Tài liệu Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay: ... Ebook Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2956 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 77 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang giành được những thành tựu to lớn, được bạn bè trên thế giới hết sức khâm phục, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên. Những thắng lợi trên trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn và từ việc dày công xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng.
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là một vấn đề hệ trọng, từ lâu đã được các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập tới trong các tác phẩm của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [45, tr.269] và “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[45, tr.240]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VII) đã chỉ rõ: “cán bộ có vai trò cực kỳ quan trọng hoặc kìm hãm hoặc thúc đẩy tiến trình đổi mới” [13], Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ...” [13].
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là công tác QHCB, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) nêu rõ: “Công tác QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [13]. Có làm tốt QHCB mới từng bước nâng cao được chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và không đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa chọn, phân công, bố trí cán bộ…
Những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định, thông tri về công tác QHCB: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội IV của Đảng đã chỉ rõ: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện tốt QHCB là một biện pháp đặc biệt trọng yếu, có tính quyết định để tăng cường công tác cán bộ về mọi mặt. Ngày 02/6/1978, BCHTW (khoá IV) đã ra Chỉ thị số 45-CT/TW “Khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng QHCB lãnh đạo, cán bộ quản lý”. Ngày 12/11/1983 Ban Bí thư TW Đảng (khoá V) ra Thông tri số 31-TT/TW về việc “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng QHCB lãnh đạo và cán bộ quản lý ở các ngành, các cấp”. Năm 1998, Bộ Chính trị (khoá VI) có Quyết định số 55-QĐ/TW về “Công tác QHCB lãnh đạo các cấp từ nay đến năm 1990”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khoá VIII) đề ra yêu cầu: “Cán bộ chủ trì phải điều hành, thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh” [13]. Ngày 30/11/2004 Bộ Chính trị có Nghị quyết số 42-NQ/TW về công tác QHCB lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước...Nhờ vậy công tác QHCB đã có chuyển biến tích cực, góp phần đổi mới từng bước công tác cán bộ nói chung. Tuy nhiên đứng trước bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì công tác QHCB vẫn là một khâu yếu, chất lượng và hiệu quả còn hạn chế. Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VIII) đã đánh giá: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng QHCB, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm” [13]. Do vậy sắp tới “Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ...định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác QHCB” [13].
Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã quan tâm đến công tác QHCB, tích cực, tập trung lãnh đạo công tác QHCB ở tỉnh, do đó công tác QHCB đã bước đầu đi vào nền nếp, đạt được kết quả nhất định, góp phần làm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Tuy vậy công tác QHCB trong thời gian qua cũng bộc lộ không ít những thiếu sót, khuyết điểm cần sớm được khắc phục.
Là một tỉnh miền núi, mới được tái lập từ ngày 01/01/1997, với diện tích 3.882, 6 km2, dân số trên 1,5 triệu người, địa hình phức tạp, mặc dù tình hình chính trị-an ninh, trật tự, xã hội tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP bình quân đầu người còn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ CBCC nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, bởi lẽ đây là ĐNCBCC của hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, là lực lượng chủ yếu, lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa bàn tỉnh. Muốn có đội ngũ cán bộ ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị nơi mình đang công tác, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp khoá học thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng tại Học Viện Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác QHCB, mà nhiều cơ quan, nhà khoa học, nhiều cán bộ, đã tập trung nghiên cứu vấn đề này, đã có không ít đề tài, báo cáo, bài viết và công trình nghiên cứu về công tác QHCB với các góc độ, khía cạnh, phạm vi, thời gian khác nhau được công bố, chẳng hạn như:
-“Xây dựng đội ĐNCBCC trước hết là người đứng đầu” của đ/c Chu Văn Rỵ, Tạp chí Cộng sản, số 5, 1997.
- Xây dựng và thực hiện tốt công tác QHCB trong thời kỳ mới” của Tô Huy Rứa, Tạp chí Cộng sản, số 3 (tháng 2/1999).
- “Quan niệm khoa học về QHCB-lịch sử vấn đề và quá trình tiếp cận vấn đề” của Phó Giáo sư Lê Văn Lý, Tạp trí Thông tin lý luận, tháng 6/1999.
- “Công tác QHCB chủ chốt của hệ thống chính trị-một số giải pháp chủ yếu” của Tiến sĩ Ngô Kim Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 2002.
- “QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Hoan, Tạp chí Cộng sản, số 33, năm 2003.
- "Thực trạng trình độ học vấn và giải pháp quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của Hà Nội”, Đề tài khoa học của Trường Đào tạo Cán bộ Lê Hồng Phong, năm 1998.
- “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Minh Thấu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
- “Quy hoạch ĐNCBCC của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Trang, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004.
- “Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Xuân Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Công tác QHCB lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện BTV Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện Quận uỷ Ba Đình, Thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Lưu Tiến Định, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu, những công trình, bài viết đó mới chỉ đề cập vấn đề QHCB nói chung hoặc là QHCB riêng của một số địa phương, đơn vị. Cho đến nay chưa có tác giả nào công bố đề tài về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này sẽ kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan về công tác QHCB, để tập trung nghiên cứu sâu vấn đề trên, góp phần làm tốt công tác QHCB của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn chủ yếu là đi sâu làm rõ những cơ sở khoa học và đề xuất những giải pháp chủ yếu, góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng ĐNCBCC và quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay; chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, rút ra những kinh nghiệm trong quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu cụ thể là ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý (theo quyết định về phân cấp quản lý cán bộ) bao gồm các chức danh: Bí thư, phó bí thư Tỉnh uỷ, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND tỉnh; trưởng, phó các ban, cơ quan của Tỉnh uỷ, MTTQ và các đoàn thể nhân dân tỉnh; giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành tỉnh và tương đương; bí thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND các huyện, thành phố. Không đi sâu nghiên cứu đội ngũ CBCC nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các chức danh khác ở tỉnh và cấp huyện hoặc ĐNCBCC ở cơ sở, xã, phường, thị trấn.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý, từ năm 1997 đến nay.
5. C¬ së lý luËn vµ ph¬ng ph¸p nghiªn cøu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ nói chung và công tác QHCB nói riêng, có kế thừa các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Lôgíc- lịch sử, thống kê số liệu, khảo sát thực tế; phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hoá, gắn lý luận với thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Cung cấp những luận cứ khoa học, làm rõ quan niệm, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong thời gian 10 năm qua. Đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý trong giai đoạn hiện nay, góp phần đổi mới công tác cán bộ của tỉnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. ý nghÜa lý luËn vµ thùc tiÔn cña luËn v¨n
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, phục vụ cho việc sơ, tổng kết về công tác cán bộ nói chung và công tác quy họạch cán bộ của tỉnh và làm cơ sở để xây dựng một số kế hoạch, đề án…về quy hoạch, ĐTBD, luân chuyển, bổ nhiệm, bố trí, sắp xếp và thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và ở cấp huyện trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
- Luận văn cũng có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong giảng dạy cho đội ngũ cán bộ ở Trường Chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn chia làm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT, QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm, vai trò và đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
1.1.1.1. Một số khái niệm
- Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong nhân dân ta. Nó xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục năm gần đây, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, luôn gắn bó với nhân dân, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, vì sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc. Tên gọi cán bộ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ trong lịch sử nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay. Cho đến nay hai từ "cán bộ " đã rất thân thuộc đối với những đảng viên cộng sản nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Tuy nhiên khi nghiên cứu, đề cập đến khái niệm "cán bộ " vẫn còn những ý kiến, quan điểm chưa đồng nhất.
Xuất phát từ đặc điểm, truyền thống dân tộc và lịch sử từng quốc gia nên việc xác định đối tượng cán bộ ở mỗi nước có khác nhau. Từ trước đến nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến trong các nước XHCN, các tổ chức thuộc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, còn ở các nước phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường dùng khái niệm công chức, ở Nhật dùng khái niệm quan chức. Theo Từ điển Từ Hải của Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Nhật. Như vậy từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, sau đó được chuyển sang Trung Quốc, và từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Trong tiếng Pháp, cũng như tiếng Anh, từ "cán bộ " có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa chủ yếu được chuyển vào từ "cán bộ" của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh), cái khuôn. Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội trong một số tổ chức làm nòng cốt.
Ở nước ta, từ "công chức" cũng được dùng từ lâu và có nhiều văn bản đã quy định. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 76/SL về quy chế công chức. Năm 1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 169/HĐBT quy định đối tượng công chức. Ngày 09/3/1998 Uỷ BTV Quốc hội ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức, trong đó tại Điều 1 nêu: “Công chức là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước được tuyển dụng, bổ nhiệm làm nhiệm vụ thường xuyên trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, theo ngạch, bậc lương được pháp luật quy định” [52] Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, ghi công chức là: "Người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [65, tr.207]. Tuy vậy trong thời gian dài từ công chức ít được sử dụng, từ cán bộ gần như được dùng thay thế cho từ công chức, vì hình ảnh công chức trong xã hội cũ thường bị coi là xấu "sáng vác ô đi, tối vác ô về". Từ những năm 90 của thế kỷ XX, trở lại đây đã có người ta thường gọi những người công tác trong các cơ quan nhà nước là công chức, những người đang công tác trong các cơ quan Đảng, đoàn thể là cán bộ. Song tiêu thức phân biệt giữa khái niệm cán bộ và khái niệm công chức chưa thực sự rõ ràng.
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1999, từ cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường không giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [19, tr.249].
Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, nêu cán bộ có hai nghĩa:
1. Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị.
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với người thường không có chức vụ. Đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ. Họp cán bộ và công nhân nhà máy. Làm cán bộ Đoàn thanh niên [65, tr.109].
Ở đây hàm nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành chính công trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ hành chính cao nhất đến những người không có chức vụ hành chính nào, tất cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ, trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước theo ngạch lương nhất định do Nhà nước quy định. Nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ và trách nhiệm cao hơn người khác trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính những người có chức vụ, trách nhiệm cao mới có vai trò là nòng cốt, là người chỉ huy và đây chính là một góc độ trong cách hiểu thông thường.
Hai định nghĩa nêu trong từ điển nói trên so với các định nghĩa trong một số thời điểm khác có sự phát triển và hợp lý hơn, nhưng cũng cần lãm rõ nội hàm và cả ngoại diên của khái niệm cán bộ hơn nữa:
Một là, nói cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn, cần chỉ rõ là được đào tạo thông qua hệ thống nhà trường để có trình độ (tốt nghiệp) từ trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ để phân biệt với người dưới trình độ này gọi là nhân viên.
Hai là, nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ để phân biệt với người không có chức vụ. Nhưng cần nói rõ là chức vụ được hình thành thông qua con đường bầu cử dân chủ, hoặc đề bạt, bổ nhiệm. Mặt khác nói cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức thì phải nói của cả hệ thống chính trị. Thực tế, từ cán bộ không chỉ có đối tượng là các công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ thống chính trị. Điều này xuất phát từ chỗ sự hình thành và phát triển của hệ thống chính trị ở các nước XHCN trong đó có Việt Nam là: Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đều là các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, tất cả những người làm việc trong các tổ chức đó đều được tuyển chọn, quản lý và hưởng quyền lợi theo quy chế chung thống nhất.
Ba là, nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta phải được đặt trong các mối quan hệ xác định. Trước hết là trong mối quan hệ với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ, quan hệ với tổ chức và cơ chế chính sách, quan hệ với thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, cán bộ phải mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Người cán bộ cách mạng phải là người trung thành, tận tuỵ vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chính vì vậy Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, viết từ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [45, tr.269].
Trước đây, trong chiến tranh cách mạng, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội. Hiện nay, mặc dù hoàn cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của con người cũng có nhiều thay đổi, nhưng trong cách hiểu thông thường nhất, từ cán bộ trước hết vẫn đề phân biệt những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nằm trong biên chế, với những người dân không nằm trong các tổ chức trên.
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong các tổ chức Đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến TW (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên; hai là, người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức này.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trưởng trở lên (cán bộ tiểu đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn...) và thường là sĩ quan từ cấp uý trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng...).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung nhất, "cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức và có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ chức" [62, tr.18].
Trong pháp lệnh CBCC Việt Nam năm 1998, đã xác định đối tượng là CBCC bao gồm những người:
Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên… trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân và công an nhân dân [52, tr.5-6].
Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ không giữ chức vụ.
Trong khoa học tổ chức chúng ta có thể phân chia cán bộ thành các loại khác nhau tuỳ theo từng tiêu thức. Thường người ta phân loại cán bộ theo những cách sau:
- Cách 1: Phân theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn: Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ chính trị, cán bộ quân sự, cán bộ kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật…
- Cách 2: Phân loại theo chức vụ, cấp hàm trình độ tổ chức xã hội và vị trí vai trò của cán bộ: Cán bộ cao cấp, trung cấp, sơ cấp...
- Cách 3: Phân theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị: Cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ đoàn thể nhân dân...
Ngoài ra có thể phân loại theo thẩm quyền chủ thể quản lý cán bộ (được quy định tại quyết định phân cấp quản lý cán bộ): Cán bộ thuộc diện TW quản lý (Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW), cán bộ thuộc diện BTV tỉnh uỷ (thành uỷ) quản lý, cán bộ thuộc diện BTV huyện uỷ (quận uỷ) quản lý... Trên cơ sở phân loại cán bộ như trên chúng ta thấy cần làm rõ khái niệm vị trí, vai trò, đặc điểm của từng loại cán bộ, từ đó mới có cơ sở vững chắc để xây dựng, hoạch định các chủ trương, chính sách về công tác cán bộ. Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài, ở đây chúng ta đi sâu vào khái niệm sau:
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nằng, năm 2002, định nghĩa: "Chủ chốt quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [65, tr.174].
Trong mỗi tổ chức có những người lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể lãnh đạo. Những người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Khi nghiên cứu cán bộ chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu trong một tổ chức, cán bộ chủ chốt là những người lãnh đạo của một tổ chức nhất định. Chúng ta đã biết rằng:
Trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta hiện nay được phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp, mỗi bộ phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể lãnh đạo quản lý, thì những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong các tập thể ấy được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt [57, tr.35].
Việc xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt không những phải gắn với một hệ thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng người, bởi vì trong thực tế một người cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại không phải là chủ chốt" [57, tr.35].
Khi nói đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt người ta không coi họ chỉ là những người thực hiện các chức năng lãnh đạo đơn thuần, mà còn nhìn nhận họ là những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý.
Trên thực tế người ta quan niệm: Tất cả những đ/c là uỷ viên BTV tỉnh uỷ, huyện uỷ... đều là cán bộ chủ chốt vì:
Một là: Xét trong mối quan hệ tổ chức, cấp uỷ đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Các đ/c cấp uỷ viên đều coi là cán bộ lãnh đạo của tổ chức Đảng. Trong mỗi cấp uỷ bầu ra BTV để lãnh đạo tổ chức Đảng giữa hai kỳ họp BCH. Vì vậy, những đ/c uỷ viên ban thường vụ đều là những người có trọng trách là thành viên trong tập thể lãnh đạo của tổ chức đảng.
Hai là: Trong mối quan hệ với các tổ chức của hệ thống chính trị cùng cấp, uỷ viên ban thường vụ thường được các tổ chức đảng giới thiệu ra ứng cử và thông qua bầu cử dân chủ để trở thành người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Do đó, những đ/c uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ đảng là những cán bộ chủ chốt của tổ chức đó.
Cần phân biệt khái niệm cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cán bộ chủ chốt: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người lãnh đạo nhưng là lãnh đạo toàn diện, có thẩm quyền cao nhất, trọng trách nặng nề nhất trước tập thể lãnh đạo. Khái niệm cán bộ chủ chốt rộng hơn, có thể đồng nhất với cán bộ cấp trưởng, cấp phó ở mỗi cơ quan, tổ chức, có tác dụng chi phối mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức. Mỗi cán bộ chủ chốt được gắn với một tổ chức và chức danh cụ thể.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý:
Có đội ngũ cán bộ, tất yếu phải có công tác quản lý cán bộ, cũng như trong QLNN, công tác quản lý cán bộ của Đảng bao giờ cũng được phân công, phân cấp giữa TW và các cấp uỷ, tổ chức đảng các ở cơ quan, đơn vị, địa phương, tuỳ thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể về phân cấp quản lý cán bộ. Khi nói đến ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay, tức là nói đến những người giữ các chức vụ cao nhất trong hệ thống chính trị của tỉnh và cấp huyện. Số cán bộ này do BTV Tỉnh uỷ quy định tiêu chuẩn, xem xét quyết định đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, giới thiệu ứng cử, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính sách cán bộ, trên cơ sở Điều lệ Đảng, điều lệ của các đoàn thể và những quy định của Pháp luật. BTV Tỉnh uỷ thông qua các cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ để thực hiện chức năng quản lý: Nhận xét, đánh giá, quy hoạch, ĐTBD, bố trí sử dụng cán bộ, theo dõi, kiểm tra, giám sát, quản lý hồ sơ lý lịch cán bộ... nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất, trình độ và năng lực cán bộ thuộc diện quản lý của mình.
Có thể hiểu khái niệm cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ quan trong hệ thống bộ máy tổ chức: Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cấp tỉnh; những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cấp uỷ đảng, chính quyền cấp huyện, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị, điều hành công tác, chỉ đạo CBCC thuộc quyền quản lý của mình thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương.
Thực hiện Quyết định số 49-QĐ/ TW ngày 03/5/1999 của Bộ Chính trị, BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã ban hành Quy định số 135-QĐ/TU ngày 03/12/1999 về phân cấp quản lý cán bộ của tỉnh, trong đó, tại Điều 8, quy định cụ thể đối tượng cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là:
- Ở cấp tỉnh: Các đ/c uỷ viên BTV, uỷ viên BCH Đảng bộ tỉnh, uỷ viên UBND tỉnh, uỷ viên UBKT Tỉnh uỷ; các bí thư ban cán sự đảng, đảng đoàn; phó chủ tịch HĐND tỉnh, phó chủ tịch UBND tỉnh; trưởng ban, phó trưởng ban của Tỉnh uỷ; chánh văn phòng, phó văn phòng Tỉnh uỷ; hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh; tổng biên tập, phó tổng biên tập Báo Bắc Giang; chủ tịch, phó chủ tịch: Uỷ ban MTTQ, Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân; Hội LHPN, Hội Cựu Chiến binh tỉnh, Hội Đồng Thi đua Khen thưởng tỉnh; bí thư, phó bí thư Tỉnh đoàn; trưởng ban, phó trưởng ban của HĐND tỉnh; chánh văn phòng, phó văn phòng UBND tỉnh; các giám đốc, phó giám đốc sở và Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh; chánh thanh tra, phó chánh thanh tra tỉnh; trưởng ban, phó trưởng ban: Ban Dân tộc miền núi, Ban Tôn giáo Chính quyền, Ban Bảo vệ sức khoẻ cán bộ tỉnh; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm: Uỷ ban Dân số Gia đình và trẻ em tỉnh; chủ tịch, phó chủ tịch các hội: Hội Văn học Nghệ thuật, Hội Chữ thập đỏ, Hội nhà báo, Liên minh các hợp tác xã, Hội Liên hiệp Thanh niên, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh; chánh án, phó chánh án, thẩm phán TAND tỉnh; viện trưởng, viện phó VKSND tỉnh; giám đốc, phó giám đốc: Bưu điện tỉnh, Bảo hiểm xã hội tỉnh, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh; giám đốc các ngân hàng chuyên doanh, Kho bạc Nhà nước tỉnh; cục trưởng, cục phó: Cục Thống kê, Cục Thuế tỉnh; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm Lâm tỉnh; giám đốc chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển; giám đốc Điện lực tỉnh; chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh.
- Ở cấp huyện: Bí thư, phó bí thư, uỷ viên BTV huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND huyện, thành phố.
1.1.1.2. Vai trò của cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý
Ở thời kỳ nào, quốc gia nào, cũng vậy, cán bộ và công tác cán bộ đều là vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, sự tồn, vong của chế độ, sự thành bại của cách mạng.
C.Mác và Ph. Ăngghen, là những người đặt nền móng cho vấn đề cán bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp với phong trào công nhân lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình nghiên cứu, truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C._.. Mác đã khẳng định: "Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [42, tr 181].
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng một đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Bản thân V.I. Lênin vừa là lãnh tụ của Đảng, đồng thời cũng là một lãnh tụ của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Trong di sản lý luận của người về đảng kiểu mới, những quan điểm về cán bộ, vai trò của cán bộ có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga, trong bài "Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta" đăng trên tờ báo "Tia lửa" số 1 (tháng chạp năm 1900) V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [32, tr.473]. Theo Người, với lôgíc đó, giai cấp công nhân Nga chỉ có thể lật đổ chế độ Nga Hoàng, giành chính quyền khi xây dựng cho mình được một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản. Đó là đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga, những người giúp Đảng "đảo ngược nước Nga lên" [33, tr.162], "những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém những nhà chính trị tư sản" [37, tr.80-81]. Sau khi đã giành được chính quyền, Người khẳng định: "nghiên cứu con người tìm những cán bộ có năng lực, biết làm việc, thực chất vấn đề hiện nay chính là ở những chỗ đó, nếu thiếu những điểm này thì tất cả mọi mệnh lệnh, mọi quy định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [32, tr.449]. Trong hoạt động thực tiễn, Người đã trực tiếp tiến hành nhìn nhận đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tổ chức ĐTBD cán bộ để lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động Nga hoàn thành cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Như vậy, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin đã thống nhất cách nhìn nhận và đánh giá vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và các đảng cộng sản, đó là lực lượng biến "tư tưởng", "mệnh lệnh", các "quyết định" của Đảng thành hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kiệt xuất của nhân dân Việt Nam, là người vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam và hình thành nên một tư tưởng cách mạng đặc sắc - tư tưởng Hồ Chí Minh. Người xem xét vai trò của cán bộ, kể cả cán bộ chủ chốt, bất kể là ở cấp nào đều thể hiện rõ qua các mối quan hệ cơ bản sau:
1 - Là người lãnh đạo, họ nhân danh Đảng, nhân danh tổ chức làm đầu tàu dẫn dắt mọi phong trào cách mạng của quần chúng, làm gương cho quần chúng và trong mọi việc "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
2 - Là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, họ "đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành", đồng thời "đem tình hình của quần chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [45, tr269] và với vị trí đó làm cho cán bộ trở thành cầu nối và giữ mối dây liên hệ qua lại chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng nhân dân.
3 - Là người đầy tớ của nhân dân, phụng sự nhân dân, bảo vệ lợi ích và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: "Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Uỷ viên này khác là làm gì ? Làm đầy tớ cho nhân dân" [47, tr.373].
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác cán bộ là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng. Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ đã được đề cập đến trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta nhiều lần xác định: "phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong xây dựng Đảng thì công tác cán bộ là một lĩnh vực quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt” [58, tr.8].
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh những luận điểm của C.Mác, V.I. Lênin, của Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vai trò của đội ngũ cán bộ là hoàn toàn đúng đắn.
Trong đội ngũ cán bộ công chức của tỉnh nói chung thì ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu một ngành, một địa phương, một đơn vị trong hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng, bảo vệ đất nước nói chung và quê hương Bắc Giang nói riêng, vai trò đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Một là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là lực lượng đi đầu, nòng cốt trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông qua quá trình hoạch định, xây dựng các nghị quyết, quyết định, kế hoạch, chương trình hành động, chính sách cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, đơn vị. Do những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phần lớn là ở tầm vĩ mô, mang tính bao quát, đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, đơn vị thì mới đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực.
ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý còn thể hiện vai trò to lớn có tính quyết định của mình trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của TW Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các nghị quyết, quyết định, kế hoạch, đề án, chương trình hành động của tỉnh. Vì họ là những người lãnh đạo, trung tâm định hướng, điều khiển toàn bộ hoạt động của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh; các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; cấp uỷ, HĐND, UBND các huyện, thành phố, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ. Thông qua quá trình chỉ đạo hoạt động thực tiễn họ tổng kết được những kinh nghiệm, bài học, góp phần bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Vai trò này xuất phát từ mối quan hệ giữa cán bộ với đường lối, chính sách và từ vị trí của đội ngũ cán bộ này trong hệ thống chính trị.
Hai là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh vững mạnh. Họ là người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở cấp tỉnh và cấp huyện, chịu trách nhiệm chính trong việc tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh, chỉ đạo xây dựng và củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy; xây dựng đội ngũ đảng viên, đoàn viên, hội viên; tuyển chọn, ĐTBD, bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ và đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ.
Ba là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ công chức và nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ này nếu có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ, năng lực tốt, đồng đều thì cấp uỷ, HĐND, UBND tỉnh, huyện, thành phố, bộ máy lãnh đạo của các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh sẽ mạnh, quy tụ được đội ngũ cán bộ đảng viên, nội bộ đoàn kết. Nhưng nếu thoái hoá về phẩm chất, trình độ, năng lực không tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ thì sẽ có kết quả ngược lại và các quyết định thường sẽ thiếu tính hiệu lực và hiệu quả, thậm chí gây mất đoàn kết và phá hoại tổ chức. Do đó, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý phải có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực ngang tầm nhiệm vụ mới; phải là tấm gương trong học tập, công tác và sinh hoạt để những người dưới quyền và quần chúng nhân dân noi theo, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi nguồn nhân lực, trí lực, vật lực ở địa phương, phát huy sức mạnh tập thể, động viên mọi người ra sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Bốn là, ĐBCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là những người có vai trò quan trọng nhất trong việc quan tâm chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng về tinh thần và vật chất của cán bộ đảng viên và mọi người dân, phát huy dân chủ trong Đảng, động viên và phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân tích cực tham gia các phong trào hoạt động, nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
Năm là, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý còn là nguồn bổ sung cán bộ cho các cơ quan, bộ, ban, ngành, đoàn thể TW. Bởi vì hầu hết cán bộ trong đó đã trưởng thành từ các phong trào cách mạng ở địa phương, được đào tạo cơ bản về các mặt, thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, trải qua quá trình công tác ở địa phương đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, nhiều đ/c độ tuổi còn trẻ, có nhiều triển vọng, có thể đảm đương được chức vụ cao hơn.
1.1.1.3. Đặc điểm chủ yếu của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là đội ngũ cán bộ giữ các chức vụ quan trọng nhất trong hệ thống chính trị ở tỉnh và cấp huyện, đại đa số các đ/c đều kiêm nhiệm một hoặc một số chức vụ khác trong công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể. Do vậy có ảnh hưởng lớn đối với đội ngũ cán bộ của tỉnh. Đây là đội ngũ cán bộ có số lượng không nhiều, thường từ 300 đến 350 người, chiếm khoảng 1% tổng số CBCC, viên chức toàn tỉnh. Song lại có vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng các nghị quyết, quyết định, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế- xã hội của địa phương trong từng thời kỳ.
- Đây là đội ngũ cán bộ hiểu biết sâu, rộng về đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, am hiểu tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở trong nước và ở địa phương; có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động trong công tác xây dựng đảng, đoàn thể, vận động quần chúng, QLKT, QLNN; có năng lực tổ chức, quản lý, chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; có khả năng nghiên cứu khoa học, chủ trì xây dựng hoặc thẩm dịnh các đề án, chuyên đề công tác liên quan đến lĩnh vực được phân công phụ trách.
- Phần lớn số cán bộ này đã được rèn luyện, thử thách, trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của đất nước và trong phong trào của quần chúng, hơn 70% cán bộ trong số đó đã có thời gian tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống đế quốc Mỹ và các đội quân xâm lược khác để bảo vệ tổ quốc, xây dựng tổ quốc XHCN do vậy mà lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường XHCN, trung thành với Đảng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, tích cực đấu tranh với những luận điểm sai trái. Hầu hết các đ/c đều nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên, gương mẫu trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý luôn được BTV Tỉnh uỷ quan tâm thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo xây dựng, củng cố, kiện toàn, vì vậy số lượng đã được tăng lên, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, chất lượng được nâng lên rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý chủ yếu được hình thành từ nguồn cán bộ trong quy hoạch tại chỗ, một số đ/c được điều động, luân chuyển từ nơi khác đến song vẫn là trong nội bộ giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh. Tuy quê quán, nơi sinh của cán bộ có khác nhau, từ nhiều miền quê trong cả nước như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc... nhưng hầu hết đều xuất thân từ nông thôn, gia đình nông dân, công nhân và đều có quá trình làm ăn sinh sống, học tập, công tác nhiều năm ở tỉnh. Mặt khác xuất phát từ những đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, văn hoá xã hội địa phương mà đội ngũ cán bộ của tỉnh luôn có truyền thống yêu quê hương, đất nước, cần cù chịu khó lao động, sản xuất, cố gắng, tích cực học tập công tác để vươn lên, chủ động sáng tạo trong công việc, có tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết gắn bó với cộng đồng, gần gũi với quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm.
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý đều do tập thể BTV Tỉnh uỷ xem xét ra nghị quyết, quyết định luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc giới thiệu ứng cử. Do vậy đều là đối tượng điều chỉnh của quy chế bổ nhiệm, quy chế bầu cử hiện hành, được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ có xem xét đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực trình độ, kết quả hoàn thành nhiệm vụ, quan hệ với quần chúng...Trong quá trình đó họ một mặt chịu sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của BTV Tỉnh uỷ. Đồng thời họ phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá của các cơ quan, tổ chức có liên quan và quần chúng nhân dân nơi công tác và nơi cư trú.
- ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý có đặc điểm là tuổi đời bình quân cao, phần lớn đều trên 50 tuổi, vì vậy phần nào ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng lực công tác. Là tỉnh miền núi nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, nhưng số cán bộ là người dân tộc thiểu số còn ít, tỷ lệ cán bộ nữ không cao. Một số đ/c còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến lạc hậu tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ, biểu hiện ra thành những bệnh cá nhân chủ nghĩa như: Hẹp hòi, ích kỷ, gia trưởng, trọng nam khinh nữ, kinh nghiệm, cục bộ, địa phương...
- Trong đội ngũ cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý nhiều đ/c đã trải qua thời gian công tác trong quân đội, thanh niên xung phong, tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc hoặc các cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nên ít có điều kiện học tập chính quy có hệ thống tại các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, mà chủ yếu là học tập các hệ ĐTBD không chính quy, trong thời gian tại chức sau này và tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn; trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ cán bộ trên cũng còn bất cập trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập quốc tế về kinh tế. Điều đó đòi hỏi trong những năm tới phải tăng cường công tác quy hoạch, ĐTBD cán bộ, từng bước bố trí xắp xếp, đội ngũ cán bộ hợp lý hơn.
1.1.2. Quan niệm về quy hoạch cán bộ, vai trò, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương pháp, quy trình quy hoạch cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay
* Quan niệm về QHCB:
Trong "Đại Từ điển tiếng Việt" Nxb văn hoá thông tin năm 1999 hai từ "quy hoạch" được định nghĩa như sau:
"1. Bố trí sắp xếp kế hoạch dài hạn;
2. Kế hoạch tổng thể trong thời gian dài" [19, tr.1380].
Trong Từ điển tiếng Việt (2002) Nxb Đà Nẵng nêu: quy hoạch là "bố trí, sắp xếp theo một trình tựh hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho lập kế hoạch daìi hạn, quy hoạch các vùng kinh tế, quy hoạch trị thuỷ một con sông, quy hoạch đào tạo cán bộ " [65, tr.813].
Từ đây có thể hiểu quy hoạch theo nghĩa thông thường là bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập các kế hoạch cụ thể, dài hạn và ngắn hạn, ta hay nói quy hoạch đô thị, quy hoạch giao thông, quy hoạch các khu công nghiệp...Khác với các quy hoạch đó QHCB là một loại quy hoạch đặc biệt đối tượng của nó không phải là cơ sở vật chất, công trình mà là cán bộ, là con người, họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quy hoạch.
QHCB là việc lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ cán bộ, dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với một trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nội dung lập dự án thiết kế xây dựng tổng hợp đội ngũ cán bộ rất gần với chiến lược cán bộ, cụ thể hoá những quan điểm, phương châm, nguyên tắc và mục tiêu, giải pháp trong chiến lược cán bộ. Nội dung này phải xác định:
Một là, mục tiêu của quy hoạch: Tuỳ theo phạm vi, tính chất của QHCB mà mục tiêu sẽ khác nhau. Ví dụ QHCB cấp tỉnh có mục tiêu khác cấp huyện, QHCB của ngành, huyện này có mục tiêu khác ngành, huyện kia.
Hai là, quán triệt cơ cấu cán bộ trong quy hoạch: Trong quy hoạch phải xác định cơ cấu, tỷ lệ 3 độ tuổi, đảm bảo tính đồng bộ, tính kế thừa và phát triển, tránh tình trạng "hẫng hụt" cán bộ. Quy hoạch còn phải chú trọng cơ cấu giai cấp, dân tộc, giới tính hợp lý.
Ba là, xác định rõ tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý, lấy đó làm cơ sở thực hiện việc đánh giá cán bộ, lựa chọn đúng cán bộ đưa vào quy hoạch và ĐTBD cán bộ theo tiêu chuẩn.
Bốn là, xác định đúng nguồn cán bộ phạm vi và đối tượng quy hoạch.
Quan niệm về QHCB có nội dung thứ hai là dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với một trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định, đó là:
- Các chức danh trong quy hoạch phải được xác định rõ ràng, cụ thể như: Cán bộ Đảng, chính quyền hay đoàn thể, cán bộ cấp trưởng hay cấp phó.
- Cần đặt QHCB trong mối quan hệ hữu cơ với các khâu khác của công tác cán bộ, như khâu đánh giá cán bộ để làm cơ sở cho việc lựa chọn cán bộ quy hoạch; khâu ĐTBD cán bộ, luân chuyển cán bộ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ để từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh đã quy hoạch...
* Vai trò của công tác quy hoạch cán bộ:
Để hiểu rõ vai trò của QHCB trong công tác cán bộ chúng ta cần phân biệt rõ QHCB với chiến lược cán bộ và các kế hoạch về công tác cán bộ.
Chiến lược cán bộ thường đề cập những quan điểm, chủ trương, phương hướng, phương châm có tính chất tổng thể, xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng trong suốt cả một thời kỳ cách mạng. Chiến lược cán bộ có đặc điểm là đề cập đến những vấn đề lớn có tính bao quát, định hướng chung trong một khoảng thời gian dài, nội hàm của nó rộng lớn hơn QHCB. Chiến lược cán bộ là cơ sở vững chắc để tiến hành xây dựng QHCB.
Kế hoạch cán bộ là toàn bộ những nội dung về công tác cán bộ dự định thực hiện trong một thời gian nhất định, được vạch ra theo một hệ thống, với những cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành cụ thể. So với QHCB thì kế hoạch về công tác cán bộ có nội hàm hẹp hơn. Thường thì trên cơ sở QHCB, người ta tiến hành xây dựng các kế hoạch về công tác cán bộ như: Kế hoạch ĐTBD cán bộ, kế hoạch luân chuyển cán bộ, kế hoạch tuyển chọn cán bộ...
Như vậy giữa chiến lược cán bộ, QHCB, và kế hoạch cán bộ có mối qua hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ với nhau, chất lượng của công tác cán bộ phụ thuộc vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược cán bộ, QHCB và các kế hoạch về công tác cán bộ.
Trong công tác cán bộ, QHCB có vai trò rất quan trọng, thể hiện chủ yếu ở những điểm sau:
Một là, để tạo nguồn cán bộ dồi dào, chuẩn bị cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài, bởi vì:
- Nếu không có QHCB, không chủ động tạo nguồn cán bộ thì khi cần thay thế, bố trí, sử dụng cán bộ sẽ gặp khó khăn, bị động lúng túng, đội ngũ cán bộ sẽ bị hụt hẫng, chắp vá, không đảm bảo tính liên tục, tính kế thừa và phát triển, cơ cấu cũng thiếu tính đồng bộ. Thực tế những năm qua không ít những đơn vị địa phương khi cần thay thế cán bộ hay mỗi khi chuẩn bị nhân sự đại hội đảng, đoàn thể, nhân sự bầu cử HĐND, UBND thì không biết lấy từ nguồn ở đâu, không thể lựa chọn được những người có đủ tiêu chuẩn theo quy định, dẫn đến đội ngũ cán bộ có thế nào thì dùng thế đó, bố trí cán bộ gượng ép, nguyên nhân là đã không làm tốt công tác QHCB.
- Khác với công tác nhân sự, QHCB cán bộ không chỉ tạo nguồn cán bộ kế cận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, mà quan trọng hơn là nó chuẩn bị cán bộ dự nguồn từ xa, phục vụ công tác nhân sự cho những nhiệm kỳ tiếp theo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lâu dài của các cơ quan, đơn vị, địa phương.
Hai là, QHCB là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, theo quy trình chặt chẽ, có tính khoa học chất lượng ngày càng nâng cao. Làm tốt công tác QHCB sẽ tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các khâu khác trong công tác cán bộ như: ĐTBD, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng ĐTBD cán bộ tràn lan, không có trọng tâm, trọng điểm; đề bạt, bổ nhiệm, phân công, bố trí cán bộ tuỳ tiện, không đúng người, đúng việc...
Ba là, QHCB còn là một động lực mạnh mẽ, thúc đẩy đội ngũ cán bộ công chức nói chung và cán bộ dự nguồn trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý nói riêng, tích cực tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, giữ gìn lối sống lành mạnh, giản dị, hăng hái học tập, công tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh cán bộ quy hoạch.
*Quan điểm cơ bản trong công tác quy hoạch ĐNCBCC:
Quán triệt Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị, công tác quy hoạch ĐNCBCC diện BTV Tỉnh uỷ quản lý phải xuất phát từ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về công tác cán bộ là:
- Lấy việc phục vụ nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; thông qua thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, phong trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân dân để phát hiện những người có phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực chỉ đạo thực tiễn tốt, làm việc năng động, sáng tạo, có hiệu quả, cũng như các nhân tố mới có nhiều triển vọng phát triển để đưa vào QHCB lãnh đạo, quản lý.
- Có quan điểm giai cấp công nhân trong công tác QHCB: Chú ý phát hiện, bồi dưỡng cán bộ trưởng thành từ thực tế CNH, HDH; chủ động và sớm phát hiện cán bộ có triển vọng, các tài năng trẻ nhằm sớm đưa vào quy hoạch dự nguồn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để có kế hoạch ĐTBD nhân tài cho đất nước; quan tâm tạo nguồn để tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng ngoài Đảng.
*Những nguyên tắc trong công tác QHCB chủ chốt:
Quy hoạch ĐNCBCC diện BTV Tỉnh uỷ quản lý phải giữ vững nguyên tắc công tác cán bộ của Đảng, cụ thể là:
- Phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của các cấp uỷ đảng, đồng thời có sự phân cấp hợp lý về thẩm quyền QHCB, phù hợp với phân cấp quản lý, sử dụng cán bộ.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác QHCB; Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, bảo đảm vai trò lãnh đạo tập trung của cấp uỷ đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu; đồng thời mở rộng dân chủ trong việc phát hiện nguồn, phát hiện tài năng.
* Phương châm, phương pháp, quy trình quy hoạch:
Về phương châm:
- Quy hoạch ĐNCBCC diện BTV Tỉnh uỷ quản lý phải thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; ĐTBD cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề cho việc bố trí cán bộ và cho QHCB; đồng thời QHCB là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước mắt và lâu dài.
- Thực hiện quy hoạch “động” và "mở": một chức danh có thể quy hoạch nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng.
- QHCB phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới QHCB, lấy QHCB cấp dưới làm cơ sở cho QHCB cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới.
- QHCB phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tư tưởng cơ hội; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.
- Thực hiện công khai trong công tác QHCB; cơ quan có thẩm quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng, thời điểm, mức độ và cách thức công khai quy hoạch.
Phương pháp, quy trình quy hoạch: Trên cơ sở đáp ứng mục đích, yêu cầu và các quan điểm, nguyên tắc xây dựng quy hoạch đã nêu ở trên, công tác quy hoạch ĐNCBCC diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, cần đổi mới phương pháp, quy trình tiến hành, cụ thể:
- Quy trình QHCB phải bảo đảm mở rộng dân chủ, khách quan trong việc phát hiện nguồn, có sự tham gia của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, mặt trận, các đoàn thể trong việc nhận xét, đánh giá và giới thiệu cán bộ; lấy kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ thường xuyên và định kỳ làm cơ sở để lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; bảo đảm quyền tập trung của tập thể BTV các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ, lãnh đạo các ban đảng, các cơ quan, ban, ngành, mặt trận, đoàn thể trong việc QHCB; đồng thời có cơ chế để nhân dân, mặt trận, các đoàn thể giám sát việc xây dựng và thực hiện QHCB.
- Quy trình phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý, bố trí kết hợp giữa 3 độ tuổi, thực hiện trẻ hoá, độ tuổi trung bình khoá sau thấp hơn khoá trước; có tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công nông thích đáng; ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ hợp lý cán bộ dân tộc thiểu số; mỗi nhiệm kỳ đổi mới không dưới 1/3 tổng số uỷ viên BCH.
- Định kỳ tiến hành QHCB phù hợp với nhiệm kỳ của Quốc hội, HĐND, UBND và đại hội đảng các cấp. Các cấp uỷ, các cấp lãnh đạo phải làm QHCB ngay từ đầu nhiệm kỳ; hàng năm phải rà soát, xem xét lại quy hoạch; hết nhiệm kỳ phải tổng kết, đánh giá lại quy hoạch và bàn giao cho cấp uỷ, lãnh đạo khoá mới để tiếp tục rà soát, bổ sung và tiếp tục thực hiện QHCB.
1.2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT VÀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ BẮC GIANG QUẢN LÝ TỪ 1997 ĐẾN NAY
1.2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) đến nay
Theo số liệu tổng hợp của BTC Tỉnh uỷ Bắc Giang: Tính đến ngày 30/12/2006 ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý có 331 đ/c, tăng 20,3% so với ngày đầu tái lập tỉnh (01/01/1997). Phân tích cụ thể như sau:
- Trình độ văn hoá: 99,4% đã tốt nghiệp, còn 02 đ/c = 0,6 % chưa tốt nghiệp phổ thông hoặc bổ túc trung học, số này năm 1997 là 5,2%.
- Trình độ chuyên môn: Trên đại học (thạc sỹ, tiến sỹ): 33 đ/c = 10%, tăng 7,8% so với năm 1997. Đại học, cao đẳng: 275 đ/c = 83,1%, tăng 7,1% so với năm 1997. Trung cấp: 12 đ/c = 3,6%, giảm 11,6% so với năm 1997. Sơ cấp trở xuống: 11 đ/c = 3,3%, giảm 1,4% so với năm 1997.
- Về trình độ LLCT: Cử nhân, cao cấp: 308 đ/c = 93,1%, tăng 49,7% so với năm 1997. Trung cấp: 23 đ/c = 6,9%, giảm 27,1% so với năm 1997. Sơ cấp: không còn đ/c nào, trong khi đó năm 1997 vẫn còn 22,6%.
- Về độ tuổi: Tuổi đời bình quân là 52,6 cao hơn năm 1997 là 2,3 tuổi, Trong đó từ 30-40: 09 đ/c = 2,7 %, giảm 1,8% so với năm 1997. Tuổi từ 41-45: 46 đ/c = 13,9%, tăng 2,4% so với năm 1997. Tuổi từ 46 - 50: 101 đ/c = 30,5%, giảm 4% so với năm 1997. Tuổi từ 51-55: 111 đ/c = 33,5%, tăng 8,2% so với năm 1997. Tuổi trên 55: 64 đ/c = 19,3%, tăng 6,3% so với năm 1997.
- Giới tính, dân tộc: Nam: 305 đ/c = 92,1%; nữ: 26 đ/c = 7,9%, tăng 2,06% so với năm 1997. Số cán bộ là người dân tộc thiểu số: 16 đ/c = 4,8%, giảm 0,68% so với năm 1997 [5].
1.2.1.1. Mặt mạnh, ưu điểm và nguyên nhân
Qua số liệu tổng hợp trên cho thấy: Trong 10 năm qua, kể từ khi tỉnh được tái lập đến nay, ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mặt mạnh cơ bản, nổi bật trong những năm qua là:
- Về phẩm chất: Nhìn chung các đ/c đều có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu con đường XHCN, trung thành với lý tưởng cộng sản và những mục tiêu cơ bản của sự nghiệp cách mạng, tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới và quyết tâm vượt qua những khó khăn, thử thách phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho. Đại đa số cán bộ giữ gìn được phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người cán bộ đảng viên, lối sống lành mạnh, giản dị phù hợp với những giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, sống gần gũi nhân dân, là tấm gương về đạo đức và lối sống được cán bộ, đảng viên và nhân dân tin yêu.
- Về số lượng, cơ cấu: ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý hiện nay đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước đây. Cơ cấu cũng ngày càng đồng bộ hơn, gồm nhiều thế hệ, được phân bố hợp lý trong các cơ quan, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp tỉnh và cấp huyện, một số công tác ở doanh nghiệp, thể hiện sự lãnh đạo toàn diện trên các lĩnh vực của BTV Tỉnh uỷ. Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ cũng được quan tâm hơn.
- Trình độ về mọi mặt ngày càng được nâng cao: Tỷ lệ cán bộ có trình độ chuyên môn tiến sỹ, thạc sỹ vàđại học, cao đẳng ngày càng nhiều; tỷ lệ cán bộ có trình độ trung cấp và sơ cấp trở xuống ngày càng giảm đi; tỷ lệ cán bộ có trình độ LLCT cử nhân, cao cấp ngày càng tăng; trình độ trung cấp ngày một giảm, không còn đ/c nào trình độ sơ cấp. Hầu hết các đ/c đã qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng đảng, vận động quần chúng hoặc các lớp bồi dưỡng kiến thức QLNN, QLKT, quốc phòng-an ninh. Một số đ/c đã cố gắng tranh thủ thời gian học tập để có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A, B, C tiếng Anh, Nga, Trung Quốc và học tin học để sử dụng được máy vi tính trong chuyên môn. Điều đó chứng tỏ rằng trong những năm qua BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã rất quan tâm ĐTBD toàn diện về các mặt cho đội ngũ cán bộ này. Mặt khác cũng thể hiện chính đội ngũ cán bộ này đã không ngừng nỗ, học tập lực rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho công tác QHCB và đó cũng chính là nhân tố góp phần làm nên những thành tựu của Bắc Giang trong thời gian qua.
- Về năng lực hoạt động thực tiễn: ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý là những người đã trải qua thử thách trong chiến đấu, trong phong trào của quần chúng, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Đa số các đ/c đã kinh qua các chức vụ trưởng, phó phòng, hoặc chức vụ tương đương ở tỉnh và cấp huyện, một số đ/c có nhiều năm làm cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các chức vụ khác nhau, thường ._.huộc phạm vi mình phụ trách, làm cơ sở cho việc QHCB chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý.
- MTTQ và các tổ chức đoàn thể phải luôn là một kênh thông tin có chất lượng giúp cho BTV Tỉnh uỷ, cấp uỷ các cơ sở rà soát, đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên ở mỗi đơn vị và trong phạm vi toàn tỉnh, cũng như giúp cho cấp uỷ có nhiều thông tin về phát hiện những nhân tố mới thông qua hoạt động của tổ chức mình, tạo nên nguồn cán bộ cho công tác quy hoạch. Mặt khác phải tích cực vận động quần chúng xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ tại cơ sở, tham gia xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện tốt chức năng giám sát cán bộ, đảng viên, giúp BTV Tỉnh uỷ đánh giá đúng thực chất ưu điểm, khuyết điểm thiếu sót của từng cán bộ, nhất là những cán bộ đương chức và dự nguồn quy hoạch chức danh chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý. Ngày 21/4/2006 Ban Bí thư TW Đảng đã có Thông báo số 161- TB/TW về MTTQ Việt Nam tham gia giám sát cán bộ, đảng viên; MTTQ Việt Nam và Thủ tướng Chính phủ có Nghị quyết liên tịch ban hành Quy chế "MTTQ Việt Nam giám sát CBCC, đảng viên ở khu dân cư", từ nay các cấp, các ngành trong tỉnh phải quán triệt kỹ tinh thần chỉ đạo của TW, những nội dung cơ bản của Quy chế, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để MTTQ các cấp thực hiện chức năng giám sát cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên chức năng giám sát của MTTQ là theo một chủ trương mới, cần phải làm thận trọng cần thiết phải tiến hành triển khai làm điểm trước ở một số cơ quan, đơn vị trong tỉnh sau đó rút kinh nghiệm để triển khai ra diện rộng. Thực tiễn đã chứng minh vai trò to lớn và không thể thiếu của MTTQ và các đoàn thể nhân dân và quần chúng trong việc tham gia kiểm tra, giám sát, giúp đỡ xây dựng đội ngũ cán bộ, góp phần phát hiện, ngăn ngừa, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, cửa quyền, quan liêu của cán bộ, đồng thời có tiếng nói quan trọng làm rõ phải, trái, phát hiện và bảo vệ cán bộ tốt, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, phải phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong QHCB: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, BCHTW Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ đã thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng ta về vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ; trong 5 quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ, Nghị quyết đã nhấn mạnh "phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ " [13]. Từ thực tế phong phú đã và đang diễn ra trong công tác cán bộ có thể thấy rõ rằng quần chúng và các đoàn thể nhân dân có thể tham gia vào tất cả các khâu của quy trình QHCB và rằng đó sẽ là nhân tố hết sức quan trọng trong công tác QHCB. Vì vậy cần phải dựa vào dân để phát hiện và tạo nguồn cán bộ. Nhìn lại lịch sử dân tộc, xưa kia tổ tiên ta đã có huyền thoại về việc Vua Hùng cử xứ giả đi khắp đất nước gọi loa mời gọi người hiền tài ra chống giặc Ân cứu nước để rồi xuất hiện anh hùng làng Gióng, là "Phù Đổng thiên vương". Sử sách còn ghi, năm 1429 vua Lê Lợi xuống chiếu cầu hiền, hạ lệnh cho các văn võ đại thần, mỗi người được tiến cử một người có tài văn võ, có thể trị dân, coi quân, để nhà vua tuỳ tài mà trao chức. Ngay từ những ngày đầu lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Bác Hồ đã noi gương người xưa kêu gọi các làng xã tiến cử người tài cho Chính phủ. Ngày nay chúng ta cần phát huy dân chủ, tạo điều kiện khuyến khích để mọi người dân tham gia phát hiện giới thiệu người có đức có tài vào nguồn quy hoạch.
Mặt khác, phải phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong ĐTBD cán bộ: Một cán bộ được xem là có đức, có tài, có năng lực trình độ hay không, không chỉ dựa vào lời nói, hay nhìn vào bằng cấp họ được đào tạo qua trường lớp, mà cái chính là phải được thực tiễn kiểm nghiệm, thông qua quá trình hoạt động thực tiễn người cán bộ học hỏi được nhiều điều từ quần chúng nhân dân, chính quần chúng nhân dân đã rèn luyện họ, giúp họ trưởng thành.
Quần chúng nhân dân còn có vai trò giám sát, kiểm tra cán bộ, bởi lẽ họ có mặt ở khắp mọi nơi, người cán bộ đi đến đâu, làm gì, quần chúng đều biết, năng lực, phẩm chất, ưu điểm, khuyết điểm cán bộ đều được quần chúng nhận xét, đánh giá khách quan nhất. Chính vì vậy BTV Tỉnh uỷ cần chỉ đạo các cơ quan chức năng, định kỳ tổ chức xin ý kiến nhận xét của quần chúng nhân dân và quan tâm hơn đến những dư luận, phản ảnh của quần chúng nhân dân đối với cán bộ đương chức và trong quy hoạch thuộc diện mình quản lý.
Vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị và quần chúng là rất quan trọng trong công tác cán bộ nói chung và quy hoạch ĐNCBCC nói riêng, tinh thần đó phải được quán triệt kỹ trong mỗi cấp uỷ, từ đó thể hiện đầy đủ ý thức, trách nhiệm của mình để khai thác tốt nguồn lực này. Tác dụng của nó không chỉ dừng lại ở lĩnh vực QHCB mà còn nó còn trực tiếp góp phần làm cho bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể ngày càng trong sạch vững mạnh.
2.3.8. Vai trò của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cơ quan tham mưu ở tỉnh và cấp huyện. Trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của Ban Tổ chức Trung ương Đảng
- Trong công tác QHCB chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, thì BTV Tỉnh uỷ có vai trò quan trọng nhất, bởi lẽ BTV Tỉnh uỷ là cơ quan có thẩm quyền xem xét quyết định việc quy hoạch, điều này được thể hiện trong Điểm 2.2, Điều 6, Quy định về phân cấp quản lý cán bộ ban hành kèm theo Quyết định số 67-QĐ/TW ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị và Quy chế làm việc của Tỉnh uỷ Bắc Giang khoá XVI. Vai trò đó thể hiện ở sự lãnh đạo toàn diện của BTV đối với công tác cán bộ nói chung và công tác QHCB nói riêng. Trong thời gian qua BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, quy định, kế hoạch về công tác cán bộ và QHCB để lãnh đạo công tác QHCB ở tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng QHCB chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý. BTV Tỉnh uỷ đã phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đ/c Tỉnh uỷ viên, Uỷ viên BTV, các cơ quan tham mưu, các cơ quan, sở ban ngành, đoàn thể tỉnh và các huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc trong việc tổ chức thực hiện QHCB diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, đã xem xét xác nhận QHCB (A1) của các cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên trong thời gian tới BTV Tỉnh uỷ cần phải tăng cường công tác kiểm tra, tổ chức tổng kết, đánh giá đúng tình hình và kết quả công tác QHCB ở tỉnh hiện nay chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm rút ra những bài học thực tiễn, thấy được những khó khăn, thuận lợi những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu lãnh đạo thực hiện tốt hơn công tác QHCB. Trước mắt cần tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo trong quy trình quy hoạch BCH Đảng bộ, BTV Tỉnh uỷ và các chức danh chủ chốt của từ nay đến năm 2010, năm 2015 và những năm tiếp theo, báo cáo Bộ Chính trị và Ban Bí thư TW; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong tỉnh tiến hành rà soát, bổ sung hoàn chỉnh QHCB (A2) theo kế hoạch và phải quản lý tốt đội ngũ cán bộ trong quy hoạch, xây dựng các kế hoạch ĐTBD bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ, từng bước triển khai quy hoạch, để công tác QHCB đạt được kết quả tốt.
- Công tác QHCB chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý trước hết thuộc về trách nhiệm của BTV Tỉnh uỷ. Tuy nhiên phải phát huy tốt vai trò của các cơ quan tham mưu giúp việc, đó là BTC Tỉnh uỷ và BTC cấp uỷ ở các huyện, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc; cơ quan tổ chức cán bộ ở các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh. Chất lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng QHCB nói chung và QHCB chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý trong từng thời gian, thể hiện ở chỗ các các cơ quan nêu trên có vai trò tham mưu giúp BTV Tỉnh uỷ, các BTV huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ và tập thể lãnh đạo các cơ quan sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, xây dựng và ban hành các văn bản cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương, phương châm, nguyên tắc của Đảng để tổ chức thực hiện ở cơ quan, đơn vị mình; thu thập tổng hợp các thông tin về nguồn cán bộ, rà soát, nhận xét đánh giá cán bộ, kiểm tra công tác QHCB ở cấp dưới, chuẩn bị đẩy đủ các điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện công tác QHCB ở cơ quan, đơn vị; tham mưu thực hiện kế hoạch ĐTBD, bố trí sử dụng, luân chuyển cán bộ và chính sách đối với đội ngũ cán bộ được phân cấp quản lý, phục vụ một cách tốt nhất công tác QHCB...Vì vậy việc đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan này là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Trong giai đoạn hiện nay việc đầu tiên cần làm là phải xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, xây dựng hoặc bổ sung, hoàn chỉnh quy chế làm việc, có kế hoạch củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, bố trí lại đội ngũ cán bộ, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ trong cơ quan. Cần xây dựng tiêu chuẩn cụ thể từng chức danh cán bộ để làm căn cứ tuyển chọn, ĐTBD và làm cơ sở để bố trí sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, tinh giản cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ phải bảo đảm tiêu chuẩn chung của một cán bộ công chức, phải tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, có cái "tâm" trong sáng, là người luôn thể hiện công tâm, luôn thận trọng, khách quan, trung thực, tận tuỵ với công việc; mạnh dạn, thẳng thắn đấu tranh với những cái sai, bảo vệ cái đúng và có "tầm" nhìn xa trông rộng, óc nhận xét tinh tế, biết dự báo chính xác được nhiều vấn đề, có kiến thức, phải tư duy hệ thống về bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể nhân dân tỉnh; là người tôn trọng và thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; nắm chắc quy định về phân cấp quản lý cán bộ; biết vận dụng một số kiến thức, phương pháp tâm lý vào công tác cán bộ; bản thân luôn khiêm tốn học hỏi, lắng nghe, tiếp thu ý kiến phê bình của người khác, có khả năng giao tiếp rộng, thu thập thông tin về công tác cán bộ từ nhiều nguồn, biết phân loại, chọn lọc, phân tích, xử lý thông tin một cách khoa học, lôgic, bảo mật và có hiệu quả, và phải có chính kiến rõ ràng, tích cực tham mưu, đề xuất ý kiến với cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan, đơn vị về công tác cán bộ.
Những đ/c giữ cương vị lãnh đạo các cơ quan tổ chức cán bộ ở tỉnh và cấp huyện thì cần có trình độ cử nhân, cao cấp về LLCT, và một bằng đại học chuyên ngành về khoa học xã hội trở lên, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tổ chức xây dựng đảng hoặc tổ chức cán bộ; nói chung phải có quá trình công tác ít nhất 3 năm trong ngành.
Trong quá trình lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ phải chú trọng tiêu chuẩn trên, thường xuyên quan tâm đến việc ĐTBD nâng cao năng lực trình độ về mọi mặt cho cán bộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ được học tập, nghiên cứu, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Phải làm tốt công tác nhận xét, đánh giá cán bộ định kỳ hàng năm, xem xét xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ vi phạm nguyên tắc kỷ luật. Kiên quyết thay thế những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống không lành mạnh. Ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, óc cục bộ, bè phái, tư tưởng chủ quan, bệnh hẹp hòi ích kỷ, cảm tình hoặc thành kiến cá nhân trong công tác cán bộ.
Bên cạnh đó cần có kế hoạch tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý cán bộ như: Máy vi tính, máy in, máy photocopy, máy ảnh, phần mềm công nghệ thông tin quản lý hồ sơ cán bộ đảng viên; tủ sắt, két sắt quản lý hồ sơ tài liệu...góp phần nâng cao hiệu quả công tác tham mưu giúp việc về công tác cán bộ cũng như QHCB ở tỉnh.
- Đối với công tác QHCB chủ chốt diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, BTC TW Đảng cũng có vai trò rất quan trọng. Trong những năm qua, được Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW giao trách nhiệm, BTC TW Đảng đã kịp thời có các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện công tác QHCB, đối với các tỉnh, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc TW, như: Hướng dẫn số 11-HD/TCTTW ngày 05/11/1997; Công văn số 1362- CV/TCTW ngày 25/11/1997; Công văn số 3303-CV/TCTW, ngày 21/9/2003; Hướng dẫn số 17-HD/TCTW, ngày 23/4/2003; Hướng dẫn số 47-HD/TCTW, ngày 24/5/2005... Chính vì vậy mà công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung và công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang quản lý nói riêng đã đạt được những kết quả quan trọng, làm cho công tác cán bộ ở tỉnh dần dần đi vào nền nếp, có bước đổi mới tiến bộ rõ nét. Tuy vậy trong thời gian tới cần phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các bước trong quy trình QHCB ở cấp tỉnh, cần phải có sự chỉ đạo việc sơ kết, tổng kết nhận xét đánh giá việc thực hiện công tác QHCB ở các tỉnh, thành phố trong cả nước để rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo. Mặt khác cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về công tác QHCB, kịp thời biểu dương, những đơn vị, địa phương làm tốt, đồng thời phê phán, những tập thể, cá nhân thực hiện không nghiêm túc chủ trương, quan điểm, nguyên tắc của Đảng về công tác QHCB. Tích cực tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW Đảng, ban hành các quy định, quy chế về công tác cán bộ để quản lý tốt đội ngũ cán bộ, đồng thời nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách cán bộ, nhằm động viên khuyến khích cán bộ hăng say học tập công tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để thực hiện tốt công tác QHCB nói chung và quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý nói riêng, xin mạnh dạn kiến nghị đề xuất một số vấn đề như sau:
* Đối với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BTC TW Đảng:
- Cần xây dựng kế hoạch tiến hành kiểm tra việc thực hiện công tác QHCB ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, kịp thời chấn chỉnh những đơn vị chậm trễ, không thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị. Sau gần 3 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết số 42- NQ/TW của Bộ Chính trị nên có tổng hợp đánh giá tình hình và kết quả về công tác QHCB lãnh đạo, quản lý trong phạm vi cả nước để rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Mặt khác cần sớm hoàn thiện QHCB chủ chốt thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW quản lý, để thúc đẩy QHCB của cấp dưới, theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị.
- Sớm ban hành văn bản quy định về tiêu chuẩn chức danh của bí thư, phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, chủ tịch HĐND, UBND các tỉnh, thành phố để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, làm cơ sở vững chắc để các tỉnh, thành phố xây dựng QHCB đối với các chức danh này. Trong đó nên quy định rõ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, trình độ kiến thức qua đào tạo, và về độ tuổi, không nên quy định chung chung như trước, dễ dẫn đến việc vận dụng khác nhau ở các địa phương.
- Cần chỉ đạo nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình các lớp ĐTBD cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV tỉnh, thành uỷ quản lý, tránh những nội dung trùng lắp, hoặc nghiên cứu lồng ghép chương trình một số lớp, tạo điều kiện cho cán bộ học các chương trình mới, toàn diện, đồng bộ hơn theo tiêu chuẩn quy định, nhất là được học tập, tiếp thu và cập nhật những kiến thức mới và những tình huống cụ thể phải xử lý ở địa phương. Bên cạnh đó cần có quy định thống nhất về chính sách hỗ trợ kinh phí đối với cán bộ trong quy hoạch các chức danh chủ chốt diện BTV tỉnh, thành uỷ quản lý đi học; ưu tiên cán bộ trong quy hoạch là người dân tộc thiểu số và cán bộ nữ.
- Nghiên cứu, ban hành chế độ phụ cấp trách nhiệm nghề đối với cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ như đối với cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra, để góp phần động viên, khuyến khích cán bộ hăng hái học tập, nghiên cứu, nhiệt tình công tác, nêu cao tinh thẩn trách nhiệm, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công
* Đối với BTV Tỉnh uỷ:
- Sau 10 năm tái lập tỉnh, cần chỉ đạo xây dựng kế hoạch tổng kết việc thực hiện công tác QHCB trong phạm vi toàn tỉnh, để đánh giá đúng những ưu điểm, nhược điểm nguyên nhân, bài học kinh nghiệm tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới.
- Trên cơ sở quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý (A1) vừa xây dựng, cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và các huyện, thành phố, đảng uỷ trực thuộc tổ chức triển khai thực hiện tốt các bước tiếp theo, như: Việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch ĐTBD cán bộ trong quy hoạch, kế hoạch luân chuyển, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ phục vụ cho QHCB; định kỳ rà soát, đánh giá, bổ sung, hoàn chỉnh QHCB A2, A3, A4, làm cho công tác QHCB đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần chuẩn bị một các tốt nhất công tác nhân sự tại đại hội đảng bộ, nhân sự phục vụ bầu cử HĐND, UBND cấp tỉnh và cấp huyện nhiệm kỳ 2010-2015 và những năm tiếp theo.
- Sớm chỉ đạo xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định, chính sách của tỉnh về công tác cán bộ, như: Quy định mới về phân cấp quản lý cán bộ; quy định đối với cán bộ, đảng viên khi ra nước ngoài; quy định về chế độ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cán bộ; quy chế về đánh giá cán bộ, quy chế về kiểm tra, giám sát cán bộ, quy chế về tuyển chọn cán bộ, quy chế về ĐTBD cán bộ; chính sách ĐTBD, thu hút nhân tài của tỉnh; chính sách hỗ trợ tiền nhà ở cho CBCC... tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt QHCB ở tỉnh.
KÕt luËn
Công tác QHCB nói chung, quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý nói riêng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác cán bộ, nhằm bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, đòi hỏi không phải chỉ có đội ngũ cán bộ tốt mà còn phải đảm bảo sự chuyển tiếp, liên tục giữa các thế hệ cán bộ để có thể bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng cũng như lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Thực tiễn đã chứng minh: Đường lối chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước có đi vào cuộc sống đem lại hiệu quả thiết thực hay không, hệ thống chính trị có vững mạnh hay không, đều xuất phát từ chất lượng cán bộ và hiệu quả của công tác QHCB.
QHCB là một nội dung trọng yếu trong công tác cán bộ, đặc biệt là QHCB cán bộ chủ chốt thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý, vì nó là cơ sở để thực hiện tốt các khâu khác trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm, bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong từng thời kỳ.
Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của TW, trong suốt thời gian qua, từ khi tái lập tỉnh đến nay, BTV Tỉnh uỷ và các cấp, các ngành trong tỉnh Bắc Giang đã rất chú trọng đến công tác QHCB. Công tác QHCB ở tỉnh đã bước đầu thu được những kết quả đáng mừng, làm cho chất lượng đội ngũ cán bộ của tỉnh ngày càng được nâng cao, tuy vậy cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế cần sớm được khắc phục. Để nâng cao chất lượng QHCB, chúng ta thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu nêu trên, trước hết phải đổi mới nhận thức của tập thể cấp uỷ, của người lãnh đạo có thẩm quyền, đến cơ quan tham mưu về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ công chức. Cấp uỷ đảng các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức phải coi công tác QHCB là một nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cấp trên, cấp dưới và các cơ quan có liên quan trong thực hiện QHCB; phải nghiên cứu nắm chắc các quan điểm, chủ trương của Đảng về QHCB trong từng thời kỳ, tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quy trình QHCB.
Trong QHCB, việc lựa chọn cán bộ vào diện quy hoạch là một khâu quan trọng. Muốn lựa chọn đúng cán bộ vào diện quy hoạch, cần xác định nguồn trong phạm vi rộng; phải tiến hành rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ được phân cấp quản lý, đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của từng cán bộ; phải xây dựng được tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh cán bộ, trên cơ sở đó mà phát hiện, lựa chọn cán bộ cho phù hợp. Khi thực hiện các bước trong quy trình QHCB phải bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, thực hiện phương châm QHCB "động" và "mở" một người có thể quy hoạch cho một số chức danh, một chức danh có thể quy hoạch nhiều người.
Công tác QHCB phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ trong từng thời kỳ và chỉ thực sự có kết quả khi nó được gắn liền với việc kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị, tổ chức và gắn chặt với các khâu khác trong công tác cán bộ nhất là ĐTBD cán bộ, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ để bầu cử, vì vậy khi quy hoạch được phê duyệt thì phải lập kế hoạch ĐTBD và thực hiện kế hoạch đó một cách tích cực; phải tăng cường kiểm tra, quản lý cán bộ, tạo điều kiện giúp đỡ cán bộ học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu vươn lên về mọi mặt; phải căn cứ vào mặt mạnh, mặt yếu và yêu cầu công việc mà bố trí cán bộ cho phù hợp; phải có cơ chế thuận lợi để cho quần chúng nhân dân tham gia vào việc kiểm tra, giám sát cán bộ.
Để thực hiện tốt QHCB, bản thân người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu có thẩm quyền, cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ phải đề cao trách nhiệm, thực sự công tâm, khách quan, phải xem xét lựa chọn đưa vào quy hoạch những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, dù cán bộ đó còn trẻ tuổi; khắc phục bằng được tư tưởng cục bộ, khép kín, chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi, ích kỷ trong QHCB.
Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý là một nhu cầu tất yếu, khách quan trong công tác cán bộ của tỉnh, vì vậy trong thời gian tới các cấp uỷ, tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể trong tỉnh cần phải tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt, để có được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa "hồng" vừa "chuyên" đủ khả năng lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của tỉnh và cấp huyện thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng quê hương Bắc Giang ngày càng giàu, mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn An (1998), "Tiếp tục đổi mới chỉnh đốn Đảng, làm tốt QHCB là nhiệm vụ trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về tổ chức trong năm 1998", Tạp chí Xây dựng Đảng, (3).
Lê Văn Ấm (2003), Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay, Luận văn cử nhân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2003), Hướng dẫn số 17-HD/TCTW, ngày 23/4/2003, về công tác QHCB.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2005), Hướng dẫn số 47-HD/BTCTW, ngày 24/5/2005 thực hiện Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Bắc Giang, (2007) Báo cáo số 153- BC/BTCTU ngày 21/6/2007 "Báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch số 05- KH/TW của BTV Tỉnh uỷ về công tác QHCB lãnh đạo, quản lý".
Báo cáo tổng kết công tác xây dựng đảng thời kỳ 1975 - 1995, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tr.111 - 137.
B.T.V (1998), "Kết quả bước đầu sau một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII)", Tạp chí Xây dựng Đảng, (6), tr.27-28.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bắc Giang (2006), Kế hoạch số 05-KH/TU ngày 09/5/2006 thực hiện Nghị quyết 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Phạm Minh Chiến (2002), Nâng cao chất lượng công tác QHCB chủ chốt Tỉnh uỷ quản lý của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn cử nhân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đinh Thế Chiều (2002), Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2001 - 2010, Luận văn cử nhân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trần Thị Kim Cúc (1998), "Quy hoạch đào tạo là một khâu quyết định của công tác cán bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), tr.2.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Một số văn kiện xây dựng về tổ chức, cán bộ và về đảng viên, BTC Trung ương Đảng xuất bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết Bộ chính trị số 42/NQ - TW ngày 30/11/2004 về công tác QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đại từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Lưu Tiến Định (2006), Quy hoạch ĐNCBCC thuộc diện Quận uỷ Ba Đình quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Xây dựng đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Đức Hà (1998), "Kết quả và kinh nghiệm về công tác QHCB ở Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Xây dựng Đảng, (8), tr.29-30.
Nguyễn Đức Hà (1998), "Kết quả bước đầu về công tác cán bộ và QHCB ở Yên Bái", Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.13-14.
Hồ Thị Hà (1999), "Một số kinh nghiệm về công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ ở Nghệ An", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr.16-17.
Tiến Hải (1997), "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.10.
Tiến Hải (1998), Dân chủ và công khai trong công tác QHCB, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước KHXH. 05.
Trần Đình Hoan (2004), Về QHCB lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Kỷ yếu đề tài cấp nhà nước ĐTĐL - 2002/07, do Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan chủ trì.
Trần Đình Hoan (2004), QHCB là một khâu trọng yếu quyết định chất lượng công tác cán bộ, Kỷ yếu đề tài cấp nhà nước ĐTĐL - 2002/07, do Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan chủ trì.
Trần Đình Hoan (2004), Làm tốt công tác quy hoạch là giành thế chủ động trong công tác cán bộ, Kỷ yếu đề tài cấp nhà nước ĐTĐL - 2002/07, do Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan chủ trì.
Phạm Văn Hùng (1998), "Quy hoạch và đào tạo cán bộ ở các trường đại học và cao đẳng", Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.19 - 20.
Trần Phước Hường (1998), "Tính cấp thiết của vấn đề QHCB thành phố Đà Nẵng hiện nay", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr.10-13.
Nguyễn Ngọc Lâm (2006), Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý trong quyhoạch chung về cán bộ ở các tỉnh, thành phố cả nước, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Nguyễn Ngọc Liễu (1998), QHCB và việc bố trí, sử dụng cán bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước KHXH.05.
Lê Văn Lý (1999), "Quan niệm khoa học về QHCB - lịch sử và quá trình tiếp cận vấn đề", Tạp chí Thông tin lý luận, (6).
C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trần Thanh Nam (1999), "Một số kinh nghiệm QHCB ở tỉnh Kiên Giang", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr.10 - 11.
Nguyễn Đức Nghi (1999), "Công tác QHCB của Công an thành phố Hà Nội", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.36 - 39.
Trần Đình Nghiêm (1998), Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với công tác QHCB, Kỷ yếu hội thảo khoa học, chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước KHXH.05.
Pháp lệnh cán bộ công chức (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (1998), "Hiểu đúng, có biện pháp thiết thực tiến hành ngay QHCB", Tạp chí Xây dựng Đảng, (11), tr.34.
Tô Duy Rứa (1997), "Xây dựng và thực hiện tốt công tác QHCB trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (3), tr.3 - 5.
Tô Duy Rứa (1998), "Đào tạo, bồi dưỡng phục vụ công tác QHCB", Tạp chí Cộng sản, (21), tr.16 - 21.
Trần Huy Sáng (1997), "Một số suy nghĩ về thực trạng và phương hướng quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (10), tr.27-29.
Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, BCHTW Đảng khoá XIII (1997), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thắng (2006), Công tác QHCB lãnh dạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện BTV Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ xây dựng đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trần Minh Thấu (2000), Công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trương Thị Mỹ Trang (2004), QHCB chủ chốt của hệ thống chính trị các xã tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (1998), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học.
Từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (2002), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học.
Lê Kim Việt (1999), "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, (24), tr.25 - 27.
Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Xuân (1998), "Công tác QHCB, một năm nhìn lại và hướng tới", Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.31 - 32.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2752.doc