LờI Mở đầU
Thành tựu kinh tế Việt Nam thời kì đổi mới từ năm 1986 đến năm 2002 là nhờ đường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa.Đảng ta đã khẳng định kinh tế hàng hoá là phương thức để đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.Việc nắm bắt và vận dụng những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá là rất cần thiết trong tình hình Việt Nam hiện nay ,bởi chúng là những cơ sơ để kinh tế hàng hoá phát huy tác dụng ,việc nắm bắt nhưng quy luật kinh tế cơ bản sẽ giúp chúng ta có nhưng quyết sách hợp lýđể t
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo những điều kiện để kinh tế hàng hoá phát huy tác dụng.Một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá đó là quy luật Gia trị ,trong kinh tế hàng hoá quy luật giá trị là một quy luật đòi hỏi sản xuất hàng hóa phải lấy giá trị là thước đo.
Nghiên cứu quy luật giá trị có phạm vi nghiên cứu rất rông lớn bởi những tác động ,ảnh hưởng rất lớn của quy luật giá trị tới kinh tế hàng hoá.Hơn nữa đã có nhiều đề tài nghiên cứu những tác động ảnh hưởng ...của quy luật này trong nền kinh tế hàng hoá,với khả năng còn nhiều hạn chế đề án này chỉ nghiên cứu những tác động chung nhất của quy luật giá trị đến sự phát triển kinh tế hàng hoá ơ Việt Nam trong thời kì đổi mới cũng như những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị nước ta trong thời gian tới.
MụC LụC
Trang
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1
Lý luận chung về quy luật giá trị
1.1 Gía trị hàng hoá
1.1.1 Kinh tế hàng hoá
Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ,đảm bảo những điều kiện vật chất phục vụ đời sống của con người loài người đã sử dụng kiểu tổ chức kinh tế sản xuất tự cung tự cấp để giải quyêt vấn đề sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào ,sản xuất cho ai.Sản xuất tự cung tự cấp là hình thức sản xuất mà sản phảm sản xuất ra là để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ từng cá nhân ,từng gia dình. Sản phẩm sản xuất ra không dùng dể trao dổi mua bán.Do không có quan hệ trao đổi giữa các chủ thể kinh tế với nhau nên no có tính bảo thủ trì trệ ,bị giới hạn bởi những nhu cầu nhỏ trong phạm vi không gian tiêu dùng nhỏ,nên nó không kích thích phát triển kinh tế .Nhưng thật sự sản xuất tự cung tự cấp cung dã đáp úng những nhu cầu của con người trong một thời gian dài từ thời kì công xã nguyên thuỷ , tồn tại phổ biến trong thời kì chiếm hữu nô lệ và dấn đi vào suy tàn trong thời kì phong kiến,đó là giai đoạn mà lưc lương sản xuất còn ơ trình dộ thấp,lao động chủ yếu là lao động thủ công .
Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển của xã hội ,quá trình phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình tự phủ định của kiểu tổ chức tự cung tự cấp . Thì sự ra đời của kinh tế hàng hoá là tất yếu khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển ơ trình độ cao,hai điều kiện đảm bảo sản xuất hàng hoá ra đời là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về sở hữu đã chín muồi.
Khi mà nhu cầu về vật chất của con người không ngưng gia tăng trong khi mà với kiểu tổ chức kinh tế tự cung tự cấp thì với khả năng của mỗi người đều có hạn không thể tự sản xuất đủ để phục vụ nhu cầu của bản thân. Mỗi người đều không thể có đủ những điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật để sản xuất .Trước yêu cầu thực tế đó để có thể sản xuất ngày càng nhiều hơn sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người buôc phải có sự phân công lao đông giưa các chủ thể kinh tế,phải có sự phân công lao đông xã hội .Đó là quá trình phân công xã hội thành nhưng nhóm người chuyên sản xuất một loại sản phẩm nào đó và sau đó thực hiện quá trình trao đổi giưã những người có sản phẩm khấc nhau để thoa mãn nhu cầu của mỗi người.Khi đó các nguồn lực của sản xuất sẽ được tận dung triệt để nhằm sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ đời sống con người .Tuy nhiên thì điều kiện về phân công lao đông xa hội không phải là điều kiện duy nhất để có thể phát triển kinh tế hàng hoá mà còn phải có sự tách biệt về sở hữu đây là điều kiện đủ bởi chỉ có sự tách biệt về sở hữu thì quá trình trao đổi mới được thực hiện .Chỉ khi có sự tách biệt về sở hữu về tư liệu sản xuất thì mới có sự khác biệt về sản phẩm sản xuất ra giữa các chủ thể kinh tế mới đảm bảo người này cần sản phẩm của người khác và khi đó quá trình trao đổi mới được thưc hiện.Khi đó sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hoá.
Như vậy kinh tế hàng hoá là nền kinh tế mà sản phẩm của lao động được bán trên thị trường,các câu hỏi cua sản xuất là sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào ,sản xuất cho ai đều thông qua việc mua bán ,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Sản xuất hàng hoá trở thành phổ biến để phát triển bởi nhưng ưu thế rõ rệt của nó, đó là thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội ngày càng chặt chẽ ,tuỳ điều kiện thực tế mà có sự phân công lao đông để khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người ,thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất mọi người đều làm việc để đáp ưng nhu cầu của bản thân cũng như nhu cầu của người khác nhu cầu của xã hội.Để sản phẩm lao động của mình được chấp nhận trên thị trường thì mỗi người sản xuất phải không ngừng cải tiến kĩ thuật ,công nghệ nhằm làm cho sản phảm của mình co chất lương ngày càng cao ,lao đong hao phi bỏ ra ngày càng giảm để thu dược lợi cao nhất vì thế sản xuất hàng hoá thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển...
1.1.2. Giá trị hàng hoá
Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm của lao động được trao đổi giữa những chủ thể kinh tế nắm giữ chúng hay là được mua bán trên thị trường và nó trở thành hàng hoá.Kinh tế hàng hoá thì mọi quá trình hoạt động của sản xuất ,sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào sản xuất cho ai đều thông qua mua bán ,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.Trong khi sản phẩm lao động trong kinh tế tự cung tự cấp không được đem bán mà chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất.
Sản phẩm lao động trong nền kinh tế hàng hoá chỉ trở thành hàng hoá khi nó có hai thuộc tính đó là nó có giá trị sử dụng và có giá trị.Gía trị sử dụng của hàng hoá chính là công dụng của nó để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người ví dụ quần áo ,giầy dép ..công dụng của nó do thuộc tính tự nhiên của nó quy định .Gía trị sử dụngchỉ đươc thể hiện khi sử dung hay tiêu dùng chúng ,dù trong bất cứ hình thức xã hội nào thì công dung hay giá trị sử dung vẫn không thay đổi,hay nói cách khác giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn .Tuy nhiên một vật có giá trị sử dụng nhưng có thể không là hàng hoá ví dụ như nước ,không khí ..bởi vì chúng không có giá trị trao đổi .Điều kiện giá trị sử dụng chỉ là điều kiện cần để một vật trở thành hàng hoá,và chúng chỉ là hàng hoá khi chung còn có thêm giá trị trao đổi hay giá trị.
Gía trị hàng hoá đó là lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá,là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.Hình thức biểu hiện của giá trị chính là giá trị trao đổi,trong đó giá trị trao đổi là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dung này trao đổi với giá trị sử dung khác,ví dụ 1rìu đổi 30 kg thóc tuy giá trị sử dung của chúng là khác nhau nhưng chúng trao đổi được với nhau là vì người ta cho rằng lao động hao phí để sản xuất ra 1chiéc rìu bằng với lao động hao phí để sản xuất ra 30kg thóc .Như vậy một vật chỉ có giá trị khi chung là kết tinh của lao động của con người ,một vật dù có giá trị sử dung nhưng không có lao đông của con người kết tinh trong nó thì nó không có giá trị như nước,không khí.. Ta cũng thấy rằng khi trao đổi trên được thực hiện thì người sản xuất rìu và người sản xuất thóc đều cho rằng lao động của họ bằng lao động của người kia và họ thực hiện trao đổi ,như vậy thưc chất của giá trị là biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá ,quan hệ giữa người với người không còn là quan hệ thuần tuý mà nó đươc thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật hay bằng lợi ích kinh tế.
Gía trị của hàng hoá nó là một phạm trù lịch sử nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá,chỉ trong kinh tế hàng hoá có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì mới tồn tại phạm trù giá trị.
Thước đo của giá trị là gì ?Thước đo của giá trị chính là số lượng lao động,nhưng số lượng lao động lại đo bằng thời gian lao động và thời gian lao động lại đo bằng những phần của thời gian như giờ ngày ...Nếu như vậy phải chăng một người càng lười biếng ,vụng về thì hàng hoá của anh ta càng có giá trị bởi thời gian để anh ta sản xuất ra hàng hoá đó nhiều hơn của người bình thường cũng sản xuất hàng hoá đó.Không phải vậy bởi thời gian lao động tạo ra giá trị không phải là thời gian cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá đó mà là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá đó.Thời gian lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá là thời gian cần thiết cho bất cứ lao động nào tiến hành với một trình độ trung bình và một cường độ trung bình, trong những điều kiện bình thường so với hoàn cảnh xã hội nhất định.Ơ Anh sau khi đem dùng máy dệt chạy bằng hơi nước thì muốn chế biến một lượng vải sợi nhất định thành vải thì chỉ cần một nửa số lao động như trước kia .Người thợ dệt Anh chỉ muốn ché biến xong số sợi ấy thực ra vẫn cần một số thời gían lao động như trước kia ,nhưng bây giờ thì sản phẩm của một giờ lao động của anh ta chỉ bằng nửa giờ lao động của xã hội và chỉ tạo ra một giá trị bằng một nửa giá trị trước kia.Thông thường giá trị một hàng hoá được đo bằng thời gian lao động của những người cung cáp phần chủ yếu ,tuyệt đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường .
Tuy nhiên thời gian lao động xã hội cần thiết hay lượng giá trị của một hàng hoá cung thay đổi theo sự thay đổi của năng xuất lao động xã hội,năng xuất lao động xã hội được đo bằng số lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian hay đo bằng số thời gian la động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.Năng xuất lao động xã hội càng cao ,thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ítkhối lượng lao đông kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhở thì giá trị của sản phẩm càng thấp,còn ngược lại khi mà thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng lớn hay hao phí càng nhiều thì giá trị hàng hoá càng lớn.Ơ đây có mối quan hệ chặt chẽ giữa giá trị của một hàng hoá với năng suất lao động và số lượng lao động hao phí đó là lượng giá trị một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động hao phí và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động để sản xuất ra hàng hoá đó.Mặt khác năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố như trình độ khéo léo của người lao động sự phát triển của khoa học kĩ thuật ,đièu kiện tự nhiên ...do đó khi nhưng nhân tố này phát triển thì kéo theo nó là giá trị của từng đơn vị hàng hoá giảm xuống.
Gía trị của hàng hoá là khái niệm trừu tượng nó chỉ bộc lộ qua trao đổi và ngay cả khi trao đổi thì căn cứ để xác định đó là thời gian lao động xã hội cần thiết cũng không thấy rõ.Nhưng trên thị trường thì cái nhìn thấy rõ nhất đó là giá cả của hàng hoá đó,giá cả của hàng hoá chính là biểu hiện của giá trị hàng hoá trên thị trường.Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá để thuận lợi cho trao đổi mua bán hàng hoá trên thị trường là sự ra đời của tiền tệ ,một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác.Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giũa những người sản xuất hàng hoá hay nó là biểu hiện giá trị của hàng hoá.Nhờ tiền tệ mà quá trình trao đổi mua bán hàng hoá trở lên thuận lợi hơn,thời gian thực hiện trao đổi giảm xuống .
1.2. Quy luật giá trị
1.2.1 Quy luật giá trị
Kinh tế hàng hoá ở đó sản phẩm của lao động được trao đổi mua bán trên thị trường,cũng như mọi hình thức sản xuất khác nó có nhưng quy luật của chính nó ,của riêng nó.Những quy luật kinh tế đó ra đời phát huy tác dụng và mất đi không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người,nhưng nó hoạt động thông qua những hoạt động kinh tế của con người,nó không phải là những quy luật tự nhiên.Một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá đó là quy luật giá trị .
Quy luật giá trị yêu cầu mọi hoạt động trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị của hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau khi chúng có lượng giá trị ngang nhau .Như vậy thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá và một hàng hoá chỉ được chấp nhận trên thị trường hay bán được khi mà hao phí lao động cá biệt cá của nó phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.Qúa trình trao đổi hàng hoá là sự chấp nhận giá trị của hàng hoá hay trên thị trường thì đó là sự chấp nhận giá cả của hàng hoá đó.
Gía cả một hàng hoá phụ thuộc vào giá trị của hàng hoá đó do giá trị là cơ sở của giá cả tuy nhiên trong kinh tế hàng hóa còn nhiều nhân tố tác dộng tới giá cả của hàng hoá như quan hệ cung cầu ,tình trạng độc quyền...Trong quan hệ cung cầu tác động tới giá hàng hoá có ba mặt đó là sự cạnh tranh của những người cùng bán một loại hàng hoá để có thể bán một lượng hàng hoá nhiều nhất buộc họ phải hạ giá bán,sự cạnh tranh giữ những người cùng mua một loại sản phẩm làm cho giá của hàng hoá tăng và cuối cùng là sự cạnh tranh giữa những người bán và những người mua sẽ xác định giá cả của hàng hoá tăng hoặc giảm nhưng dù thế nào thì giá của hàng hoá đó luôn ngang bằng với chi phí sản xuất hàng hoá đó .Gía cả thực tế của một hàng hoá luôn luôn cao hơn hay thấp hơn chi phí sản xuất hàng hoá đó nhưng trong một phạm vi nhất định thì sự bù trừ giữ tăng và giảm lại làm cho giá cả hàng hoá đúng bằng chi phí sản xuất hàng hoá đó.Việc giá cả do chi phí sản xuất quyết định cũng như do thời gian lao động xã hội quyết định hay giá cả do giá trị của hàng hoá quyết định .Bởi chi phí sản xuất bao gồm lao động quá khứ và lao động hiên tại .Như vậy giá cả của hàng hoá luôn lên xuống xoay quanh giá trị của nó .Cmác gọi đây là vẻ đẹp của quy luật giá trị ,giá trị là trục còn giá cả thị trường lên xuống xoay quanh trục giá trị đó .Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả của nó có thể cao hơn hay thấp hơn giá trị của chúng nhưng trên hết tổng giá cả của mọi hàng hoá luôn bằng tổng giá trị của chúng.
Như vậy quy luật giá trị gắn liền với nó là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với hao phí lao động xã hội từ đó đảm bảo rằng sản phẩm của mình được chấp nhận trên thị trường .Nguyên tắc trao đổi ngang giá buộc nhà sản xuất phải luôn quan tâm đến giá cả của hàng hoá họ sản xuất trên thị trường.
1.1.2 Vai trò của quy luật giá trị
Tác dụng điều tiết sản xuất
Trong sản xuất thì tác dụng của quy luật giá trị đó là điều tiết viêc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động gữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Bởi giá cả của hàng hoá luôn biến động xoay quanh giá trị của hàng hoá ,luôn có sự không cân đối giữa cung và cầu của các mặt hàng. Hơn nữa các nhà sản xuất luôn muốn tối đa hoá lợi ích của bản thân chính vì vậy ở những ngành sản xuất mà dư cầu thì các nhà xản xuất sẽ tập trung vào ngành sản xuất đó .Ngược lại những ngành mà dư cung ,giá cả hàng hoá hạ xuống thì các nhà sản xuất sẽ chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khởi ngành này để đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao .Như vậy sự biến động của giá cả xung quanh giá trị có tác dụng điều tiết ,phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động mọt cách tự phát vào những ngành khác nhau.
Bên cạnh tác dụng điều tiết sản xuất giữa các ngành sản xuất thì quy luật giá trị mà biểu hiện của nó là giá cả của hàng hoá còn có tác dụng điều tiết hàng hóa từ khu vực này sang khu vực khác ,từ vùng này sang vùng khác.Bởi với những điều kiện sản xuất ,điều kiện tự nhiên khác nhau thì có thể dãn đến sự khác biệt lớn về giá của hàng hoá ở các vùng khác nhau trong điều kiện nhất định do đó các nhà xản xuất sẽ thực hiện việc điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao để thu được nhiều lợi nhất.
Tác dụng kích thích phát triển sức sản xuất
Quy luật cạnh tranh
Kinh tế hàng hoá gắn liền với nó là quy luật cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để nhằm thu được lợi ích kinh té cao nhất cho bản thân minh các nhà sản xuất luôn cố gắng giảm tối đa chi phí sản xuất của mình hay là tìm cách tối thiểu hao phí lao động cá biệt của bản thân mình .Bởi để có thể hất cẳng nhà tư bản khác thì chính họ phải làm sao giảm giá bán hàng hoá của mình,muốn thế mà không bị sạt nghiệp thì buộc họ phải tăng năng suất lao động .Để có thể tăng năng suất lao động buộc các nhà sản xuất phải không ngừng cải tiến kĩ thuật máy móc,không ngừng phân công lao động một cách tỉ mỉ hơn ,nâng cao năng lực quản lý.Khi công nhân được sử dụng ngày càng nhiều cùng với máy móc được sử dụng ngày càng nhiều thì khối lượng sản phẩm cũng không ngừng tăng lên và việc quyết định về giá của sản phẩm là rất cần thiết đối với nhà sản xuất một mặt đảm bảo sử dụng lợi thế để thắng trong cạnh tranh với nhà sản xuất khác đồng thời đảm bảo vẫn có lãi .Nhưng đặc quyền về công nghệ cũng như quyết định giá của nhà sản xuất không được lâu bởi các đối thủ cũng sẽ dùng những máy móc như thế ,lối quản lý và phân công lao động như thế .Như thế việc cải tiên trở thành phổ biến và cùng với nó là giá cả của hàng hoá cũng giảm dưới chi phí sản xuất trước kia ,phù hợp với chi phí sản xuất mới hay phù hợp với giá trị của hàng hoá trong điều kiện mới.
Ngay trong hiện tượng giá trị là biểu hiện của lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm tư nhân cũng chứa đựng khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm ngay trong sản phẩm.Vì thế nó luôn buộc các nhà sản xuất phải không ngừng làm giảm hao phí lao động cá biệt kết tinh trong hàng hoá đó ,đó là quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên ngay trong mặt tích cực này của quy luật giá trị thì nó cũng bộc lộ hạn chế ,bởi không chỉ nó yêu cầu nhà sản xuất phải hạ thấp mức hao phí lao động cá biệt để có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh ,giảm giá của hàng hoá cũng như chạy theo các hàng hoá có giá cả cao mà mặt khác do chạy theo lợi ích bản thân chạy theo hàng hoá có giá cao dễ dẫn đén tình trạng dư thừa một loại hàng hoá nào đó,làm lãng phí lao động xã hội.
Tác dụng bình tuyển tự nhiên ,phân hoá người giàu người nghèo.
Khi cạnh tranh chạy theo giá trị có thể lao động cá biệt của một người sản xuất không nhất trí với lao động xã hội cần thiết .Khi đó những người sản xuất được phân chia thành những người có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội và những người có hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội .Những người mà hao phí lao đọng cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội sẽ có nhiều điều kiên để thực hiện mở rộng quy mô sản xuất ,còn những ngươì mà hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội thì do không bù đắp được đủ chi phí sản xuất nên họ bị nỗ vốn thậm chí phá sản.Như vậy quy luật giá trị đã đánh giá người sản xuất,đảm bảo sự bình đẳng giữa những người sản xuất,nó mang lại phần thưởng cho người làm ăn tốt và hình phạt cho những người làm ăn kém.
Đồng thời với thực hiện bình tuyển người sản xuất thành người giỏi và người kém thì quy luật giá trị cũng phân hoá người sản xuất thành người giàu và người nghèo.Người sản xuất có hao phí lao động thấp hơn hao phí lao động xã hội sẽ thu được nhiều lợi hơn và không ngừng tăng quy mô sản xuất,sẽ trở thành chủ còn những người có hao phí lao động cao hơn hao phí lao động xã hội sẽ lỗ vốn,bần cùng hoá trở thành người làm thuê .Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá thì hố ngăn cách giữa người giàu với người nghèo ngày càng tăng.Đây là một khuyết tật của kinh tế hàng hoá.
1.3. Trung quốc phát triển kinh tế hàng hoá
Trước năm1978 kinh tế Trung quôc trong tình trạng sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước bởi dân số quá đông,sản xuất nhìn chung vẫn ở trình độ thấp ,đời sống nhân dân thấp trong tình trạng bất ổn định ,nhập siêu là chính ,trước tình hình đó của nền kinh tế Đảng cộng sản trung quốc đã quyết dịnh cải tổ nền kinh tế ,người đứng đầu là Đặng tiểu Bình,thực hiện phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa mang màu sắc trung quốc.Ban đầu thực hiện thay đổi trong nhận thức lãnh đạo và toàn dân về kinh tế xã hội chủ nghĩa ,phải chuyển kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường ,phát triển các thành phần kinh tế mà trước đây coi là phi chủ nghĩa xã hội . Tiếp đó là quá trình thay đỏi về lý luận cho rằng muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội có nhiều con đường có nhiều cách thức để tiến lên chứ không phải chỉ có một con đường duy nhất là kinh tế tập trung ,một trong những con đường đó là kinh tế hàng hoá kinh tế mà trước đây cho rằng đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa.Sau đó trung quốc từng bước thực hiên quá trình chuyển đổi kinh tế trên các vùng nhỏ sau khi đánh giá mới tiến hành nhân rộng ra nhiều khu vực ,và toàn bộ nền kinh tế.Sau thời gian tiến hành thử nghiệm dã khẳng định kinh tế hàng hoá là phương thức phát triển kinh tế hàng hoá là phương thức đưa trung quốc lên chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 2
THƯC TRạNG QUá TRìNH VậN DụNG QUY LUậT GIá TRị Và NHữNG GIảI PHáP NHằM VậN DụNG TốT QUY LUậT GIá TRị ở VIệT NAM TRONG ThờI GIAN TớI
2.1 Đặc điểm kinh tế Việt Nam
2..1 Kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Nền kinh tế Nông nghiệp lạc hậu bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuần lúa nước do đó tình trạng sản xuất thủ công là chủ yếu ,không có phương tiện cơ giới để sản xuất ,sản xuất công nghiệp còn sơ khai,lao động thủ công trình độ tri thức thấp,chủ yếu mù chữ.Trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống Pháp và chống Mỹ kinh tế Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề.Pháp sau khi chiếm đóng Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách nhằm vơ vết cạn kiệt tài nguyên của nước ta ,chúng thực hiện chính sách đồng hoá nhân dân ta ,chung đã từ thủ đoạn nào để có thể thu được cang nhiều lợi càng tốt,không quan tâm đến sự phát triển của Việt Nam . Do đó dù sau thời gian dài chịu sự đô hộ của thực dân Pháp nhưng kinh tế Việt Nam không những không phát triển mà còn bị làm cho què quặt ,chủ yếu phát triển ngành công nghiệp khai thác nhưng cũng sử dụng lao động thủ công là chính.Thời kì kháng chiến chống Mỹ thì nền kinh tế Việt Nam bị chia thành hai nửa ,miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội còn miền Nam thì đang tiến hành chiến tranh cứu quốc.Đế quốc Mỹ với tiềm lực về kinh tế và quân sự đã tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam chúng sử dụng một lực lượng quân sự lớn với vũ khí hiện đại sức tàn phá lớn do vậy không những nước ta chịu nhiều hậu quả do bom đạn của chúng gây ra mà chúng ta còn mất nhiều sức lực để chống chọi với chúng.Sau khi đất nước giành độc lập thì cả nước ta cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh.
Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Trong thời kì từ năm 1975 đến năm 1986 chúng ta áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung,một mô hình kinh tế tuy trong diều kiện khi miền Bắc tiến hành thực hiện trước năm 1975 đã đem lại nhiều kết quả tốt giúp phát triển kinh tế tạo lượng vật chất lớn phục vụ chiến tranh,.Cả trong thời gian đầu sau khi chiến tranh kết thúc mô hình kinh tế tập trung bao cấp cũng đã góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội của nước ta , nâng cao đời sống nhân dân ,góp phần phát triển kinh tế .Nhưng do áp dụng một cách máy móc mô hình của Liên Xô trong khi điều kiện kinh tế xã hội của nước ta khác biệt so với Liên Xô nên mô hình này đã dần cản trở quá trình phát triển kinh tế nước ta.Một mô hình kinh tế mà ở đó các hoạt đông kinh tế đều được điều khiển từ một trung tâm đó là nhà nước,nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính hay bằng các chỉ tiêu pháp lệnh .Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước lại can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế, trong khi cán bộ kém năng lực quản lý kinh tế nhưng quan liêu cửa quyền.Một mô hình kinh tế mà quan hệ hàng hoá tiền tệ bị bỏ qua ,thay vào đó là chế độ cấp phát và bao cấp,bao cấp qua giá qua tiền lương và bao cấp cả vốn sản xuất mà không chịu bất cứ ràng buộc bất cứ trách nhiệm nào. Tất cả đã đưa nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế chỉ huy,coi kinh tế hàng hoá là kinh tế tư bản nên đã dần bóp nghẹt các hoạt động sản xuất kinh doanh cá thể.
Chính vì vậy kinh tế Việt Nam những năm 80của thế kỉ trước ở trong tình trạng khủng hoảng toàn diện,lạm phát cao ở mức ba con số ,tình trạng khan hiếm hàng hoá,hoạt động sản xuất không có hiệu quả.hoạt động ngoại thương thì chủ yếu là nhập khẩu hay ở trong tình trạng nhập siêu ,tỷ lệ thất nghiệp cao .Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ lạc hậu ,sản xuất thủ công là chủ yếu ,nền kinh tế không có khả năng cạnh tranh thị trường còn sơ khai .Trong khi đó thì đội ngũ quản lý trình độ năng lực hạn chế ,hoạt động theo kiêu quan liêu cửa quyền. Đời sống nhân dân khó khăn ,thu nhập thấp ,khan hiếm hàng tiêu dùng .Tình trạng giáo dục y tế ,các hoạt động phúc lợi xã hội không mấy sáng sủa .Gây lên tình trạng bất ổn trong tâm lý dân chúng,làm suy giảm niềm tin về đảng và con đường mà đảng và nhân dân đã chọn là con đường tiến lên chủ nghiã xã hội .
2.2.2 Kinh tế Vệt Nam thời kì đổi mới từ năm 1986
Đứng trước tình hình khủng hoảng của kinh tế đó Đảng cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định con dường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển,phù hợp với quy luật khách quan.Đồng thời đảng ta đã quyết định thực hiện từng bước cải tổ nền kinh tế ,từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Nền kinh tế nước ta đó là một nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm thành phần kinh tế Nhà nước ,kinh tế tập thể ,kinh tế cá thể,kinh tế tư bản nhà nước ,kinh tế tư bản chủ nghĩa ,đang ta khẳng định các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng trong giai đoạn này.Kinh tế nhiều thành phần góp phần đáp ứng ngày càng cao nhu cầu xã hội ,góp phần xã hội hoá sản xuất.Mỗi thành phần kinh tế có một quy luật vận động riêng do đó thể hiện tính phức tạp trong việc quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế mở với xu thế hội nhập khu vực và thế giới
Kinh tế hàng hoá ra đời và phát triểnđã làm phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín,kinh tế khép kín gắn liền với sản xuất nhỏ ,khép kín,một nền kinh tế kém phát triển bảo thủ trì trệ ,còn kinh tế hàng hoá làm cho các mối quan hệ kinh tế không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia nó gắn liền với thị trường thế giới.Thực tế kinh tế Việt Nam trong giai doạn trước ,kinh tế tuy có quan hệ với bên ngoài nhưng chủ yếu là quan hệ một chiều nhập ,do vậy không tận dụng được nguồn lực bên ngoài,ít học hởi kinh nghiệm khoa học công nghệ .Việc mở rông quan hệ hợp tác với bên ngoài dưới sự lãnh đạo của đảng là một định hướng đúng đắn bởi để không bị biến dạng khi tham gia các mối quan hệ kinh tế với bên ngoài đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đảng.Mở rộngquan hệ hợp tác với bên ngoài phải tận dụng triệt dể các cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài,tranh thủ học hỏi khoa học công nghệ để không ngừng phát triển kinh tế nước ta.
Nền kinh tế đảm bảo sự quản lý của nhà nước
Tuy nhiên để đảm bảo không trệch hướng xã hội chủ nghĩa thì phải đảm bảo sự quản lý của nhà nước,bởi kinh tế hàng hoá cũng cho thấy những hạn chế của nó như bất bình đẳng xã hội phân hoá người giàu người nghèo điều này đi ngược lại với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của chủ nghĩa xã hội hơn nữa tình trạng khủng hoảng ,thất nghiệp,ô nhiễm môi trường...Quản lý của nhà nước bằng luật pháp các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô ,làm cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng hợp lý,hạn chế những tác động không mong muốn đến nền kinh tế .
Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với sự đa dạng các thành phần kinh tế ,thực hiện mở của nền kinh tế là diều kiện để quy luật giá trị một quy luật cơ bản của kinh tế hàng hoá hoạt động phát huy tác dụng .Tuy nhiên việc nắm bắt quy luật là rất cần thiết bởi bên cạnh những tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế thì quy luật này còn bộc lộ nhiều hạn chế tác động không tốt tới phát triển kinh tế do đó nắm bắt quy luật sẽ giúp đưa ra những quyết định hợp lý tạo điều kiện phát huy tác dụng mong muốn hạn chế những tác động không mong muốn.
2.2 Qúa trình vận dụng và vai trò của quy luật giá trị đối với kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2002
2.2.1. Thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất
Kinh tế thị trường với quy luật kinh tế cơ bản của nó là quy luật giá trị buộc các nhà sản xuất phải không ngừng cạnh tranh nhằm giảm tối đa hao phí lao động cá biệt hay không ngừng tăng năng suất lao dộng bằng con đường cải tiến công nghệ,hợp lý quản lý sản xuất ,phân công lao động một cách tỷ mỷ hơn .
Qúa trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam
Để có thể phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế mở của cạnh tranh ngày càng khốc liệt ,tiến lên chủ nghĩa xã hội đảng và nhà nước ta đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là một bước vận dụng quy luật giá trị trong điều kiện nước ta hiện nay.Để khai thác đạt hiệu quả tối đa tiềm năng kinh tế đất nước về nhân công tài nguyên thiên nhiên vị trí địa lý...sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của một nước phát triển muộn về công nghiệp ,phù hợp xu thế của cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ ,xu hướng toàn cầu hoá ,khu vự hoá và đem lại hiệu quả kinh tế cao . Đồng thời với quá trình đó là quá trình phân công lại lao động xã hội .phân công lao đọng xã hội là là sự chuyên môn hoá lao động do đó chuyên môn hoá sản xuất giữa các nghành ,trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân .Phân công lao động xã hội có tác dụng là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ sản xuất và năng xuất lao động .Cùng với nó là quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ ,phất triển của giáo dục sẽ thúc đẩy phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng hiên đại.
Phát triển khoa học công nghệ ,trình độ người lao động dược nâng cao
Đảng và nhà nước đã khẳng định khoa học giáo dục là quốc sách hàng đầu,do vậy trong thời gian qua nhà nước ta đã đầu tư nhiều cho giáo dục đào tạo, cũng như toàn xã hội đã thực sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đào tạo. Chất lượng giáo dục không ngừng tăng ở tất cả các cấp học từ tiểu học cho đến cao đẳng ,đại học và các cấp trên đại học .Cùng với nó là quá trình tăng lên về số lượng học sinh ở tất cả các cấp học ,từ đó trình độ của người lao động không ngừng tăng đáp ưng nhu cầu ngày càng cao về mặt chất lượng lao động trong thời đại mới.Người lao động giờ đây đã được trang bị trình độ khoa học ,trình độ tri thức ngày càng tăng.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam không ngừng tăng
Kinh tế hàng hoá buộc nhà sản xuất phải không ngừng giảm hao phí lao động cá biệt ,phải luôn cạnh tranh với nhau để thu được lợi ích kinh tế tối đa,chính vì vậy nhà sản xuất không ngừng phát triển kĩ thuật công nghệ ,tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35456.doc