Quy hoạch ngành - Cơ sở lý thuyết và những đổi mới ở Việt Nam

A.PHẦN MỞ ĐẦU Trước đây khi nhắc tới hệ thống kế hoạch hóa trong phát triển các ngành kinh tế quốc dân chúng ta thường bắt gặp nhiều cụm từ: chiến lược phát triển ngành, kế hoạch phát triển ngành…mà ít khi thấy các ngành lập quy hoạch phát triển cho riêng ngành. Sở dĩ là vì quy hoạch gắn với bố trí sắp xếp nên nó phù hợp hơn với hệ thống kế hoạch hóa phát triển cho các vùng, các khu đô thị. Tuy nhiên đã có một thực tế đáng buồn xảy ra với các ngành kinh tế quốc dân đó là việc phát triển một các

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy hoạch ngành - Cơ sở lý thuyết và những đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tự phát các cơ sở sản xuất không tuân theo bất cứ một khuôn khổ nào, dẫn tới các ngành rất khó kiểm soát và không thể phát triển đúng theo kế hoạch đã đặt ra. Việc này gây ra những rắc rối trong quản lý ngành gây lãng phí mất mát lớn, không đạt hiệu quả trong đầu tư. Trong khoảng 5 – 10 năm trở lại đây các ngành đã chú trọng hơn tới công tác xây dựng quy hoạch phát triển cho mình ( ngành điện, ngành dệt may, ngành thép..). Xây dựng quy hoạch là một nội dung khó do nó đòi hỏi phải phân tích tỉ mỉ các điều kiện phát triển ngành ở các vùng, sự liên kết phát triển ngành giữa các vùng và sự hợp tác giữa các ngành trong vùng. Tuy nhiên nếu có được một bản quy hoạch tốt sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các ngành phát triển nhanh và bền vững. Quy hoạch ngành là một nội dung lớn trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy em chọn đề tài của đề án là: “Quy hoạch ngành – cở sở lý thuyết và những đổi mới ở Việt Nam”. Và lấy ngành dệt may là một ví dụ minh họa để phân tích. B. NỘI DUNG I.Một số phương pháp lý luận về quy hoạch ngành. 1. Khái niệm quy hoạch ngành. Quá trình kế hoạch hóa nếu phân theo nội dung thì nó là một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với nhau của các bộ phận cấu thành bao gồm: chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển và các chương trình, dự án phát triển. Trong đó, chiến lược phát triển xác định các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội mang tính chất dài hạn ( 10 năm, 15 năm, 20 năm…). Quy hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn và bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ. Kế hoạch phát triển là công cụ điều hành và quản lý vĩ mô, nó được đặc trưng bằng hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể về mục tiêu và biện pháp phát triển trong từng thời kì nhất định. Chương trình và dự án phát triển được xem là công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề mang tính chất bức xúc của nền kinh tế trong thời kì kế hoạch. Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn kế hoạch hóa. Về cơ bản có thể hiểu quy hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững. Vai trò của quy hoạch phát triển chính là sự cụ thể hoá chiến lược trong thực tế về cả mục tiêu và các giải pháp. Nếu không có quy hoạch sẽ mù quáng, lộn xộn, đổ vỡ trong phát triển, quy hoạch để định hướng, dẫn dắt, điều chỉnh trong đó có cả hiệu chỉnh thị trường. Mặt khác chức năng của quy hoạch còn là cầu nối giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực tiễn chiến lược, cung cấp các căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển n hanh, bền vững và có hiệu quả. Quy hoạch phát triển bao gồm: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Quy hoạch tổng thể là xác định và lựa chọn mục tiêu cuối cùng, tìm những giải pháp để thực hiện mục tiêu. Quy hoạch cũng như chiến lược, xét cho cùng vẫn là định hướng. Tuy vậy, một trong những khâu quan trọng nhất của quy hoạch là luận chứng về tính tất yếu, hợp lý cho sự phát triển và tổ chức không gian kinh tế - xã hội dài hạn dựa trên sự bố trí hợp lý bền vững kết cấu hạ tầng vật chất kĩ thuật phu hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Trong xây dựng quy hoạch phải đi vào luận chúng ở mức cần thiết từ khâu điều tra, phân tích đến tính toán chứng minh, so sánh các phương án, các giải pháp, xem xét mọi yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng,…đi từ tổng quát đến cụ thể và ngược lại, cần chú ý sự phù hợp cả không gian lãnh thổ và thời gian cụ thể. Trên cơ sở khung quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển, các ngành sẽ xây dựng quy hoạch phát triển của ngành mình. Các tiềm năng phát triển sẽ được đánh giá chuẩn xác hơn và cụ thể hơn, đồng thời trên một mức độ nào đó sẽ lượng hóa các nguồn lực cơ cấu phát triển ngành, làm cơ sở xây dựng các chương trình, dự án chính sách thực hiện các mục tiêu ngành. Như vậy, quy hoạch ngành là sự định hướng và bố trí, sắp xếp các cơ sở sản xuất của ngành trên phạm vi từng vùng trong cả nước để tạo ra một cơ cấu ngành hợp lý và hiệu quả. Về mặt ý nghĩa, quy hoạch ngành sẽ là căn cứ để xây dựng quy hoạch vùng, là công cụ để quản lý (theo dõi, kiểm tra )ngành. Quy hoạch tổng thể vùng là những luận chứng khoa học về bố trí sản xuất phục vụ đời sống, sản xuất của dân cư trên phạm vi lãnh thổ của một vùng. Nó tổng hợp quy hoạch của các ngành, xác định mục tiêu phát triển của vùng dựa trên đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng quy hoạch trong thời gian qua. Dựa trên kết quả nghiên cứu nhu cầu hàng hoá dịch vụ trong vùng và ngoài vùng có liên quan để bố trí không gian hợp lý và xây dựng giải pháp thực hiện. Quy hoạch vùng vừa phải đảm bảo các phương án tối ưu liên ngành và liên vùng trên cùng một địa bàn lãnh thổ, vừa phải phát huy tiềm năng và đặc thù của từng vùng để phát triển. 2. Mối quan hệ của quy hoạch ngành với các quy hoạch khác. Quy hoạch có thể phân thành nhiều loại hình khác nhau dựa vào nội dung, đối tượng, mức độ, phạm vi của lãnh thổ, quy hoạch tổng thể phát triển theo ngành, quy hoạch cảnh quan, quy hoạch đô thị và xây dựng, quy hoạch kiến trúc, quy hoạch sử dụng đất đai... Quy hoạch tổng thể được quan niệm là quy hoạch chung cho mọi ngành kinh tế, cho mọi lĩnh vực xã hội và cho mọi yếu tố mội trường trên một lãnh thổ nhất định. Trong khi tiến hành quy hoạch phát triển tất cả mọi đối tượng về kinh tế, xã hội và môi trường của quy hoạch đều được xem xét, đánh giá, cân nhắc tính toán. Tính tổng thể của quy hoạch đòi hỏi sự sắp xếp, bố trí cho bất kì một đối tượng nào cũng phải đặt chúng trong mối liên hệ tổng thể với các đối tượng khác trong lãnh thổ quy hoạch, để đảm bảo sự phối hợp hài hoà, hợp lý, có hiệu quả của sự phát triển bền vững theo các chỉ số công bằng, tương quan của phát triển và bền vững. Quy hoạch tổng thể đòi hỏi có một mục tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội và môi trường, đồng thời có cả mục tiêu căn bản của các ngành kinh tế, của các lĩnh vực xã hội và môi trường cùng nằm trong quy hoạch. Quy hoạch tổng thể thể hiện sự bố trí theo phạm vi không gian lãnh thổ khác nhau trong giới hạn lãnh thổ nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Quy hoạch ngành là quy hoạch riêng cho các ngành kinh tế, các lĩnh vực xã hội hoặc yếu tố cho môi trường, có các mục tiêu cụ thể, có các đối tượng cụ thể ở trên những phạm vi phân bố chi tiết, có các dự án phát triển theo ngành và các giải pháp thực hiện cụ thể. Quy hoạch ngành kinh tế có các quy hoạch công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, giao thông vận tải, du lịch, dịch vụ, thương mại...Quy hoạch xã hội có quy hoạch dân số, nguồn lực, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin. Quy hoạch kinh tế - xã hội luôn luôn đi kèm theo hệ quả môi trường, nên các quy hoạch kinh tế - xã hội bắt buộc phải tiến hành đồng thời với quy hoạch môi trường trong tổng thể thống nhất của sự phát triển bền vững. Quy hoạch phát triển nông nghiệp là sự phân bố các vùng nông nghiệp (diện tích, vị trí, loại cây trồng, chăn nuôi động vật ), sản lượng và mức tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp trong thời kì dài hạn trên một phạm vi lãnh thổ xác định. Quy hoạch phát triển nông nghiệp là một trong những bộ phận của quy hoạch phát triển quốc gia. Quy hoạch phát triển công nghiệp: Bố trí các khu công nghiệp ( vị trí và diện tích ), chỉ tiêu phát triển đối với ngành công nghiệp chính ( sản lượng và mức tăng trưởng ). Quy hoạch phát triển các ngành là cơ sở và là bộ phận hợp thành của quy hoạch tổng thể, chịu sự chỉ đạo và khống chế của quy hoạch tổng thể. Quy hoạch tổng thể xác định một cơ cấu hợp lý giữa các ngành kinh tế trong tổng thu nhập quốc dân, xác định nhịp độ tăng trưởng của các ngành nhằm đạt được mục tiêu phát triển chung của toàn nền kinh tế. Quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa cả thể và tổng thể,cục bộ và toàn diện, có sự thống nhất theo không gian và thời gian trong một khu vực. Tuy nhiên chúng có sự khác nhau về tư tưởng chỉ đạo và nội dung giữa một bên là cụ thể, cục bộ trong phạm vi hẹp, sự sắp xếp mang tính chiến thuật, một bên là định hướng chiến lược, có tính toàn diện tổng thể toàn bộ nền kinh tế. 3. Nội dung của quy hoạch ngành Trong thực tế nếu không có quy hoạch ngành sẽ phát triển tự phát dẫn tới sự không hiệu quả. Phải có quy hoạch mới bám sát được thị trường đảm bảo tổng cung bằng tổng cầu. Tuỳ đặc thù từng ngành mà trong mỗi phần có những nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên khung cơ bản của một bản quy hoạch cần tuân theo một số nội dung sau: 3.1 Đánh giá các điều kiện, yếu tố phát triển Mục đích của việc đánh giá các điều kiện, yếu tố cho phát triển là chỉ ra những nhân tố cần thiết cho phát triển ngành; đánh giá khả năng tác động của các yếu tố đầu vào đến phát triển ngành; đánh giá vai trò trong hội nhập và tính cạnh tranh của ngành trong phát triển. Phải đảm bảo đánh giá các yếu tố, nguồn lực một cách đầy đủ, tránh việc mô tả chung chung, phải tập trung làm rõ các vấn đề sau: Phân tích sự tác động của các yếu tố, nguồn lực đến phát triển ngành hiện tại và trong tương lai ( tác động gì ? và như thế nào ? đến phát triển ngành ); Mức độ cạnh tranh trong điều kiện hội nhập; Từ phân tích những yếu tố, nguồn lực phải thấy được các điều kiện để có thể khai thác phát huy chúng trong tương lai. Nội dung cụ thể cần đánh giá gồm: Xác định vị trí, vai trò của ngành đối với nền kinh tế quốc dân Để xác định vị trí, vai trò của ngành trong nền kinh tế ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu: tỷ lệ đóng góp GDP ngành trong nền kinh tế qua các năm, tỷ lệ sử dụng vốn đầu tư của ngành trên tổng vốn đầu tư của toàn xã hội qua các năm, tỷ lệ thu hút lao động của ngành, tỷ lệ trang bị công nghệ hiện đại cho ngành...Dựa vào các chỉ tiêu này có thể đưa ra nhận định chung về tiềm năng và khả năng phát triển ngành (nhanh, trung bình, yếu ), xác định vai trò của ngành trong hệ thống kinh tế, vai trò thu hút lao động của ngành, khả năng hiện đại hoá công nghệ (tiên tiến, trung bình, lạc hậu )... Đánh giá các nhân tố đầu vào cho phát triển ngành Những nhân tố đầu vào cho phát triển ngành gồm: điều kiện tự nhiên, nguyên liệu, cung cấp điện, nước, lao động. Cần đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với sự phát triển ngành. Từ đó đưa ra được các kết luận cụ thể: Mức độ ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên đến phát triển ngành ( là thuận lợi hay khó khăn ); khả năng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ngành ( bao gồm cả nguyên liệu từ khoáng sản và nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp ) là dồi dào hay khan hiếm; đánh giá nguồn vốn đầu tư, lao động lành nghề cung cấp cho ngành là nhiều hay ít. Phân tích ảnh hưởng của bối cảnh thế giới đến phát triển ngành Đánh giá mức độ ảnh hưởng của bối cảnh thề giới đến sự phát triển của ngành phải quan tâm đến những vấn đề: Ý kiến của các chuyên gia chuyên ngành; quan điểm của các chuyên gia kinh tế đánh giá chung về ngành; khảo sát các số liệu cơ bản theo các chỉ tiêu chủ yếu về hoạt động của ngành trên phạm vi thế giới và khu vực; xếp hạng mức độ cạnh tranh của sản phẩm.Từ đó rút ra được các nhận đinh cơ bản về tình hình phát triển của ngành trên thế giới ( nhanh/ chậm ), xu thế phát triển của ngành trên thế giới và trong nước tác động đến phát triển ngành trong tương lai là mạnh/ trung bình hay yếu. Đánh giá chung về thuận lợi, khó khăn và hướng khai thác Tổng hợp các phân tích trên đề đưa ra những kết luận chính: Những thuận lợi, khó khăn của ngành ( cơ hội và thách thức ). Hướng khai thác trong tương lai ( phát triển hay không phát triển ). 3.2 Đánh giá hiện trạng quy hoạch phát triển ngành Mục đích của việc phân tích, đánh giá hiện trạng quy hoạch phát triển ngành là: Đánh giá toàn bộ hiện trạng ngành theo các chỉ tiêu cơ bản như khai thác tài nguyên, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu ngành, phân bố theo lãnh thổ, đầu tư, lao động, công nghệ...; Đưa ra kết luận về kết quả đạt được, những khó khăn gặp phải, những nguyên nhân chính và hướng giải quyết. Việc đánh giá hiện trạng ngành cần tránh mô tả chung chung về thành tích và hạn chế mà phải đảm bảo đạt được một số yêu cầu sau: Đánh giá trình độ phát triển ngành trong tương quan với các ngành cũng như đối với cùng ngành trên thế giới. Đánh giá bối cảnh chung và mức độ cạnh tranh của ngành, sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân. Rút ra bài học ( những quy luật phát triển ) của ngành trong thời gian qua. Xác định những điểm cần phải phát huy hoặc cần phải khắc phục trong giai đoạn tới. Đánh giá được sự phân bố ngành, cơ cấu ngành theo vùng lãnh thổ đưa ra nhận xét hợp lý hay chưa. Những kết luận rút ra từ phân tích, đánh giá hiện trạng quy hoạch phát triển phải là một trong những cơ sỏ để đề ra mục tiêu và phương hướng cần khắc phục và phát huy trong giai đoạn tới. Đánh giá kết quả công tác quy hoạch phát triển ngành trong 5 – 10 năm Đánh giá quy mô, tốc độ tăng trưởng ngành: Thông qua các chỉ tiêu tính toán về: Giá trị sản xuất, số lượng, các loại nguyên liệu cung cấp cho ngành, nhịp độ tăng trưởng GTSX, GDP, nhịp độ tăng trưởng GDP, diện tích, năng suất, sản lượng của các sản phẩm chủ yếu của ngành, nhịp độ tăng trưởng của các sản phẩm chủ yếu,...qua các năm. Từ đó đưa ra các kết luận cơ bản về qui mô phát triển của ngành trong thời gian qua; mức độ phát triển của ngành trong giai đoạn vừa qua; khả năng cạnh tranh. Đánh giá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Mục đích chính là tính toán đóng góp của ngành trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời xác định sự chuyển dịch sự đóng góp đó qua các năm của ngành. Thông qua các chỉ tiêu tính toán: tỷ trọng GTSX, GDP của ngành trong tổng GTSX, GDP cả nền kinh tế; cơ cấu GTSX. GDP, vốn đầu tư, lao động theo sản phẩm hoặc theo các phân ngành, theo các mốc thời gian; đánh giá và phân tích kết quả chuyển dich cơ cấu kinh tế. Từ đó đưa ra các nhận định chính về quy mô sản xuất ngành trong nền kinh tế, cơ cấu các phân ngành, so sánh cơ cấu qua các mốc để đưa ra kết luận về hướng chuyển dịch cơ cấu ngành. Đánh giá hiện trạng ngành Đánh giá trình độ và khả năng phát triển khoa học – công nghệ của ngành: Đối với các ngành sản xuất công nghệ đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển. Trong điều kiện hội nhập toàn cầu đổi mới công nghệ mang lại khả năng cạnh tranh cao. Đánh giá mức độ hiện đại hoá công nghệ cho ngành sẽ được tính toán từ các chỉ tiêu: thống kê trang thiết bị theo các thế hệ công nghệ ( cũ/ mới ); tỷ lệ trang bị hiện đại/ đơn vị sản phẩm; tỷ lệ trang bị hiện đại/ GTSX ngành; tình hình nghiên cứu và triển khai ( R & D ) của ngành. Từ đó đưa ra những kết luận cơ bản đánh giá mức độ hiện đại hoá của ngành, trình độ trang bị công nghệ mới, khả năng đổi mới công nghệ cho ngành. Đánh giá về hoạt động đầu tư cho phát triển ngành : Sử dụng các chỉ tiêu: Tổng số vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư cho ngành qua các năm theo các phân ngành; tốc độ tăng vốn đầu tư cho ngành qua các năm; cơ cấu vốn đầu tư theo các sản phẩm hoặc theo các phân ngành ( vốn đầu tư theo nguồn cung caap, trong nước - nước ngoài, nhà nước và ngoài quốc doanh...); suất đầu tư ( vốn đầu tư / GTSX ); khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trong ngành; hệ số ICOR theo các năm và theo sản phẩm hoặc theo phân ngành. Để đưa ra được các kết luận về quy mô đầu tư, cơ cấu đầu tư theo ngành, theo nguồn, hiệu quả đầu tư. Nguồn nhân lực cho ngành: Thống kê số lao động, phân loại trình độ và khả năng cung ứng lao động cụ thể cần tính toán: số lượng lao động trong ngành qua các năm, theo các sản phẩm hoặc các phân ngành ( số lao động trong ngành theo mức độ đào tạo: lao động phổ thông/ lao động qua đào tạo: công nhân/ kĩ sư/ thợ lành nghề ...); năng suất lao động qua các năm: thu nhập của lao động trong ngành qua các năm; đánh giá khả năng đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển ngành. Rút ra các kết luận về tình hình lao động cho phát triển ngành giai đoạn qua ( thiếu hay dư thừa ), cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo đã hợp lý chưa, năng suất lao động là cao hay thấp. Đánh giá hiện trạng phân bố ngành trên các vùng lãnh thổ Khảo sát và đánh giá sự phát triển của ngành trên các vùng lãnh thổ thông qua các số liệu thống kê về: Số lượng cơ sở sản xuất của ngành theo các vùng; GTSX ( GDP ) ngành theo các vùng, tốc độ tăng trưởng của GTSX ( GDP ) ngành theo các vùng; Cơ cấu ngành và các phân ngành theo các vùng lãnh thổ; Các khu công nghiệp tập trung trên các vùng. Từ đó đưa ra những nhận xét về tính hợp lý của tình hình phân bố ngành, khai thác nguồn lực của các vùng, hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp khu tập trung khai thác. Tổng hợp đánh giá chung Sau những phân tích và nhận xét cụ thể về các mặt trên của ngành ta đưa ra các kết luận chung về tính hợp lý trong công tác quy hoạch hiện tại của ngành, những điểm mạnh và những tồn tại chủ yếu cần khắc phục. Đồng thời nêu được nguyên nhân của các thành công và hạn chế đó. 3.3 Lụân chứng phương hướng phát triển. a. Xây dựng quan điểm, mục tiêu cho phát triển ngành. Quan điểm phát triển của ngành phải phù hợp với quan điểm phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung quan điểm thể hiện sự lựa chọn những mũi nhọn và vấn đề ưu tiên cho ngành, thể hiện quan điểm hội nhập trong cơ chế thị trường. Mục tiêu sẽ tuỳ theo từng ngành để thể hiện được sự phát triển bền vững, trước tiên là mục tiêu hiệu quả, mục tiêu đáp ứng những nhu cầu xã hội và đảm bảo ổn định môi trường. Mục tiêu cụ thể bao gồm các chỉ tiêu số lượng về nhịp độ tăng trưởng, doanh thu, xuất khẩu, lao động, đầu tư,…của ngành. b. Dự báo các nhân tố tác động tới phát triển ngành Trong nền kinh tế thị trường phát triển các nhân tố thị trường thường xuyên vận động, gây ra những tác động lớn tới sự phát triển của ngành. Nắm bắt các nhân tố tác động tới sự phát triển ngành một cách đầy đủ và chính xác là điều kiện quan trọng để có được một bản quy hoạch khả thi. Cần phân tích và dự báo đầy đủ các yếu tố thị trường có liên quan đến phát triển ngành: Dự báo nhu cầu và khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành: Nguyên nhiên vật liệu, vốn đầu tư, lao động, khả năng đổi mới khoa học công nghệ của ngành… Dự báo cầu thị trường về sản phẩm của ngành và năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ của ngành. c. Luận chứng về các phương án phát triển Các phương án phát triển thể hiện khả năng phát triển của ngành theo hướng hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập. Cần đưa ra được 2 -3 phương án để lựa chọn, các phương án được xây dựng đi liền với các điều kiện ở mức độ thấp/ trung bình/ cao. Nội dung các phương án cần thể hiện được: Nhịp độ tăng trưởng của GTSX, GDP, doanh thu, xuất khẩu… Xây dựng cơ cấu hợp lý của các phân ngành và các sản phẩm; Nhu cầu về vốn đầu tư theo các nguồn, nhu cầu về lao động và trình độ đào tạo. Trên cơ sở những lập luận và phân tích về tính khả thi và hiệu quả sẽ lựa chọn một phương án phát triển hợp lý để xây dựng quy hoạch. 3.4 Luận chứng về phương pháp quy hoạch ngành Trên cơ sở các phân tích trên sẽ tiến hành xây dựng quy hoạch ngành. Đây là sự thể hiện ý đồ bố trí các cơ sở sản xuất của ngành trên các vùng lãnh thổ. Cần khai thác các yếu tố thuận lợi của các vùng cho phát triển ngành ( về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, các điều kiện kinh tế xã hội phát triển, khả năng chuyển giao công nghệ của ngành,…). Việc bố trí cần chú ý tới khoảng cách giữa nơi sản xuất và thị trường tiêu thụ, vùng nguyên liêụ đầu vào để tiết kiệm chi phí đạt hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời cần đặc biệt chú ý tới tính chất liên vùng và tính chất liên ngành ( sự phối hợp giữa ngành và các ngành khác có liên quan trên cùng một vùng lãnh thổ). Từ đó tạo ra một mạng lưới các cơ sở sản xuất của ngành hợp lý và hiệu quả. Lụân chứng về phương án quy hoạch ngành cần đưa ra được các kết luận chủ yếu sau: Phân bố các cơ sở sản xuất của ngành và qui mô của chúng theo các vùng ( cụ thể về danh mục cơ sở nào tiếp tục duy trì sản xuất, cơ sở nào sẽ cải tạo nâng cao công suất, danh mục các cơ sở sản xuất mới sẽ xây dựng trong thời gian quy hoạch, và cả các cơ sở sản xuất sẽ đóng cửa ngừng sản xuất ). Phân bố các cơ sở sản xuất của ngành trong các khu công nghiệp. Danh mục các công trình then chốt quyết định lớn tới sự phát triển của ngành. Danh mục các sản phẩm mũi nhọn của ngành và sẽ phát triển chúng ở đâu. Cơ cấu ngành, cơ cấu các sản phẩm chủ lực của ngành theo vùng. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của ngành. 3.5 Các giải pháp và tổ chức thực hiện quy hoạch ngành Nội dung này đưa ra các giải pháp cần thiết để thực hiện các mục tiêu của quy hoạch và xác định khả năng thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp đưa ra phải thoả mãn được các tiêu chí: tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm vốn, tạo nhiều việc làm, đổi mới công nghệ. Không nên dàn trải các giải pháp mà tìm những giải pháp chủ yếu nhất để thực hiện quy hoạch, không nêu chung chung mà cần có tính toán cụ thể khả năng thực hiện các giải pháp đó. Phải đưa ra được tiến độ thực hiện cho các thời kì quy hoạch và đề xuất những chương trình lớn, những dự án kêu gọi đầu tư xây dựng. Cụ thể với những giải pháp về vốn đầu tư cần phải nêu rõ nhu cầu về vốn đầu tư. Xác định khả năng huy động vốn; Từ nguồn vốn trung ương, vốn địa phương, vốn doanh nghiệp, vốn huy động trong dân, vốn huy động từ nước ngoài. Cần tính toán cơ cấu vốn hợp lý và các giải pháp huy động để đáp ứng yêu cầu; Các giải pháp về chính sách, cơ chế cần chú trọng đến các cơ chế tổ chức sản xuất có hiệu quả; Giải pháp về khoa học công nghệ cần nêu rõ những yêu cầu và biện pháp trang bị, đổi mới công nghệ hiện đại; Cần nêu rõ nhu cầu về nguồn lực, cơ cấu nguồn nhân lực và khả năng đáp ứng nguồn nhân lực trong từng giai đoạn quy hoạch đồng thời gắn với xây dựng các cơ sở đào tạo, dạy nghề tại khu vực sản xuất và khuyến khích doanh nghiệp tổ chức đào tạo; Đối với danh mục công trình, dự án đầu tư trọng điểm và tổ chức thực hiện, quy hoạch phải xác định được danh mục các dự án đầu tư dài hạn và xây dựng những dự án ưu tiên, cần thiết cho những giai đoạn 1 đến 5 năm trước mắt. Về tổ chức thực hiện, quy hoạch phải được thông báo cho các cấp địa phương và công khai cho người dân được biết về các nội dung của quy hoạch khi mà quy hoạch được phê duyệt. Phải phân tích trách nhiệm giữa các cấp ngành liên quan như bộ chủ quản, các ngành liên quan, các tổ chức quốc tế khác trong việc thực hiện quy hoạch. Phải xây dựng được cơ chế điều hành phối hợp giữa các cấp. Phối hợp trong việc kiểm tra giám sát thực hiện quy hoạch. II.Sự cần thiết phải lập quy hoạch phát triển ngành dệt may 1.Sự cần thiết phải lập quy hoạch phát triển ngành dệt may Dệt may là một ngành sản xuất vật chất thuộc nhóm ngành công nghiệp nhẹ sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu may mặc của con người như sợi, vải, quần áo.Ngành dệt may gắn liền với nhu cầu thiết yếu của mỗi người. Đây là ngành yêu cầu vốn đầu tư không lớn, thu hút nhiều lao động với kĩ năng trung bình và có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Ngành dệt may có thể khai thác những lợi thế vốn có của Việt Nam: Truyền thống sản xuất hàng dệt may lâu đời trải qua nhiều thế hệ đã đúc rút cho người lao động Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình tạo ra một sản phẩm dệt may. Nguồn lao động rẻ, dồi dào. Ngành dệt may tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động, chủ yếu là lao động phổ thông. Góp phần thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nền kinh tế ( chủ yếu là lao động ở nông thôn ). Dệt may đóng góp lớn vào tăng kim ngạch xuất khẩu, thu hút ngoại tệ cho đất nước. Dệt may góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là hướng ra xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu trở thành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất giai đoạn 2006 – 2010 là 18,66 % và giai đoạn 2010 – 2015 là 16,48 %. Với những mục tiêu cần đạt được như trên việc cần thiết là ngành dệt may phải có một quy hoạch để phát triển một cách đồng bộ và hệ thống. 2. Quan điểm quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2010. 2.1 Về đầu tư công nghệ Kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu, cải tạo, mở rộng và đầu tư mới. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp những thiết bị còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm. 2.2 Về thị trường tiêu thụ. - Thị trường ngoài nước: củng cố, giữ vững và phát triển quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống, thâm nhập và tạo đà phát triển vào các thị trường tiềm năng và thị trường khu vực. Từng bước hội nhập thị trường khu vực AFTA và thị trường thế giới WTO. - Thị trường trong nước: Đáp ứng nhu cầu các mặt hàng thuộc ngành dệt may trong nước bằng chất lượng hàng hoá, hạ giá thành, đa dạng hoá mặt hàng, đáp ứng thị hiếu và phù hợp với sức mua của mọi tầng lớp nhân dân. 2.3 Vốn đầu tư và sắp xếp doanh nghiệp Đa dạng hoá nguồn vốn và phương thức huy động vốn đầu tư, phát huy nội lực và mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển. Nhanh chóng thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp dệt, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ mới của ngành. 2.4 Bố trí quy hoạch cơ sở sản xuất Trên cơ sở hiện trạng, củng cố và phát triển 3 trung tâm công nghiệp dệt của cả nước là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng duyên hải miền Trung. Đối với công nghệ may, phân bổ rộng rãi trên địa bàn cả nước, ưu tiên phát triển cơ sở may xuất khẩu tại những vùng thuận lợi về giao thông, gần bến cảng, sân bay. Phát triển các nhà máy sản xuất sợi, nhà máy dệt ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam; Phát triển các nhà máy may ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định ; Phát triển Đà Nẵng, Quảng Nam trở thành trung tâm sản xuất nguyên phụ liệu dệt may của vùng. 2.5 Định hướng phát triển nguyên liệu Nâng tỉ trọng phụ liệu may sản xuất trong nước của sản phẩm xuất khẩu để tăng giá trị gia tăng của công nghiệp may. Phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm để chủ động về nguyên liệu dệt, hạ giá thành sản phẩm và thu hẹp nhập khẩu nguyên liệu. 2.6 Đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật Phát triển nhiều hình thức và cấp đào tạo để tăng số lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành dệt may. 3. Các chỉ tiêu của quy hoạch phát triển ngành dệt may đến 2010. - Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu: Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 2005 2010 - Sản xuất + Vải lụa Triệu m 800 1330 2000 + Sản phẩm dệt kim Triệu SP 70 150 210 +Sản phẩm May (quy chuẩn) "  580 780 1200 - Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 2000 3000 4000 + Hàng Dệt "  370 800 1000 + Hàng May "  1630 2200 3000 - Chỉ tiêu phát triển nguyên liệu dệt: Nguyên liệu Đơn vị Năm 2000 Năm 2010 - Bông + Diện tích Ha 37 000 100 000 + Năng suất bông Tấn/ha 1,4 1,8 + Sản lượng bông hạt Tấn 54 000 182 000 + Sản lượng bông xơ "  18 000 60 000 - Dâu tằm tơ + Diện tích trồng dâu Ha 25 000 40 000 + Sản lượng tơ tằm Tấn 2 000 4 000  - Chỉ tiêu về nhu cầu tổng vốn đầu tư đến năm 2010:  Đơn vị: Triệu USSD - Đầu tư chiều sâu 756,9 + Dệt 709,0 + May 47,9 - Đầu tư mới 2 516,4 + Dệt 2 306,4 + May 210,2 Tổng số 3 973,3 4. Đánh giá hiện trạng ngành 4.1 Đánh giá các yếu tố đầu vào cho phát triển ngành. Hiện nay 70 % nguyên liệu của ngành dệt may đang phải nhập khẩu. Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng 20% năm, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may chiếm khoảng 15 % tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhưng hiện nay gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài: 70% nguyên phụ liệu ngành dệt may phải nhập khẩu. Giá trị thu về từ xuất khẩu ngành dệt may là rất thấp, bởi dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Theo thống kê, trong tháng 7/2007, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may gồm bông, sợi, xơ đã tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006, đạt trên 200 triệu USD. Tháng 6 đạt 250 triệu USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm, nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt khoảng 1,3 tỉ USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2006. Hiện nay, nhu cầu về nguyên liệu nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi. Qua đó, có thể thấy rằng cả một ngành công nghiệp dệt may gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy để sản xuất ổn định, hầu như các công ty ngành dệt may đều phải chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài, dù lợi nhuận thấp. Bởi khi gia công, đối tác sẽ cung ứng kịp thời, đầy đủ nguyên phụ liệu. Theo Phó Chủ tịch Hội Dệt may-Thêu đan, thì ngành dệt may VN chỉ có thể đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu và điều này không có nghĩa là năng lực của ngành kém, không đủ sức sản xuất. Về cơ bản, phụ liệu nội địa có thể đáp ứng đủ và nguyên liệu nội địa có thể đáp ứng đến 70% nhu cầu sản xuất; nhưng do yêu cầu về thành phẩm của đối tác nước ngoài cao, nguyên phụ liệu VN chưa đáp ứng được, tất phải nhập từ nước ngoài. VN hiện chưa có đội ngũ thiết kế kiểu dáng nguyên liệu (vải) chuyên nghiệp. Tất cả các nước đều phải nhập khẩu nguyên phụ liệu, kể cả Trung Quốc vì nhu cầu trên thế giới rất đa dạng, không thể cùng lúc đáp ứng hết được. Vấn đề là tập trung nội lực phát triển sâu, mạnh, có định hướng vào loại nguyên liệu nhất định nào đó để nó trở thành nguồn cung cấp chính cho thị trường thế giới. Cũng theo Phó Chủ tịch Hội Dệt may – Thêu đan, để ngành dệt may VN trong mắt thế giới sẽ có tầm hơn, đủ mạnh để có vị thế hợp tác ngang bằng nhằm mua được hàng hóa với giá hợp lý nhất thì cần nhanh chóng xây dựng trung tâm nguyên phụ liệu dệt may. Thay vì tập tr._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36074.doc
Tài liệu liên quan