoá mà giá cả có các biến tướng như là giá cả sản xuất (giai đoạn tự do cạnh tranh)và giá cả độc quyền (giai đoạn CNTB độc quyền). Trong nông nghiệp có đôi nét khác biệt so với công nghiệp và sự biểu hiện của quy luật giá trị cũng có đôi chút khác biệt
Giá cả
Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị. Những biến động về cung cầu luôn luôn đưa giá của một hàng hoá đến chỗ ngang với chi phí sản xuất ra hàng hoá đó. Giá cả thực tế cố nhiên có thể cao hơn hoặc thấp hơn chi phí sản xuất ra 1 hàng hoá, nhưng xét về tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng chi phí sản xuất. Có thể trong một trạng thái nhất định thì giá cả cao hơn hoặc thấp hơn giá trị nhưng xét về tổng thể thì những trạng thái này đổ đồng lại, bù trừ cho nhau, làm mất tác dụng và tiêu diệt lẫn nhau Những trạng thái đó – Như Mác nhận xét – tưởng chừng như khiếm khuyết của quy luật giá trị nhưng thực ra nó chỉ làm phong phú thêm các hình thức biểu hiện của quy luật giá trị và trở thành vẻ đẹp của quy luật giá trị. Như vậy, ta có thể thấy rằng cái quyết định giá cả chính là chi phí sản xuất, mà chi phí sản xuất thì đo bằng TGLĐXHCT để sản xuất ra hàng hoá đó thành thử giá trị là cái quyết định giá cả của hàng hoá. Nghiên cứu về điều này cho chúng ta rút ra một kết luận :
Cho dù sự biến động của cung cầu thế nào giá cả không bao giờ tách rời giá trị, sự vận động của giá cả là do quy luật giá trị chi phối và mỗi khi TGLĐXHCT tăng lên hay giảm xuống thì nó lại làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm xuống
Giá cả sản xuất
Giá cả sản xuất là một biến tướng của giá trị xuất hiện trong thời kỳ CBTB tự do cạnh tranh.
Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân (1)
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. tỷ suất lợi nhuận bình quân hình thành là do kết quả của cạnh tranh giữa các ngành, tức lặ cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành nghề sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Chính sự di chuyển tư bản từ nơi có lợi nhuận thấp vào đầu tư lĩnh vực có lợi nhuận cao đã làm hình thành lên một lợi nhuận bình quân giữa tất cả các ngành.
Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có :
+ Đại công nghệ cơ khí TBCN
+ Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất
+ Quan hệ tín dụng phát triển
+ Tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác
Nhìn vào công thức (1) ta thấy giá cả sản xuất phụ thuộc vào hai bộ phận đó là :
Một là, chi phí sản xuất, nhưng chi phí sản xuất thì đo bằng TGLĐXHCT, hay chính là giá trị của hàng hoá
Hai là, lợi nhuận bình quân, nhưng tổng giá trị hàng hoá thì quyết định tổng giá trị thặng dư và vì qui luật giá trị thặng dư lại quyết định mức lợi nhuận bình quân
Như vậy nhìn vào hai kết luận trên, trong cả hai trường hợp giá cả sản xuất đều phụ thuộc vào giá trị của hàng hoá, hay nói cách khác quy luật giá trị đã điều tiết giá cả sản xuất.
Giá cả độc quyền
Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền
Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + lợi nhuận độc quyền (2)
Lợi nhuận độc quyền = lợi nhuận bình quân+lợi nhuận siêu ngạch độc quyền(3)
Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư hình thành trong giai đoạn độc quyền, nó có được không phải nhờ cải tiến khoa học kỹ thuật để rút ngắn TGLĐXHCT mà chủ yếu do địa vị thống trị độc quyền mà có. Nguồn gốc và cơ cấu của lợi nhuận độc quyền là:
+ giá trị thặng dư do người công nhân trong tổ chức độc quyền tạo ra
+ giá trị thặng dư công nhân ở ngoài tổ chức độc quyền tạo ra
+ một phần giá trị mới do người sản xuất nhỏ trong nước tạo ra
+ lợi nhuận do xuất khẩu tư bản sang các nước kém phát triển
+ lợi nhuận do lợi dụng việc quân sự hoá nền kinh tế, do gây chiến tranh
Về thực chất giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất và cao hơn giá trị của hàng hoá do độc quyền đó chi phối, nhưng điều đó làm cho giới hạn về sự quy định về giá trị hàng hoá bị thủ tiêu. Giá cả độc quyền của một loại hàng hoá nào đó chỉ là đem một phần lợi nhuận của nhà sản xuất hàng hoá khác chuyển cho hàng hoá có giá cả độc quyền ấy. Sự phân phối giá trị thặng dư giữa các nhành sản xuất khác nhau sẽ do đó mà bị rối loạn một cách có tính chất cục bộ nhưng không vì thế mà giới hạn về bản thân giá trị thặng dư bị biến đổi. Cuối cùng tổng giá cả độc quyền vẫn bằng tổng giá trị hàng hoá, sự lợi lộc của các nhà độc quyền lại bị bù trừ bởi sự mất đi của người công nhân và các nhà tư bản khác, hay nói quy luật giá trị đã chi phối giá cả độc quyền, giá cả độc quyền chỉ là sự thể hiện sinh động sự vận động của quy luật giá trị trong giai đoạn độc quyền.
Sự hoạt động của qui luật giá trị trong nông nghiệp
Trong các phần trên ta nghiên cứu thì giá cả sản xuất trong công nghiệp bị quyết định bởi điều kiện sản xuất trung bình. Trong nông nghiệp, nếu như vậy thì nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất xấu không thu được lợi nhuận bình quân, và do đó họ sẽ chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác. Song, nếu chỉ kinh doanh trên ruộng đất tốt thì sẽ không đủ nông phẩm để phục vụ toàn xã hội. Vì lẽ trên mà trong nông nghiệp, giá cả nông sản do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu qui định.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thường thấp hơn công nghiệp, điều này phản ánh rằng: nếu một trình độ bóc lột ngang nhau, với cùng một lượng tư bản bỏ ra thì trong nông nghiệp sẽ nhiều giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp. Tuy nhiên vì sự độc quyền về tư hữu của ruộng đất, nên nó đã ngăn cản việc tự do di chuyển luồng tư bản vào nông nghiệp và do đó ngăn cản sự hình thành lợi nhuận bình quân chung trong nông nghiệp và trong công nghiệp. Bởi vậy trong nông nghiệp không bán sản phẩm theo giá cả sản xuất chung mà bán bằng giá trị của sản phẩm.
Một số quy luật liên quan đến quy luật giá trị
Quy luật lưu thông tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết qủa lâu dài và tất yếu của trao đổi hàng hoá. Khi tiền tệ xuất hiện thế giới hàng hoá được chia làm hai, một bên là hàng hoá thông thường; một bên là hàng hoá- tiền tệ. Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá khác, nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.
Theo Mác thì, tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hoá khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữu những người sản xuất hàng hoá.
ở dạng khái quát, nội dung của quy luật này là:
Trong đó :
M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông
P là mức giá cả hàng hoá, dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem ra lưu thông
V là vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại
ở dạng cụ thể, khi Các Mác xem xét công thức khái quát gắn với các chức năng thanh toán, gắn với tín dụng, công thức biểu diễn nội dung quy luật này là:
Trong đó:
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đem bán
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau
tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán
là vòng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi.
Lượng tiền đưa và trong lưu thông là hết sức quan trọng, nó được phát hành theo hai nguyên tắc:
+ Tiền phát hành vào lưu thông phải được đảm bảo bằng khối lượng kim loại quý, tức là phải dự trữ một lượng vàng nhất định đẩm bảo giá trị cho số tiền giấy phát ra
+ Phát hành tiền đảm bảo bằng giá trị của hàng hoá, tức là phải có một
lượng hàng hoá tương ứng với số lượng tiền phát hành .
Nhìn vào nội dung của nó ta thấy rằng qui luật lưu thông tiền tệ chịu sự chi phối của qui luật giá trị.
Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Như phân tích ở trên ta thấy rõ ràng rằng trao đổi hàng hoá dựa vào giá trị của hàng hoá, chính giá trị hàng hoá đã quyết định giá cả mua bán. Tuy nhiên giá trị hàng hoá lại được xác định bằng TGLĐXHCT, đó là thời gian cần để sản xuất ra hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, vì thế để bán được hàng hoá, hay nói cách khác là để xã hội chấp nhận được sản phẩm của mình thì người sản xuất phải có thời gian lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với TGLĐXHCT. Ban đầu những người sản xuất hàng hoá tuân theo tiếng gọi của lợi nhuận mà luôn tìm mọi cách để hạ thấp thời gian lao động các biệt của mình so với thời gian lao động xã hội, chính động cơ cá nhân riêng lẻ này đã làm cho thời gian lao động xã hội ngày càng thấp xuống; và lúc này không chỉ còn vì lợi nhuận nữa mà còn cả vì sinh tồn mà những người sản xuất buộc phải cạnh tranh với nhau để không làm cho thời gian lao động cá biệt của mình cao hơn thời gian lao động xã hội. Đến lúc này thì sự cạnh tranh không thể dừng được nữa, nó đã thành một guồng máy khách quan và chạy một cách không phụ thuộc vào ý chí của những người khởi động nó. Chỉ có những kẻ chạy theo nó mới không bị dẫm đạp còn những kẻ cưỡng lại hoặc không theo kịp thì lập tức bị đào thải.
Có hai loại cạnh tranh đó là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh đó là dùng khoa học và công nghệ kết hợp với tài năng quản lý để có thể tiêu thụ hàng hoá một cách tốt nhất, kết quả của nó là không những nhà sản xuất có lợi mà cả xã hội cũng được lợi, còn cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn, những biện pháp trái pháp luật và đạo đức xã hội để thu lợi. Hậu quả của nó là những nhà sản xuất khác và xã hội bị thiệt hại
Quy luật cạnh tranh có tác dụng tích cực là đào thải cái lạc hậu bình tuyển cái tiến bộ, cụ thể là :
giúp sử dụng nguồn lực một cách tối ưu
đẩy mạnh tích tụ và tập trung sản xuất
khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
thoả mãn các nhu cầu của người tiêu dùng
thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên mặt trái là nó đẩy đến chỗ sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn và cuối cùng thì nhà tư bản càng phải kinh doanh tư bản của mình trong điều kiện ngày một khó khăn hơn.
Quy luật Cung Cầu
Cung là số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở mọi mức giá
Cầu là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua
Với nền sản xuất hàng hoá, tức là sản xuất ra hàng hoá không phải để tiêu dùng nữa mà là để bán thì xuất hiện một mâu thuẫn đó là người bán thì muốn giá trị nhưng phải thực hiện giá trị sử dụng, còn người mua cần giá trị sử dụng thì lại cần giá trị. Từ khi xuất hiện thương nhân và tiền thì quá trình trao đổi càng trở nên thuận tiện, song số phận cuối cùng của sản phẩm thì không ai có thể biết được. Người mua và người bán thường ngày càng không hiểu rõ về nhau, hành động không ăn khớp với nhau. Điều này xuất phát từ ba nguyên nhân :
+ Một là, Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông
+ Hai là, có rất nhiều người mua và người bán tham gia trên thị trường
+ Ba là, nhu cầu của con người là hết sức phong phú và đa dạng, thay đổi liên tục và khi ấy sản phẩm và sản xuất đều phó mặc cho ngẫu nhiên quyết định. Nhưng chính trong vô vàn cái ngẫu nhiên đó lại đang tồn tại cái tất yếu, sự vô trật tự lại là trật tự của tự nhiên- đó là quy luật Cung Cầu.
+ Khi Cung vượt quá Cầu, ngay lập tức sự dư thừa về hàng hoá xảy ra và lúc này những người bán cạnh tranh với nhau để tiêu thụ được hàng hoá, điều này làm cho gía cả hàng hoá có xu hướng giảm xuống. Kết quả là một, làm cho một số người bán không chịu nổi bị bật ra; hai, gía giảm làm tăng số người mua, tựu chung lại là làm cho Cầu tăng lên, cung giảm xuống và Cung Cầu tiến tới vị trí cân bằng
+ Khi Cung nhỏ hơn Cầu, sự thiếu hụt về hàng hoá xảy ra và lúc này những người mua lại cạnh tranh với nhau để mua được hàng hoá, điều này làm cho giá cả có xu hướng tăng lên. Kết quả là, một- một số người mua không chịu nổi giá cao đã bị bật ra khỏi cuộc cạnh tranh, hai – giá cao làm người bán sản xuất nhiều hơn và nhiều người bán tham gia vào hơn, tựu chung lại là làm cho Cung tăng lên và Cầu giảm xuống và Cung Cầu lại tiến tới vị trí cân bằng
+ Khi Cung và Cầu cân bằng với nhau, lúc này hàng hoá ở trạng thái cân bằng và giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định; khi đó giá cả phản ánh đúng gía trị của hàng hoá.
Như đã phân tích ở trên vì người bán không hề biết rằng người mua cần bao nhiêu hàng hoá và người mua lại không hề biết người bán bán bao nhiêu hàng hoá, do đó mà trước nay Cung và Cầu luôn có xung hướng cân bằng mà không đạt được trạng thái cân bằng. Nếu có, sự cân bằng đó cũng chỉ có tính chất thoảng qua và ngẫu nhiên mà không bền vững, điều này giải thích cho tại sao giá cả thường xuyên chỉ xoay quanh giá trị mà ít khi phù hợp với giá trị. Do đó, ta thấy rõ ràng rằng cung cầu chỉ ảnh hưởng tới giá cả, ngược lại giá cả không những biểu diễn quan hệ cung cầu mà còn quyết định cả quan hệ cung cầu. Hiểu được điều này không những góp phần giải thích rõ thêm về qui luật giá trị mà còn có ý nghĩa phê phán quan điểm không đúng đắn coi rằng chính quan hệ cung cầu đã quyết định giá cả hàng hoá chứ không phải là giá trị; coi qui luật Cung Cầu là một qui luật tuyệt diệu của nền kinh tế thị trường mà phủ nhận qui luật giá trị.
Tác dụng của qui luật giá trị
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Trong sản xuất qui luật gía trị có tác dụng điều tiết sự phân phối giữ tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất hàng hoá thông qua giá cả. Do quan hệ cung cầu chi phối mà giá cả không những chỉ biểu diễn sự biến động của quan hệ cung cầu mà còn có tác dụng điều tiết ngược lại quan hệ cung cầu. Nếu có ngành nào đó cung không đáp ứng được cầu thì giá cả hàng hoá sẽ lên cao, việc đó dẫn đến tình trạng một khối lượng tư bản sẽ được thu hút đầu tư vào ngành đó để thu được nhiều lợi nhuận, kết quả là sản xuất được mở rộng, khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động gia tăng. Ngược lại, nếu có ngành nào đó cung vượt quá cầu hàng hoá bị dư thừa, làm cho giá cả hàng hoá hạ xuống thì sẽ có một khối lượng tư bản được rút ra để đầu tư vào ngành nào đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Nhờ vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau giúp cho quá trình sản xuất giữ được trạng thái cân bằng giữa các ngành.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, qui luật giá trị có tác dụng như là một dòng chảy tự nhiên đưa hàng hoá từ nơi có giá cả cao tới nơi có giá cả thấp. Tại vùng hoặc khu vực nào có giá cả cao tức là thể hiện hai nét :
+ một là, nơi đó cung ít hơn cầu
+ hai là, giá cả đang được bán cao hơn giá trị và lợi nhuận thu được sẽ lớn.
Như vậy sẽ có những nhà tư bản mang sản phẩm của mình tới đó để bán nhằm thu được lợi nhuận cao. Điều đó làm cho cung hàng hoá tăng lên và theo qui luật làm cho giá cả của hàng hoá hạ xuống, kết quả là giá cả của các vùng có xu hướng cân bằng với nhau, không có nơi nào giá cả qúa cao và quá thấp.
Tuy nhiên do tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và lưu thông hàng hoá trong xã hội hiện thời mà trạng thái cân bằng trên đạt được (cũng như sự đạt được cân bằng của Cung Cầu) chỉ mang tính chất thoáng qua và ngẫu nhiên. Trạng thái cơ bản là không cân bằng. Suy nghĩ lý tính chỉ ra cho nhà tư bản rằng chỉ nên sản xuất vừa đủ thôi, nhưng thực tiễn thì không như thế, sự ham muốn về lợi nhuận quá mức của các nhà tư bản riêng lẻ cộng với sự thiếu quản lý chung trong sản xuất luôn dẫn tới tới tình trạng mất cân đối. Điều này được chứng minh bởi những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ của nền kinh tế TBCN, đó là những cuộc khủng hoảng thừa cứ diễn ra đều đặn mà không sao khắc phục nổi.
Kích thích lực lượng sản xuất phát triển
Qui luật giá trị và qui luật cạnh tranh chỉ ra rằng để sống sót trong điều kiện kinh doanh ngày càng khắc nghiệt và có lãi thì nhà tư bản phải không ngừng đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất lao động, cố gắng để thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời gian lao động xã hội. Do đó trong những nhà tư bản luôn có sự thi đua về mọi mặt để tăng thêm sự phân công lao động và máy móc hiện đại. Nhà tư bản nào có năng suất lao động càng cao thì càng thu được nhiều lợi nhuận hơn so với người khác. Nhưng đặc quyền của nhà tư bản không được lâu vì sớm hay muộn gì thì những nhà tư bản khác cũng đạt được năng suất lao động như thế hoặc lớn hơn và việc cải tiến như vậy trở thành phổ biến cho đến lúc mà giá cả hạ xuống không những dưới chi phí sản xuất của hàng hoá trước kia mà còn dưới cả chi phi sản xuất mới để tạo ra hàng hoá đó. Cứ như thế ta thấy cách thức sản xuất và tư liệu sản xuất luôn luôn bị biến đổi, sự phân công lao động ngày càng trở lên tỉ mỉ hơn, máy móc thì ngày càng được áp dụng với quy mô lớn hơn và hiện đại hơn.
Qui luật giá trị luôn luôn hất sản xuất tư sản ra khỏi con đường cũ và luôn luôn buộc tư bản làm cho sức sản xuất của lao động khẩn trương thêm vì trước đó đã làm cho sức sản xuất trở thành khẩn trương. Đó là qui luật không cho nhà tư bản nghỉ ngơi một chút nào và luôn rỉ tai vào nhà tư bản: “tiến lên! tiến lên nữa đi!”(1)
Kết quả là nhờ những mưu toan thu lợi cá nhân trong cuộc chạy đua về lợi nhuận giữa các nhà tư bản mà làm cho lực lượng sản xuất được lớn mạnh không ngừng, tạo ra những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật, Hàng hoá được tuôn ra ào ạt với khối lượng lớn hơn nhiều lần truớc đó đã tạo ra.
Thực tiễn đã chứng minh, ngày nay khoa học công nghệ đã thay đổi chóng mặt. Trước kia tuổi thọ một công nghệ khoảng chừng 20 năm thì nay được rút ngắn lại chỉ còn 5 tới 10 năm, cả thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức trong đó chất xám (con người) đóng vai trò quan trọng và chủ yếu. Nhiều máy móc tinh vi và hiện đại đời như máy tính điện tử đã làm thay đổi cả cuộc sống của con người. Sự phát triển đó kéo theo hàng loạt các sự phát triển khác làm cho công cụ sản xuất có những tiến bộ vượt bậc
Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá giàu nghèo
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị và lợi nhuận luôn xác định ra rõ ràng về hai phía của chiến tuyến- những người thắng trận và những người bại trận. Những người nhờ vào sự thông minh và khéo léo hơn, tháo vát và có sức lực sẽ làm tốt,làm giỏi có hao phí cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Họ sẽ đánh bật những đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, cũng nhờ việc thu nhiều lợi nhuận mà họ lại có thêm tư bản để mua sắm thêm tư liệu sản xuất, đổi mới máy móc và cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô, do đó mà sự tập trung và tích luỹ ngày càng gia tăng họ trở lên giàu có. Ngược lại những người yếu ớt và vụng về hơn hoặc vì gặp những rủi ro trong kinh doanh thì không cạnh tranh được, họ bị thua lỗ, thậm chí phá sản và bị hất cẳng khỏi thị truờng. Lúc này trong tay họ lại không có tư liệu sản xuất, để duy trì cuộc sống họ buộc phải bán sức lao động của mình, số phận họ lại trở thành những người lao động làm thuê thay cho là ông chủ.
(1) : Cac Mac, Lao động làm công và tư bản, C.Mac- F. Ăng ghen tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản sự thật, 1992.
Về phương diện tự nhiên, qui luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, xếp hạng người sản xuất. Người nào thành công sẽ được hưởng những phần thưởng xứng đáng còn những người thất bại sẽ phải chịu những hình phạt, về điểm này qui luật giá trị đã mang lại sự bình đẳng với những người sản xuất, giúp cho quá trình sản xuất ngày càng được nâng cao và phát triển.
Về phương diện xã hội, qui luật giá trị đã phân chia xã hội thành những người giàu và kẻ nghèo. Mỗi sự cạnh tranh hôm nay là chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh khốc liệt và mạnh mẽ hơn của ngày mai, và khi nào qui luật giá trị còn phát huy tác dụng của nó, các cuộc cạnh tranh còn diễn ra thì xã hội còn bị phân hoá giàu nghèo. Cạnh tranh càng sâu sắc hơn thì sự phân hoá giàu nghèo càng diễn ra rõ nét hơn. Lịch sử của sản xuất hàng hoá từ giản đơn cho đến phát triển như ngày hôm nay đã đang và sẽ chứng minh điều đó. Quan hệ chủ nô - nô lệ; quan hệ địa chủ – nông nô; quan hệ chủ – thợ , quan hệ tư sản – vô sản luôn là những qua hệ trái ngược và đối kháng nhau về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn về mặt xã hội, dẫn đến cuộc đấu tranh của những người nghèo chống lại kẻ giàu. Điều này xuất hiện như một hiện tượng tự nhiên, đó là khuyết tật cố hữu và thuộc về bản chất của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường.
Qui luật giá trị mang lại sự phát triển nhưng không loại trừ được sự mâu thuẫn, mang lại sự giàu có nhưng không xoá bỏ được sự nghèo nàn. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá thì vẫn còn điều kiện cho sự tồn tại của qui luật giá trị. Hiểu được điều đó giúp chúng ta biết được phải thừa nhận qui luật giá trị như sự tồn tại khách quan, có những biện pháp phát huy vai trò tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2 : Vai trò của qui luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của qui luật giá trị trong thời gian tới.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế trước thời kỳ đổi mới
Để có được cái nhìn tổng thể về vai trò của qui luật giá trị đã tác động đến nền kinh tế như thế nào không thể không xem xét đến nền tảng kinh tế đang duy trì sự tồn tại của nó là gì. Bỏ qua mất điều ấy chúng ta không thể hiểu được vai trò của qui luật giá trị được thể hiện hay không thể hiện, và nếu được phát huy tác dụng thì nó có tác dụng đến đâu, từ đó ta không thể nào hiểu chính xác và có những biện pháp vận dụng qui luật giá trị một cách phù hợp. ở Việt Nam khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá lại nền kinh tế tập trung trước kia để hiểu rõ thêm về sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế thị trường và khẳng định thêm về con đường đúng đắn đó. Lịch sử không chỉ là những gì đã qua mà nó hàm chứa trong đó những bài học cần thiết và những yếu tố làm nền tảng của hiện tại và tương lai. Nghiên cứu lại lịch sử giúp cho chúng ta thấy con đường đi của tương lai và biết được con đường đi cho hiện tại.
Trước năm 1986, nước ta duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp có đặc trưng:
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, tất cả nền kinh tế được kế hoạch hoá và trung ương giao chỉ tiêu pháp lệnh đến cho các địa phương.
Các cơ quan hành chính- kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả của nền kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng phương thức cấp phát và giao nộp. Nó được thể hiện là nhà nước bao cấp giá, bao tiêu sản phẩm, bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách nhà nước, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn
Trong điều kiện như thế, qui luật giá trị đã không thể phát huy được tác dụng của mình, sự tồn tại của qui luật giá trị chỉ như một chiếc bóng lờ mờ trước một nền kinh tế không căn cứ vào giá trị của hàng hoá mà dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh. Các doanh nghiệp được bao tiêu sản phẩm do đó mà không có sự cạnh tranh, cả nước sản xuất và phân phối theo kế hoạch cứng định trước nên thiếu sự năng động. Thị trường không được coi trọng do đó mà các quan hệ cung cầu bị thủ tiêu. Nền kinh tế hết sức kém phát triển.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta sau thời kỳ đổi mới
Thực hiện sự đổi mới.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phải đưa nền kinh tế thoát ra khỏi sự lạc hậu và nghèo đói, Đại hội Đảng toàn quốc họp năm 1986 đã ra nghị quyết về sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của nước ta, đó là xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển dần sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên phải tới năm 1991, sau khi đã thực hiện một số thí điểm thành công, Đại hội Đảng toàn quốc lần VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì mới có sự chuyển biến thực sự mạnh mẽ.
Năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới ra đời đã thể chế hoá tư tưởng trên thành qui định tại điều 15 “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời nền kinh tế thị trường ở nước ta. Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận nguyên tắc Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, từng bước mở của thực hiện hội nhập hoá nền kinh tế Việt Nam. Sự đổi mới đó đã như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế khô cằn của nước ta tạo nên những chuyển biến rõ rệt.
Từ đó cho tới nay mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã dần định hình với những đặc điểm:
Nền kinh tế trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
Nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Vai trò của qui luật giá trị đối với nền kinh tế nước ta.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35514.doc