Lời mở đầu
Nuôi thuỷ sản nước ngọt là nghề có truyền thống lâu đời, sản phẩm thuỷ sản chiếm vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ hàng ngày cho con người. Ngày nay sản phẩm nuôi thuỷ sản còn có vai trò rất lớn trong việc tạo ra nguồn nguyên liệu cho hàng hoá và xuất khẩu.
Nhu cầu tiêu thụ thực phẩm thuỷ sản ngày càng lớn. Theo FAO nhu cầu thuỷ sản bình quân theo đầu người của các nước phát triển hiện nay là 25 – 30 kg/người/năm. Nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên ngày càng g
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quy hoạch tổng thể nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010 (80tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iảm. Vì vậy việc phát triển nuôi thuỷ sản và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người là yêu cầu thực tế khách quan.
Để thúc đẩy nuôi thuỷ sản Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ chương, chính sách khuyến khích. Nuôi thuỷ sản làm nguyên liệu cho xuất khẩu, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn ngày càng có hiệu quả cao. Nhiều vùng nông nghiệp trong nước đã chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang nuôi thuỷ sản đem lại hiệu quả kinh tế cao gấp 10 – 15 lần so với trồng lúa. Giá trị xuất khẩu trong những năm qua đã tăng rất nhanh, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn và đã đưa kinh tế thuỷ sản phát triển thành nền kinh tế mũi nhọn.
Trong những năm qua việc nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh ta đã có một số bước phát triển. Nhiều vùng chiêm trũng cấy lúa với năng xuất thấp, ao hồ hoang hoá trước đây đã trở thành những vùng nuôi thuỷ sản. Các đối tượng nuôi thuỷ sản có giá trị kinh tế cao như : Rô phi đơn tính, Tôm càng xanh, cá Chim trắng nước ngọt cũng đã được nuôi và đang có xu hướng phát trển mạnh. Nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt đã giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động, thu nhập lao động nuôi thuỷ sản ngày một tăng, sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp - nông thôn ngày càng có hiệu quả.
Tuy nhiên việc nuôi thuỷ sản nước ngọt phát triển chưa đồng bộ, rộng khắp, chưa tạo ra khối lượng hàng hoá lớn :
+ Việc đầu tư nuôi thuỷ sản nước ngọt của nhân dân ở nhiều nơi còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, chủ yếu đầu tư theo các dự án lồng ghép, xoá đói giảm nghèo.
+ Hình thức nuôi và kỹ thuật nuôi thuỷ sản còn ở mức giản đơn, cơ sở hạ tầng nuôi thuỷ sản còn thiếu, chưa đủ điều kiện để áp dụng hình thức nuôi và các biện pháp kỹ thuật nuôi tiên tiến.
Chính vì thế mà cần điều tra, khảo sát và lập : “Quy hoạch tổng thể nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010 “ là thực sự cần thiết.
Bố cục chuyên đề bao gồm 3 chương
Chương I : Những lý luận chung về quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, về quy hoạch nông nghiệp và nghành thuỷ sản.
Chương II : Thực trạng nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá.
Chương III : Quy hoạch tổng thể nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá
đến năm 2010.Chương I
những căn cứ lý luận chung về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về quy hoạch nông nghiệp và ngành thuỷ sản
I. khái niệm, đối tượng và vị trí của quy hoạch
1. Các khái niệm liên quan
1.1. Khái niệm về quy hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội
+ Quy hoạch là sự thể hiện sự bố trí chiến lược về mặt thời gian, không gian lãnh thổ, nó xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu chiến lược một cách có hiệu quả nhất trên cơ sở thực tế nguồn lực cho phép.
+ Quy hoạch kinh tế xã hội là một luận chứng khoa học về sự bố trí không gian các hoạt động kinh tế xã hội sẽ diễn ra trong tương lai của một quốc gia, một vùng địa phương của một ngành hoặc một lĩnh vực nào đó.
1.2. Khái niệm quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch vùng chuyên canh
+ Quy hoạch nông nghiệp là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm nhiều nội dung hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội và môi trường có liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các lĩnh vực hoạt động ở khu vực nông nghiệp và nông thôn.
+ Quy hoạch vùng chuyên canh là việc bố trí về mặt không gian và thời gian cho vùng trên cơ sở các nguồn lực thực tế của vùng để có thể hướng tới các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của vùng.
2. Mục đích đối tượng và yêu cầu thực hiện quy hoạch
2.1. Mục đích
Tìm ra các phương án (hay nghệ thuật) khai thác các lợi thế so sánh, các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả chúng trên lãnh thổ.
Quy hoạch nhằm phát triển bền vững : Như là tạo ra sự cân bằng trong các mối quan hệ thuộc đời sống con người trên ba mặt : Kinh tế, xã hội, văn hoá, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo trên các địa bàn sống, giải quyết cac mâu thuẩn phát sinh trrong xã hội như cạnh tranh thiếu lành mạnh trong các hoạt động kinh tế, sự tranh chấp đất đai và các tài nguyên khác trên địa bàn, khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách tiết kiệm hợp lý và có hiệu quả, bảo tồn thiên nhiên và sự đa dạng sinh học. Tạo ra những điều kiện thuận lợi và có hiệu quả trong sự hợp tác giữa cá vùng, các địa phương và cả hợp tác quốc tế.
2.2. Đối tượng
Trong những năm vừa qua vừa xuất phát từ ưu cầu thực tiễn các ngành kinh tế kỹ thuật như công nghiệp, nông nghiệp thương mại, du lịch ...các ngành sản phẩm như công nghiệp cơ khí, công nghiệp xi măng, công nghiệp dệt may, ngành cao su, cà phê... đều được xây dựng phát triển, đồng thời các tỉnh thành phố cũng xây dựng quy hoạch phát triển cho cả quận, huyện... Những năm gần đây, các vùng kinh tế lớn (gồm nhiều tỉnh) cũng được nghiên cứu và quy hoạch phát triển. Như vậy có thể nói đối tượng chủ yếu của quy hoạch phát triển kinh tế xã hội gồm : ngành, lãnh thổ. Khi ngành là đối tượng quy hoạch thì ngành bao gồm ngành kinh tế kỹ thuật và ngành kinh tế sản phẩm (hoặc lĩnh vực kinh tế cụ thể). Khi lãnh thổ đối tượng quy hoạch thì nó bao gồm các cấp lãnh thổ khác nhau do yêu cầu của tổ chức kinh tế xã hội của đất nước hay một đơn vị kinh tế lãnh thổ hành chính.
2.3. Yêu cầu xây dựng quy hoạch
Quy hoạch phát triển phải thể hiện được các quan điểm phát triển, thể hiện ở ba lĩnh vực : kinh tế, xã hội, môi trường. Quy hoạch phát triển phải tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phải tổng hợp và hài hoà giữa các lĩnh vực hoạt động đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và tiến bộ xã hội, ô nhiễm môi trường.
Phương án quy hoạch tổng thể phát triển phải là công cụ điều tiết mọi sự đầu tư vào từng ngành, từng cấp, từng địa phương sao cho phù hợp và hữu hiệu, ngăn chặn sự tự phát, tránh chồng chéo hoặc mâu thuẩn gây lãng phí nguồn lực.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội phải thực sự là một tài liệu tư vấn cho các quan điểm của Chính phủ và hướng dẫn cho các cơ quan của chính phủ thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình là tài liệu tham khảo và hướng dẫn cho người dân và các nhà đầu tư, hiểu rõ được tiềm năng cơ hội và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội phải đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường tiến bộ khoa học và công nghệ và phải phát triển bền vững, là một quá trình động để có thể cập nhật và thích ứng với những thay đổi thất thường.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cần phải đảm bảo giữa yêu cầu của sự phát triển với khả năng hiện thực, giữa yêu cầu trước mắt và yêu cầu phát triển ổn định, bền vững và lâu dài, sự phát triển trọng điểm và phát triển toàn diện, giữa phát triển định tính và phát triển định lượng.
Quy hoạch tổng thể và phát triển kinh tế xã hội phải đi trước một bước, làm cơ sở nền tảng cho các quy hoạch và làm cơ sở xây dựng cho các mục tiêu, kế hoạch phát triển cho các ngành, các vùng...
3. Vai trò của quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
Quy hoạch phát triển là bước cụ thể hoá chiến lược về mặt không gian và nó trở thành cơ sở để dựa vào đó các kế hoạch dài han, ngắn hạn và trung hận được xây dựng, là công cụ giúp đỡ điều hành quản lý kinh tế vĩ mô, giúp người dân điều chỉnh hoạt động sản xuất của mình theo quy hoạch thống nhất, giúp chủ đầu tư xác định được vị trí đặt nhà máy ở đâu cho phù hợp, tiết kiệm chi phí.
Quy hoạch làm cơ sở cho việc thiết lập các dự án phát triển kinh tế xã hội của đất nước, định tính cho việc xây dựng cơ cấu kinh tế, sử dụng tài nguyên môi trường, nguồn lực lao động, cơ sở vật chất của xã hội.
Quy hoạch là một trong những căn cứ của việc thiết lập dự án đầu tư phát triển kinh tế ngành, kinh tế vùng.
Trong hệ thống kế hoạch hoá việc phát triển kinnh tế xã hội của quốc gia, quy hoạch tổng thể và sự định hướng, quy hoạch vùng lãnh thổ là sự định tính, quy hoạch cơ sở là sự định lượng của việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Quy hoạch là cơ sở quan trọng cả việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch vùng lãnh thổ tham gia vào hệ thống quản lý đất đai. Nó định hướng sử dụng đất hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triên của ngành, vùng, nó cũng là một biện pháp bảo vệ môi trường và đất đai.
4. Vị trí của quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
4.1. Vị trí quy hoạch phát triển trong quy trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân
Trong quy trình quy hoạch kế hoạch hoá phát triển nền kinh tế quốc dân ở Việt nam là bắt đầu đi từ chiến lược đến quy hoạch và đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Tức là quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trải qua ba bước :
Bước 1 : Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Bước 2 : Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cụ thể hoá các quan điểm và nội dung của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Và cũng có thể cho rằng đây chính là bước xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn kinh tế xã hội. Do đó có thể xem quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giống như kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bước 3 : Xây dựng kế hoạch trung và ngắn hạn phát triển kinh tế xã hội, cụ thể hoá nội dung của quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Bước này thực chất là đưa quy hoạch vào thực hiện từng bước.
4.2. Mối quan hệ giữa quy hoạch với chiến lược và kế hoạch
+ Chiến lược là cơ sở để xây dựng các quy hoạch, còn quy hoạch chính là sự thể hiện việc bố trí chiến lược về mặt thời gian và không gian, nó là một bước đi của chiến lược. Cụ thể hoá chiến lược thành thực tế cuộc sống, thời gian thực hiện, không gian phát triển, cơ cấu phát triển.
+ Sự giống nhau giữa quy hoạch và chiến lược : Nó đều là văn bản mang tính định hướng mang tính chiến lược.
+ Sự khác nhau giữa quy hoạch và chiến lược.
Quy hoạch nó mang tính cụ thể hơn, cụ thể hoá.
Chiến lược gồm hệ thống biểu mẫu đầy đủ, phương pháp tính toán phương án xây dựng, còn quy hoạch phải có tính luận chứng cụ thể về kinh tế và xã hội.
Quy hoạch và Kế hoạch:
+ Quy hoạch là cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch, người ta có thể dựa vào các nội dung của bản quy hoạch để xây dựng các kế hoạch ( thường là các kế hoạch 5 năm) còn Kế hoạch là một bước cụ thể hoá, chi tiết hoá của quy hoạch.
+ Sự giống nhau : điều là văn bản mang tính đính định hướng.
+ Sự khác nhau : Quy hoạch là sự định hướng chung chung như kịch bản về sự tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng bình quân … còn kế hoạch nó có tính phân đoạn bằng các mốc thời gian cụ thể, tính định hướng bằng các chỉ tiêu định lượng cụ thể và thính kết quả cụ thể hơn.
4.3. Mối quan hệ giữa quy hoạch với quy mô sản lượng, hiệu quả và sự tăng trưởng kinh tế
Tính đúng đắn, hiệu quả của một bản quy hoạch nó có quan hệ chặt chẽ với quy mô sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Một bản quy hoạch đầy đủ, chính xác nó làm tăng sản lượng và từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế và ngược lại một bản quy hoạch không tốt nó sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế cả về quy mô sản lượng lẫn cơ cấu kinh tế và các lĩnh vực khác như văn hoá, đời sống từ đó nó cũng ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế.
II. Nội dung, mục tiêu và phương pháp quy hoạch phát triển
1. Nội dung của quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội
1.1. Đánh giá các yếu tố nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng quy hoạch
Đánh giá các nguồn lực tự nhiên
* Vị trí địa lý của vùng nông thôn
Đánh giá vị trí địa lý của vùng trong mối quan hệ với các vùng khác, vị trí của vùng trong hệ thống mạng lưới giao thông để thấy được tiềm năng và vị trí của vùng trong giao lưu kinh tế, văn hoá đối với các vùng khác và cả nước.
Vị trí địa lý của vùng còn thể hiện vai trò của vùng đối với vùng khác và cả nước về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
* Đánh giá các đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Làm rõ tìm năng về tài nguyên thiên nhiên của vùng nông thôn, đồng thời đánh giá khả năng có thể khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đó của vùng trong thời kỳ quy hoạch.
Những nội dung cần tập trung đánh giá là:
@ Các yếu tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp như: đất đai, rừng, trữ lượng thuỷ hải sản, khí hậu, môi trường sinh thái.
@ Các tài nguyên khoáng sản, cảnh quan và tài nguyên nhân văn phục vụ cho phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ.
@ Thuỷ văn tài nguyên nước gồm nước mặt, nước ngầm và các nguồn nước khác.
@ Tài nguyên đất và hiện trạng sử dụng đất.
@ Khả năng đất xây dựng và nguồn nước phục vụ xây dựng các khu công nghiệp, khu du lịch, thương mại, khả năng mở rộng diện tích đất canh tác phát triển nông thôn.
Xác định rõ khả năng khai thác, hướng khai thác và sử dụng tài nguyên, những hạn chế, khó khăn trong thời kỳ quy hoạch.
1.1.2. Đánh giá các nguồn lực xã hội và nhân văn
Các phương án quy hoạch xây đựng lên phải được quần chúng nhân dân là những người thực hiện phương án quy hoạch đồng tình, hưởng ứng. Do vậy các phương án quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu về phát triển đời sống xã hội và phù hợp với các đặc điểm xã hội của vùng nông thôn được quy hoạch. Để đáp ứng được yêu cầu đó khi xây dựng quy hoạch phải nắm chắc các đặc điểm về dân số xã hội của vùng nông thôn quy hoạch.
+ Quy mô, chất lượng dân số và những yếu tố tác động đến dân số. Những lợi thế và hạn chế của yếu tố dân số.
+ Đặc điểm dân cư và phân bố dân cư, vấn đề di dân và đô thị hoá.
+ Tiềm năng nguồn nhân lực (số lượng và chất lượng) những lợi thế và hạn chế của nguồn nhân lực.
+ Các yếu tố văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán của vùng nông thôn quy hoạch.
1.2. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng quy hoạch
1.2.1. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế chung của vùng quy hoạch
Việc đánh giá tình hình phát triển kinh tế – xã hội nói chung của vùng quy hoạch cho phép chúng ta nhìn một cách tổng quát về thành tựu và lịch sử phát triển các mặt kinh tế, xã hội chung của vùng. Trên cơ sở các thành tựu chung đó, việc đánh giá phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực sẽ đi vào phân tích tìm ra nguyên của các thành công, những bài học còn tồn tại và chỉ ra những vấn đề cần thay đổi trong phương án quy hoạch. Các chỉ tiêu đánh giá chủ yếu gồm :
F Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc giá trị sản xuất : Tổng số, giá trị bình quân đầu người, nhịp độ tăng trưởng.
F Tích luỹ tế GDP và tích luỹ cho tái đầu tư
F Tình hình huy động ngân sách sách từ GDP
F Giá trị và nhịp độ tăng xuất khẩu
F Đảm bảo việc làm và thu nhập của các tầng lớp dân cư
F Tình hình văn hoá xã hội : Những mặt tích cực và những vấn đề tồn tại chính.
1.2.2. Đánh giá thực trạng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế - xã hội của vùng quy hoạch
Việc đánh giá thực trạng phát triển các ngành, các lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội nông thôn phải chỉ ra tình hình khai thác các nguồn lực cho phát triển các ngành, các lĩnh vực, các kết quả đã đạt được, xu hướng phát triển của mỗi ngành, những thuận lợi khó khăn trong quá trình phát triển từ đó rút ra những bài học về thành công và những tồn tại trong việc khai thác các nguồn lực cho phát triển để làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng các mục tiêu quy hoạch.
F Hiện trạng phát triển và phân bố ngành công nghiệp, tiêu thủ công nghiệp.
F Hiện trạng phát triển và phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
F Hiện trạng phát triển và phân bố khối ngành dịch vụ: Thương mại, du lịch, tài chính, Ngân hàng...
F Hiện trạng phát triển và phân bố các ngành, giáo dục - đào tạo, khoa học, y tế, thể dục thể thao, văn hoá, phát thanh truyền hình
Việc đánh giá tình hình phát triển của các ngành, các lĩnh vực của vùng quy hoạch thường phải xem xét trong một thời gian dài từ 5 – 10 năm trước thời kỳ quy hoạch. Những chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển của thời kỳ trước quy hoạch là cơ sở quan trọng để xác định các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển cho những năm quy hoạch.
1.2.3. Đánh giá sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ công nghệ
Việc đánh giá tình hình phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và trình độ công nghệ phải chỉ rõ mức độ đáp ứng các yêu cầu phát triển, nhu cầu cần có để phục vụ cho các mục tiêu phát triển trong thời kỳ quy hoạch .
F Hiện trạng phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc, điện, cấp thoát nước, mạng lưới các công trình dịch vụ công cộng, các cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở chăm sóc sức khoẽ cộng đồng, các công trình văn hoá, truyền thông, thể thao...
F Đánh giá cơ sở vật chất – kỹ thuật, trình độ công nghệ và nhu cầu đổi mới công nghệ gắn với khả năng cạnh tranh của hàng hoá và năng xuất lao động.
1.2.4. Đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Tập trung phân tích mặt được, mặt chưa được, xác định những cản trở đối với cơ cấu kinh tế theo vùng. Phân tích cơ cấu kinh tế theo GDP và Lao động
F Cơ cấu ngành: Công nghiệp – nông, lâm, ngư nghiệp – dịch vụ và cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế. Đánh giá tính hợp lý của xu hướng chuyển dịch, nguyên nhân có tiến bộ hoặc không có tiến bộ.
F Cơ cấu thành phần kinh tế : Nhà nước, dân doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
1.2.5. Đánh giá sự hình thành và phát triển các tiểu vùng kinh tế – xã hội trên lãnh thổ vùng nông thôn quy hoạch
Phân tích đánh giá, tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, sự chênh lệch theo lãnh thổ về trình độ phát triển và đời sống dân cư.
F Sự hình thành các tiểu vùng và những khác biệt theo lãnh thổ.
F Mức độ tập trung tiềm lực kinh tế gắn với phát triển các khu trung tâm và các trục kinh tế
F Tình hình phát triển các tiểu vùng và mức độ chênh lệch giữa các tiểu vùng
Nhận định chung về tình hình và những điểm xuất phát về kinh tế – xã hội của vùng và từng tiểu vùng, những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
1.3. Đánh giá các yếu tố bên ngoài tác động đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng quy hoạch
+ Tác động của yếu tố quốc tế và khu vực đến phát triển kinh tế của vùng quy hoạch
+ Tác động của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước và của vùng lân cận đến phát triển kinh tế – xã hội của vùng
1.4. Xác định các quan điểm, mục tiêu phát triển vùng quy hoạch
1.4.1. Các quan điểm phát triển và các mục tiêu tổng quát
* Các quan điểm chủ yếu cần đặc biệt chú ý là:
F Quan điểm đổi mới và đột phá để tiến nhanh và bền vững.
F Quan điểm về phát huy nội lực gắn với tranh thủ ngoại lực để đạt trình độ phát triển cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập quốc tế.
F Quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
F Quan điểm về hiệu quả toàn diện kinh tế – xã hội – môi trường, an ninh – quốc phòng trong lựa chọn các phương án phân bố lực lượng sản xuất.
1.4.2. Xây dựng các mục tiêu phát triển cụ thể của vùng quy hoạch
F Mục tiêu tăng trưởng GDP của vùng quy hoạch theo các phương án giả định, mỗi phương án có luận chứng riêng về hướng khai thác, khả năng nguồn lực và các yếu tố khác.
F Mức GDP bình quân đầu người của vùng quy hoạch ở các giai đoạn khác nhau trong thời kỳ quy hoạch (có so sánh với mức trung bình của cả nước hay vùng lân cận) trong đó cũng cần tính riêng GDP bình quân nhân khẩu thành thị, nông thôn và các dân tộc thiểu số nếu có.
Thực tế 2 mục tiêu trên gắn bó chặt với nhau, khi tính toán các phương án tăng trưởng có thể lấy chỉ tiêu nhịp độ tăng trưởng GDP hoặc chỉ tiêu GDP /người làm tiêu chí chủ đạo.
F Mục tiêu về giá trị xuất khẩu, giá trị xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu.
F Tỷ lệ tích luỹ và thu ngân sách từ GDP.
F Những mục tiêu xã hội như : Tỷ lệ tăng dân số, giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, xoá nạn mù chữ và phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, khắc phục tệ nạn xã hội...
F Mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái (tỷ lệ che phủ của thảm thực vật, chống ô nhiễm...)
F Mục tiêu củng cố, tăng cường an ninh – quốc phòng.
1.4.3. Xây dựng các phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các phương án tăng trưởng kinh tế và lựa chọn cơ cấu đầu tư
Nội dung nghiên cứu vấn đề này được thực hiện theo các bước và tập chung vào các vấn đề chủ yếu sau đây :
Bước 1 : Xác định các căn cứ để lựa chọn cơ cấu kinh tế, phương án tăng trưởng và cơ cấu đầu tư.
Bước 2 : Tính toán và lựa chọn các phương án tăng trưởng của các ngành và phương án chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ( Công nghiệp – Xây dựng, Nông – Lâm – Ngư nghiệp – Dịch vụ) để đáp ứng mục tiêu và phù hợp với tiềm lực vốn có và khả năng đầu tư.
Việc xây dựng các phương án phát triển phải trên cơ sở xác định quan điểm chủ đạo, tiêu chuẩn cơ bản cho mỗi phương án về cơ cấu, nhịp độ tăng trưởng, nhu cầu và khả năng vốn, công nghệ, thị trường và hiệu quả. Phương án cơ cấu kinh tế đã được lựa chọn ở phần này sẽ được tiếp tục kiểm chứng khi xây dựng luận chứng phát triển các ngành.
1.5. Xây dựng luận chứng quy hoạch phát triển các ngành và các lĩnh vực
a. Luận chứng quy hoạch phát triển ngành công nghiệp
b. Luận chứng quy hoạch phát triển ngành nông, lâm, thuỷ sản.
c. Luận chứng quy hoạch phát triển các ngành dịch vụ.
d. Luận chứng quy hoạch các lĩnh vực xã hội.
e. Luận chứng quy hoạch phát triển cơ cấu hạ tầng
Quy hoạch bảo vệ môi trường.
1.6. Nghiên cứu các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu quy hoạch
a. Nghiên cứu các giải pháp về vốn
b. Nghiên cứu đề xuất các định hướng giải pháp về đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội của vùng.
c. Đề xuất các chính sách khuyến khích áp dụng công nghệ mới và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học – ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh.
d. Đề xuất định hướng các giải pháp về cơ chế, chính sách điều hành vĩ mô.
e. Đề xuất các giải pháp về điều hành và thực hiện quy hoạch.
2. Mục tiêu quy hoạch
Mục tiêu quy hoạch bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Mục tiêu tổng quát nhằm chỉ ra định hướng phát triển dài hạn và toàn diện kinh tế – xã hội. Mục tiêu tổng quát cần phải đạt được đến các mốc phát triển nhất định về mọi mặt kinh tế - xã hội , anh ninh, quốc phòng cũng như sự phát triển các yếu tố kết cấu hạ tầng. Trên cơ sở của mục tiêu tổng quát, công tác quy hoạch cũng phải hướng tới các mục tiêu cụ thể ngắn hạn. Trước hết để làm căn cứ xây dựng và đề xuất các phương án quy hoạch, phải đánh giá đúng thực trạng về tiềm năng các nguồn lực phát triển, tiến hành khai thác các nguồn lực và các kết quả đã đạt được từ việc khai thác các nguồn lực đó. Công tác quy hoạch cũng phải phân tích để chi ra những mặt mạnh điểm yếu, rút ra các bài học kinh nghiệm về khai thác các nguồn lực vào phát triển kinh tế xã hội của vùng quy hoạch.
Bên cạnh việc đánh giá các nguồn lực tại chỗ, công tác quy hoạch cũng phải chỉ ra được các thách thức và cơ hội phát triển của vùng quy hoạch trong tương lai để xác định phương hướng bước đi phù hơp.
Trên cơ sở đánh giá các tiềm năng, nguồn lưc, cơ hội và thách thức các mục tiêu cụ thể về phát triển từng mặt kinh tế, xã hội, đời sống, cơ sở hạ tầng sẽ được đề xuất để làm căn cứ xây dựng các phương án quy hoạch cho từng ngành, từng lĩnh vực cũng như chỉ ra các mô hình phát triển của vùng trong tương lai.
Kết quả của công tác quy hoạch là mang lại cho vùng quy hoạch sự phát triển cân đối, nhịp nhàng theo một định hướng thống nhất, thích hợp để đạt tới tốc độ phát triển nhanh, trình độ phát triển cao về kinh tế, xã hội và môi trường bền vững.
3. Phương pháp quy hoạch
Quá trình xây dựng quy hoạch kinh tế – xã hội được bắt đầu bằng việc đánh giá các yếu tố, nguồn lực phát triển. Kết quả đánh giá sẽ cho chúng ta thấy được những thuận lợi, khó khăn, những lợi thế và thách thức cũng như xu hướng phát triển của ngành, các ĩnh vực của vùng quy hoạch.
Những kết luận rút ra về thực trạng phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội và tình hình khai thác các nguồn lực vốn có là cơ sở để đề xuất các mục tiêu phát triển và luận chứng quy hoạch.
Các luận chứng quy hoạch một mặt dựa trên kết quả phát triển đã diễn ra trong lịch sử những năm qua, đồng thời phải căn cứ vào các quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển chung của vùng quy hoạch.
Tổng hợp các kết quả của luận chứng quy hoạch của tất cả các ngành, các lĩnh vực theo từng địa bàn chúng ta sẽ thu được kết quả về tổ chức không gian kinh tế – xã hội theo từng vùng lãnh thổ.
Cuối cùng để thực hiện các phương án quy hoạch đặt ra cần phải đề xuất những bước đi, giải pháp thực hiện, phân công trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện và những đề xuất kiến nghị với cấp trên, đề xuất các hướng hợp tác và phối hợp hành động với các vùng lân cận và những vùng liên quan.
4. Yêu cầu đặt ra đối với công tác quy hoạch kinh tế - xã hội
@ Quy hoạch kinh tế – xã hội phải hướng tới mục tiêu phát triển cố hiệu quả và bền vững. Để đạt được mục tiêu hiệu quả, công tác quy hoạch phải đề xuất được các phương án khai thác một cách tối ưu các tiềm năng và nguồn lực phát triển. Quy hoạch phải tạo ra các tiêu đề cho quá trình phát triển một cách ổn định lâu dài, tránh chồng chéo, mâu thuẫn hoặc đối nghịch nhau.
@ Quy hoạch phải vừa mang tính ổn định vừa mang tính cơ động. Tính ổn định của quy hoạch được thể hiện ở các quan điểm chủ đạo, các mục tiêu chiến lược và định hướng chính. Tính mềm dẻo cơ động thể hiện ở chổ các phương án quy hoạch có thể thích ứng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau bằng việc đề xuất và xây dựng nhiều phương án có tính chất bổ trợ và kế thừa nhau.
@ Quy hoạch phải mang tính chất phù hợp và thích ứng. Để đạt được yêu cầu này, các phương án quy hoạch phải dựa trên các tiềm lực hiện có trước mắt. Đồng thời có dự tính đến các tiềm năng dài hạn, các mục tiêu phát triển chung của toàn vùng, các vùng lân cận và của cả nước. Các phương án và bước đi phải kết hợp được các điểm đột phá cũng như phải bao quát toàn diện mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng.
III. Những vấn đề lý luận chung về ngành thuỷ sản
1. Đặc điểm, vai trò của ngành thuỷ sản
1.1. Đặc điểm của của ngành thuỷ sản
Thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần dịch vụ thương mại, là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thuỷ sản, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên hệ ngành với ngành sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, du lịch, hải quan …
Ngành Thuỷ sản được xác định giữ vai trò quan trọng sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước. Những tài nguyên với tiềm năng có thể đóng góp lớn cho cho các mục tiêu lớn về tài chính, về công ăn việc làm và về dinh dưỡng. Xét một cách tổng thể thì ngành Thuỷ sản có các đặc điểm sau :
@ Ngành thuỷ sản là ngành vừa mang tính công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, lại vừa chịu chi phối rất lớn của thiên nhiên.
@ Ngành thuỷ sản là ngành có năng suất và hiệu quả lao động tự nhiên cao, có tác dụng tới tái sản xuất mở rộng. Các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất rất đa dạng : Tư bản nhà nước
(Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Doanh nghiệp liên doanh, Doanh nghiệp cổ phần), tập thể (hợp tác xã, tập đoàn), tư nhân ( hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân ).
@ Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất cố liên quan đến việc sử dụng diện tích mặt nước cũng như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt nước. Các sản phẩm thuỷ sản có khẩu vị ngon, dễ chế biến, lượng đạm không tích mỡ, đa dạng có giá trị dinh dưỡng cao, được nhiều người, nhiều nơi trong và ngoài nước ưa chuộng.
@ Ngành thuỷ sản là ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có thể thu hồi vốn nhanh có thể thu hoạch được sản phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Việc đầu tư lao động sống và lao động vật hoá vào hoạt động sản xuất nghề cá một cách hợp lý sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao.Ví dụ: Một ngư dân bình quân hàng năm đánh bắt được từ 2,04 - 2,07 tấn cá biển, giá trị tương đương với khoảng 10 tấn thóc, hay một ha nuôi tôm giá trị bằng 100 ha trồng lúa. Trong khi đó, một lao động công nghiệp nếu thực hiện một ha gieo trồng lúa chỉ đạt được 3- 4 tấn thóc / năm.
@ Hoạt động sản xuất của ngành diễn ra trong phạm vi rộng lớn từ miền nứi đến các vùng đồng bằng, vùng ven biển và ngoài khơi với nhiều hình thức sản xuất như khai thác, nuôi trồng, chế biến …
@ Ngành thuỷ sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, tạo khả năng khai thác quy mô nhưng có sự tác động của con người để tái tạo nguồn tài nguyên này.
Như vậy với những đặc điểm vốn có như vậy thì Ngành Thuỷ sản Việt Nam muốn phát triển tốt phải biết tận dụng nguồn tài nguyên quý hiếm này để đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất.
1.2. Vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế
Nước ta là một nước có ưu thế về biển, cuộc sống xã hội gắn chặt với sông nước, vì vậy Thuỷ sản nói chung và Nghề cá nói riêng của nước ta là một Ngành có truyền thống lâu đời. Đó là ngành cung cấp chất dinh dưỡng và tạo mức an toàn về thực phẩm cho con người. Các sản phẩm thuỷ sản là những yếu tố quan trọng đối với sự an toàn về lương thực, thực phẩm.
Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, từ chổ là một bộ phận không lớn thuộc khối nông nghiệp, với trình độ lạc hậu vào nhưng năm 80, Thuỷ sản đã trở thành ngành kinh tế công – nông nghiệp có tốt độ phát triển cao, quy mô ngày càng lớn. Xuất khẩu thuỷ sản đã đóng vai trò đòn bẩy chủ yếu tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta. Từ giai đoạn 1991-1995, cùng dầu thô, gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến nay Ngành thuỷ sản đã vươn lên đứng thứ 19 về sản lượng, thứ 30 về giá trị kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng nuôi tôm trên thế giới.
Vai trò ngành thuỷ sản được khẳng định trong Nghị quyết của Chính phủ(ngày 15 /06 /2000 ) về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đó là: “Thủy sản là ngành sản xuất đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thuỷ sản đạt 3 - 3.5 triệu tấn /năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim nghạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực Châu á”.
Bên cạnh đó vai trò của Ngành Thuỷ sản trong nền kinh tế còn thể hiện ở chổ: Các h._.ộ gia đình còn phụ thuộc vào nghề thuỷ sản như là kế sinh nhai và thuỷ sản là nguồn cung cấp thức ăn chính cho họ trong đời sống hàng ngày. Hơn nữa nhu cầu nhân lực hàng ngày cho hoạt động này không lớn, không tiêu tốn nhiều thời gian, gần nơi ở của gia đình, thời gian quay vòng vốn nhanh, cung cấp thực phẩm tại chổ có chất lượng cao, phù hợp và dễ dàng được chấp nhận đối với nông dân nông thôn miền núi. Mặt khác nuôi trồng thuỷ sản dễ dàng kết hợp với các hoạt động sản xuất khác trong hệ thống canh tác tại khu vực miền núi để tăng thu nhập và đa dạng hàng hoá các sản phẩm lương thực, thực phẩm cho gia đình, hạn chế rủi ro và tận dụng các phế phụ phẩm trong gia đình tạo thành sản phẩm khác có giá trị sử dụng.
2. Mục tiêu của quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản
+ Chuyển dịch cơ cấu sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng quy hoạch. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất, mặt nước, thực hiện phong trào của Chính phủ phát động 1 ha đất nông nghiệp đạt giá trị 50 triệu đồng.
+ Giải quyết được cơ bản số lao động nông nhàn trong nông thôn đặc biệt là các vùng chiêm trũng thiếu khả năng phát triển các ngành, nghề khác, góp phấn xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và tiến tới làm giàu bằng nghề nuôi thuỷ sản, tạo ra vùng nông thôn mới làm giàu đẹp, văn minh.
+ Tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn, cung cấp nguồn lương thực tại chổ cho các vùng dân cư, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho xuất khẩu và chế biến xuất khẩu, làm tăng giá trị kim nghạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và góp phần thú đẩy sự phát triển nền kinh tế của Tỉnh nhà.
3. Quy trình của công tác quy hoạch trong ngành thuỷ sản
Thực hiện các quy định của Nhà nước về công tác quy hoạch và kế hoạch ( Nghị định 32 – CP, Nghị định 42 và 52 CP) công tác xây dựng các chiến lược về quy hoạch đã được Bộ Thuỷ sản quan tâm và được coi là những vấn đề trọng tâm trong hoạt động quản lý Nhà nước của Bộ.
Bộ Thuỷ sản hàng năm lập kế hoạch và phân bổ ngân sách, với sự chấp nhận của bộ Kế hoạch và Đầu tư cho quy hoạch tổng thể của toàn ngành, các vùng kinh tế hay các lĩnh vực chuyên ngành, các mặt hàng và giao các kế hoạch xây dựng quy hoạch đó cho các đơn vị hiện. Đôi khi một số quy hoạch mang tính chất chuyên sâu vào một số lĩnh vực đặc thù Bộ có thể giao công tác quy hoạch cho một số tổ chức hoặc viện nghiên cứu kỹ thuật chuyên sâu thực hiện.
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản sau khi được dự thảo phải đưa ra thảo luận rộng rãi trong toàn ngành, lấy ý kiến đóng góp của các nhà khoa học để hoàn chỉnh trước khi trình lên lãnh đạo Bộ xem xét, trước khi trình lên Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo trình tự thủ tục quy định.
Các Sở Thuỷ sản của các tỉnh ven biển, các Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn không có biển định kỳ cũng có những kế hoạch lập quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản ở địa phương. UBND các tỉnh là người phê duyệt trực tiếp các quy hoạch tổng thể phát triển.
Thuỷ sản của tỉnh mình sau khi đã lấy ý kiến đóng góp của Bộ chuyên ngành và các tổ chức liên quan trong tỉnh.
Khác với quy hoạch tổng thể ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, các quy hoạch chi tiết, các quy hoạch cấp huyện và các dự án thường được bố trí từ nguồn ngân sách của các dự án đầu tư hàng năm và thường được giao theo hợp đồng thực hiện với các công ty tư vấn hoặc các viện nghiên cứu.
Xuất phát điểm của các đề xuất về dự án quy hoạch thường là yêu cấu thực tế phát triển đạt ra cho công tác quy hoạch, thường là các yêu cầu nóng bỏng từ thực tiễn chuyển đổi cơ cấu sản xuất xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Các cơ quan tư vấn xây dựng quy hoạch nắm lấy các cơ hội đó để đề xuất các dự án.
4. Những vấn đặt ra trước công tác quy hoạch của ngành thuỷ sản
Muốn cho một quy hoạch có giá trị cao, mang tính mở đường thì các cơ sở luận chứng cho việc quy hoạch cần phải đúng đắn, minh bạch và được thừa nhận chung. Mặc dù về lý thuyết mọi người có thể tiếp cận với các quy hoạch nhưng trong thực tế việc tiếp cận các quy hoạch là rất khó khăn. Chỉ có rất ít các bản sao quy hoạch mọi loại được lưu hành, vì một mặt không có kinh phí để phát hành, mặt khác không có cơ chế và phương pháp phổ biến quảng bá. Chỉ trong trường hợp những người hiểu biết và có nhu cầu thật bức xúc thật kiên trì may ra có cơ hội tiếp cận hoặc sao chép được những bản quy hoạch đó.
Một điểm yếu khác trong công tác quy hoạch trong ngành Thuỷ sản là đã không tiến kịp và giải đáp đúng lúc những nhu cầu biến động, nhiều khi phải chạy theo sự thay đổi trong thực tế làm mất đi tính mở đường và hướng đạo cho sự phát triển. Khi đã có quy hoạch tổng thể thì do sự phân cấp trong quản lý và xây dựng quy hoạch nên phần lớn những quy hoạch tổng thể không được triển khai thành các quy hoạch chi tiết. Chính do thiếu quy hoạch chi tiết cho sự phát triển nên hầu như các địa phương trong nước đều thấy sự phát triển không có quy hoạch, dẫn đến môi trường bị đe dọa nghiêm trọng, rừng ngập mặn bị phá hoại...
Một điểm khác là hầu hết các quy hoạch đều có xu hướng là chỉ liệt kê những hiện trạng và tiềm năng, phương hướng và danh sách các chương trình và dự án mà ít có quy hoạch nào phân tích thực sự có tầm nhìn chiến lược, phân tích làm nổi bật các giải pháp ưu tiên ứng với những tình huống cụ thể. Sự phối hợp giữa các vùng, các ngành cũng ít được quan tâm.
Chương II
Thực trạng nuôi thuỷ sản nước ngọt
tỉnh Thanh Hoá
I. Điều kiện phát triển nuôI thuỷ sản nước ngọt của tỉnh thanh hoá
1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội
Thanh Hoá là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên 1.110.609 ha. Bao gồm 27 huyện, thị, thành phố.
Thanh Hoá có 4 hệ thống sông chính : Sông Hoạt, Sông Mã, Sông Yên, Sông Bạng và các sông nhánh: Sông Chu, sông Buởi, sông Càn, sông Yên Hoà....Đặc điểm các sông ở Thanh Hoá đều ngắn, hẹp và dốc.
Địa hình Thanh Hoá phong phú, đa dạng, là hình ảnh thu nhỏ của cả nước. Có biển, có rừng,có đồng bằng, có núi cao...Căn cứ đặc điểm tự nhiên, thời tiết khí hậu… có thể chia Thanh Hoá thành 3 vùng:
1.1. Vùng ven biển
Gồm 6 huyện, thị: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương và Tĩnh Gia chiếm 10,77 % tổng diện tích toàn tỉnh. Địa hình sống trâu, lượn sóng, xen giữa các dải đất cao khô hạn, là những vùng trũng khó thoát nước.
Điều kiện thổ nhưỡng gồm: Cồn cát trắng, vàng, đất cát biển điển hình. Đất được hình thành trên nền phù xa sông, biển và rải rác trên đá trầm tích trên các núi. Đất có kết cấu kém, không kết dính.
Nhiệt độ: Trung bình từ 23 – 240 C, thấp nhất 80 C, biên độ nhiệt hàng năm 11 - 130 C
Biên độ nhiệt ngày 5,5 - 70 C.
Mưa: Tổng lượng mưa bình quân năm: 1500 – 1900 mm. Mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80 % tổng lượng mưa cả năm, mưa ít nhất vào tháng 1 và tháng 2.
Gió bão: Vùng ven biển là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông bắc, gió Tây Nam và các cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào đất liền.
1.2. Vùng đồng bằng
Gồm 10 huyện, thị, thành phố chiếm 16,76 % tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Địa hình tương đối bằng phẳng, cao dần theo hướng Đông – Tây và Nam –Bắc. Nằm xen kẽ với đất đồng bằng là những dãy núi nhỏ: Núi Hàm Rồng, Trung Trinh... hoặc những vùng đất trũng, khó thoát nước như huyện Nông cống, Hà Trung.
Thành phần cơ giới đất là trung bình đến nặng. Bao gồm các đơn vị đất: Đất phù xa trung tính, đất phù xa chua, đất glay trung tính, đất glay chua. Các huyện, thị: Bỉm Sơn, Bắc Hà Trung, Đông Nam Vĩnh Lộc có địa hình Caxto xen kẻ thung lũng hẹp, các đơn vị đất gồm: Đất xám fẻalit, xám kết vón, phù xa trung tính, phù xa chua, phù xa biến đổi.
Đất có phản ứng trung tính và một số vùng chua.
Nhiệt độ: trung bình 21 - 230 C, thấp nhất 80 C, biên độ nhiệt hàng năm 12 - 150 C, biên độ nhiệt ngày 6 - 70 C.
Mưa: Tổng lượng mưa bình quân năm: 1600 – 2100 mm, mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm 80 % tổng lượng mưa cả năm, gây ngập úng cục bộ ở các vùng chiêm trũng. Mưa ít nhất vào tháng 1 và tháng 2.
Gió bão: Vùng đồng bằng bị ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông bắc, gió Tây nam và các cơn bão đổ bộ vào đất liền.
1.3. Vùng miền núi
Gồm 11 huyện, thị chiếm 72,46 % tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Vùng này cao, địa hình khá phức tạp do bị chia cắt bởi hệ thống các sông, suối và thung lũng.
Nhiệt độ: Cao nhất 39 - 410 C, nhiệt độ thấp nhất 0 - 30C, biên độ nhiệt ngày 7 - 80 C, biên độ nhiệt hàng năm 10 - 110 C.
Mưa: Lượng mưa trung bình khoảng 1900 mm, có vùng đến 2300mm. Mưa lớn tập trung vào tháng 8 và tháng 9.
Gió bão: Yếu hơn ở vùng đồng bằng, nắng hạn kéo dài vào mùa hè, rét đậm kéo dài vào mùa đông.
Đơn vị đất là đất xám feralit, xám kết vón, đất đen điển hình, đỏ điển hình, nâu vàng, đất phù xa sông suối và thung lũng, vùng đất đỏ nâu vàng kết cấu bền.
Thành phần cơ giới đất trung bình, kết cấu tơi xốp và thịt nhẹ đén sét pha thịt, đất thường chua. Nhìn chung đất xám là chủ yếu, xám feralit, xám giàu bùn. Thành phần cơ giới đất từ thịt nhẹ, sét pha thịt, kết cấu tốt, đất thường có phản ứng chua.
2. Đặc điểm mặt nước, môi trường và nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt
2.1. Đặc điểm các loại hình mặt nước nuôi thuỷ sản nước ngọt
2.1.1. Ao
Ao là loại hình mặt nước có diện tích tương đối hẹp, dao động từ 100 đến 11000 m hoặc có thể lớn hơn đến khoảng 5000 m², trung bình khoảng 500 m². Ao được gắn liền với khu vực dân cư, các hộ gia đình. Nguồn gốc hình thành ao rất phức tạp: Do tự nhiên hình thành, do quá trình vượt thổ làm nhà, làm vườn, xây dựng cơ bản, do mục đích đào ao nuôi cá để giải quyết nhu cầu thực phẩm tại chổ, để kinh doanh hoặc để vui chơi giải trí...
Ao được hình thành bởi nhiều lý do khác nhau nên hầu hết các ao không được quy hoạch, thiết kế. Ao không có hệ thống cấp nước và thoát nước khi cần thiết. Nhiều nơi ao được sử dụng làm nơi ăn uống, tắm giặt, làm chổ chứa nước thải sinh hoạt của làng xóm...Vì vậy chất lượng cho nuôi thuỷ sản không được ai hướng dẫn, chỉ đạo về mặt kỹ thuật mà chủ yếu các hộ, các HTX tự học hỏi nhau là chính.
1.1.2. Hồ chứa
Hồ chứa cũng được hình thành bởi nhiều lý do: Do tự nhiên hình thành, do con người tạo nên để nhằm mục đích điều tiết nước khi có mưa lớn và để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Quy mô diện tích, trữ lượng nước của các hồ chứa cũng rất khác nhau, từ vài ha đến hàng nghìn ha. Nguồn nước của các hồ chứa hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, chất lượng nước đảm bảo cho nuôi thuỷ sản.
1.1.3. Ruộng trũng cấy lúa
Ruộng trũng cấy lúa tập trung chủ yếu các huyện đồng bằng, đặc biệt là các huyện có địa hình phức tạp, có địa hình thấp, điều kiện tưới tiêu khó khăn và việc đầu tư các công trình thuỷ lợi phức tạp, tốn kém. Các ruộng trũng là các rốn nước, là nơi tạp kết nước khi mùa mưa lũ việc sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn, rất thất thường, bấp bênh. Năng xuất và hiệu quả không cao, nhiều vụ bị mất trắng. Nguồn nước ở các khu vực ruộng trũng chủ yếu là nước hồi quy từ các vùng sản xuất khác dồn về và nước mưa mỗi khi mưa lụt xáy ra. Chất lượng nước nhiều khi do ảnh hưởng của quá trình sản xuất nông nghiệp : Thuốc trừ sâu, trừ cỏ nên không đảm bảo cho yêu cầu nuôi thuỷ sản.
1.1.4. Mặt nước hoang hoá
Đây là các vùng ven sông cụt hoặc các thùng đào, thùng đấu dọc theo các chân đê được hình thành trong quá trình đào đất đắp đê trước đây. Các vùng này luôn bị ngập úng quanh năm. Mặt khác tầng lớp canh tác phía trên đã bị bóc hết chỉ còn trơ đất sét, đất thịt phía dưới nên rất khó khăn cho việc cải tạo để sản xuất nông nghiệp. Những vùng này đa số là rốn nước của các khu vực khi có mưa, lụt. Điều kiện xây dựng các công trình thuỷ lợi khó khăn.
1.1.5. Sông suối
Thanh hoá có nhiều hệ thống sông suối nên có khả năng phát triển nuôi cá lồng bè và tập trung ở một số huyện đồng bằng, miền núi thuộc lưu vực sông Chu, sông Mã. Tuy nhiên do các sông ở Thanh hoá hầu hết là hẹp, nhiều phù sa khi có mưa nên khả năng mở rộng gặp nhiều khó khăn. Mặt khác trong một số năm gần đây do sự phát triển công nghiệp đặc biệt là các Nhà máy công nghiệp chế biến như : Nhà máy Đường, Giấy, Thực phẩm...Đã đổ ra sông suối một lượng chất thải công nghiệp có khả năng gây ô nhiểm nguồn nước, ảnh hưởng đến việc nuôi cá lồng, bè trên sông.
2.2. Đặc điểm môi trường nguồn nước cho nuôi thuỷ sản nước ngọt
Nguồn nước cho nuôi thuỷ sản bao gồm: Nước từ các sông, suối, nước hồ chứa thuỷ lợi qua các hệ thống tưới tiêu cho nông nghiệp, nước mưa. ở một số vùng nguồn nước để nuôi thuỷ sản bị ảnh hưởng trực tiếp của các nguồn nước thải của các nhà máy chế biến công nghiệp.
Kết quả phân tích một số chỉ tiêu về môi trường nguồn nước tại các sông, ảnh hưởng của các nhà máy công nghiệp trong tỉnh như: Nhà máy đường, nhà máy giấy... thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Kết quả phân tích một số chỉ tiêu môi trường nước
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Kết quả
Giới hạn cho phép
Độ PH
Mg/l
6,4 – 7,0
6,5 – 8,5
Chất rắn lơ lửng
Mg/l
10,0 – 480,0
50,0
BOD5
Mg/l
2,1 – 59,0
< 10,0
COD
MPN/100ml
4,0 – 116,0
5,0
Colfom
Mg/l
1.300 – 10. 000
1.000
PO43-
Mg/l
8,0 – 13,0
NO3-
Mg/l
0,05 – 0,42
NH4
Mg/l
0,00 – 0,06
NaCl
Mg/l
21,5 – 37,2
Nguồn: Chi cục đo lường chất lượng Thanh Hoá
Địa điểm lấy mẫu tập trung ở các sông có nguồn nước thải của các nhà máy: Đường Lam Sơn, Giấy Mục Sơn, Đường Đài Loan, Đường Nông Cống... Thời điểm lấy mẫu chỉ tập trung trong 3 – 4 tháng (trong thời gian điều tra quy hoạch).
2.3. Nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt
2.3.1. Nguồn lợi thuỷ sản khai thác tự nhiên
Nguồn lợi thuỷ sản khai thác tự nhiên ở Thanh Hoá rất đa dạng và phong phú như: Trai, hến, ốc, tôm, cá quả, cá trê, cá rô... Đó là các loại thực phẩm giàu đạm, rẻ tiền, dễ kiếm và dễ khai thác. Nó đã đóng góp một phần quan trọng trong cơ cấu thực phẩm của nhân dân ta từ lâu đời nay, phù hợp với nhu cầu, mức sống của người nông dân. Những loại thực phẩm này có thể nói là có mặt khắp nơi, ở đâu có nước là ở đó có thuỷ sản phát triển.
2.3.2. Nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên phục vụ truyền thống
Đây là các loài thuỷ sản có nguồn gốc tự nhiên được sử dụng để nuôi có truyền thống lâu đời như cá trắm, cá chép, lươn, ếch, baba, mè trắng... Những loài này được nhân dân sử dụng nuôi đã lâu và đã đóng góp một phần nhất định về thu nhập, về hiệu quả sử dụng mặt nước ao, hồ trong nhân dân. Trong đó có một số loài đã được chú ý nuôi để xuất khẩu tiểu nghạch dưới dạng tươi sống như: Baba, lươn, ếch.
2.3.3. Nguồn lợi thuỷ sản có nguồn gốc nhập ngoại
Những loài nhập ngoại đã nuôi lâu năm như RoHu, Mrigal, chép lai 3 máu, rô phi ...
Những loài nhập ngoại mới như: Tôm càng xanh, rôphi đơn tính, cá chim trắng nước ngọt... Đây là những nuôi mới có tốc độ lớn nhanh, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn cho tiêu dùng và chế biến xuất khẩu, có khả năng đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao, phù hợp với chuyển đổi các vùng nông nghiệp hiệu quả thấp.
3. Đánh giá tiềm năng, lợi thế và những hạn chế cần khắc phục khi quy hoạch
3.1. Đối với hồ chứa
Lợi thế:
+ Quy mô diện tích mỗi hồ chứa tương đối rộng lớn, phù hợp với nhiều giống loài thuỷ sản đặc biệt là các loài có nguồn gốc tự nhiên.
+ Chủ thể quản lý các hồ là Nhà nước.
Hạn chế:
+ Mục tiêu quy hoạch, xây dựng hồ để điều tiết nước phục vụ cho thuỷ lợi, thuỷ điện, sản xuất nông nghiệp nên có nhiều vấn đề không phù hợp cho việc quy hoạch phát triển nuôi thuỷ sản.
+ Diện tích mặt nước lớn rất khó khăn trong việc quản lý, chăm sóc, bảo vệ và khai thác thuỷ sản.
+ Không chủ động điều tiết được mực nước trong Hồ theo yêu cầu nuôi thuỷ sản.
Vì vậy mục tiêu quy hoạch chỉ đặt ra là tận dụng mặt nước để khai thác tự nhiên, nuôi thả bổ sung một số đối tượng nhất định theo các hình thức nuôi lồng, bè và nuôi ở các eo ngách của hồ.
3.2. Đối với Ao
Lợi thế:
+ Diện tích hẹp dễ đầu tư.
+ Phù hợp với khả năng, điều kiện của mỗi gia đình.
Hạn chế:
+ Ao phân bố xen kẽ trong khu dân cư, khó khăn cho việc quy hoạch, xây dựng, cấp thoát nước, xử lý nguồn nước.
+ Không có điều kiện để công nghiệp hoá, đưa các tiến bộ, công nghệ mới vào nuôi trồng được.
+ Khó quản lý, bảo vệ sản phẩm khi thu hoạch. Sản phẩm thu hoạch đơn lẻ, không có điều kiện để chế biến xuất khẩu.
3.3. Đối với ruộng trũng cấy lúa và mặt nước hoang hoá
Lợi thế:
+ Dễ chuyển đổi sang nuôi trồng vì hiệu quả kinh tế của ruộng trũng cấy lúa rất thấp.
+ Diện tích rộng, có điều kiện quy hoạch, đầu tư xây dựng và áp dụng tiến bộ, khoa học công nghệ và đưa các giống mới vào nuôi theo hình thức công nghiệp.
+ Có lượng hàng hoá nhất định cho chế biến, xuất khẩu.
Hạn chế:
+ Cơ sở hạ tầng ao, đồng nuôi (đê, cống, kênh mương, điện, trạm bơm) hầu như chưa có gì.
+ Chi phí đầu tư và suất đầu tư xây dựng ao, đồng nuôi lớn.
Vì vậy trong quy hoạch xác định loại hình ruộng trũng cấy lúa, diện tích hoang hoá là trọng tâm của việc đầu tư xây dựng để nuôi phục vụ xuất khẩu.
3.4. Đối với sông suối có khả năng nuôi cá lồng, bè
Lợi thế:
+ Tận dụng được các khu vực sông, suối nước chảy có điều kiện thuận lợi để nuôi cá lồng bè.
+ Không ảnh hưởng đến việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
+ Phù hợp với điều kiện kinh tế các gia đình có thu nhập thấp.
Hạn chế:
+ Không có điều kiện mở rộng quy mô vì lưu vực mỗi sông có hạn.
+ Không tạo ra được lượng hàng hoá nhất định cho xuất khẩu.
Vì vậy trong quy hoạch chỉ đặt ra mục tiêu là tận dụng những nơi có điều kiện để tổ chức cho dân nuôi, tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống cung cấp thực phẩm tại chỗ cho nhân dân trong vùng.
II. Thực trạng sản xuất và tiêu thụ
1. Tình hình phát triển trang trại và công nghệ nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá
1.1. Khái quát công nghệ nuôi thuỷ sản nước ngọt
Công nghệ nuôi thuỷ sản nước ngọt trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay nhìn chung còn ở mức độ đơn giản. Đa số vẫn còn nuôi theo hình thức quảng cảnh, dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên là chính và hầu như chưa có các yếu tố công nghiệp tác động vào công nghệ nuôi. Trong ba năm qua Trung tâm Khuyến ngư tỉnh đã thực hiện một số mô hình nuôi cá Rô phi đơn tính, tôm càng xanh, cá chim trắng theo các hình thức nuôi thâm canh và hình thức một vụ lúa, một vụ thuỷ sản đạt kết quả khá. Nguyên nhân chính chưa áp dụng được công nghệ mới vào nuôi thuỷ sản trong dân chủ yếu là quy mô diện tích vùng nuôi quá nhỏ bé. Diện tích nuôi hiện nay đến 90 % là ao hồ nhỏ phân bố xen kẽ trong các khu dân cư, diện tích mỗi ao trung bình 300 - 500 m2, không có điều kiện đầu tư cải tạo xây dựng để áp dụng công nghệ nuôi tiên tiến. Muốn đưa công nghệ nuôi tiên tiến vào nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt phải quy hoạch các vùng nuôi tập trung có quy mô diện tích từ vài, ba chục ha trở lên.
Công nghệ nuôi thuỷ sản nước ngọt hiện nay đã được phát triển trong nhiều vùng của cả nước đặc biệt là các tỉnh phía nam.
+ Hình thức nuôi cá lồng, bè: Đặc biệt phát triển ở các tỉnh đồng bằng sông Cửa Long với các đối tượng truyền thống như cá Tra, cá Basa. Các khâu sản xuất giống, sản xuất thức ăn, công nghệ nuôi đã được áp dụng bằng các công nghệ tương đối hiện đại, có sự tham gia của các yếu tố công nghiệp.
+ Hình thức nuôi cá, tôm thâm canh: Nuôi trong các mặt nước lớn chuyển đổi từ ruộng trung, hoang hoá sang nuôi với các đối tượng như: Tôm càng xanh, Rôphi đơn tính, cá Chim trắng bắt đầu phát triển ở một số tỉnh ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam ( Hải Phòng, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Trà Vinh, Cần Thơ... ) nhờ có công nghệ sản xuất giống và thị trường xuất khẩu hiện đang có lợi thế.
Trong hai hình thức nuôi trên thì hình thức nuôi thâm canh, nuôi kết hợp cấy lúa có nhiều khả năng áp dụng và phổ biến cho các vùng nuôi trong tỉnh vì các đối tượng nuôi: cá Chim trắng, Rôphi đơn tính, tôm càng xanhh có các đặc điểm sinh học, sinh thái học dễ thích nghi với điều kiện thời tiết, khí hậu trong tỉnh và đã được khẳng định thông qua thực tế của các mô hình Khuyến ngư từ năm 2000 đến nay. Cá Tra, cá Basa có các yêu cầu về môi trường khó tính hơn các loại cá trên, tuy nhiên trong các giải pháp về thực hiện quy hoạch nuôi cũng cần đưa cá Tra, cá Basa vào địa bàn Thanh Hoá để nghiên cứu, khảo nghiệm để khi có điều kiện thì có khuyến cáo cho dân nuôi.
1.2. Tình hình phát triển trang trại nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt
Trong các năm qua với cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế trang trại đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các chủ hộ trang trại. Toàn tỉnh hiện nay có 460 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, trong đó có 147 trang trại nuôi thuỷ sản nước ngọt. Các trang trại nuôi thuỷ sản nước ngọt tập trung chủ yếu ở các huyện đồng bằng, nơi có khả năng diện tích và các điều kiện nuôi thuận lợi.
Chưa có trang trại chuyên nuôi thuỷ sản nước ngọt. Các trang trại được hình thành trên cơ sở đấu thầu các vùng đất, mặt nước hoang hoá. Đa số các trang trại sản xuất theo mô hình kinh tế tổng hợp. Diện tích nuôi thuỷ sản chỉ chiếm từ 15 - 50 % quy mô diện tích của trang trại, việc hoạch toán của trang trại chưa rõ ràng. Vì vậy việc đánh giá hiệu quả nuôi thuỷ sản của các trang trại hiện nay là chưa có đầy đủ thông tin và cơ sở.
2. Quy mô diện tích và sản lượng nuôi thuỷ sản nước ngọt
Trong hơn 5 năm qua tình hình nuôi thuỷ sản nước ngọt tỉnh Thanh Hoá nhìn chung biến động không nhiều, xu thế diện tích, sản lượng có tăng nhưng không đáng kể do năng suất nuôi bình quân vẫn giữ mức ổn định. Nông dân mới chỉ tập trung nuôi thả một số đối tượng có khả năng suất khẩu tiểu ngạch qua biên giới hoặc một số đối tựơng có khả năng xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới hoặc một số đối tượng có khả năng bảo quản, lưu giữ lâu sau thu hoạch.
Các nguyên nhân ảnh hưởng:
+ Tâm lý của đại bộ phận nông dân vẫn coi nuôi thuỷ sản nước ngọt là lĩnh vực sản xuất phụ, tận dụng mặt nước, tận dụng lao động nhàn rỗi để nuôi. Quy mô sản phẩm nuôi của mỗi hộ còn nhỏ lẻ chưa mang tính sản xuất hàng hoá.
+ Do thị trường tiêu thụ hạn chế: Thị trường trong tỉnh không phát triển do sức mua, thu nhập của dân nhìn chung còn ở mức thấp, Thị trường xuất khẩu chưa tạo dựng được. Chưa tập trung thu mua chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa do lượng hàng hoá còn quá nhỏ bé.
+ Chưa có công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Sản phẩm thu hoạch xong nhanh bị ươn, thối.
+ Chưa có các đối tượng nuôi mới phù hợp với nhu cầu thị trường và có khả năng chế biến xuất khẩu ( Tôm càng xanh, cá Rôphi đơn tính). Những loại giống này mới chỉ được bắt đầu nuôi từ năm 2000 và khả năng cung ứng với một số lượng lớn còn gặp khó khăn.
+ Chưa có chủ trương chuyển đổi, quy hoạch, đầu tư xây dựng các vùng ruộng trũng, hoang hoá sang nuôi thuỷ sản. Chỉ có các vùng này sau khi quy hoạch, đầu tư xây dựng để nuôi các đối tượng nuôi mới phù hợp và có khả năng áp dụng các công nghệ, tiến bộ mới vào nuôi thâm canh, bán thâm canh.
Bảng 2: Diện tích, sản lượng nuôi thuỷ sản nước ngọt qua các năm.
Số TT
Loại hình nuôi
ĐVT
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
I
Tổng D. tích
Ha
6.100
5.950
5.726
5.955
5.918
6.503
7.387
1
Nước hồ chứa
"
600
650
500
600
500
670
955
2
Nuôi ao
"
5.500
5.300
5.200
5.300
5.300
5.621
6.149
3
Nuôi R. trũng
"
0
0
26
55
118
212
283
II
Nuôi lồng bè
Lồng
5.000
4.800
3.200
2.800
2.600
1.960
1.880
III
Sản lượng
Tấn
6.000
6.200
5.900
6.200
6.500
7.000
8.200
3. Các hình thức và hiệu quả nuôi
3.1. Hình thức, đối tượng nuôi
3.1.1. Đối với ao
Trong những năm qua ao là nơi cung cấp chủ yếu nguồn thuỷ sản nước ngọt cho nhu cầu thực phẩm tại chỗ cho nhân dân. Hệ số sử dụng diện tích ao nuôi trong nông thôn đạt 80 -90 % tổng diện tích ao. Hình thức nuôi rất đa dạng:
Khoảng 40 % số hộ gia đình có ao xa nguồn nước cấp, không có nơi thoát nước, nước tụ đọng quanh năm, không có khă năng kinh tế và tài chính thì nuôi chay (có khả năng một lượng giống nhất định, không cho ăn và cuối năm thu hoạch). Các đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá truyền thống có nguồn gốc tự nhiên: trắm, chép, mè, giếc, quả, cá tạp.v.v... Năng suất của những loại hình nuôi này thường rất thấp, chỉ khoảng 5- -70 kg /sào ( > 1 tấn/ha). Sản phẩm thu hoạch được chủ yếu là cung cấp, giải quyết nhu cầu thực phẩm cho gia đình. Xét về hiệu quả kinh tế sử dụng đất là chưa cao.
Khoảng 50 % số hộ nuôi có ao xa nguồn cấp thoát nứơc, ao bị tụ đọng nhưng có điều kiện kinh tế, tài chính khá hơn thì có thả giống và tận dụng thức ăn phụ phẩm của gia đình (cám, bã, thức ăn thừa, phân hữu hữu cơ, phân xanh). Các đối tượng nuôi vẫn chủ yếu là cá truyền thống. Tuy nhiên có đìeu kiện chăm sóc tốt hơn nên năng xuất nuôi của những hộ này đạt khoảng 70- 100kg/sào. Sản phẩm thu hoạch của những hộ này ngoài việc cung cấp thực phẩm tại lượng chỗ cho gia đình còn đóng góp một phần trong việc cung cấp thực phẩm tại chỗ cho xã hội. Đối với miền núi (đặc biệt là vùng cao), dọc theo chân núi, khe suối nhân dân khoanh bao tạo ra một số ao, hồ nhỏ để lấy nước tưới ruộng, nuôi thuỷ sản và giải quyết được nguồn thực phẩm rất quan trọng.
Khoảng 10 % số ao hồ nuôi gần nguồn nước cấp và dễ thoát nước, có diều kiện kinh tế, tài chính dã xây dựng và cải tạo ao nuôi theo hình thức bán thâm canh (Thả giống, cho ăn một phần thức ăn công nghiệp và tự chế biến, có chăm sóc, quản lý) và con con nuôi thuỷ sản nước ngọt là nguồn thu nhập chính của gia đình. Đối tượng chăn nuôi của những hộ này thường là các loài mới, là các loài có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu tiểu ngạch như: Ba ba; Lươn, ếch, Rôphi và gần đây là các loài: Cá Chim trắng, Rô phi đơn tính, tôm càng xanh. Nuôi thuỷ sản của các hộ này đã mang tính sản xuất hàng hoá. Năng suất nuôi đàn 150 - 200 kg /sào ( khoảng 3- 4 tấn /ha). Thu nhập từ nuôi thuỷ sản của các hộ này là nguồn thu nhập chính của các gia đình, nhiều hộ làm giàu từ nuôi thuỷ sản. Những hộ này là nhân tố thúc đẩy phong trào nuôi thuỷ sản trong tỉnh và phát triển trong những năm qua.
3.1.2. Đối với các hồ chứa
Hồ chứa với chức năng nhiệm vụ là điều tiết, cung cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Khi quy hoạch, thiết kế không đề cập đến chức năng nhiệm vụ nuôi thuỷ sản. Vì trong quá trình quản lý, khai thác chức năng nhiệm vụ của các vùng, vấn đề nuôi thuỷ sản không được đặt ra. Thực tế các hồ này, dân và các cơ quan quản lý chủ yếu là khai thác, tận dụng sản phẩm thuỷ sản tự nhiên.
Một số hồ lớn dân quanh vùng có nuôi thả theo hình thức nuôi lồng, bè và tận dụng các eo ngách quanh hồ để nuôi thả, nhưng quy mô diện tích không lớn, đối tượng nuôi thả chủ yếu là các loại cá truyền thống nhanh lớn như: Trắm cỏ, Rô hu, mè.v..v.. năng xuất khai thác tự nhiên của các hồ lớn bình quân dưới 100 kg /ha, các hồ lớn nhỏ có năng xuất khai thác cao khoảng 200 - 250 kg /ha.
3.1.3. Đối với ruộng trũng
Đặc điểm của ruộng trũng là không chủ động được nước (vụ mùa dễ bị ngập úng), chủ yếu cấy lúa vào vụ chiêm và năng xuất cũng rất thấp. Một số vùng nhân dân đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ hình thức một vụ lúa sang hình thức 1 vụ lúa và 1 vụ nuôi thuỷ sản. Đối tượng nuôi của loại hình này hiện nay khá phong phú: Trắm, mè, Trôi, Chim trắng, cá Rô phi, Tôm càng xanh.v.v. Năng suất lúa vụ chiêm đạ 5 tấn /ha, Năng xuất cá đạt từ 2 - 3 tấn /ha.
Hiệu quả sử dụng đất của loại này tăng lên rõ rệt, gấp 3 - 5 lần trồng lúa. Một số vùng có diện tích lớn ruộng trũng, không có điều kiện thâm canh lúa, các xã đã tổ chức đấu thầu sản xuất theo mô hình trang trại nuôi cá, cấy lúa hoặc mô hình tổng hợp VACR , VACR + Dịch vụ đạt hiệu quả kinh tế cao.
Nếu được quy hoạch được đầu tư xây dựng đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi để chủ động về nước (đê, cống, kênh mương) thì những vùng ruộng trũng sẽ trở thành vùng nuôi thuỷ sản có quy mô nhất định để tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
3.2. Hiệu quả kinh tế nuôi thuỷ sản
Nuôi thuỷ sản trong những năm qua đã đem lại hiệu quả nhất định về mặt kinh tế - xã hội:
Một là: Đã tận dụng các loại hình mặt nước để khai thác và nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, mặt nước. Hầu hết các loại hình mặt nước đã được khai thác và sử dụng có kết quả nhất định. Đặc biệt là một số diện tích ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp bước đầu đã được sử dụng nuôi thuỷ sản kết hợp cấy lúa tăng hiệu quả lên 3 - 5 lần.
Hai là: Đã thu hút, sử dụng được lao động nhàn dỗi trong nông thôn, nông nghiệp. Đa số lao động nuôi thuỷ sản là lao động kết hợp, mỗi là người làm nhiều việc tranh thủ thời gian sớm, tối, thời gian giữa các mùa vụ trong nông nghiệp. Chỉ có một lao động nuôi lồng, bè, nuôi trong các trang trại, nuôi nhằm mục đích kinh doanh mang tính chất sản xuất hàng hoá là có tính " chuyên nghiệp". Nhiều hộ nông dân đã làm giàu từ nuôi thuỷ sản.
Ba là: Đã cung cấp một khối lượng thực phẩm quan trọng, đáp ứng nhu cầu thực phẩm tại chỗ, hàng ngày cho nhân dân và một khối lượng đáng kết thuỷ sản tươi sống cho xuất khẩu tiểu ngạch.
4. Các hoạt động dịch vụ nuôi thuỷ sản nước ngọt
4.1. Sản xuất và cung ứng giống
Toàn tỉnh hiện nay có 51 cơ sở sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt.
Trong đó:
Trung tâm NC&SX giống hải sản Hoằng Thanh (có xuất giống Tôm càng xanh). Năm 2000 đã sản xuất được 20 vạn con, đến năm 2001 sản xuất được 1 triệu, năm 2002 được 3 triệu con giống.
Công ty Cổ phần giống thuỷ sản có 4 trại ( Đông Hoàng - Đông Sơn, Hậu Lộc, Thiệu Hoá và Cẩm Thuỷ). Các trại giống của công ty Cổ phần chủ yếu làm nhiệm vụ nghiên cứu du nhập, thuần hoá, lai tạo, thử nghiệm và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để sản xuất giống mới. Việc sản xuất giống của công ty chủ yếu là cho đẻ cá bột và cho đẻ các loài mới du nhập. Đối tượng sản xuất, bao gồm : Cá mè trăng, Mè hoa, cá Trắm cỏ, cá Rôphi, Chép lai... Công xuất 4 trại của công ty khoảng 280 - 300 triệu các bột /năm. Năm 2000 bước đầu cho đẻ thành công cá Chim trắng tại trại cá giống Đông Hoàng, năm 2001 cho đẻ đại trà và năm 2002 đã cung ứng nuôi rộng rãi ở một số huyện trong tỉnh.
Có 46 cơ sở sản xuất giống tư nhân. Các cơ sở tư nhân chủ yếu là cho đẻ các loài cá truyền thống, ương nuôi và dịch vụ buôn bán cá hương và cá giống. Các cơ sở sản xuất và dịch vụ giống thuỷ sản nước ngọt hiện nay phân bố chủ yếu ở các huyện đồng bằng, nơi có diện tích mặt nước và điều kiện nuôi thuận lợi trong việc cung ứng, buôn bán giống. Tập trung lớn nhất là Quảng Xương (15 trại, công suất 450 - 500 triệu cá bột /năm) và Thiệu Hoá( 8 trại, công xuất khoảng 120 - 150 triệu cá bột /năm).
Tổng công xuất sản xuất của các trại cá giống trong tỉnh hiện nay đạt gần ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT243.doc