LỜI NÓI ĐẦU
Toàn thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học công nghệ kỹ thuật cao, tốc độ khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế thế giới đang dần chuyển hướng nhắm tới nền kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đang chuẩn bị những hành trang để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với xuất phát điểm của chúng ta là một nước đang phát triển, lạc hậu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quả thật
120 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà Doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế & bước vào nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chúng ta gặp khó khăn rất nhiều trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Để có thể thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ còn một con đường vận dụng tri thức, sử dụng vốn quí nhất của con người vào trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất, sáng tạo khoa học công nghệ kỹ thuật. Nếu không phát huy sức mạnh của tri thức thì chúng ta sẽ mãi đi theo đuôi các nước phát triển là bãi rác công nghiệp cho thế giới và nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam chỉ là một giấc mơ không bao giờ thành hiện thực.
Có thể thấy rằng việc phát triển khoa học công nghệ kỹ thuật là con đường ngắn nhất để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, là cơ hội cho các doanh nghiệp trẻ Việt Nam cọ xát, thử sức trong môi trường cạnh tranh kinh tế quốc tế. Nhưng đối với các dự án thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ thì thường đòi hỏi vốn lớn và rủi ro laị cao, các chủ đầu tư phải đủ tiềm lực tài chính và đủ năng lực để có thể tài trợ cho các dự án thuộc loại này. Với hệ thống cơ chế tài chính như ở nước ta hiện nay thì khó lòng có thể thực hiện được những dự án có tiềm lực lớn. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính hiện có ở Việt Nam thường không đầu tư vào những dự án có độ rủi ro lớn, và chức năng của các ngân hàng cũng chưa thể hiện đúng với chức năng của nhà đầu tư. Đây thực sự là khó khăn lớn nhất đối với đội ngũ các doanh nghiệp trẻ, họ có ý tưởng, có năng lực sáng tạo, có tiềm tàng phát triển nhưng họ thiếu vốn đầu tư, khả năng tài chính không cho phép họ thực hiện những dự án mạo hiểm, họ cần những tổ chức tài chính bảo trợ vốn, coi rủi ro là đầu tư lớn nhất cho lợi nhuận , lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Hơn nữa trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp trẻ Việt Nam phải có những bước đột phá lớn về sản phẩm, thương hiệu của mình trên thương trường quốc tế, muốn vậy thì cần phải có những dự án mạo hiểm nhưng mang lại sự phát triển nhảy vọt, và điều kiện tiên quyết là khả năng tài chính phải được đảm bảo. Do đó thiết nghĩ cần phải có một mô hình tài chính phù hợp có thể đáp ứng yêu cầu vay vốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ kỹ thuật cao, các doanh nghiệp trẻ có tiềm năng phát triển mạnh. Quỹ đầu tư mạo hiểm là một loại hình tài trợ tài chính tối ưu nhất cho doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì mục đích của quỹ đầu tư mạo hiểm là đầu tư vào những doanh nghiêp mới khởi sự và những doanh nghiệp đang ở thời kỳ tăng trưởng mạnh cần vốn lớn. Quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận rủi ro lớn để kỳ vọng vào mức lợi nhuận trong tương lai cao hơn mức bình quân. Nếu không có quỹ đầu tư mạo hiểm thì nhiều dự án có giá trị cao, có tiềm năng lớn bị xếp xó hoặc cả đời dự án sẽ mãi ở trên bàn giấy, không thể thực hiện được.
Với những bức xúc trong thị trường tài chính của Việt Nam và sự thích hợp của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
" Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bước vào nền kinh tế tri thức"
Thông qua những cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn của hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, kinh tế tri thức được trình bày trong đề tài, tôi xin được nhấn mạnh về ba vấn đề trọng tâm :
Một là , Việt Nam cần phải hướng tới nền kinh tế tri thức, hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Hai là , những thách thức và cơ hội mà doanh nghiệp trẻ Việt Nam gặp phải trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Quỹ đầu tư mạo hiểm - định chế tài chính tối ưu đối với các doanh nghiệp trẻ, phù hợp cho mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là có một cái nhìn đúng đắn và toàn diện hơn về các loại quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời thấy được tầm quan trọng của các quỹ này trong quá trình Việt nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tiến lên nền kinh tế tri thức trong tương lai.
CHƯƠNG I: QUỸ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NỀN KINH TẾ TRI THỨC - SỰ PHÁT TRIỂN TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI VÀ YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức ( knowledge economy ), nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge based economy), nền kinh tế công nghệ cao (high-echnology economy)... đang là những thuật ngữ thời thượng hiện nay không chỉ ở những quốc gia phát triển mà còn ở cả những quốc gia đang phát triển. Vậy chúng ta phải hiểu như thế nào về những thuật ngữ này và thực chất "Nền kinh tế tri thức là gì?" Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nền kinh tế tri thức nhưng hầu hết đều dựa trên cách định nghĩa của OECD ( Office economic cooperation and development, tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển ) được đưa ra trong báo cáo "Kinh tế dựa trên tri thức " năm 1996. Theo định nghĩa này thì nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Để mà hiểu được định nghĩa mang tính khái quát cao được đưa ra ở trên thì chúng ta phải xem xét nó dưới các khía cạnh khác nhau và đối với mỗi một quốc gia thì lại hiểu định nghĩa trên theo cách riêng tuỳ thuộc vào đường lối chính sách, cơ chế và xu hướng phát triển của quốc gia đó. Nhưng tựu chung lại chúng ta có thể hiểu định nghĩa này theo ba cách tiếp cận khác nhau, cách tiếp cận hẹp , cách tiếp cận rộng và cách tiếp cận bao trùm.
Những người theo cách tiếp cận hẹp này hiểu tri thức với nghĩa hẹp tức là đồng nghĩa với khoa học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại bao gồm bốn công nghệ trụ cột là: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp không gian vũ trụ và công nghệ vật liệu mới, theo cách tiếp cận này họ nhấn mạnh vào vai trò to lớn và độc nhất của công nghệ thông tin.
Ngược lại với cách tiếp cận trên, thì cách tiếp cận rộng lại dựa trên cách hiểu rộng về tri thức tức là mọi hiểu biết của con ngươì đối với bản thân và thế giới, OECD đã phân ra bốn loại tri thức quan trọng , đó là biết cái gì, biết tại sao, biết như thế nào và biết ai. Kinh tế tri thức không chỉ có nguyên nhân từ sự tiến bộ vượt bậc của các công nghệ mới mà là kết quả của một tập hợp ba nhóm nguyên nhân trực tiếp tác động tương tác và tự tăng cường lẫn nhau bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật, nền kinh tế toàn cầu hoá cạnh tranh quyết liệt và các biến đổi về van hoá chính trị tư tưởng cuả chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Còn đối với cách tiếp cận bao trùm thì kinh tế tri thức thực chất là một loại môi trường kinh tế văn hoá xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức tất yếu sẽ trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Do vậy, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải đơn thuần là phát triển khoa học công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá đổi mơí, sáng tạo để tạo thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi hiểu biết của nhân loại.
Có lẽ là cách tiếp cận bao trùm đã phần nào bao gồm cả hai cách tiếp cận trên nên nó được chấp nhận nhiều nhất và phổ biến nhất. Và theo tôi chúng ta có thể hiểu nền kinh tế tri thức theo cách hiểu ngắn gọn, đơn giản và dễ hiểu như sau: Nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức, là một nền kinh tế mà việc sản sinh và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải.
2/ Nền kinh tế tri thức là sự phát triển tất yếu của thời đại , là yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Nền kinh tế thế giới chuyển từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp với sự mở màn thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp ở nước Anh từ năm 1700 đến năm 1820 với sự phát triển của công nghiệp vải sợi, sự phát minh ra máy hơi nước của James Watt thời kỳ 1776 - 1781 khởi điểm cho sự phát triển máy móc công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (`1820 - 1870), cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870-1913), đã có những thành tựu được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới và đã mang lại kết quả to lớn làm tiền đề cho sự phát triển của khoa học công nghệ. Và từ năm 1950 trở về đây với sự phát triển kinh tế đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển, sự phát triển của trí tuệ, của khoa học công nghệ, của kiến thức tổ chức quản lý, nền kinh tế do giá trị của tri thức tạo ra ngày càng tăng. Kinh tế thế giới đã chuyển từ thời kỳ nông nghiệp sang tiền công nghiệp rồi sang công nghiệp và tất yếu bây giờ nó sẽ phát triển lên một hình thức cao hơn nữa, phải chăng đó chính là nền kinh tế dựa trên khoa học kỹ thuật công nghệ cao.
Thực ra vai trò của tri thức trong nền kinh tế không chỉ bây giờ mới được nhân loại nói tới mà nó đã được đề cập đến từ rất sớm. Từ năm 1650, nhà tiên tri tài năng của nước Anh, William Patter, đã viết : " Của cải mang tính tượng trưng sẽ thay thế cho của cải thật" và để chứng minh cho lời nói của ông thì năm 1690, chiếc máy hơi nước đầu tiên trên thế giới đã ra đời ngay tại nước Anh. Tiếp theo, sau ông là Francis Bacon, nhà tư tưởng lớn người Anh khẳng định: " Tri thức là sức mạnh ". Winston Churchill từng nói về việc thiết lập một quốc gia hùng mạnh bằng tri thức. Ngay tại nước Mỹ năm 1970, các ông trùm kinh tế còn cho rằng công nghiệp nặng cần có xí nghiệp và điều đó sẽ mãi không thể thay đổi. Nhưng chỉ ít năm sau chính họ đã phải thừa nhận: " Tri thức mới là chìa khoá để mở cổng để bá quyền kinh tế ". Và Alvin Toffler, học giả người Mỹ, một trong những nhà tương lai học nổi tiếng của thế giới ở thế kỷ XX. Năm 1970, ông cho ra mắt bạn đọc cuốn " Cú sốc tương lai " (Future shock), Trong cuốn này ông trình bày về quá trình biến đổi của công nghiệp đối với các tổ chức và con ngươì, dự báo hiệu quả của cuộc cách mạng sinh hoá, của cải cách giáo dục, khả năng kiềm chế và sự biến đổi sao cho có lợi. Đến năm 1980, ông lại cho ra đời cuốn " Làn sóng thứ ba " (The third Wave), lần này ông phân tích các hướng biến đổi mang tính chất khoa học kỹ thuật, ông nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật, cho rằng máy móc hiện đại sẽ thay thế cho sức lực của con người. Và 10 năm sau, năm 1990, trong cuốn " Thăng trầm quyền lực " (Power shift ) hay còn gọi là "Tương lai thế giới " ông khẳng định vai trò then chốt của tri thức là tạo ra sự biến đổi toàn diện kinh tế thế giới. Theo ông, bạo lực chỉ là dạng phẩm chất thấp, của cải thuộc bậc trung còn tri thức mới là phẩm chất cao nhất, nó chuyển hoá liên tục tránh đựoc lãng phí sức lực và tiền của. Có thể nói những dự báo của ông đã và đang nhanh chóng trở thành hiện thực, sách của ông trở thành sách bán chạy nhất "Best sell".
Thế kỷ XX là thế kỷ khoa học công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy, giá trị sản xuất vật chất tăng hàng chục lần so với thế kỷ trước. Năm 1903, việc giải phóng năng lượng hạt nhân của ông bà Mari Quyri đã tạo bước nhảy vọt trong việc tìm ra một năng lượng mới cho loài người, xuất hiện điện tử, tàu phá băng nguyên tử ... Cuộc cách mạng sinh học tạo ra những giống mới dẫn tới bước phát triển mới trong nông nghiệp, thụ tinh trong ống nghiệm, năm 1967 ghép được tim con người . Cuối thế kỷ XX đã giải mã được gien của loài người , thực hiện sinh sản vô tính , chế tạo ra các thần dược. Cuộc cách mạng về vật liệu mới, nổi bật là vật liệu compozit đang được sử dụng rộng rãi trong các ngành chế tạo máy, các ngành kỹ thuật cao... Cuộc cách mạng về công nghệ vũ trụ với nhiều thành tựu to lớn: Phóng vệ tinh nhân tạo năm 1957 , phóng tên lửa thăm dò mặt trăng năm 1959, đưa con người lên mặt trăng năm 1969 và khám phá sao hoả...
Đặc biệt là cuộc cách mạng thông tin. Năm 1832 máy điện tín ra đời mà cha đẻ là Samuel Morse .Năm 1836 đường dây điện báo xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ. Năm 1960, các xí nghiệp ở Mỹ đều trang bị máy điện toán. Điện thoại ra đời năm 1901, truyền ảnh từ xa ra đời năm 1905, truyền hình từ xa ra đời năm 1914, vô tuyến truyền hình ra đời năm 1926, đến năm 1951 có vô tuyến truyền hình màu, máy tính ra đời năm 1949, nay là máy tính nối mạng và sự phát triển cực nhanh của Internet.Trong vài thập kỷ gần đây, máy vi tính và mạng Internet là công cụ không thể thiếu được trong các công ty, nhà máy. Sự ra đơì của Internet đã gắn liền cả thế giới với nhau, buôn bán xuyên quốc gia đã trở nên dễ dàng hơn và thuận tiện hơn. Thương mại điện tử là một hình thức buôn bán phổ biến ở trên thế giới. Máy rút tiền tự động, các cửa hàng bán đồ tự động và thanh toán bàng thẻ tín dụng điện tử không còn xa lạ đối với con người . Ngày nay, công nghệ không dây đã phát triển lên tới đỉnh cao thể hiện ở sự bùng nổ sử dụng máy điện thoại di động, các đời điện thoại di động không ngừng được nâng cấp và cải tiến. Công nghệ sinh học cũng đang trên đà phát triển với sự ra đời của cừu Dolly, theo thống kê đã có đúa trẻ thứ 1000 được sinh ra trong ống nghiệm, việc cấy ghép gen đã có thể thực hiện được. Qua đó có thể thấy khoa học kỹ thuật công nghệ đã phát triển không ngừng và đạt đựơc nhiều thành tựu đáng kể. Đó chính là tri thức , là công nghệ tri thức. Hơn nữa, con người với tư chất năng động, sáng tạo, luôn luôn muốn tìm tòi, khám phá ra những cái mới và không bao giờ tự hài lòng với những gì mình đang có. Yêu cầu của con người ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, phức tạp, muốn đáp ứng được thì càng phải nâng cao sự tích luỹ tri thức trong sản phẩm, phải tạo ra được những sản phẩm có tính năng đa dạng, chất lượng tốt, giá rẻ và chứa hàm lượng tri thức cao.
Từ giữa thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX , có thể nói đây là thời kỳ phát triển có tính chất bước ngoặt của yếu tố tri thức với tư cách là một yếu tố của lực lượng sản xuất và nó được bắt đầu ở nước Mỹ - một quốc gia đứng vị trí thứ nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Trước đây con người khai thác tài nguyên thiên nhiên, lấy đó làm nguồn lực để phát triển kinh tế nhưng tài nguyên cũng chỉ có giới hạn , khai thác mãi thì cũng phải cạn kiệt do đó con người cần phải phát triển khoa học kỹ thuật để tạo ra những vật liệu cần thiết cho sản xuất mà không phải lấy từ thiên nhiên. Tới đây thì khoa học kỹ thuật đã trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhờ có khoa học kỹ thuật mà vòng đời của sản phẩm được rút ngắn, hàm lượng chất xám và vốn chứa đựng trong tri thức tăng cao.
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin. Nhờ có công nghệ thông tin mà quá trình giao thương giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn nhiều, ngành công nghệ khoa học kỹ thuật của nhiều quốc gia như Mỹ, Anh , Pháp, Đức... đang ở đỉnh cao, do đó muốn đạt tới yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế thì các quốc gia khác phải bắt kịp tốc độ phát triển các ngành khoa học công nghệ vì giờ đây nó chính là nguồn gốc của sự giàu có và hùng mạnh của mỗi quốc gia và cũng chỉ có con đường đó mới giúp cho các nước nhỏ , các nước đang phát triển mới có điều kiện hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Có thể nói tốc độ phát triển công nghệ thông tin là chìa khoá cho sự thành công. Trước đây, giá trị đồng nghĩa với khối lượng, số lượng nhưng giờ đây giá trị có nghĩa là chất lượng, một con chíp bé tẹo có thể cấy ghép vào mạch máu con người lại có giá trị gấp mấy chục lần một chiếc máy vi tính chứa đựng vô số những vi mạch điện tử. Càng nhỏ càng đắt tiền, đó là khẩu hiệu thời đại công nghệ kỹ thuật, một chiếc điện thoại di động bé bằng nửa lòng bàn tay lại có giá trị gấp nhiều lần so với một chiếc di động to bằng cục gạch. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là tại sao những sản phẩm tốn nhiều vật chất hơn lại có giá trị ít hơn nhiều so với những sản phẩm mà sử dụng rất ít tư liệu sản xuất, tại sao những sản phẩm đời sau lại sử dụng ít tư liệu sản xuất hơn những sản phẩm đời trước. Câu trả lời duy nhất cho vấn đề này là yêu cầu của con người ngày càng cao, xu hướng tiêu dùng những sản phẩm chứa nhiều hàm lượng giá trị tri thức càng được ưa chuộng. Giá trị của sản phẩm được đánh giá dựa theo hàm lượng tri thức chứa đựng trong nó, theo công năng , tiện ích và ưu điểm của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại. Chỉ có những thành tựu của khoa học công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật cao mới có thể tạo ra được những sản phẩm ưu việt như vậy, đây cũng là câu trả lời cho sự phát triển nhảy vọt của Nhật Bản - một đất nước không được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, nhưng nó trở thành cường quốc đứng thứ ba trên thế giới là dựa vào tri thức dựa vào những thành tựu khoa học công nghệ . Nhật Bản đã có những chiến lược phát triển khoa học công nghệ rất hợp lý và hiệu quả. Cũng giống như Nhật Bản, Hàn Quốc trong vài thập kỷ gần đây đã vươn lên thành một trong những nước có nền công nghệ thông tin phát triển vào bậc nhất trên thế giới. Vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế, hoà mình vào dòng chảy chung của toàn cầu thì các nước đang phát triển mà điển hình là Việt Nam chúng ta càng cần phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa khoa học công nghệ thông tin. Khi hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nghĩa là cùng chung một sân chơi, mạnh được yếu thua, đây là một thách thức to lớn đối với các nước đang phát triển vì phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh quốc tế có trình độ khoa học công nghệ vượt trội nhưng đồng thời cũng là cơ hội, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của những nước này. Do đó muốn trụ vững được trên thương trường quốc tế thì sản phẩm của các doanh nghiệp mới tham gia thị trường quốc tế ít ra cũng phải ngang tầm với các sản phẩm khác trên thị trường. Mặt khác khi hội nhập kinh tế quốc tế , các nước đang phát triển như Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trường các nước khác nhưng cũng đồng nghĩa với việc thị trường trong nước bị chia sẻ, nếu không giữ vững và củng cố được thị phần trong nước thì chúng ta đã bị thua ngay trên sân nhà , chơi trên sân nhà còn thua thì nói gì đến việc chơi trên sân bạn , điều này có nghĩa là khả năng cạnh tranh của chúng ta quá hạn chế. Để cải thiện tình trạng này không còn cách nào khác là phải phát triển khoa học công nghệ, sử dụng khoa học công nghệ một cách hợp lý và có hiệu quả, phải đầu tư chất xám trong sản phẩm, sản phẩm được sản xuất ra phải chứa đựng hàm lượng tri thức cao, phải có khả năng cạnh tranh. Vì vậy, với yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hoá thì Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung phải đánh giá được tầm quan trọng của tri thức trong việc sản xuất, ứng dụng triệt để các thành tựu khoa học công nghệ sẵn có, không ngừng nghiên cứu, sáng tạo các công nghệ mới, hiện đại đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân loại
Tri thức còn được vận dụng vào trong quản lý, tổ chức, tri thức trở thành nguồn lực căn bản của kinh tế quốc gia . Tri thức quyết định tăng trưởng kinh tế và nhất là trong giai đoạn hiện nay , nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới đang cạn kiệt dần thì vai trò của tri thức càng được nhấn mạnh. Trong nền kinh tế tri thức nguồn tài nguyên trí lực và khoa học kỹ thuật công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp , lực lượng có vai trò quan trọng hàng đầu .Vậy, sự xuất hiện nền kinh tế tri thức là một quá trình , một thực tế tất yếu chứ không phải là ngẫu nhiên . Kinh tế tri thức là sự phát triển tất yếu của thời đại.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
1/ Quỹ đầu tư - quỹ đầu tư mạo hiểm
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các tổ chức, cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh, có các dự án kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư gặp nhau được, cùng hợp tác với nhau, cùng nhau tìm kiếm các cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Để làm "cầu nối " giữa bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi, nhiều loại hình định chế tài chính trung gian đã ra đời. Một trong những định chế tài chính trung gian có ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, đó là " quỹ đầu tư".
Quỹ đầu tư là một tổ chức dạng doanh nghiệp được hình thành từ vốn góp của người đầu tư bằng cách phát hành và bán chứng chỉ quỹ. Là một dạng doanh nghiệp đặc biệt, quỹ đầu tư không dùng vốn của mình để mua máy móc thiết bị, các yếu tố sản xuất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, mà dùng vốn để đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là việc các quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.
Đầu tư gián tiếp là việc quỹ đầu tư tự dùng vốn của mình tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán, mua đi bán lại các chứng khoán, nhằm hưởng chênh lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi tức trái phiếu. Tuy nhiên quỹ đầu tư không phải là thành viên của thị trường chứng khoán tập trung. Các quỹ đầu tư có thể dùng vốn của mình cho các chủ doanh nghiệp vay để đầu tư vào các dự án theo những thoả thuận nhất định. Nguồn vốn hình thành quỹ đầu tư rất phong phú và đa dạng. Các tập đoàn tư bản, các công ty, dân chúng... có vốn nhàn rỗi dù nhiều hay ít đều có thể trở thành các chủ sở hữu của quỹ đầu tư bằng việc mua các chứng chỉ quỹ đầu tư do quỹ đầu tư phát hành.
Hiện nay có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư như : quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư hỗn hợp, quỹ hỗ trợ đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm... Nhưng trong đề tà này tôi chỉ xin nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm. Vậy để hiểu rõ từng khía cạnh của quỹ đầu tư mạo hiểm thì trước tiên chúng ta phải hiểu quỹ đầu tư mạo hiểm là gì và bản chất của nó.
Để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, nhiều nước đã áp dụng hình thức huy động vốn đầu tư mạo hiểm để cung cấp cho các dự án, chương trình. Điển hình trong hoạt động này là người Mỹ, họ đã phát triển mạnh hình thức vốn mạo hiểm (Venture capital), đáp ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả cho các dự án của mình. Hiện nay tại Mỹ đã hình thành một thị trường vốn mạo hiểm khổng lồ, có khả năng tài trợ cho nhiều dự án, đặc biệt là những nghiên cứu công nghệ cao. Vậy vốn mạo hiểm là gì và vai trò của chúng như thế nào trong hệ thống tài chính của các quốc gia trên thế giới hiện nay?
Theo một nghiên cứu gần đây của “Chương trình dự án phát triển sông Mê Kông” (năm 1998) thì có hai định nghĩa về vốn mạo hiểm, một theo nghĩa rộng và một theo nghĩa hẹp." Theo nghĩa rộng thì vốn mạo hiểm là nguồn tài chính cung cấp cho các công ty tư nhân dưới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu tư gần giống như vốn cổ phần có thời hạn trung bình (3 - 5 năm)". Số cổ phần giành được trong các công ty nhận được vốn đầu tư loại này có thể chiếm tỷ phần ít ỏi hoặc chiếm đa số áp đảo. Như chúng ta đã biết, đầu tư là hoạt động bỏ vốn ra tập trung vào một mục đích nào đó nhằm mưu cầu một khoản thu về lớn hơn trong tương lai, nhưng khác với đầu tư thông thường, mục tiêu của đầu tư mạo hiểm là kiếm được khoản thu nhập vốn cao hơn mức trung bình. Khoản thu này trở thành hiện thực sau khi khoản đầu tư đó được bán cho một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc bán cho công chúng (bán cho công chúng là hiện tượng phổ biến xảy ra ở các nước châu Á. Bên cạnh việc cung cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn tư vấn ở tầm chiến lược, cho các công ty nhận vốn đầu tư khi họ bước sang giai đoạn tăng trưởng kế tiếp và thậm chí chuẩn bị sẵn sàng để công ty được chuyển giao cho các cổ đông khác.
Định nghĩa hẹp, xác định vốn mạo hiểm là các khoản đầu tư vốn cổ phần tư nhân trung hạn vào các công ty nhận vốn chưa trưởng thành. Nói cách khác, công ty nhận vốn đầu tư đang trong giai đoạn đầu (manh nha) của quá trình phát triển sản phẩm, phát triển năng lực sản xuất hoặc bắt đầu mở rộng cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Trong giai đoạn đầu phát triển, các công ty hiện nay ngày càng phát triển nhanh, có xu hướng rút ngắn lịch sử phát triển và có quy mô nhỏ hơn so với đa số các khoản đầu tư được nêu trong định nghĩa rộng, rủi ro cũng có xu hướng cao hơn. Vì thế , các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Sự khác biệt giữa hai định nghĩa trên ở một góc độ nào đó là mức độ trưởng thành của các công ty nhận vốn đầu tư.
Chúng ta cũng có thể hiểu quỹ đầu tư mạo hiểm duới góc độ khác và theo tôi cách định nghĩa này dễ hiểu và thể hiện rõ chức năng của quỹ đầu tư mạo hiểm hơn cả. Quỹ đầu tư mạo hiểm là hình thức huy động vốn để đầu tư tiền và kỹ năng vào các công ty mới khởi sự có tiềm năng phát triển cao hoặc các công ty đang ở giai đoạn tăng trưởng cao. (Thông thường các công ty này là những công ty chưa được niêm yết và cổ phiếu chưa được mua bán trên các sàn giao dịch chứng khoán). Theo định nghĩa này thì ngoài việc đầu tư tiền, công ty quản lý quỹ còn đầu tư kỹ năng quản lý vào các công ty thuộc danh mục để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động các công ty này.
2/ Lịch sử ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm
Quỹ vốn mạo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1946 ở Mỹ tại thành phố Boston, có tên gọi là công ty Nghiên cứu và Phát triển Mỹ (ARD Coporation) đã được hình thành dưới hình thức một quỹ hỗ tương dạng đóng (closed end). Sự ra đời của quỹ này gắn liền với sự phát triển của thung lũng Silicon. Quỹ này được hình thành để kiếm các dự án đầu tư có nhiều tiềm năng đem lại thu nhập cao. Công ty Digital Equipment Inc đã mang lại hơn 50% lợi nhuận của quỹ này. Nhiều quỹ vốn mạo hiểm đã ra đời tiếp sau đó. Cũng vào khoảng thời gian này, các tổ chức của chính phủ bảo trợ cho các doanh nghiệp nhỏ được thành lập như SBA và SBIC nhưng quy mô vốn đầu tư cho từng doanh nghiệp vẫn còn nhỏ.
Tuy nhiên, đã có những thay đổi quan trọng trong lãnh vực này vào những năm 1970 khi có một đạo luật về giảm thuế đánh trên lợi nhuận do tăng vốn (capital gain tax) được ban hành. Một yếu tố thứ hai đã tác động đến sự phát triển các quỹ vốn mạo hiểm khi vào năm 1979 sau khi Bộ Lao động Hoa kỳ điều chỉnh lại các quy định liên quan đến việc đầu tư của các quỹ hưu trí, đã thúc đẩy những khoản vốn từ quỹ hưu trí đầu tư cho các doang nghiệp mới cần vốn mạo hiểm để đòi lại các khoản lơị nhuận cao trong danh mục đầu tư đa dạng hoá.
Cũng vào thời kỳ này và những năm đầu thập niên 1980 và 1990 đã có sự tăng vọt về các khoản vốn đầu tư mạo hiểm song hành với các cuộc phát hành lần đầu ra công chúng, cùng với các diễn biến tăng giá cổ phiếu ngoạn mục trên thị trường cổ phiếu. Trong khoảng thời gian này, dù có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, khối lượng vốn mạo hiểm chỉ đạt 10 đến 15 tỷ USD trong những năm 1980. Sau đó vào những năm 1990, những thiên thần đầu tư (thiên thần đầu tư là thuật ngữ chỉ các nhà đầu tư vốn mạo hiểm cho những dự án ngay từ khi thai nghén hoặc mới hình thành, đặc biệt là các dự án đi liền với các phát minh, sáng chế còn quá mới mẻ với các nhà tài chính chuyên nghiệp vì chưa đủ thông tin cần thiết về các phát minh... những khoản đầu tư này rất khó thẩm định về hiệu quả kinh tế và khó gọi vốn trong những thời kỳ mới hình thành) đã bỏ ra khoảng 30 tỷ USD cho các dự án vốn mạo hiểm. Theo một nghiên cứu của Wetzel hàng năm có khoàng 50 tỷ USD được các quỹ vốn mạo hiểm đầu tư cho các dự án trên toàn cầu. Tại vương quốc Anh các quỹ vốn mạo hiểm với vốn trên 5 tỷ USD đã tập hợp thành Hiệp hội các quỹ vốn mạo hiểm Anh Quốc (British venture capital association).
Riêng chính phủ Hoa Kỳ đã đầu tư khoảng 63 tỷ USD cho các dự án mạo hiểm, nhưng tập trung chủ yếu vào các trường đại học. Đối với các ngành công nghiệp nhỏ, vốn mạo hiểm đã đóng vai trò tác động quan trọng. Trong khoảng 10 năm kết thúc vào năm 1988, trên 305 cuộc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO), là của công ty có vốn mạo hiểm, điều này có nghĩa là các công ty đó được các quỹ vốn mạo hiểm cấp vốn trong thời kỳ đầu và vẫn tiếp tục đầu tư vào các doanh nghiệp phát hành này trong các giai đoạn phát triển tiếp theo. Quỹ đầu tư mạo hiểm đã được hình thành phát triển mạnh mẽ, đang trở thành một nghành công nghiệp tại Mỹ, Anh và Đức...Còn tại Châu Á, quỹ đầu tư mạo hiểm cũng đã xuất hiện lần đầu tiên ở Singapore. Năm 1985 với sự hoạt động rất tích cực của Uỷ ban phát triển kinh tế nhằm thức đẩy sự vận động của hoạt động tài chính hỗ trợ cho nguồn vốn đầu tư rủi ro. Tại Hàn Quốc, Thái Lan và Đài Loan, hình thức đầu tư này cũng đã xuất hiện từ rất sớm. Năm 1690, tại Hàn quốc, các nhà đầu tư đã liên kết với nhau và thành lập ra 13 câu lạc bộ các nhà đầu tư, họ chọn lựa những doanh nghiệp được đánh giá là có tiềm năng phát triển nhất trong số các doanh nghiệp mới được thành lập để đầu tư vốn liếng và kinh nghiệm hoạt động của mình. Năm 1996, Fuji Bank của Nhật đã thiết lập ra bộ phận được gọi là "Phòng tín dụng cho các doanh nghiệp mới ", chức năng của ban này là hỗ trợ thực hiện gia tăng đầu tư cho các hãng kinh doanh mới thành lập, tìm kiếm những hãng có tiềm năng phát triển cao và giúp đỡ họ trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh.
Lịch sử phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm khá là lâu dài và hoạt động với phạm vi tương đối rộng, từ Mỹ, Anh... và ở cả Châu á như Nhật, Singapore, Hàn Quốc... Hoạt động của các quỹ này đã mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế của các nước phát triển và kinh tế thế giới. Do đó, quỹ đầu tư mạo hiểm không phải là xa lạ đối với nhân loại mà mặt khác nó còn là hình thức đầu tư rất hiệu quả.
3/ Tổ chức, quy trình hình thành và quy trình đầu tư quỹ vốn mạo hiểm
3.1> Tổ chức của các công ty vốn mạo hiểm
Sự thành công của các quỹ vốn mạo hiểm lệ thuộc vào khả năng giải đáp tính phức tạp của các dự án mới. Các nhà quản trị vốn mạo hiểm, bên cạnh khả năng phát hiện ra những dự án tiềm năng có mức tăng trưởng cao, phải có năng lực tổ chức quản trị các đầu tư này một cách hiệu quả. Thông thường việc theo dõi các dự án như vậy rất tốn kém trong chi phí quản trị tổng hợp các danh mục đầu tư của quỹ vốn mạo hiểm. Ngoài ra, nhà quản trị phải có năng lực đàm phán hợp đồng để phát triển mở rộng, tái bố trí nhân sự phù hợp cho từng giai đoạn phát triển nhằm đạt được mục đích cuối cùng của nhiệm vụ là đạt mức tăng trưởng cao trong toàn quý. Khác với quỹ đóng thông thường, loại quỹ vốn mạo hiểm hạn chế thời gian và bắt buộc thành viên tổng quát phải liên tục tìm kiếm các đầu tư tốt để gia tăng giá trị và hoàn thành chỉ tiêu đề ra. Khác với quỹ đóng, dòng vốn chạy vào quỹ vốn mạo hiểm là thuộc nhu cầu thị trường, cho phép quỹ phát triển mở rộng khi có thời cơ đầu tư tuỳ theo đề nghị của._. thành viên tổng quát.
Do những yêu cầu đối với thành viên của quỹ vốn đầu tư mạo hiểm như trên nên các nhà quản trị đã chọn lọc ra mô hình thành viên hợp danh trách nhiệm hữu hạn cho cac quỹ vốn mạo hiểm. Hình thức sở hữu này giảm thiểu các vấn đề nảy sinh trong quá trình đầu tư vào dự án mới bởi vì với hình thức này, các nhà đầu tư có thể tham gia nhiều quỹ với những mục tiêu đa dạng. Trong khi đó, thành viên tổng quát được thoải mái quyết định đầu tư vào các dự án sẽ mang lại giá trị cao cho quỹ. Sau cùng cơ cấu của quỹ cho phép sử dụng hiệu quả tính thanh khoản mà chỉ có các nhà đầu tư định chế lớn mới có. Nó cho phép nhà quản lý quỹ yên tâm vì không có những biến động dòng vốn vào và dòng vốn chảy ra. Các nhà quản lý quỹ có thể cam kết tham gia vào các dự án tốt và ngược lại đôi khi phải ngồi chờ vì không có dự án tốt để đầu tư. Dạng thức ban đầu này vẫn còn những hạn chế khiến cho các nhà tài chính lựa chọn một mô hình hoàn thiện hơn cho các quỹ vốn mạo hiểm như sau:
Theo mô hình Venture Capital Limited Partnership, Hợp danh trách nhiệm hữu hạn vốn mạo hiểm chỉ có hai loại thành viên là: Thành viên tổng quát và thành viên trách nhiệm hữu hạn.
Thành viên tổng quát ( General Partnes)
Các thành viên tổng quát là người lập ra quỹ vốn mạo hiểm bằng cách gọi vốn từ thành viên hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Các thành viên tổng quát có trách nhiệm tổ chức đầu tư vốn gọi được. Sau khi có nguồn vốn, các thành viên tổng quát tìm kiếm sàng lọc các cơ hội đầu tư, và khi gặp được cơ hội tốt, các cổ đông này đàm phán tổ chức đầu tư.
Việc tham gia đầu tư vốn vào một dự án cũng có nghĩa là các thành viên tổng quát phải tốn thì giờ và công sức để theo dõi, giám sát và tư vấn cho các dự án đầu tư mới. Quan điểm về cách tổ chức đầu tư và tham gia giám sát có khác nhau tùy từng nhóm quỹ vốn mạo hiểm.
Sau cùng thành viên tổng quát phải tổ chức thu hoạch thành quả đầu tư bằng cách tổ chức phát hành ra công chúng hay tổ chức bán dự án, doanh nghiệp cho một công ty đầu tư, đồng thời điều động nhân lực quản trị qua các dự án đầu tư mới vì các dự án cũ đã được phát hành ra công chúng và thông thường có lực lượng quản lý mới.
Các thành viên tổng quát phải báo cáo thường xuyên việc đầu tư sử dụng vốn, đặc biệt là mức lợi nhuận. Họ nhận được trị giá 2% đến 3% trị giá quỹ vốn đã thực góp để sử dụng vào chi phí điều hành quỹ. Ngoài ra, theo thông lệ các nhà quản lý quỹ (cổ đông tổng quát) được hưởng từ 20% đến 30% lợi nhuận tăng trưởng trên số vốn đã được đầu tư.
Phần lớn các thành viên tổng quát thường tụ tập dưới dạng hợp danh TNHH hay một công ty TNHH để có thể liên tục điều hành, đàm phán, ký kết và thực hiện các nhiệm vụ đầu tư cho dù có thể có một thành viên muốn ra đi khỏi quỹ vốn.
Sơ đồ 1:Cơ cấu và qui trình hình thành của tổ chức quỹ vốn mạo hiểm
Thành viên tổng quát
Tổ chức nguồn vốn
Chọn lọc đầu tư
Đàm phán đầu tư
Giám sát tư vấn
Thu hoạch đầu tư
Thành lập công ty quản trị TNHH
Chia 20-30% lợi nhuận (do tăng vốn)
Phí quản lý 2-3% mỗi năm
Đóng góp công sức và quản lý quỹ vốn
Quỹ vốn mạo hiểm
Đóng góp vào quỹ vốn
Cung cấp vốn công sức (quản trị)
Chia 70%-80% lợi nhuận (do tăng vốn)
Thu nhập tài chính
Thành viên trách nhiệm hữu hạn
Quỹ hưu trí
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Tài trợ của các tổ chức phi chính phủ
Các doanh nghiệp
Các gia đình tỷ phú
Các công ty đầu tư
Các thiên thần đầu tư
Các công ty quản trị danh mục đầu tư
Thành viên trách nhiệm hữu hạn (Limited Partners)
Thành viên trách nhiệm hữu hạn của các quỹ vốn mạo hiểm thường là:
- Quỹ hưu trí
- Công ty bảo hiểm
- Nguồn vốn tài trợ
- Doanh nghiệp lớn
- Cá nhân
- Nguồn vốn nước ngoài
Tỉ lệ góp vốn quỹ đầu tư mạo hiểm
Nước ngoài
6%
Cá nhân
12%
Quỹ hưu trí
46%
Bảo hiểm
12%
Doanh nghiệp
5%
Tài trợ
19%
Lý do chính của sự tham gia của các loại thành viên này là:
Sự đầu tư lâu dài và ổn định. Phần lớn các nhà đầu tư loại trên đây có thể tham gia ổn định trong một dự án gọi vốn dài hạn.
Sự phân bổ lợi nhuận tỉ lệ theo vốn góp. Các định chế đầu tư không phải thúc bách lắm trong việc đòi hỏi lợi nhuận phân chia vào đúng ngày.
Các nhà đầu tư vào quỹ vốn mạo hiểm thường đòi hỏi có thời gian để cân nhắc tính toán, trước khi phát hành lần đầu ra công chúng và họ có thể được vào hay ra quỹ theo thời điểm tự tính toán.
Một quan tâm lớn đối với các thành viên tổng quát là tìm được cổ đông có thể tham gia lâu dài vào quỹ. Các định chế nói trên thường có khả năng đáp ứng yêu cầu đó
Quan tâm lớn thứ hai là khả năng góp vốn đúng thời điểm gọi vốn (capital call).
Việc góp vốn đúng thời điểm cho phép các nhà quản trị chớp được thời cơ đầu tư vào các dự án tốt. Ngược lại, đôi khi sự góp vốn trễ có thể hủy hoại uy tín và quá trình đầu tư của một nhóm thành viên quỹ vốn mạo hiểm.
3.2> Qui trình hình thành một quỹ vốn đầu tư mạo hiểm.
Có thể nói xây dựng được một quỹ vốn mạo hiểm là một quá trình tốn kém nhiều mặt. Các thành viên tổng quát thường phải mất nhiều thì giờ, công sức và chi phí để tiếp thị, thuyết phục các nhà đầu tư tiềm năng tham gia vào quỹ, cũng như xây dựng niềm tin vào lợi nhuận của những đầu tư và quyền được quản lý quỹ.
Quá trình hình thành một quỹ vốn đầu tư mạo hiểm thường trải qua các giai đoạn như sau:
Các thành viên tổng quát cảm nhận và phát hiện các cơ hội đầu tư có tiềm năng phát triển tốt đẹp, có mức tăng trưởng nhanh và triển vọng lợi nhuận cao. Thông thường thì các thành viên tổng quát phải bỏ ra nhiều công sức, thời gian, chi phí, để xây dựng hồ sơ dự án, chuẩn bị nền tảng cho triển khai dự án và phát hiện các nguồn vốn tương lai khả thi.
Các thành viên tự thẩm định dự án để lựa chọn sản phẩm, thị trường, các chiến lược phát triển cũng như lựa chọn hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp và cách tổ chức tiếp nhận các nguồn tài chính để đi đến quyết định thực hiện.
Xây dựng mô hình tổ chức và tính pháp lý của quỹ vốn, ví dụ công ty đầu tư hay quỹ hỗ tương hay quỹ đầu tư dạng đóng mở...
Sau bước này các thành viên xem xét và ra quyết định về mức vốn, số lần gọi vốn (tranches), mô hình chi tiết thể thức đầu tư, cơ cấu thành phần quỹ vốn, HĐ quản trị, HĐ điều hành. Vì phần lớn các thành viên là những định chế tài chính đầu tư nên họ trở thành những người tham gia xem xét thận trọng (như qui trình Due diligenee) các chi tiết thành lập để góp phần bảo đảm cho thành công của quỹ.
Các thành viên ra quyết định về các chiến lược thực hiện và chiến lược chiếm lĩnh thị trường.
Lập LCKTKT hay dự án khả thi sau cùng của từng dự án trong quỹ.
Tổ chức huy động vốn, ấn định ngày đóng quỹ... Hợp đồng với các đối tác cung cấp vốn.
Triển khai công việc đầu tư theo kế hoạch và chiến lược đề ra.
Hội đồng điều hành và các thành viên tổng quát theo dõi việc triển khai, quản lý kinh doanh, giám sát các dự án, góp ý tư vấn và kiểm tra định kỳ. Thu nhận các báo cáo hoạt động và báo cáo kiểm toán.
Tiếp tục công việc điều hành cho đến khi thu hoạch.
Tất cả các chi tiết trên đều được đưa vào hợp đồng thành lập quỹ vốn mạo hiểm.
3.3> Qui trình đầu tư vốn mạo hiểm.
3.3.1 Giai đoạn hình thành
Thông thường, một quỹ hình thành phải mất một số thời gian nhiều tháng. Trong thời gian này, các thành viên tổng quát nghiên cứu và tìm kiếm dự án đầu tư và tìm các nguồn cấp vốn cho quỹ. Cũng trong giai đoạn này, thành viên tổng quát lo tiến hành các thủ tục cam kết đầu tư và cam kết đóng vốn, tiến hành các thủ tục chuẩn bị về pháp lý cho quỹ đầu tư.
Qui trình đầu tư một quỹ vốn mạo hiểm
Phát triển khái niệm quỹ
Xúc tác cho thỏa thuận vận hành
Củng cố các cam kết đầu tư
Đóng quỹ gọi vốn lần đầu
Chọn lọc dự án đầu tư
Thẩm định và tiến hành các thẩm tra D.D
Thương thuyết các thương vụ và các giai đoạn
Tiếp tục các lần gọi vốn
Đầu tư nguồn vốn vào dự án
Giám sát và tạo giá trị
Hỗ trợ của HĐQT/BGĐ
Đánh giá HĐ và kiểm tra
Tuyển cán bộ quản lý
Hỗ trợ quan hệ với bên ngoài
Hỗ trợ dàn xếp bổ xung tài chính chínhchínhchính
Quá trình phân phối
Tiền mặt
Cổ phiếu
Các hình thức khác
Thu hoạch đầu tư
IPO
Thủ đắc
EBO
Thanh lý
3.3.2 Giai đoạn gọi vốn
Thời kỳ đóng quỹ, gọi vốn, đặc biệt là ngày đóng quỹ có thể được coi là ngày sinh nhật đầu tiên của quỹ vốn mạo hiểm. Việc đóng đầy đủ vốn theo đăng ký có thể kéo dài hai, ba năm, vì vậy có thể xây dựng một thời biểu nhiều ngày đóng quỹ (fund closing date). Vào ngày đóng quỹ đầu tiên, một số các nhà đầu tư có mặt và được những quyền lợi ngang nhau căn cứ tỉ lệ góp vốn. Quyền lợi đó tiếp tục được duy trì trong quá trình đóng vốn trừ khi từng thành viên quyết định thay đổi vị trí và bán đi cổ phần của mình. Một lịch trình nhiều lần đóng quỹ cho phép nhà đầu tư thấy được số tiền đóng vốn được đầu tư như thế nào vào các danh mục đầu tư và giá trị thị trường của của từng danh mục ở từng thời kỳ.
3.3.3 Giai đoạn đầu tư
Thời kỳ đầu tư vào các danh mục và dự án, các thành viên tổng quát chọn lọc, thẩm định dự án, thương thuyết mua cổ phần hay tham gia vốn vào các dự án. Qui trình này xảy ra liên tục trong hai đến ba năm. Để đầu tư hết vốn, các nhà quản lý quỹ phải làm việc với hiệu năng rất cao cũng như với chất lượng kỹ thuật đầu tư cao để đảm bảo lợi nhuận như cam kết ban đầu. Trong quá trình này tiếp tục có những đợt gọi vốn thêm (tranches) để đáp ứng nhu cầu đầu tư.
3.3.4 Giai đoạn tăng cao giá trị.
Sau khi đã thực hiện đầu tư vào các danh mục, các thành viên tổng quát tiếp tục xây dựng bộ máy quản trị quỹ và đặt thêm quan hệ với các tổ chức tài chính, kinh doanh để thao tác tăng thêm giá trị vốn quỹ. Phần lớn quỹ vốn mạo hiểm muốn thu hoạch lợi nhuận sau năm năm đầu tư. Vì vậy thời gian hoạt động tích cực của một quỹ là bốn hay năm năm.
Do các dự án được quỹ đầu tư mạo hiểm tài trợ thường là các dự án có độ rủi ro cao nên các nhà đầu tư vốn mạo hiểm hiếm khi đầu tư vào các công ty trẻ toàn bộ lượng vốn được dự kiến, họ sẽ cung cấp vốn theo nhiều giai đoạn. Trong từng giai đoạn họ cân nhắc lượng vốn đầu tư sao cho vừa đủ để cuối giai đoạn đầu tư, doanh nghiệp đủ sức phát triển đến điểm tăng trưởng tiêp theo trong chuỗi tăng trưởng dự kiến của doanh nghiệp.
Sau mỗi giai đoạn, nhà đầu tư vốn mạo hiểm sẽ tính toán tỉ lệ hoàn vốn đầu tư, mức sinh lời, triển vọng kinh doanh .Nếu khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp không khả thi nhà đầu tư sẽ từ chối bổ sung quỹ.
Là các nhà đầu tư dài hạn, phần lớn các nhà đầu tư vốn mạo hiểm không dự kiến lãi phát sinh trong vòng 3-7 năm đầu tiên của quá trình tài trợ. Vốn đầu tư ban đầu chỉ là sự bắt đầu mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư vốn mạo hiểm và doanh nghiệp mới. Sau giai đoạn đầu nếu doanh nghiệp tiếp tục phát triển, nhà đầu tư sẽ bổ sung vốn cho từng giai đoạn tiếp theo của quá trình kinh doanh như: thử nghiệm thị trường, sản xuất thí điểm, marketing thị trường, nghiên cứu và điều chỉnh các sai sót kỹ thuật của sản phẩm làm tiền đề cho sản xuất qui mô và xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường. Rõ ràng, việc cân nhắc thời điểm và lượng vốn cung cấp cho từng giai đoạn đòi hỏi các nhà đầu tư vốn mạo hiểm phải có trình độ và nhạy bén.
3.3.5 Giai đoạn thoát tư.
Sau đó, là cơ hội thoát khỏi dự án đầu tư ( exit) bằng cách phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) hay bán lại toàn bộ cho một tổ chức hoặc cá nhân muốn mua toàn bộ dự án. Việc thu hoạch của nhà đầu tư cá thể thể hiện bằng tiền mặt hoặc là các cổ phiếu khả mãi trên thị trường vốn.
Thời gian thu hoạch thường kéo dài 2, 3 năm. Thời gian từ khi chuẩn bị, góp vốn, đầu tư và thu hoạch của mỗi quỹ có thể khác nhau vì thời gian của các dự án trong danh mục đầu tư có thể biến thiên khác nhau. Tuy nhiên mục tiêu đầu tư và thu hoạch vẫn gói gọn trong 7 đến 10 năm là tối đa.
Cơ cấu ngành đầu tư của quỹ vốn mạo hiểm
Tiêu dùng
7%
Dịch vụ kinh doanh
5%
Bán dẫn
1%
Máy tính
3%
Viễn thông liên lạc
22%
Công nghệ sinh học
2%
Điện tử
4%
Dụng cụ y tế
5%
Công nghệ thông tin
24%
Dược phẩm
2%
Công nghiệp
5%
Chăm sóc sức khoẻ
11%
Môi trường
1%
Phân phối bán lẻ
3%
TÍNH TẤT YẾU CỦA QUỸ ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1. Vai trò của quỹ vốn mạo hiểm
Đã gần 50 năm nay các nhà đầu tư mạo hiểm đã góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao của Mỹ. Rất nhiều công ty thành đạt nhất của Mỹ đã lớn mạnh bằng sự trợ giúp của các quỹ đầu tư mạo hiểm như: Intel, Apple, Microsoft, Fedex, Sun Microsystem, Netscape... Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm được thể hiện như thế nào.
Khác với ngân hàng đầu tư hoặc quỹ tương hỗ chỉ giữ mối quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhận đầu tư, các công ty vốn mạo hiểm luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với doanh nghiệp nhận đầu tư, nếu không đồng vốn bỏ ra sẽ khó mang lại hiệu quả mong đợi. Đó là vì cấp vốn cho doanh nghiệp với điều kiện thông thường không yêu cầu hoàn vốn và trả lãi mà chỉ đòi hỏi nắm một số cổ phần, có khi còn yêu cầu nắm quyền quyết định tổ chức và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Có công ty còn đòi kiểm soát tới 60% vốn cổ phần (tất nhiên số cổ phần này chỉ có giá trị khi đầu tư thành công còn khi thất bại thì họ chẳng còn gì). Mục đích và vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm là làm sao cho doanh nghiệp sớm được niêm yết trên thị trường chứng khoán và khi doanh nghiệp đã có tên trên thị trường chứng khoán rồi thì nhiệm vụ tiếp theo của quỹ là đẩy giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp lên tới mức cao nhất có thể. Chính vì vậy, các quỹ mạo hiểm thường tham gia quản lý, điều hành các công ty thuộc danh mục đầu tư. Các quỹ còn có vai trò tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản để đạt khả năng sinh lời lớn nhất. Đây cũng chính là điểm khác biệt của quỹ đầu tư mạo hiểm so với các quỹ đàu tư khác như quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức để thu hút sự tham gia rộng rãi của công chúng đầu tư trên thị trường, các quỹ này thường đầu tư vào tài sản có mức độ rủi ro vừa phải.
Song song với quá trình tài trợ vốn mạo hiểm, nhà đầu tư còn cung cấp các kỹ năng quản lý cho các doanh nghiệp trẻ. Phần lớn các doanh nghiệp thành công ở thung lũng Silicon không phải là doanh nghiệp do các thành viên sáng lập điều hành mà do các nhà quản lý xuất sắc có kinh nghiệm được các nhà đầu tư vốn mạo hiểm bổ nhiệm. Hơn nữa, các nhà đầu tư vốn mạo hiểm quản lý và hạn chế rủi ro của bạn bằng cách đa dạng hoá đầu tư vào nhiều doanh nghiệp có mức rủi ro khác nhau, do đó các nhà đầu tư vốn mạo hiểm bù các khoản lỗ đầu tư khi tài trợ cho một số doanh nghiệp bằng một vài dự án đầu tư có tỉ lệ hoàn vốn rất cao, lợi tức vốn lớn.
Nếu đứng trên một khía cạnh khác thì quỹ đầu tư mạo hiểm còn là cơ hội để các tài năng phát huy tính sáng tạo vì cac quỹ này chủ yếu đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Mục đích của quỹ cũng là triển khai đầu tư nhằm tài trợ cho các nhà nghiên cứu, cá nhân, hoặc nhóm doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp có ý tưởng sáng tạo xuất sắc về các lĩnhvực công nghệ cao, có khả năng triển khai được các sản phẩm có tính độc đáo và hữu dụng. Đứng trên góc độ này thì quỹ đầu tư mạo hiểm vừa mang tính chất sản xuất kinh doanh vừa mang tính chất nghiên cứu do đó nó đánh giá cao các dự án có tính sáng tạo, có tính khả thi. Với vai trò này, quỹ đầu tư mạo hiểm không phải chỉ là quỹ đầu tư thông thường đi tìm kiếm lợi nhuận mà nó còn là tổ chức đi tìm kiếm và phát huy tài năng, chất xám, nó là cơ hội cho những ai muốn thủ sức mình trên thương trường, nó góp phần nuôi dưỡng và khuyến khích các tài năng trẻ phát huy tính sáng tạo, tận dụng nguồn tri thức vốn có để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước cả về chất và lượng.
Quỹ đầu tư mạo hiểm - Hành trang bước vào nền kinh tế tri thức.
2.1> Quỹ vốn đầu tư mạo hiểm --- nguồn vốn tối ưu đối với các doanh nghiệp khởi sự.
Một doanh nghiệp khi bắt đầu đặt chân vào thị trường tức là đã bắt đầu một cuộc chiến thực sự. Trong cuộc chiến sinh tồn này, nếu doanh nghiệp chiến thắng thì doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển, còn nếu doanh nghiệp thất bại thì coi như là doanh nghiệp đã bị xoá sổ khỏi thị trường, và đó là một cái kết không mong đợi đối với tất cả doanh nghiệp. Khi đã nhảy vào môi trường kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp phải đối phó với rủi ro, rủi ro luôn gắn liền với lợi nhuận. Rủi ro doanh nghiệp phải gánh chịu chính là những bất ổn, những sự cố không tốt xảy ra làm ảnh hưởng đến doanh lợi của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp, rủi ro này có thể xuất phát từ môi trường bên ngoài hay cũng có thể có nguồn gốc từ trong nội bộ của doanh nghiệp. Và trong chu kỳ sống của mình, doanh nghiệp luôn phải đối phó với hai loại rủi ro chính là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro tiềm ẩn ở trong bản thân doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh được định nghĩa như là sự không chắc chắn ở hiện tại về mức doanh lợi đạt được trong tương lai. Nguyên nhân gây ra rủi ro kinh doanh cho doanh nghiệp có thể là:
Sự không chắc chắn về mức cầu ở tương lai đối với sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Sự thay đổi trong giá bán.
Sự thay đổi trong cấu trúc chi phí.
Sự cạnh tranh.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật
Sự thay đổi về tỷ giá hối đoái.
Những thay đổi trong chính sách điều hành kinh tế của chính phủ ...
Như vậy chúng ta có thể thấy rủi ro kinh doanh đối với doanh nghiệp là vô số, doanh nghiệp không thể nào triệt tiêu được mà chỉ có thể tác động để làm giảm bớt rủi ro kinh doanh ở mức tối thiểu.
Bên cạnh rủi ro kinh doanh, doanh nghiệp còn phải đối mặt với rủi ro tài chính. Rủi ro tài chính là loại rủi ro gắn liền với quyết định tài trợ, gắn liền với nghệ thuật tạo dựng cấu trúc vốn cho doanh nghiệp. Rủi ro tài chính xuất phát từ cấu trúc vốn có sử dụng nợ vay bởi vì nợ vay dẫn đến những khoản chi trả cố định đó là chi phí trả lãi vay. Mức độ rủi ro tài chính cao hay thấp diễn ra cùng với mức sử dụng nợ của doanh nghiệp. Vì thế việc tác động để triệt tiêu loại rủi ro này sẽ được thực hiện thông qua việc tài trợ không sử dụng nợ trong cấu trúc vốn.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động tốt thì phải đảm bảo sự ổn định trong rủi ro tổng thể. Nếu doanh nghiệp đang phải đối phó với rủi ro kinh doanh ở mức độ cao thì chắc chắn nhu cầu về rủi ro tài chính phải ở mức độ thấp và ngược lại, đây là xu hướng chung có tính qui luật cho tất cả mọi doanh nghiệp mà muốn hoạt động kinh doanh tốt. Điều quan trọng hơn nữa là doanh nghiệp phải tự xác định xem mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để có thể đưa ra chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất. Không chỉ đối với các chủ doanh nghiệp mà các chủ đầu tư cũng cần phải xem xét những rủi ro mình phải đối mặt để từ đó có thể đưa ra chiến lược tài trợ thích hợp, do đó việc xác định doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn nào của chu kỳ sống là hết sức quan trọng bởi vì trong mỗi giai đoạn của chu kỳ sống, mức độ rủi ro của doanh nghiệp là khác nhau do dòng tiền của mỗi giai đoạn phát sinh với các mức độ khác nhau. Có thể nói trong bốn giai đoạn chu kỳ sống của doanh nghiệp: khởi sự; tăng trưởng; bão hoà và suy thoái, thì giai đoạn khởi sự là giai đoạn có mức độ rủi ro kinh doanh là cao nhất. Vậy tại sao rủi ro kinh doanh trong giai đoạn này lại cao nhất ? Có một số nguyên nhân cơ bản sau:
Doanh nghiệp thiếu vốn trong đầu tư.
Thiếu khả năng, kinh nghiệm về trình độ quản lý. Thiếu những chuẩn bị để đương đầu với những đòi hỏi cao về quản trị.
Thiếu sót và kinh nghiệm không đồng đều trong việc nghiên cứu thị trường.
Sản phẩm của doanh nghiệp chỉ mới xuất hiện trên thị trường, khả năng sản xuất có hiệu quả không? , có được khách hàng tương lai chấp nhập không ...
Hoạt động marketing trong giai đoạn này rất kém.
Nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp trong giai đoạn này là rất lớn, từ chi tiêu phát triển sản phẩm thay thế, chuyển ý tưởng thành hiện thực cho đến chi phí thành lập doanh nghiệp và đặc biệt là chi phí nghiên cứu thị trường trong khi doanh nghiệp chưa có khoản thu nào đáng kể. Do đó dòng tiền thu vào từ doanh thu không chỉ thấp mà còn diễn ra rất chậm nên dòng tiền của doanh nghiệp sẽ bị âm trong nhiều năm liền.
Qua những phân tích trên chúng ta thấy mức độ rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn này rất cao, thậm chí cao nhất trong tất cả các giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không có nguồn tài chính đủ mạnh để tài trợ, ổn định lâu dài thì doanh nghiệp sẽ phải đối phó với rủi ro kinh doanh cực lớn đó là không thể phát triển thậm chí là phá sản.
Và theo qui luật tất yếu của mọi doanh nghiệp thì mức độ rủi ro kinh doanh cao thì mức độ rủi ro tài chính cần được giữ ở mức càng thấp càng tốt. Như vậy, chiến lược tài trợ thích hợp nhất trong giai đoạn này là không nên tài trợ bằng nợ. Bởi vì đối với hầu hết các công ty mới khởi sự NPV của dự án thường là dương. Đây chính là kết quả của sự thành công luôn xác định ở tương lai của việc triển khai thành công và đưa sản phẩm ra thị trường. Thế nhưng do khả năng này xảy ra trong tương lai còn hiện tại các tài sản làm cơ sở cho doanh nghiệp thế chấp là vô hình, được rải đều ở nhiều thời kỳ khác nhau, khó có thể xác lập rõ. Rủi ro tài chính gia tăng tương ứng với tỉ lệ tài trợ nợ mà doanh nghiệp sử dụng. Với bất cứ mức độ tồn đọng nào dù chỉ là rất thấp cũng sẽ đưa doanh nghiệp đến tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Bên cạnh đó xác xuất để xuất hiện tình trạng lưu lượng tiền tệ âm trước khi sản phẩm thành công là rất lớn. Chỉ cần doanh nghiệp huy động một tỉ lệ tài trợ bằng nợ vay dù rất thấp cũng dẫn đến rủi ro rất cao do khả năng phá sản hoàn toàn vì lẽ đơn giản công ty không có lưu lượng tiền tệ để thanh toán các khoản nợ đến hạn, từ đó gây nên khó khăn tài chính cho doanh nghiệp. Tóm lại, doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự thì có mức độ rủi ro kinh doanh là rất cao và khả năng để hạn chế nó là rất thấp do đó doanh nghiệp cần phải sử dụng nguồn tài trợ vốn thích hợp để hạn chế rủi ro tài chính tránh việc tạo ra rủi ro tổng thể vượt quá mức chịu đựng của doanh nghiệp. Vậy trong giai đoạn này nên chọn nguồn tài trợ nào? Doanh nghiệp nên chọn cấu trúc tài chính như thế nào cho hợp lý? Và nhà đầu tư nào dám chấp nhận rủi ro cao để tài trợ cho doanh nghiệp. Bất cứ cấu trúc tài chính nào thì thành phần của nó cũng gồm hai nguồn cơ bản là nợ và vốn cổ phần. Theo khảo cứu thì doanh nghiệp mới khởi sự có các lý do sau đây để không sử dụng nợ trong cấu trúc tài chính của mình.
Thứ nhất : Khi vay nợ để tài trợ trong cấu trúc vốn, doanh nghiệp phải thế chấp tài sản. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp mới khởi sự vì trong giai đoạn này tài sản của doanh nghiệp còn rất ít chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp.
Thứ hai: Nếu ngân hàng cho doanh nghiệp vay mà không đặt nặng vấn đề tài sản thế chấp thì doanh nghiệp phải trả cho ngân hàng một lãi suất rất cao, điều này là đương nhiên vì rủi ro của việc thu hồi nợ không được rất cao và rủi ro này sẽ được tính vào lãi suất cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên cơ chế lãi suất trần sẽ không cho phép làm điều này (Lãi suất trần thường áp dụng đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam).
Thứ ba: cho dù ngân hàng cho doanh nghiệp vay, cho dù lãi suất trần cho phép thì doanh nghiệp cũng không nên vay nợ bởi vì lúc này nếu vay nợ doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu rủi ro tài chính rất cao.
Như vậy, trong giai đoạn khởi sự với mức độ rủi ro trong kinh doanh là rất cao thì tài trợ bằng vốn cổ phần xem như là thích hợp nhất. Thế nhưng, ngay cả đầu tư bằng vốn cổ phần cũng khó mà huy động dược do doanh nghiệp khởi sự thường không đủ các tiêu chuẩn cần thiết của Uỷ ban chứng khoán trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Mặt khác, với mức độ rủi ro tổng thể cao của doanh nghiệp sẽ chỉ hấp dẫn được các nhà đầu tư mạo hiểm - những nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận một rủi ro cao để kỳ vọng một mức lợi nhuận cao tương ứng. Trên lý thuyết các nhà đầu tư rất quan tâm đến việc họ sẽ nhận cổ tức hay đạt được thu nhập qua chênh lệch do chuyển nhượng vốn. Tuy nhiên chính sách cổ tức đề nghị cho một công ty mới khởi sự thường là tỉ lệ chi trả cổ tức bằng không. Thêm vào đó, dòng tiền của một doanh nghiệp mới thành lập thường là âm ở mức cao và cần các nguồn tiền mới cho các cơ hội đầu tư có sẵn của công ty. Nếu tài trợ bằng nợ vay không thích hợp, thì phải bằng vốn cổ phần tức là nếu các nhà đầu tư đòi hỏi cổ tức, họ cũng phải đầu tư thêm tiền vào doanh nghiệp để chi trả cho cổ tức này. Trong một thị trường hoàn hảo điều này có thể chấp nhận được, thế nhưng do trong thực tế chi phí giao dịch đi với việc huy động vốn cổ phần mới rất tốn kém cho các doanh nghiệp rủi ro cao mới khởi sự. Các chi phí này không những cao mà còn khá cố định nghĩa là chỉ cần một huy động nhỏ về vốn cổ phần cũng sẽ phát sinh một khoản chi phí rất tốn kém. Các chi phí này bao gồm các chi phí về pháp lý và chi phí chuyên môn phải trả. Vì vậy việc trả cổ tức và huy động vốn cổ phần mới thay thế cho nguồn tiền chi trả cổ tức này là không hợp lý.
Tóm lại, trong giai đoạn khởi sự với các đặc điểm về rủi ro đã trình bày, khả năng tài trợ bằng vốn vay lẫn vốn cổ phần đều không khả thi. Vậy cấu trúc vốn trong giai đoạn này nên được tài trợ bằng gì? Qua nghiên cứu cho thấy: tài trợ bằng phát hành trái phiếu, bằng tín dụng thuê mua, hay thu hút vốn của các nhà đầu tư không chấp nhận rủi ro cao đều không thực hiện được mà chỉ có nguồn vốn mạo hiểm từ các quỹ đầu tư mạo hiểm là thích hợp nhất bởi vì theo định nghĩa của quỹ đầu tư maọ hiểm đã nêu trên: Quỹ đầu tư mạo hiểm là một định chế tài chính trung gian chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp mới khởi sự nhằm mong đợi một sự gia tăng thu nhập cao hơn mức bình quân để bù đắp cho rủi ro của khoản đầu tư có mức độ cao hơn mức bình quân. Chỉ có các nhà đầu tư này mới sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao đầu tư vào các doanh nghiệp mới khởi sự dưới nhiều hình thức đầu tư đa dạng. Đương nhiên các nhà đầu tư mạo hiểm này sẽ yêu cầu một tỉ suất sinh lợi cao để bù đắp cho rủi ro cao mà họ phải gánh chịu, tỉ suất lợi nhuận cao ở đây chỉ thể hiện bằng phần chênh lệch do chuyển nhượng vốn.
Chỉ có thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm chiến lược tài trợ của doanh nghiệp trong giai đoạn này mới đạt đến hiệu quả cao nhất, đó là sự gia tăng của giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, Quỹ đầu tư mạo hiểm là nguồn tài trợ tối ưu cho các doanh nghiệp mới khởi sự.
2.2> Quỹ đầu tư mạo hiểm --- nguồn lực thúc đẩy khoa học công nghệ tiên tiến phát triển.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang diễn ra các cuộc cạnh tranh quyết liệt, ngày càng có nhiều công ty mới, doanh nghiệp mới tham gia vào đấu trường kinh doanh với những phương thức làm ăn mới, đưa ra những sản phẩm mới có tính năng ưu việt hơn. Để sống sót trên thị trường, mỗi doanh nghiệp càng phải tự đổi mới mình, tự nâng cấp mình bằng cách vận dụng triệt để tính năng của tri thức vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Như đã phân tích ở trên, khái niệm tri thức gắn liền với khái niệm công nghệ cao (high-tech), công nghệ cao càng phát triển thì hàm lượng tri thức trong sản phẩm càng lớn trong khi hàm lượng vật chất vẫn như cũ hoặc ít hơn thì giá trị sử dụng của sản phẩm cao hơn nhiều. Điều này có thể thấy được qua 2 đĩa phần mền windows 95 và windows 2000, hai đĩa này có trọng lượng như nhau nhưng đĩa windows 2000 chứa đựng hàm lượng tri thức lớn hơn nhiều so với windows 95 và do đó nó có giá trị sử dụng cao hơn nhiều. Và như một điều hiển nhiên khi có sản phẩm mới ra đời có giá trị sử dụng cao hơn thì sản phẩm đó đã được thị trường chấp nhận và điều đó cũng có nghĩa là sản phẩm cũ đã bị đào thải. Doanh nghiệp nào nắm bắt nhanh nhạy được thị trường thì doanh nghiệp đó mới có cơ hội sống sót. Thế giới đang ngày một thay đổi với tốc độ chóng mặt, nếu như trước đây bạn phải ra chợ mua từng món hàng thì giờ đây bạn chỉ cần ngồi ở nhà bấm máy tính hoặc gọi điện thoại là bạn sẽ có ngay thứ mình cần với giá cả không đắt hơn là bạn tự đi mua ngoài chợ. Điều này có được là nhờ sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin điển hình là mạng Internet. Qua những ví dụ trên chúng ta có thể thấy công nghệ cao là yêú tố sống còn của doanh nghiệp. Hơn nữa để có thể đạt được mức thu lợi cao, doanh nghiệp chỉ có con đường duy nhất mà cũng là con đường ngắn nhất đó là phải săn lùng, tìm kiếm và sáng tạo ra các giải pháp công nghệ mới. Điều này cũng khiến phần lớn các khoản đầu tư mạo hiểm đều nhắm vào các dự án công nghệ. Tại Mỹ, 94% các công ty nhận được các nguồn tài trợ mạo hiểm là các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ.
Nhưng khi đã có những phát minh, ý tưởng mới, doanh nghiệp muốn biến nó thành hiện thực thì phải có vốn. Thông thường, đầu tư vào công nghệ cao thì cần vốn lớn nhưng độ rủi ro lại cao vì các phát minh sáng chế trong lĩnh vực này thường có tính đột phá cao, lơị ích lớn, mục tiêu đạt được rất cao xa, hơn nữa phần lớn mới chỉ là ý tưởng bột phát chứ chưa có thiết kế, tính toán hay thí nghiệm kỹ lưỡng. Và trên thực tế thì hầu hết các ý tưởng này do những người chưa đủ uy tín về khoa học kỹ thuật đề xuất, thậm chí có những người không có trình độ chuyên môn và điều mấu chốt nhất là họ không có tiền để biến ý tưởng của họ thành hiện thực. Đây chính là thời điểm để các nhà đầu tư mạo hiểm vào cuộc bởi vì chỉ có họ mới có đủ khả năng và đủ can đảm để chấp nhận rủi ro cũng như đủ niềm tin để tin rằng những ý tưởng này sẽ mang lại cho họ mức lợi nhuận lợi nhuận to lớn, gấp trăm nghìn lần so với lượng vốn họ bỏ ra. Kiểu đầu tư này là “được ăn cả ngã về không”, chính vì thế mà những nhà đầu tư truyền thống rất ngại khi gặp phải những dự án kiểu như vậy. Bởi vì, họ sợ gặp phải rủi ro, mà rủi ro đối với các dự án công nghệ cao này là rất lớn nhưng có điều là họ đã không nghĩ tới mức lợi nhuận to lớn nếu họ thành công, mức lợi nhuận cho một dự án này có thể bằng mấy lần mức lợi nhuận mà họ đầu tư vào các lĩnh vực khác. Rủi ro càng lớn lợi nhuận càng cao. Bạn chấp nhận rủi ro trong hiện tại để kỳ vọng vào thành công rực rõ trong tương lai, đó là con đường đầy gai góc nhưng rất thú vị. Mạo hiểm ở đây không phải là liều lĩnh, nếu bây giờ bạn không mạo hiểm thì chắc chắn trong tương lai bạn sẽ không đạt được những thành công rực rỡ. Nếu như trước đây Bill Gates và P. Allen đang ở tuổi 20 không bỏ dở học đại học để lập ra công ty máy tính phần mềm Microsoft thì giờ đây Bill Gates có thể là người giàu nhất thế g._.à các cán bộ của chính phủ nhận ra mọi khả năng của mình.
Các tổ chức giáo dục.
Để cạnh tranh được trên thị trường thế giới, Việt Nam cần hiện đại hoá các tổ chức giáo dục từ trên xuống. Trong giai đoạn ngắn hạn, công việc cần làm là tập trung và nâng cao chất lượng và tính phổ cập của nhiều khoá đào tạo kinh doanh ngắn hạn đã được thực hiện ở các thành phố chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải có các biện pháp:
Thứ nhất, cần chọn lựa và điều chỉnh tài liệu học cho phù hợp với điều kiện Việt Nam chứ không nên chỉ đơn thuần sử dụng tài liệu của nước ngoài. Thực tế, các nguyên tắc và kỹ năng kinh doanh hầu như giống nhau ở mọi nơi điều khác nhau chính là việc áp dụng ra sao.
Thứ hai, tăng số giảng viên người Việt Nam có trình độ cao trong việc giảng dạy các khoá học kinh doanh và giảm số giáo viên người nước ngoài với mức tiền thuê đắt đỏ để bảo đảm tính bền vững về mặt tài chính của các khóa học.
Thứ ba, là áp dụng rộng rãi các phương pháp đào tạo cán bộ theo cách tổ chức các khoá ngán hạn tập trung và nâng cao kỹ năng thực hành.
Thứ tư, tiến hành đào tạo lại vì đào tạo lại giữ một vai trò rất quan trọng đối với nhiều người từ khu vực Nhà Nước sang khu vực tư nhân.
Các tổ chức khác.
Bên cạnh ba loại hình tổ chức trên còn cần đến nhiều loại tổ chức khác để hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Ví dụ, đối với các nhà xuất khẩu Châu Á, thay đổi chính sách, chiến lược, qui chế luật pháp là chìa khoá để tạo ra khuôn khổ cho hoạt động của họ nhưng nhân tố củng cố sự thành công cho họ lại chính là khả năng hoạt động có hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ. Những tổ chức đó bao gồm các cơ quan quản lý chất lượng, các cơ quan Markrting, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống phân phối, các tổ chức đào tạo, các cơ quan hỗ trợ cho các mối quan hệ quốc tế và những tổ chức về thông tin. Tất cả những tổ chức ấy đều rất cần thiết đối với Việt Nam.
Việc định hướng lại đối với các hoạt động của các tổ chức hỗ trợ để giúp chúng phục vụ được cả các doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi phải cắt giảm trợ cấp trên diện rộng và buộc các tổ chức này phải tăng hiệu qủa hoạt động, phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp cũng cần được hợp lý hoá để chuyển đổi cơ cấu tổ chức theo hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường. Bên cạnh đó cũng cần giới thiệu các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mơi. Cũng như củng cố kỹ năng của các nhân viên.
Mở cửa các kênh thông tin.
Doanh nghiệp Việt Nam sẽ không bao giờ đạt được trình độ sản xuất hàng xuất khẩu, chiếm thị phần rộng rãi trên thế giới nếu họ không được tiếp cận rộng rãi với thông tin thương mại. Cho tới nay, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin ở mọi lĩnh vực. Họ phải dựa vào các trung gian thương mại để có được các thông tin về thị trường và phải trả phí dịch vụ thông tin rất cao. Để cải thiện tình hình này và để đấp ứng với yêu cầu của thời đại thông tin toàn cầu, cần mở rộng các kênh thông tin để doanh nghiệp có thể lấy được những thông tin cần thiết. Điều này cũng có nghĩa là mở của các kênh thông tin cho tất cả mọi đối tượng như nhau chứ không chỉ dành riêng cho một đối tượng nào hết
Những biện pháp cụ thể nhằm cải thiện tình trạng cung cấp thông tin hiện hành gồm:
Giảm đáng kể chi phí viễn thông nói chung và chi phí tiếp cận Internet nói riêng
Thu nhập xử lý và truyền bá rộng rãi các thông tin kinh tế có chất lượng cáo, kịp thời về kinh tế và các xu hướng kinh doanh
Tạo điều kiện cho việc tiếp cận và xuát bản các thông tin thương mại chất lượng cao thông qua tát cả các kênh thông tin đại chúng bao gồm báo chí, truyền hình và nhà xuất bản, trong đó có việc xuất bản và công bố những số liệu kinh tế do các cơ quan của chính phủ thu thập được.
Tạo điều kiện cho tất cả các tổ chức giáo dục chủ chốt cung cấp các khoá đào tạo rộng rãi về sử dụng Internet
Cho phép và khuyến khích các cơ chế khác nhau để qua đó giúp các doanh nghiệp có thể học hỏi, trao đổi, chia sẻ thông tin lẫn nhau.
1.4/ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy thương mại hoá hoạt động KH&CN ở Việt Nam hiện nay.
Thương mại hoá hoạt động KH&CN là một cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp mạnh dạn trong vấn đề đàu tư vào lĩnh vực KH&CN. Sau 20 năm tiến hành thương mại hoá hoạt động KH&CN chúng ta vẫn chưa đạt được thành công như mong đợi và bây giờ trong thời điểm hiện nay, vấn đề này không thể tiến hành một cách chậm trễ và không hiệu quả như trước đây. Với xu hướng tòan cầu hoá doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước thời cơ và thách thức to lớn. Để doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội và vượt lên những khó khăn do thị trường đem lại thì việc trước mắt là cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được các thành tựu khoa học công nghệ tiến tiến trên thế giới và tăng cường phát huy năng lực sáng tạo để có thể tự đứng vững trên đôi chân của chính mình, tự tạo cho mình một nền móng KH&CN vững chắc. Để thực hiện điều này chúng ta cần phải:
Nỗ lực thúc đẩy thương mại hoá phải hướng vào những vấn đề thực tiễn đòi hỏi thay vì cho các khẩu hiệu mang tính chính trị hoặc những thảo luận mang tính nguyên tắc chung
Đôỉ mới các chính sách về chủ thể của thị trường hoạt động KH&CN, hệ thống thông tin về thương mại KH&CN, tài chính cho KH&CN sở hữu công nghiệp buộc các cơ quan quản lý Nhà Nước phải năng động, bám sát thực tiễn và khắc phục sự trì trệ, thái độ chần chừ...
Cần tích cực nhưng cũng không thể quá nóng vội trong việc giải quyết các vấn đề về trình độ KH&CN, trình độ kinh tế và yếu tố văn hoá; bởi nâng cao trình độ KH&CN, trình độ kinh tế và thay đổi văn hoá đòi hỏi có thời gian.
Phân biệt rõ mạnh, yếu và hay, dở trong thương mại hóa (vốn rất phức tạp) sẽ cho phép khắc phục phần nào sự mò mẫm và tránh những thử nghiệm không cần thiết trong thời gian tới. Đây là điều có ý nghĩa như là rút bài học có kinh nghiệm đã qua để giúp cho việc tiến hành thương mại hoá hoạt động KH&CN có hiệu quả hơn.
1..5/ Các giải pháp đối với Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1.51. Cần phải xây dựng một môi trường đầu tư hấp đẫn hơn hiện nay.
Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu Tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9-6-2000. Nghị định 24/2000/NĐ-CP, cần chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ban hành các qui định về quản lý Nhà Nước trên địa bàn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài ở điạ phương các bộ, ngành ban hành qui định hướng dẫn về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý của mình, cần đề phòng các bộ, các UBND tỉnh trong khi ban hành thông tư hướng dẫn đưa những nội dung mà họ không nhất trí với luật sửa đổi các văn bản đó.
Những trở ngại về thủ tục hành chính đang là một nhân tố cản trở quả trình thu hút FDI. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước chính là có cải cách được bộ máy Nhà Nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư... Do vậy chính Phủ cần dành nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công việc cải cách hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với các cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này.
Những trở ngại về cơ sở hạ tầng yếu kém, những bất cập của yếu tố quản lý cần sớm được khắc phục. Cơ sở hạ tầng "cứng" của Việt Nam như đường xá, cầu, bến cảng, sân bay, điện nước, thông tin liên lạc đã được ưu tiên đầu tư và có nhiều thay đổi sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của Việt nam trong những năm qua. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và các nước công nghiệp phát triển thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn rất lạc hậu. Trong những năm tới cũng như lâu dài, đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn phải được Nhà nước khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn như nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn ODA, nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và cần phải thu hút nguồn vốn tư nhân trong nước góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện, hiện đại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.5.2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư
Đối với thị trường đầu tư, cần có sự nghiên cứu phân tích một cách nghiêm túc các đối tác đầu tư lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU. Tại sao, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất Asean nhưng chỉ đầu tư vào Việt Nam hết sức khiêm tốn (đứng ở vị trí thứ tư trong các nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam)? Mỹ là nhà đầu tư lớn nhất thế giới nhưng đầu tư trực tiếp vào Asean chỉ chiếm có 5% trong tổng FDI giai đoạn: 1990- 1998; trong số đó tỉ lệ vào Việt Nam là hết sức nhỏ bé. Trong thời gian gần đây quan hệ giữa Việt nam - Mỹ đã có những diễn biến tích cực. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước vào tháng 7 /1995 và ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ vào tháng 7/2000. Hiện nay, Mỹ là một trong 10 nước bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nước đứng thứ 9 trong trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khi hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, nếu công tác xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh ở Mỹ, ở Nhật và Châu Âu, Việt Nam sẽ thu hút sức mạnh của công ty xuyên quốc gia của các trung tâm kinh tế lớn này. Theo UNCTAD, nguồn vốn FDI trên thế giới hiện nay do hơn 100 công ty xuyên quốc gia chi phối. Các công ty này cũng chiếm hơn 25% tổng sản lượng thế giới. Hầu hết các tập đoàn lớn của Nhật như Mitsui, Mitsubishi, Sumitmoto, Nisho Iwai... đã mở văn phòng đại diện tại Việt Nam. Một số công ty Mỹ cũng đã đầu tư tại thị trường Việt Nam.
1.5.3. Cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng FDI cần tránh tình trạng sát nhập, tổ chức mới, giải thể khá tuỳ tiện, mà không tính đến hiệu quả của sự thay đổi với tâm lý của nhà đầu tư cũng như khả năng của việc quản lý Nhà nước đối với FDI. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy để tíên hành hoạt động kinh tế ra bên ngoài có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức: Bộ ngoại giao, Bộ công thương, Bộ tài chính. Bộ ngoại giao đóng vai trò như là người mở đường thiết lập các mối quan hệ với nước ngoài, đặt cơ sở nền tảng cho quan hệ kinh tế. Bộ công thương (bao gồm công nghiệp và thương mại) nghiên cứu chiến lược sau đó triển khai và thực hiện. Bộ tài chính có chức năng thẩm định và chuyển tiền. Tuy về hoạt động FDI ra bên ngoài là công việc của các công ty tư nhân nhưng vai trò của 3 bộ nghành là rất lớn, đóng vai trò như người chỉ đạo, hỗ trợ và tổ chức kiếm soát. Ở Việt Nam để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động FDI cần có phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các bộ nghành: Bộ ngoại giao, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ thượng mại, Bộ công nghiệp, các bộ ngành kinh tế và các bộ khác.
1.5.4. Tổ chức tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động FDI trên phạm vi cả nước.
Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (tháng 12/1987) cho đến nay, hoạt động FDI đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, song bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ những vấn đề cần nghiên cứu. Các bộ các ngành cần tìm ra những mô hình tiêu biểu và bước đi thích hợp trong việc thu hút và sử dụng FDI.
2- Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Việt Nam đang tăng tốc bước vào nền kinh tế toàn cầu, hội nhập thương mại quốc tế nhằm nâng cao vị trí Việt Nam trên vũ đài thế giới. Với tất cả những thời cơ và thách thức đối với giới doanh nghiệp Việt nam nói riêng và với nền kinh tế Việt nam nói chung, tôi thấy việc mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động cũng như hoàn thiện loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm là một việc làm rất cần thiết và quan trọng của các nhà hoạch định chiến lược trong lĩnh vực tài chính. Quỹ đầu tư mạo hiểm thật sự là một mô hình tài trợ vốn tối ưu không chỉ cho các doanh nghiệp trẻ mới khởi sự mà còn là nguồn lực phát triển đối với mọi doanh nghiệp có triển vọng nhưng thiếu vốn đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Quỹ đầu tư mạo hiểm còn là động cơ thúc đẩy khoa học công nghệ cao phát triển, mà nâng cao chất lượng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doang nhằm tạo ra các sản phẩm chứa đựng giá trị tri thức cao là mục tiêu mà Đảng và Nhà Nước ta đang hướng tới.
Mặc dù Quỹ dầu tư mạo hiểm đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1991 nhưng trên thực tế, hoạt động của các quỹ này đã không hiệu quả, nguyên nhân làm cho các quỹ này hoạt động không có hiệu quả thì rất nhiều và như ở phần trên tôi đã nêu nhưng tựu chung lại có 3 vấn đề ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp tới hoạt động của loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm đó là:
Các chính sách của Nhà nước chưa thông thoáng, chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngòai. Các nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy khó khăn trong môi trường đầu tư ở Việt nam vì tỉ lệ số cổ phần được nắm giữ đối với các nhà đầu tư nước ngoài chỉ tối đa là 30 %, con số này quá nhỏ để nhà đầu tư có thể nắm giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hơn nữa nhà nước ta chưa có các chính sách về ưu đãi thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp trong nước thì Nhà nước ta cũng chưa xây dựng những khung chính sách, pháp lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp. Sự liên kết giữa các bộ, các ngành không chặt chẽ, không có mối liên hệ bổ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện cac chính sách đường lối. Trong nội bộ các ngành còn tồn tại hiện tượng tắc trách. Các cơ quan có thẩm quyền chưa phối hợp nhịp nhàng vơí nhau như Bộ ngoại giao, bộ thương mại, bộ khoa học công nghệ và môi trường, bộ giáo dục và đào tạo...
Hệ thống pháp luật Nước ta chưa đồng bộ, có hiện tượng chồng chéo về luật hơn nữa khá phức tạp, dài dòng. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, liên quan đến quyền lợi của nhà đầu tư, của bản thân doanh nghiệp thì nước ta chưa ban hành những bộ luật bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp như luật cạnh tranh; luật chống độc quyền; luật sở hữu trí tuệ ... Luật pháp nước ta còn có nhiều bất cập trong việc hướng dẫn, qui định và cho tồn tại các tổ chức trung gian tài chính, làm cho lượng các trung gian tài chính ở nước ta đã hoạt động với số lượng ít lại không đúng tiềm năng, dẫn tới giảm tính sôi động và hiệu quả của thị trường. Cụ thể là:
Về công tác xây dựng luật, các qui định trong luạt mới chỉ là những định hướng, nguyên tắc. Để các văn bản pháp luật có hiệu lực cần có các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể, thông qua các nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hoạt động của các trung gian tài chính là rất đa dạng và để soạn thảo các văn bản phát luật điều tiết các hoạt động này cần có sự kết hợp của nhiều ngành khác nhau, song hiện nay sự phối hợp này còn thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả . Hơn nữa tiến độ xây dựng và ban hành các văn bản này còn chậm, không kịp thời và điều này đã gây khó khăn, lúng túng trong quá trình tổ chức thực hiện. Nhiều văn bản dưới luật bổ sung cho luật, hoặc phủ nhận luật và có quá nhiều văn bản dưới luật. Điều này sẽ gây tranh cãi trong quá trình thực hiện.
Hầu hết các qui định liên quan tới hoạt động của các tổ chức tài chính đều được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm của các thị trường tài chính nước ngoài. Các qui định này có sự tách biệt giữa các nghành kinh doanh chứng khoán nghành ngân hàng, nghành bảo hiểm... Do đó Việt Nam cũng có các luật chuyên ngành như nghị định 48 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật các tổ chức tín dụng, luật kinh doanh bảo hiểm. Song các văn bản luật này thiếu hệ thống, trùng chéo, nhiều khi mâu thuẫn nhau.
Do tính thiếu hệ thống trong các văn bản pháp luật đã cản trở không nhỏ sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt là của các quỹ đâù tư. Mặt khác, nhiều quan hệ về chứng khoán và giao dịch chứng khoán chưa có văn bản pháp luật nào điều tiết, chẳng hạn hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài, hoạt động phân phối thứ cấp trái phiếu chính phủ của các tổ chức trúng thầu và bảo lãnh phát hành...
Một số qui định về sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian nước ngoài cũng chưa phù hợp và có nhiều bất cập cần tháo gỡ. Quyền tham gia thị trường chứng khoán của các tổ chức nước ngoài và cá nhân nước ngoài được qui định trong nghị định 48/1998/NĐ-CP, quyết định số 288/QĐ- NHNN ngày 2/2/1993 của thống đốc ngân hàng Nhà Nước Việt Nam... Tuy nhiên các văn bản này chưa có sự nhất quán về tỉ lệ được phép nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo điều 5 qui chế phát hành TPCP, ban hành kèm nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000 về việc nhà đầu tư nước ngoài sở hữu TPCP và tỉ lệ sở hữu, các tổ chức trung gian tài chính nước ngoài được mua TPCP trên thị trường sơ cấp với tỉ lệ không hạn chế. Tuy nhiên, trên thị trường tập trung, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ 40% trái phiếu đang lưu hành của một đợt phát hành, trong đó tổ chức nắm tối đa là 10%, cá nhân nắm tối đa là 5%.
Các doanh nghiệp vẫn chưa tự khẳng định mình trong nền kinh tế hiện nay. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được lòng tin đối với các Nhà đầu tư nước ngoài. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới còn rất hạn chế do thiếu vốn, trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, các sản phẩm không mang tính cạnh tranh cao, chưa có sức thuyết phục trên thị trường thế giới. Sức bật của các doanh nghiệp Việt Nam không mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam thực sự chưa tham gia vào cuộc chơi. Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư tích cực trong việc nâng cao chất lượng lao động, cũng như đầu tư vào phát triẻn khoa học công nghệ.
1/ Phương hướng phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm
Từ những hạn chế trên chúng ta cần phải đưa ra một số phương hướng, chiến lược phát triển trong tương lai đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm. Định hướng của đất nước ta là hội nhập vào nền kinh tế thế giới, bắt kịp tốc độ phát triển khoa học công nghệ toàn cầu, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Trong năm năm tới cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, chúng ta cũng phải phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng số lượng quỹ đồng thời với việc tăng danh mục đầu tư của từng quỹ cũng như tăng tỉ lệ vốn tài trợ cho mỗi doanh nghiệp.
Cần khuyến khích các quỹ đầu tư nước ngoài gia nhập vào thị trường vốn của Việt Nam nhằm tận dụng được kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý của các công ty quản lý quỹ.
Bên cạnh khuyến khích các quỹ nước ngoài tham gia vào thị trường Vốn Việt Nam thì cũng phải tạo điều kiện, khuyến khích sự ra đời của quỹ đầu tư mạo hiểm của Việt Nam, do Việt Nam quản lý và chịu trách nhiệm điều hành. Bởi vì, các quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam toàn là các quỹ của nước ngoài.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển khoa học công nghệ, trong thời đại ngày nay chỉ có khoa học công nghệ là nhân tố chủ lực trong sản xuất kinh doanh.
Mục đích hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm là nhằm tài trợ cho các hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ nên quỹ đầu tư mạo hiểm cũng có thể coi là một nguồn lực trong việc phát triển tài năng trẻ. Các quỹ đàu tư không nên chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp mà cũng nên đầu tư vào các trường học, các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu nhằm tìm ra các phát minh có giá trị khả thi cao.
Nên thành lập những phòng, ban có nhiệm vụ tương tự như quỹ đầu tư mạo hiểm ở trong các ngân hàng thương mại.
Nên chuyển mô hình hoạt động quỹ hỗ trợ phát triển sang hoạt động theo mô hình quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước. Đây là một trong nhưng định hướng căn bản của Nhà Nước ta cần sớm được thực hiện góp phần hoàn thiện hệ thống các tổ chức tài chính và phát huy được triệt để các ưu điểm cua loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm. Có một số lý do sau mà cần phải cho ra đời loại hình quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước:
Thứ nhất, với tính chất của quỹ đầu tư hỗ trợ phát triển cũng gần giống với tính chất của quỹ đầu tư mạo hiểm, đều nhằm phát triển các lĩnh vựch kinh tế có triển vọng tăng trưởng cao. Song quỹ đầu tư mạo hiểm có phương thức đầu tư rộng hơn, bao gồm cả cho vay, đầu tư góp vốn cổ phần, mua trái phiếu. Quỹ đầu tư mạo hiểm có thể huy động vốn từ phía các nhà đầu tư có tổ chức và phát hành trái phiếu để huy động vốn nên có khả năng huy động vốn cao hơn . Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên không thể có hiện tượng bao cấp về vốn, dẫn tới hiệu quả hoạt động cao hơn. Việt Nam đang thực hiện hội nhập kinh tế, để thực hiện các cam kết quốc tế và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam, cần kiên quyết xoá bỏ các ưu đãi về tài chính, đặc biệt là hiện tượng bao cấp về vốn.
Thứ hai, Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào các doanh nghiệp mới nên thuận lợi hơn các quỹ đầu tư chứng khoán, do thị trường chứng khoán Việt nam còn chưa phát triển, lượng hàng hoá còn chưa nhiều. Trên cơ sở đầu tư vào các doanh nghiệp mới và thu hồi vốn khi các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường tập trung sẽ góp phần làm tăng lượng hàng hoá cho thị trường.
Thứ ba, Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước là một tổ chức tài chính do Chính Phủ thành lập, nguồn vốn từ ngân sách Nhà Nước và huy động vốn từ các trung gian tài chính thông qua phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu ra công chúng. Quỹ có mục đích đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các lĩnh vực cần ưu tiên phát triển, quỹ có thể tham gia quản lý các doanh nghiệp tham gia góp vốn, qua đó có thể làm tăng cường sự giám sát và tăng hiệu quả của các doanh nghiệp này. Hơn nữa việc chuyển quỹ đầu tư phát triển thành quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà nước có huy động sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của quỹ. Toàn bộ lợi nhuận từ nguồn vốn Ngân sách sẽ được giữ lại để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ của quỹ.
Thứ tư, Nếu chúng ta không phát triển mô hình đầu tư này thì sẽ có một điều tất yếu xảy ra trong tương lai không xa là tất cả các phát minh có giá trị, các ngành công nghệ cao, các khu vực tăng trưởng cao sẽ nằm trong tay các cá nhân và các tổ chưc nước ngoài, bởi vì hiện nay ở Việt Nam loại hình đầu tư mạo hiểm đều là của nước ngoài.
Thêm nữa, Quỹ đầu tư mạo hiểm Nhà Nước sẽ đặt mục tiêu phát triển lâu dài và mang tính chiến lược cao hơn các quỹ đầu tư mạo hiểm thông thường, các quỹ này sẽ không đặt nặng vấn đề lợi nhuận mà sẽ đề cao phát triển tri thức trong nước cả về nâng cao chất lượng khoa học công nghệ mà còn cả đầu tư vào vốn con người. Nếu loại hình này tồn tại thì sẽ có nhiều khoản đầu tư vào phát triển con người tri thức nhằm mục tiêu là phát triển toàn diện, nâng cao trình độ hiểu biết trong toàn dân dù cho khoản đầu tư này có thu được lợi nhuận hay không nhưng nó vẫn mang lại lợi ích cho toàn xã hội, điều này không thể có được đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài.
2/ các giải pháp nhằm thức đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư mạo hiểm
Từ những phương hướng, mục tiêu và các hạn chế của hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn hiện nay và tương lai thì Nhà Nước ta và các cơ quan có chức năng cần phải thực hiện một số giải pháp và chiến lược nhằm kiện toàn hơn nữa cho hoạt động phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
Các bộ và các cơ quan có chức năng nên phối hợp để ban hành qui chế cho các loại hình quỹ đầu tư hoạt động rõ ràng hơn.
Đặc biệt đối với các quỹ đầu tư nước ngoài cần qui định tỉ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp ở mức làm sao đảm bảo chi phí trên một đồng vốn ở mức hợp lý, nên qui định thuế vốn để các quỹ dự trù được chi phí. Một số qui chế cần được mở rộng hơn nữa để các quỹ đàu tư khai thác tối đa khả năng của mình chẳng hạn như qui định : “đầu tư vào chứng khoán tối thiều là 60% giá trị tài sản của quỹ" có thể là quá cứng nhắc. Chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp.
Đối với việc thành lập và phát triển các quỹ đầu tư trong nước chúng ta cần phải giải quyết hai vấn đề sau:
Lựa chọn mô hình tổ chức. Việt Nam nên chọn mô hình tổ chức công ty cổ phần, một mặt phát huy được hiệu quả quản lý tối ưu, mặt khác, huy động được nguồn vốn của các tổ chưc tài chính tham gia (cổ đông ở đây là các tổ chức tín dụng, công ty mạo hiểm, công ty chứng khoán). Mức vốn của các tổ chức này nên chiếm ở mức tên 80% tổng vốn pháp định của quỹ. Việt Nam nên chọn loại hình quỹ đầu tư mở với mục đích tạo tính thanh khoản cao, hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên, để đảm bảo cho tính ổn định nguồn vốn của quỹ, trong thời gian đầu mới hình thành nên có qui định chỉ cho phép nhà đầu tư bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư sau một năm hoạt động.
Mức vốn pháp định qui định đối với quỹ đầu tư hiện nay là 5 tỷ đồng là quá thấp. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, như Hàn Quốc có mức vốn trên 40 triệu$, Malayxia có mức vốn tối thiểu 5 triệu RM. Vì vậy quỹ đầu tư của Việt Nam nên ở mức 30 đến 40 tỷ đồng.
Bên cạnh việc giải quyết các vấn đề về luật pháp trong lĩnh vực hỗ trợ hoạt động của các quỹ đầu tư trong và ngoài nước chúng ta cũng cần giải quyết các vấn đề có tác động tới môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm như :
Giải quyết các vấn đề của thị trường chứng khoán, đưa ra các qui chế, chính sách phù hợp với sự hoạt động của chúng ta hiện nay hơn.
Cần khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư nươc ngoài vào Việt Nam có thể thông qua các chính sách như ưu đãi về thuế, tạo môi trường, sân chơi bình đẳng cho đầu tư trong và ngoài nước. Tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư bằng việc ổn định chính trị cũng như ổn định trong các chính sách, luật pháp. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài rất sợ hệ thống pháp luạt của Việt Nam. Do đó, các cơ quan có chức năng, có thẩm quyền phải phối hợi với nhau để kiện toàn hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
Tạo ra sân chơi, khuyến khích các tài năng trẻ sáng tạo như chúng ta đã tổ chức các cuộc thi: Trí tuệ Việt Nam, Cuộc thi Robot...
Để giải quyết các vấn đề còn tồn tại ở Việt Nam hiện nay thì chúng phải đề cập đến rất nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đưa Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế tri thức. Nhưng trong phạm vi đề tài nghiên cứu về quỹ đầu tư mạo hiểm và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường đưa Việt Nam bước vào nền kinh tế tri thức tôi chỉ xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu, mang tính cập nhật nhằm hoàn thiện hơn cho môi trường hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy và phát triển hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, là yêu cầu của thời đại. Đối với các nước đang phát triển hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội thúc đẩy sự phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến lên nền kinh tế tri thức nên cũng không nằm ngoài qui luật của thị trường, trước mắt Việt Nam phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá hiện đại hoá
ong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay , loại hình quỹ dầu tư mạo hiểm là một hình thức tài trợ tối ưu cho các daonh nghiệp Việt nam . Với phương thức tổ chức và hoạt động của mình quỹ đầu tư mạo hiểm hứa hẹn một tiềm nang công nghiệp mới . Đây là định chế tài chính trung gian gắn liền giưã cung và cầu vốn, giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam đang khát vốn cho những dự án công nghệ kỹ thuật .Sự phát triẻn quỹ đàu tư mạo hiểm trong thời gian này sẽ là một đường lối chủ trương đúng đắn cuả Nhà Nước ta.
Cùng với sự hoàn thiện hoạt động của thị trường chứng khoán , các loại hình trung gian tài chính sẽ ra đời , đấnh dáu mốc cho sự phát triẻn mới của kinh tế Việt Nam . Với sự hỗ trợ của các quỹ đầu tư mạo hiểm , trong những năm tới doanh nghiệp và thị trường Việt nam sẽ có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế . Thị tường chứng khoán Việt Nam sẽ đa dạng hàng hoá hơn nhờ có nhiều công ty mới được niêm yết . Trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam sẽ tăng lên . Sẽ có nhiều dự án khả thi được thực hiện mang lại nguòn lạilớn cho phat triẻn kinh tế .
Việt Nam có tiến lên nền kinh tế tri thức được không là phụ thộc vào đội ngũ doanh nghiệp trẻ , phụ thuộc vào đường lối, chủ trương, chiến lược của Đảng và Nhà Nước ta . Việc đề ra chiến lược phát triển đã khó , việc thực hiện chiến lược càng khó hơn , làm sao cho có sự thực hiện đồng bộ từ trên xuống dưới , từ cơ quan chức năng cấp cao nhất đến cơ quan chưc năng ở các địa phương . Điêù này hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực của các cơ quan , cac bộ các nghành và cac doanh nghiệp.
Có thể nói rằng quỹ đầu tư mạo hiểm là một hình thức đầu tư cần được Đảng Và Nhà Nước ta xem xet và đề ra các chiến lược cụ thể để phát huy các tính năng , ưu điểm của nó , phục vụ cho sự nghiệp Việt nam hội nhập nền kinh tế thê giới và mở đầu cho giai đoạn bước vào nền kinh tế tri thức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Huy Dương - Đầu tư vốn mạo hiểm ... trong nền kinh tế tri thức.
Nghiên cứu kinh tế số 275 (4/2001)
Nguyễn Văn Định - Hoạt động của quỹ đầu tư ... tại Việt nam
Nghiên cứu kinh tế số 279 (8/2001)
Th.S Trần Đăng Khâm - Cần thúc đẩy hoạt động... chứng khoán
Thị Trường tài chính tiền tệ 1.2002
Nguyễn Thị Uyên - Quỹ đầu tư mạo hiểm ...doanh nghệp khởi sự
Phát triển kinh tế 127
Th.S Bùi Viết Thuyên - Quỹ vốn mạo hiểm
Phát triển kinh tế 128
Th.S Nguyễn Hương Giang - Vốn mạo hiểm ... công nghiệp mới
Tạp chí ngân hàng số 1+2 / 2002
Lê Đăng Hà - Cơ hội để ...sáng tạo
Tạp chí công nghiệp Việt Nam 1/3/ 2001
Thái Ngọc Hiền - Kinh nghiệm hoạt động ...Châu Á
Tạp chí ngân hàng số 2/2001
Đinh Trọng Thắng - Những cách hiểu ...lựa chọn của Việt Nam
Nghiên cứu kinh tế 283
Phan Thúc Huân - Nền kinh tế tri thức...Việt nam
Nghiên cứu kinh tế số 278
Hoàng Quí Vương - Thực trạng....Tại Việt Nam
Tạp chí ngân hàng số 11/2000
Vũ Minh Khương - Việt Nam ... nền kinh tế tri thức
Nghiên cứu kinh tế số 279
Hải Phương - Quỹ đầu tư mạo hiểm... táo bạo
Đầu tư chứng khoán , số 43(9/9/2000)
TS. Nguyễn Sơn - Quỹ đầu tư chứng koán VN
Tạp chí ngân hàng số 6/2000.
TS. Nguyễn Xuân Thiên - Đầu tư trực tiếp nước ngoài ...
Kinh tế Châu Á- TBD số 1-2001
Và cùng một số tác giả khác
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0052.doc