Mở Đầu
Năm 1986 là năm đánh dấu công cuộc đổi mới khi chúng ta từng bước tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung ,quan liêu ,bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trường
Đối với nền kinh tế thị trường thì quy luật giá trị là một quy luật rất quan trọng . Thông qua sự điều tiết của quy luật giá trị với nền sản xuất hàng hoá đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kinh tế đất nước. Như vậy việc áp dụng quy luật giá trị vào việc phát triển nền kinh tế quốc gia là điều tôí cần thiết
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá và sự vận dụng quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc biệt nước ta là một nước đang phát triển , từng bước hộI nhập nền kinh tế quốc tế cần phải vận dụng đúng quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN .
Là một sinh viên trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân , một cử nhân kinh tế tương lai vì vậy vấn đề kinh tế Việt Nam và những cơ sở lý luận nào có thể giúp nền kinh tế phát triển đúng hướng luôn thu hút em . Hơn nữa với tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường trong việc phát triển kinh tế Việt Nam thúc đẩy em chọn đề tài này, đề tài : “ Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá và sự vận dụng quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam “
Nội Dung
I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT GIÁ TRỊ .
1 . Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá
Quy luật giá trị là gì ?
Phát triển kinh tế thị trường là xu thế tất yếu của quá trình đổi mới nền kinh tế . Không có quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế phát triển lại không áp dụng quy luật kinh tế vào quốc gia đó và vận hành chúng một cách có hiệu quả nhất . Và trong các quy luật kinh tế được áp dụng thì quy luật giá trị là một quy luật rất quan trọng . Nó là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá . Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị . Chính vì vậy quy luật này có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế .
Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết . Trong kinh tế hàng hoá , mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết . Vì vậy , muốn bán được hàng hoá , bù đắp được chi phí và có lãi , người sản xuất phải điều chỉnh làm cho chi phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được .
Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết , có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá : giá cả hàng hoá phải phù hợp với giá trị của nó .
b)Vai trò của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá .
Điều tiết sản xuất và trao đổi lưu thông để đảm bảo quá trình tái sản xuất phát triển không ngừng .
Trong sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TLSX thì sản xuất là công việc của mỗi người , họ đều sản xuất và cung cấp hàng hoá cho thị trường nhưng họ lại không biết được nhu cầu của thị trường về hàng hoá mà mình sản xuất . Có thể sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thị trường hoặc sản xuất hàng hoá nhiều dẫn đến hàng hoá bị ế thừa , quá trình tái sản xuất không tiếp tục được nữa , nền sản xuất và trao đổi sẽ bị rối loạn . Nhưng trong thực tế mọi người sản xuất đều tiến hành một cách trôi chảy , bình thường . Vậy phải có một lực lượng điều tiết , lực lượng đó chính là vai trò quy luật giá trị , điều tiết thông qua giá cả trên thị trường .
2 . Yêu cầu của quy luật giá trị .
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải được tiến hành dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết .
Trong nền sản xuất hàng hoá : Đối với một hàng hoá phải được tiến hành dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết , hao phí lao động cá biệt phụ hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết nhưng trong trường hợp đặc biệt tại thời điểm nhất định thì hao phí lao động cá biệt bằng hao phí lao động xã hội cần thiết . Đối với tổng hàng hoá thì tổng hàng hoá sản xuất ra bằng tổng thời gian lao động xã hội cần thiết hoặc bằng tổng nhu cầu xã hội có khả năng thanh toán hoặc bằng tổng sức mua của đồng tiền .
Trong trao đổi lưu thông: Đối với một hàng hoá thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá ( giá cả ngang bằng giá trị ) Trong thực tế một hàng hoá được sản xuất ra mà từ sản xuất đến tiêu dùng nó chịu tác động bởi nhiều nhân tố mà đặc biệt là do tác động của quan hệ cung cầu ( giá cả của hàng hoá có thể bằng, lớn hơn, nhỏ hơn giá trị ) Sự tách rời của giá cả và giá trị đó là biểu hiện của quy luật giá trị . Còn đối với tổng hàng hoá thì tổng giá cả phải ngang bằng tổng giá trị của hang hoá .
Quy luật giá trị bắt buộc mọi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo mệnh lệnh của giá cả trên thị trường . Giá cả là tín hiệu báo cho người sản xuất và trao đổi hãy đầu tư những ngành hàng mà nhu cầu sản xuất đang giảm .
Chỉ thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường thì mới thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị , giá cả lên xuống một cách tự phát theo quan hệ cung cầu , đó chính là sản phẩm của cơ chế cạnh tranh .
3. Tác dụng của quy luật giá trị .
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá .
Điều tiết sản xuất là tức là điều hoà , phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành , lĩnh vực của nền kinh tế .
Khi một ngành sản xuất nào đó mà hàng hoá sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường ( cung < cầu ) giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị , hàng hoá bán chạy , lãi cao , thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy . Do đó TLSX và SLĐ được chuyển dịch vào ngành ấy phát triển lên . Ngược lại , khi cung ở ngành đó vượt qua cầu , giá cả hàng hoá giảm xuống , hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn .Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao .
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường . Sự biến động giá cả trên thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao . Do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt .
Kích thích cải tiến kỹ thuật , hợp lý hoá sản xuất , tăng năng suất lao động , lực lượng sản xuất phát triển nhanh .
Trong nền kinh tế hàng hoá , người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc bằng hao phí lao động cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi . Còn người có hao phí lao động cá biệt nhiều hơn lao động xã hội càn thiết thì sẽ bị thiệt vì không thể thu được toàn bộ lao động đã hao phí . Chính vì vậy để tồn tại được trong cạnh tranh thì người lao động phải tìm cách giảm hao phí lao động xã hội cá biệt xuống mức tối thiểu có thể được bằng cách phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật , cải tiến tổ chức quản lý , thực hiện tiết kiệm chặt chẽ , tăng năng suất lao động . Do vậy mới đẩy mạnh được lực lượng sản xuất phát triển .
C ) Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo .
Qua trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là : những người có điều kiện sản xuất thuận lợi , có trình độ , kiến thức cao , trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết , nhờ đó phát tài , giàu lên nhanh chóng . Họ mua sắm thêm TLSX , mở rộng sản xuất kinh doanh . Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó .
Do đó quy luật giá trị sẽ kích thích những yếu tố tích cực phát triển và đào thải các yếu tố kém . Nó đảm bảo sự bình đẳng của người sản xuất .
II . SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM .
1 . Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN .
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam gắn liền với công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo . Kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ và phức tạp . Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ thể là Đảng , Nhà nước XHCNvà nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam . Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế đáp ứng yêu cầu “đi tắt , đón đầu “đang đặt ra như một yếu tố sống còn . Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm , phát triển từ thấp đến cao , từ chưa đầy đủ , hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ , sâu sắc và hoàn thiện .
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI , Đảng ta mới đề ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH , coi đây là vấn đề “ có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH “ , thì đến Đại hộ VII , Đảng đã khẳng định : “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước “ . Tới Đại hội Đảng IX , kinh tế thị trường lại được khẳng định một cách sâu sắc , đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng quát hay mô hình mới của CNXH ở Việt Nam . Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc , bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước . Có những khía cạnh đáng lưu ý , quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN :
Thứ nhất, mô hình CNXH cổ điển , đặc trưng bởi hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung , sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế và nhược điểm , rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng phát triển nội sinh về mặt kinh tế , bị va vấp nặng nề trong thực tiễn . Trong khi đó , chủ nghĩa tư bản với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận đã lợi dụng tối đa những mặt mạnh của kinh tế thị trường để tạo ra động cơ về lợi ích và sự cạnh tranh mạnh mẽ , phát triển các lực lượng sản xuất cũng như tiềm năng kinh doanh . chủ nghĩa tư bản đã sử dụng vai trò nhà nước như một chủ thể xã hội sáng tạo và hùng mạnh đểcan thiệp -quản lý các quá trình kinh tế vĩ mô , nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường , đáp ứng yêu cầu phát triển , xã hội hoá các lực lượng sản xuất .
Thứ hai , mặc dù CNTB đã có những thành công nhất định trong phát triển kinh tế thị trường , nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng , phát triển kinh tế thị trường theo con đường TBCN không phải là duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy , rủi ro . Thực tế phát triển ngày càng cho thấy rõ mặt trái cũng như nguy cơ thất bại ngay chính trong quá trình phát triển kinh tế thị trường . Ngày nay , nhân loại đã nhận thức được rằng , mô hình phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương tây hay đi theo con đường phương Tây hoá không phải là cách tối ưu . Những mô hình phát triển theo kiểu này đã tỏ ra mâu thuẫn sâu sắc với các giá trị truyền thống , làm tăng tính bất ổn của xã hội và khoét sâu hố ngăn cách giầu – nghèo . Hơn nữa , nó còn có nguy cơ ràng buộc các nước chậm phát triển hơn , đẩy các nước đó vào tình trạng bị lệ thuộc và bóc lột theo kiểu quan hệ “ trung tâm - ngoại vi “ .
Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia , mà trái lại , mỗi quốc gia – dân tộc tuỳ theo trình độ phát triển , đặc điểm cơ cấu tổ chúc và thể chế chính trị , kể cả các yếu tố văn hoá – xã hội truyền thống , mà xây dựng những mô hình kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình . Không thể phủ nhận những hạn chế và mâu thuẫn cố hữu của kinh tế thị trường TBCN ngay tại quê hương của nó và việc khắc phục những mâu thuẫn đó vẫn đang là vấn đề cực kỳ nan giải . Một số nước Tây Âu và Bắc Âu với mông muốn tìm kiếm con đường đi riêng của mình , nhằm khắc phục hạn chế của kinh tế thị trường TBCN đã chủ trương đi theo “ con đường thứ ba “ hay nhấn mạnh “ Nhà nước phúc lợi “ nhà nước TBCN ở đây được gắn thêm chức năng “ sáng tạo “ khi tham gia giải quyết các vấn đề xã hội và phân phối lại thu nhập mang tính định hướng xã hội , tạo ra cái gọi là “ nền kinh tế cho mọi người “ hay “ chủ nghĩa tư bản nhân dân “ . Nhưng trong phạm vi của quan hệ TBCN thì những nỗ lực rõ ràng đã không mang lại kết quả như mong muốn .
Thứ tư , nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao hơn - hậu thị trường , hậu công nghiệp và kinh tế tri thức . Trong những điều kiện hiện đại , con đường phát triển rút ngắn như C.Mác đã từng dự báo , trở thành một khả năng hiện thực xét cả về hai phương diện : tính tất yếu kinh tế - xã hội và tính tất yếu công nghệ - kỹ thuật . Nếu như nền văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông nghiệp thì trái lại , nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần gũi với nền văn minh nông nghiệp .Thực tế cho thấy, công nghệ cao có khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá TBCN nặng nề, tốn kém. Ví dụ, sản phẩm công nghệ cao vi điện tử và sinh học, do tính nhiều vẻ lại có thể phù hợp với nhu cầu xã hội, với nguồn nguyên liệu sẵn có và điều kiện sản xuất phân tán của những nước lạc hậu .
Thứ năm , xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường chỉ là hình thái đặc biệt , là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã hội từ trình độ xã hội nông nhiệp , phi thị trường , lên trình độ xã hội công nghiệp , hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với CNTB . Chính sở hữu tư nhân TBCN đã ra đời trên cơ sở tách rời các yếu tố người và vật của sản xuất , các yếu tố này vốn gắn bó hữu cơ trong sở hữu tư nhân của kinh tế hàng hoá giải đơn .
Thứ sáu , sụ lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá ; thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công nghiệp , hậu thị trường và kinh tế tri thức ; yêu cầu phát triển rút ngắn và hội nhập . Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXN , mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy luật tất yếu của của thời đại , sự khái quát hoá , đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới , và đặc biệt , từ tổng kết thực tiễn mấy chục năm xây dựng CNXH và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam .
Kinh tế thị trường như là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử , là thành quả của văn minh nhân loại , dân tộc mà không phải là tài sản riêng của CNTB , chỉ phục vụ cho riêng CNTB . Thoát khỏi giới hạn chỉ làm giàu cho tư bản , kinh tế thị trường sẽ có những mục tiêu và động lực xã hội mới phù hợp với những đặc tính xã hội hoá vốn có , để trở thành công cụ phát triển kinh tế , phục vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội .
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại , vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của CNXH kiểu cũ . Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan , giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc , khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu phát triển , từng bước quá độ lên CNXH . Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút nhắn , để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập , phát triển .
2 . Vận dụng quy luật giá trị trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam .
a ) Giá cả và sự điều tiết giá cả :
Pháp lệnh Giá là văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá cao nhất từ trước đến nay , quy định những nội dung cơ bản của cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước .
Pháp lệnh giá đã nhận định rõ vai trò quản lý Nhà nước vĩ mô với quyền tự định giá , tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghệp trong điều kiện cạnh tranh , giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp của cơ quan hành chính Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của cơ sở ; xác llập quyền tự chủ tài chính , đi dôi với tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp . Cơ chế quản lý giá đã chuyển từ cơ chế Nhà nước quyết định giá với đa số tài sản , hàng hoá , dịch vụ buộc người mua và người bán phải chấp hành sang cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước với đặc trưng cơ bản là : Nhà nước Trung ương giảm thiểu việc quyết định giá hầu hết giá cả hàng hoá trong nền kinh tế; thay vào đó là thực hiện can thiệp vào thị trường chủ yếu bằng các công cụ gián tiếp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để tác động vào sự hình thành và vận động của giá cả . Nhà nước chỉ còn quyết định giá một số ít hàng hoá , dịch vụ độc quyền , đồng thời thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự chủ giá của tổ chức , cá nhân , sản xuất , kinh doanh theo đúng pháp luật .
Việc phân cấp quản lý giá Trung ương và địa phương , giữa các bộ , ngành về cơ bản được quy định cụ thể , rõ ràng , không chồng chéo và thể hiện trách nhiệm cụ thể của từng bộ , ngành, địa phương trong lĩnh vực quản lý giá .
Ở cấp Trung ương , ngay sau khi Pháp lệnh Giá có hiệu lực thi hành , Bộ Tài chính đã khẩn trương sậon thảo và ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh giá , cụ thể là : 5 nghị định của chính phủ ; 9 Thông tư của Bộ và Thông tư liên tịch ; 6 quyết định .
Tại địa phương , sau khi Pháp lệnh Giá được ban hành , Bộ Tài chính đã chỉ đạo Sở Tài chính các tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện . Theo báo cáo của các địa phương , các tỉnh , thành phó trực thuộc Trung ương khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện .Theo báo cáo của các địa phương , các tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương đã làm tốt công tác tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh Giá tại các địa phương ; xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá trên địa bàn tỉnh , thành phố góp phần đưa công tác quản lý giá trên địa bàn đi vào nề nếp .
Tại địa phương , sau khi Pháp lệnh giá được ban hành , Bộ Tài chính đã chỉ đạo sở tài chính các tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương đã làm tốt công tác tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh Giá tại địa phương ; xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá trên địa bàn tỉnh , thành phố góp phần đưa công tác quản lý giá trên địa bàn đi vào nề nếp .
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giá đã đáp ứng kịp thời yêu cầu về công tác quản lý giá góp phần làm cho giá cả phản ánh giá trị thị trường hàng hoá và là tín hiệu để thị trường phân bố có hiệu quả nguồn nhân lực , vốn , vật tư . Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá đã khắc phục tính không đòng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá đã khắc phục tính không đòng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý gia đã khắc phục tính không đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giá trước đây , tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý giá đi vào nề nếp , có hệ thống . Quyền tự chủ về giá của daonh nghiệp được pháp luật công nhận và bảo vệ , góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng về giá giữa các doanh nghiệp .
Có thể đánh giá từ khi về Pháp lệnh Giá có hiệu lực đến nay , cơ chế quản lý điều hành giá cả tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện hơn . Trong thực tế điều hành giá , đã kết hợp được việc sử dụng các công cụ , biện pháp kinh tế khác để tác động đến mặt bằng giá , bình ổn giá như : chính sách phát triển sản xuất , điều hoà cung cầu , chính sách tài chính tiền tệ ... Bước đầu góp phần làm cho giá cả hàng hoá , dịch vụ được công khai minh bạch hơn góp phần từng bước tạo lập môi trường cạnh tranh về giá theo pháp luật , kích thích sản xuất phát triển , góp phần tăng thu cho nhân sách Nhà nước , phát huy và phân bố có hiệu quả nguồn lực của đất nước , tạo đà tăng trưởng cao của nền kinh tế .
Tuy nhiên , về cơ chế quản lý giá trên thực hiện vẫn còn những hạn chế như chưa có cơ chế cụ thể để kiểm soát công tác tổ chức kiểm tra đánh giá ; tổng kết thực hiện cơ chế giá chưa làm thường xuyên nên chưa có điều kiện sửa đổi , bổ sung cho phù hợp ; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giá chưa được ban hành kịp thời ...
Trước thực tế đó , thời gian tới cần tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế quản lya giá theo cơ chế giá thị trường định hướng XHCN . thực hiện tự do hoá giá cả , nhưng không thả nổi giá cả mà phải có sự điều tiết của Nhà nước . Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đấu thầu , đấu giá , thẩm định giá tăng cường công tác thanh tra , kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về giá theo quy định của pháp luật ; Nhà nước tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của tổ chức , cá nhân sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật , sử dụng các biện pháp cần thiết để bình ổn giá , bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh , của người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước ; đẩy mạnh phân cấp định giá cho UBND cấp tỉnh và doanh nghiệp . Mặt khác để đảm bảo cơ chế quản lý giá phù hợp hơn với cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế còn phù hợp , nội dung cần sửa đổi , bổ sung hoàn thiện Pháp lệnh Giá cho đồng bộ với các quy định về quản lý giá được quy định tại các văn bản luật khác như : Luật Cạnh tranh ; Luật Đất đai ; Luật Dược , Luật Đường sắt , Luật Hàng không , Luật Hàng hải , Luật Điện lực , Pháp lệnh Dự trữ quốc gia , Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam ... và tiến tới xây dựng Luật Giá cả của Việt Nam .
b ) Điều tiết phân phối thu nhập :
Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội . Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao , vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế .
Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nghuên tắc của kinh tế thị trường như : phân phối theo lao động , theo vốn , theo tài năng , phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội ... trong đó , phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo . Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuêu mướn lao động , các quan hệ thị trường sức lao động , nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống trị , dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập .
Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư . Một mặt , Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo , không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng , miền , các dân tộc và các tầng lớp dân cư , thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội .Mặt khác , phải có chính sách , biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng , hợp pháp cho người giàu , khuyến khích người có tài năng .
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh : Nhà nước XHCN là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội , nhằm bảo đảm công bằng xã hội ; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập . Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý , điều tiết của Nhà nước .
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN , việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư , mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội , nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ xã hội , phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc , phấn đấu vì mục dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh .
KẾT LUẬN
Như vậy sau hơn 10 năm đổi mới ;với chiến lược xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , nền kinh tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng . Vào những năm đầu tiên của thập kỷ 90 , nền kinh tế Việt Nam đã gặp những thử thách to lớn , chưa hoàn toàn ra khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát , các thế lực thù địch vẫn tiếp tục cấm vận và bao vây kinh tế . Nhưng dưới sự lánh đạo của Đảng , sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước , đặc biệt với sự vận dụng đúng đắn quy luật giá trị trong sản xuất hàng hoá đã đưa kinh tế Việt Nam từng bước ổn định và phát triển . Quy luật giá trị chỉ làm cho nền sản xuất có được những tỷ lệ cần thiết mà nó còn giúp cho mỗi người sản xuất hàng hoá không ngừng cải tiến kỹ thuật , thay thế những trang thiết bị lạc hậu bằng những trang thiết bị tiên tiến hơn , giúp lực lượng sản xuất của xã hội phát triển đưa Việt Nam đi lên để sánh vai cùng các nước trong khu vực và quốc tế .
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35915.doc