Tài liệu Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Bắc Vĩnh Yên: ... Ebook Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Bắc Vĩnh Yên
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh Bắc Vĩnh Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sự ra đời của tiền tệ và hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại. Nó thúc đẩy quan hệ trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Ngân hàng và hoạt động ngân hàng còn được coi là một trong những kênh quan trọng cho việc huy động vốn và tập trung các nguồn lực tài chính, những đồng tiền nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân đầu tư cho các hoạt động kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một chủ thể không thể thiếu vắng cho sự vận hành thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Hoạt động ngân hàng cũng là một loại hình hoạt động kinh tế, do vậy trong nền kinh tế thị trường nó cũng chịu sự tác động và điều tiết bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường. Hoạt động ngân hàng, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, tác động dây chuyền đến các hoạt động kinh tế khác, liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể và luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, một khi xảy ra rủi ro thì thường có tính chất dây chuyền tác động đến nhiều hoạt động nhiều mặt trong đời sống kinh tế xã hội. Do vậy ngay từ thửa ban đầu, để vận hành được nó cũng cần đến sự can thiệp, điều tiết và kiểm soát từ phía nhà nước nhằm tạo lập những bảo đảm và an toàn pháp lý. Đối với ngân hàng đó là việc quản lý nợ bảo toàn vốn hạn chế rủi ro. Đây không chỉ là mối quan tâm của các ngân hàng thương mại mà còn là sự quan tâm chung của toàn ngành ngân hàng.
Nhận thức rõ tính cấp thiết của vấn đề, tôi lựa chọn đề tài : “Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được kết cấu thành 3 phần :
Chương 1 : Quy chế pháp lý về quản lý nợ trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Chương 2 : Thực trạng quản lý nợ tại NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên.
Chương 3 : Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ tại NHNo&PTNN chi nhánh Bắc Vĩnh Yên.
Mặc dù có nhiều cố gắng để hoàn thành bài viết song trong quá trình nghiên cứu lý luận cơ bản áp dụng vào thực tiễn muôn màu muôn vẻ nên khó tránh khỏi những thiếu sót, do vậy tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của thầy PGS.TS Trần Văn Nam và các thầy cô giáo trong khoa Luật, cùng các cô, các anh chị công tác tại chi nhánh NHNo & PTNT Bắc Vĩnh Yên thời gian qua.
CHƯƠNG 1 : QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NỢ TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng của các ngân hàng thương mại.
Khái niệm
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, tồn tại một cách khách quan, phát sinh khi một bên (chủ nợ ), sử dụng một số tiền nhất định, đến hạn trả nợ, người vay phải trả cho người cho vay số tiền đã vay kèm theo một khoản lãi mà hai bên đã thoả thuận trước.
Tín dụng được biểu hiện ra bằng sự vận động của vốn cho vay diễn ra dưới hai hình thức : tín dụng thương mại và tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng thương mại phát sinh khi các thương nhân, các doanh nghiệp bán chịu cho nhau và nó phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người bán và khả năng trả nợ của người mua. Trong tín dụng thương mại, vốn cho vay là các hàng hoá chứ không phải là tiền, thường có kì hạn tương đối ngắn trong phạm vi một chu kì sản xuất. Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại chủ yếu là các thương phiếu. Thương phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Nói chung tín dụng thương mại không phát triển lắm vì những nhược điểm của nó : quy mô bị hạn chế vì số lượng hàng bán chịu thường chỉ trong một thời không lớn, đối tác phải là người có uy tín, có quá trình làm ăn lâu dài với nhà cung cấp, mặt khác tín dụng thương mại thường chỉ có thời hạn trong một chu kì sản xuất, nên nếu sản xuất đình trệ dù chỉ một chu kì thì cũng có thể gây khó khăn cho cả hai phía. Do các nhược điểm như vậy nên tín dụng thương mại tỏ ra kém hiệu quả hơn tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch bằng tiền giữa Ngân hàng với bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng tài sản trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên di vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Đặc điểm và bản chất của tín dụng ngân hàng
+Đặc điểm
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.(khoản 7 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004)
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, nguốn vốn huy động để cấp tín dụng. (khoản 8 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004).
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.(Khoản 10 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004)
Khi thực hiện hoạt động huy động vốn Ngân hàng trở thành người đi vay, đi gom mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngược lại trong hoạt động cho vay Ngân hàng trở thành người cho vay, nhà tài trợ cho các dự án của các thành phần kinh tế. Cả huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thái tiền và đó chính là đặc điểm nổi bật nhất để phân biệt Ngân hàng với các doanh nghiệp khác. Ngoài ra trong quan hệ tín dụng người cho vay (Ngân hàng ) chỉ trao quyền sử dụng vốn chứ không trao quyền sở hữu vốn cho người khác.
+Bản chất
Tín dụng ngân hàng ra đời có một vai trò vô cùng quan trọng đó là điều hoà nhu cầu tạm thời về vốn, chuyển đồng vốn từ những người có nó nhưng hiện chưa có nhu cầu chi tiêu sang những người cần có nó ngay để chi tiêu cho đầu tư nhờ vậy xã hội sẽ phát triển không ngừng, đồng vốn luôn có cơ hội được sinh lời. Như vậy có thể nói bản chất của tín dụng là quan hệ phân phối dựa trên nguyên tắc hoàn trả vốn.
Vai trò của tín dụng ngân hàng :
+Tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn bao giờ cũng là điều kiện cần đầu tiên trong mọi giai đoạn của sản xuất, hiện tượng thừa vốn, thiếu vốn vẫn luôn tồn tại song song với quá trình sản xuất, doanh nghiệp thừa vốn ở giai đoạn này lại thiếu vốn ở giai đoạn khác. Đối với các nhà đầu tư họ luôn muốn vốn của họ sinh lời ngay cả khi họ chưa có nhu cầu đầu tư trực tiếp, trong khi đó những nhà đầu tư khác lại cần vốn để trực tiếp đầu tư và sẵn sàng trả phí sử dụng vốn cho người có nó. Như vậy nếu có sự chuyển nhượng từ người nọ sang người kia thì cả hai cùng có lợi, hai bên có thể trực tiếp gặp nhau song thông thường là rất khó tốn kém thời gian, tiền bạc. nếu có một người khác đứng làm trung gian chủ động tìm hai người kia thì mọi việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều.chính vì vậy Ngân hàng ra đời đảm nhận vai trò trung gian. Thông qua Ngân hàng mọi nguồn tiền nhàn rỗi được Ngân hàng thu gom lại, trao cho nhà đầu tư, đồng vốn luôn được lưu thông, sinh lời không chỉ cho nhà đầu tư mà còn cho cả người không đầu tư nhưng sở hữu nó.
+Tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn
Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện hoá đất nước, nên việc tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế trọng diểm là hết sức cần thiết để tạo dựng thế mạnh cho đất nước, thực hiện điều đó chỉ sử dụng vốn ngân sách thôi thì chưa đủ, mà cần có sự tham gia của hệ thống Ngân hàng, Ngân hàng bằng các nghiệp vụ của nó thu gom các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư lại và đầu tư tập trung có định hướng của Chính phủ nhờ đó các công trình đồ sộ của đất nước, các công trình trọng điểm luôn có đủ vốn để hoạt động.
+Nâng cao chế độ hoạch toán kinh tế của doanh nghiệp :
Khi đem vốn đi cho vay, Ngân hàng đòi hỏi ở doanh nghiệp phải quan tâm sát sao hơn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí, tăng vòng quay của vốn. Tức là phải thực hiện nghiêm ngặt chế độ hoạch toán kinh tế, bởi vì có như vậy kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mới đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. Thực tế đây là nguyên tắc bắt buộc của các tổ chức tín dụng khi cho khách hàng vay, song chúng ta thấy rõ rằng nguyên tắc đó một cách không cố ý đã đã nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp và thực tế đã có không ít khách hàng sau khi làm việc với Ngân hàng họ đã cải thiện được tình hình kinh doanh.
+Kiềm chế và đẩy lùi lạm pháp
Lạm phát được sinh ra và phát triển song song cùng với sự tồn tại của kinh tế thi trường đôi khi lạm phát có lợi và đôi khi lại có hại đặc biệt khi nó ở mức cao. Nếu ở mức cao lạm phat có thể khiến đông tiền mất giá làm giá cả tăng vọt, sản xuất đình trệ trong khi thị trường lại khan hiếm, hiện tượng này có thể thấy rõ ở Áchentina trong mấy năm trước, chính vì vật rất cần một “bàn tay” nào đó có đủ khả năng ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát.
Ngân hàng với chức năng của mình có thể huy động mọi nguồn tiền của xã hội lại và lại tung ra thị trường đầu tư, có thể hạn chế đầu tư bằng việc tăng mức lãi suất để giữ tiền không cho lưu thông hay khuyến khích đầu tư bằng hạ thấp lãi suất để thả tiền ra lưu thông, chính nhờ khả năng đó Chính phủ luôn coi Ngân hàng như là mọt công cụ đắc lực để điều chỉnh lạm phát, nếu lạm phát xảy ra Chính phủ có thểbuộc Ngân hàng tăng mức lãi suất huy động và cho vay như vậy tiền lưu thông sẽ giảm xuống lạm phát được hạn chế và có thể bị đẩy lùi.
+Là cầu nối thúc đẩy quan hệ giao lưu kinh tế trong nước và thế giới
Toàn cầu hoá trở thàn xu thế tất yếu đối với hầu hết các quốc gia và luôn kèm theo nó luôn là sự chuyển dịch đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác với một lượng vốn vô cùng lớn bên cạnh những dòng vào, ra hàng hoá và Ngân hàng luôn được đề cập đến trong mọi hoạt động chuyển vốn và thanh toán quốc tế nhờ đó các hoạt động này được thực hiện trôi chảy và hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển kinh tế toàn cầu.
Tóm lại : tín dụng ngân hàng là nhân tố có vai trò tích cực trong nền kinh tế nói chung và đôi với hoạt động sản xuất kinh doanh của từng danh nghiệp để từ đó doanh nghiệp có động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi nhuận, mở rộng thi trường trong nước và quốc tế; Từ đó đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và nền kinh tế toàn cầu.
1.4. Các nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng
a ) Nguyên tắc vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư, hàng hoá tương đương.
Cho vay có bảo đảm biểu hiện bằng việc cho vay có cầm cố thế chấp động sản, bất động sản và các khoản phải thu ... Yêu cầu của tài sản bảo đảm là phải dễ chuyển thành tiền.Tuy vậy không phải nhất thiết khách hàng nào cũng cần phải có giá trị tài sản mới được vay Ngân hàng. Điều này quan trọng là khách hàng phải có dự án khả thi có uy tín trong kinh doanh.
Còn tài sản bảo đảm là nhằm giảm bớt rủi ro, mất mát cho Ngân hàng trong trường hợp người vay không muốn hoặc không có khả năng trả nợkhi đến hạn. Mỗi một khoản tín dụng đều chứa đựng những rủi ro nhất định do những yếu tố khách quan mà ta không lường trước được tác động đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng, chính vì thế kế hoạch trả nợ không còn đúng như trong hợp đồng tín dụng hoặc có thể dẫn đến khách hàng không trả được nợ. Vì vậy bảo đảm sẽ giúp cho Ngân hàng thu lại được vốn của mình. Bảo đảm bằng tài sản chủ yếu áp dụng với khách hàng còn mới đối với Ngân hàng, khách hàng có nhu cầu vốn lớn hoặc khách hàng có hệ thống tài chính không đảm bảo, trong trường hợp này bảo đảm là cơ sở để thu hồi vốn khi khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thể thu hồi.
b ) Nguyên tắc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả kinh tế.
Khi trình hồ sơ xin vay vốn khách hàng phải gửi tới Ngân hàng các giấy tờ cần thiết theo pháp luật quy định và trong đó nhất thiết phải có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, mục đích của yêu cầu này là để đảm bảo rằng đồng vốn mà Ngân hàng cấp cho khách hàng phải có khả năng thu hồi. Chính vì vậy sau khi cấp tín dụng cho khách hàng Ngân hàng luôn giám sát kế hoạch sử dụng vốn xem khách hàng có sử dụng vốn có đúng mục đích hay không. Nếu trong thực tế sử dụng vốn Ngân hàng phát triển khách hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai so với kế hoạch sử dụng vốn Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng hoàn trả ngay khoản tín dụng đã cấp.
c ) Nguyên tắc vốn vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn.
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế Ngân hàng trước khi là nhà cho vay cũng là người đi vay, vì đi vay nên Ngân hàng cũng phải cam kết với những người đưa tiền cho Ngân hàng rằng đến thời hạn do hai bên thoả thuận Ngân hàng phải hoàn trả cho họ cả gốc và khoản lãi. Do đó Ngân hàng cũng phải yêu cầu khách hàng vay mình phải hoàn trả gốc- lãi đúng hạn để Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ của họ với những người đưa tiền cho Ngân hàng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay việc thực hiện hợp đồng đúng thời hạn là cơ sở để tạo uy tín của doanh nghiệp và đồng thời cùng với yêu cầu buộc thực hiện hợp đòng đúng thời hạn còn buộc Ngân hàng và mọi doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động hiệu quả hơn có vậy mới mong tồn tại trong cơ chế thị trường ngày nay.
d ) Nguyên tắc phân tán rủi ro không dồn vốn cho mọi loại tổ chức kinh tế vay.
Nguyên tắc này nhằm mục đích đa dạng khách hàng phân tán rủi ro tránh tình trạng tập trung dồn vốn cho một số ít khách hàng lớn.
Giả sử rằng Ngân hàng dồn vốn cho một số khách hàng như vậy đồng nghĩa với việc Ngân hàng đã gắn số phận của nó với khách hàng của nó tức là nếu số khách hàng đó bị phá sản thì Ngân hàng cũng bị phá sản theo.
Chính vì vậy Ngân hàng cần thiết phải đa dạng khách hàng và đối với mỗi khách hàng mức tín dụng cấp tối đa không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng , trừ trường hợp đối với những khoản vay từ nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác, hoặc trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng được cho vay hợp vốn theo quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước (Điều 79 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004 ). Mục đích của quy định trên là nhằm tạo cho Ngân hàng phát triển bền vững lâu dài.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên
Quản lý nợ là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt chất lượng cần có sự quản lý. Để có chất lượng trong hoạt động kinh doanh cao, cần có sự quản lý chất lượng đồng bộ, đây là cách quản lý mới, nó không chỉ nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh ngay càng dáp ứng yêu cầu của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài.
2.1.Các yếu tố bên ngoài
*Yếu tố kinh tế : Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng, nền kinh tế ổn dịnh làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng làm cho khả năng tín dụng và khả năng trả nợ không biến động lớn, trong trường hợp này thì chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản lý nợ của bản thân các Ngân hàng thương mại.
Vốn nước ngoài cũng ảnh hưởng đến chất lượng quản lý. Do tình trạng thiếu vốn để phát triển kinh tế, các nước kém phát triển phải tìm mọi cách để huy động vốn nước ngoài để đầu tư
Bản chất của hoạt động kinh doanh tiền tệ là”vay để cho vay”,do đó hiệu quả tín dụng còn phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư dự án. Tín dụng là cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với hoạt động của lĩnh vực sản xuất vật chất và kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế.Do đó mỗi biểu hiện không tốt của khách hàng sẽ có ảnh hưởng tương ứng tới hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác động của những mối quan hệ tín dụng : với khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và có quan hệ tín dụng tốt (vay trả xòng phẳng) thì cầu nối giữa đi vay và cho vay sẽ thông suốt và ngày càng mở rộng
Chu kỳ phát triển kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động quản lý nợ. Mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với mức lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng . Khi nước ta ra nhập WTO sẽ buộc các Ngân hàng thương mại trong nước phải nâng cao năng lực quản trị của mình có sự liên kết với nhau để hạn chế cạnh tranh lãi suất kém lành mạnh.Việc các Ngân hàng thương mại trong nước không liên kết với nhau như hiện nay đang tự làm yếu sức cạnh tranh của mình hệ lụy là các Ngân hàng phải cạnh tranh về giá. Điều này khá rủi ro, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều ngân hàng để đảm bảo có chênh lệch lãi suất phù hợp đã phải sử dụng cả vốn huy động ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán thời gian qua tăng trưởng quá nóng, lợi nhuận thu được từ đầu tư chứng khoán quá cao khiến lãi suất tiền gửi trở nên không có ý nghĩa cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất. Nhưng với mức lãi suất cao hơn mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, ảnh hưởng tới quá trình tái xản xuất và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung, hoạt động tín dụng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất phát triển và theo đó chất lượng tín dụng cũng bị ảnh hưởng.
*Yếu tố chính trị xã hội
Khách hàng: là chủ thể đại diện cho bên cung về vốn tín dụng, đồng thời cũng là đại diện cho bên cầu về vốn vay với tư cách là người cung vốn tín dụng, họ mong muốn nhận được từ Ngân hàng một khoản lãi tiền gửi hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Đối với người vay, họ đến Ngân hàng với mong muốn nhu cầu vay của mình được đáp ứng để có được một khoản tín dụng sử dụng cho mục đích kinh doanh với sự rõ ràng về số lượng tiền vay, thời hạn vay, và lãi suất - giá cả của việc sử dụng vốn vay có thể chấp nhận được.
Ngân hàng : là chủ thể đại diện cho bên cầu về vốn huy động để cho vay, đồng thời cũng cung cấp về tín dụng. Quy mô và phạm vi hoạt động của tín dụng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của Ngân hàng, khả năng huy động vốn ( về quy mô và thời hạn) cũng như uy tín và trình độ quản lý của Ngân hàng
Bên cạnh đó, sự biến động của tình hình kinh tế chính trị ở nước ngoài cũng ảnh hưởng tới chất lượng quản lý trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, mọi sự biến đổi về kinh tế, văn hoá xã hội ở nước ngoài đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng quản lý, ví dụ như sự kiện Đông Âu làm hàng loạt các hợp đồng tiêu thụ của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu bị phá vỡ hay do hàng nội địa không cạnh tranh được với hàng nhập lậu về giá cả, chất lượng và chủng loại dẫn tới hàng sản xuất ra không tiêu thụ được gây khó khăn cho việc trả nợ; các yếu tố về môi trường tự nhiên như thời tiết, dịch bệnh.
2.2 Các yếu tố bên trong
Các yếu tố bên trong có thể khái quát thành 7 yếu tố chính:
-Cơ chế, quy chế tín dụng: chính sách cơ chế quy chế là cơ sở đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, một cơ chế quy chế tín dụng đung đăn sẽ có tác dung thu hút nhiều khách hàng đảm bảo khă năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hôi
-Công tác tổ chức của Ngân hàng đuợc sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chăt chẽ nhịp nhàng trong từng Ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa Ngân hàng với các cơ quan khác như: tài chính, thuế, pháp lý… sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng quản lý chặt chẽ các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay. Tổ chức Ngân hàng theo nguyên tắc tập trung có phân cấp chính là một khâu trong quá trinh quản lý chất lượng tín dụng đông bộ, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước trong từng thời kỳ
-Chất lượng nguồn nhân lực : Con người là nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất, kinh doanh của xã hội, trong hoạt động Ngân hàng con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng .Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng quản lý nhân sự ngày càng cao có đạo đức nghề nghiệp tốt, giỏi về chuyên môn,am hiểu sâu sắc lĩnh vực khoa học kỹ thuật kiến thức ngoài ngành( có năng lực phân tích và xử lý nhu cầu xin vay cảu khách hàng, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cấp tiền cho tới khi thu hồi được…) sẽ giúp cho Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng được cấp.
-Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những quy định vè trình tự công việc cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, (tiếp nhận đơn, thẩm định các điều kiện của khách hàng vay), phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay, thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc thực hiện tốt cá quy định của từng bước và sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các bước
-Thông tin tín dụng
Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý các tài sản vay. Thông tin có thể có sẵn ở Ngân hàng( như hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích đánh giá…) Từ khách hàng ( theo chế độ báo cáo goặc trao đổi trực tiếp) Các nguồn tin khác như báo chí, khách hàng khác
-Kiểm soát nội bộ
Các lĩnh vực kiểm soát tín dụng bao gồm: kiểm soát việc thực hiện cơ chế quy chế chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay; kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm soát đột xuất việc sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp của khách hàng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và các khoản đảm bảo vốn vay
-Trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động quản lý nợ. trong hoạt động kinh doanh: Trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và phạm vi, quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ giúp cho hoạt động quản lý được tốt hơn. Nó bao gồm hệ thống nhà làm việc,kho tiền,quầy giao dịch, hệ thống mạng vi tính, phương tiện làm việc trong Ngân hàng
2. 3. Các dạng rủi ro làm ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nợ, cần quan tâm
-Rủi ro do thiếu kiến thức và kỹ năng quản trị kinh doanh : Muốn kinh doanh tốt phải có kiến thức và năng lực quản trị kinh doanh, sự am hiểu về quản lý kinh tế , pháp luật của nhà nước chủ trương chính sách cảu Đảng và Chính phủ
-Rủi ro do yếu kém trong cạnh tranh và ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường : Sụ ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường như : buôn lậu trốn thuế, các tệ nạn xã hội như đánh đề, trộm cắp… đều tác động đến việc quản lý nợ.
-Rủi ro do thiếu thông tin hoặc thông tin không được tin cậy
-Rủi ro do cơ chế quản lý vĩ mô: Trong nội bộ quản lý mỗi ngành, các cơ chế quy chế chậm được ban hành, chậm sửa đổi bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế và xu hướng pháp luật hoá cúng là nguyên nhân gây không ít kho khăn cho doanh nghiệp bên dưới , thậm chí còn làm mất tài sản của doanh nghiệp
-Rủi do tín dụng: không thu hồi được các khoản vay của Ngân hàng, các khoản nợ được bảo lãnh đến kỳ hạn, khách hàng, người xin bảo lãnh không thanh toán hoặc không trả nợ cho Ngân hàng. Hiện nay đây là loại rủi ro lớn nhất và thương xuyên xảy ra, vì hơn 2/3 số nguồn vốn của Ngân hàng được đem cho vay, nó đem lại thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Nguyên nhân chủ yểu của loại rủi ro này là do người vay không có khả năng trả nợ, tạm thời khó khăn về ngân quỹ vì ứ đọng sản phẩm, bị chiếm dụng vốn, kinh doanh thô lỗ…hoặc bị rủi ro thuần tuý như lũ lụt, hoả hoạn, sâu bệnh, lừa đảo…
-Rủi ro lãi suất:
-Rủi ro do bị đọng vốn:
-Rủi ro về thiếu vốn
-Các rủi ro thuẩn tuý
3. Chế độ pháp lý về xủ lý nợ trong các ngân hàng thương mại.
Thực tiễn kinh tế thị trường đã chứng minh pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được, không có pháp luật hoặc không có pháp luật phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì nền kinh tế đó không thể tiến hành trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo ra một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao; là cơ sở giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có các vấn đề tranh chấp xảy ra.Vì vậy, yếu tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoat động Ngân hàng. Chỉ trong điều kiện các chủ thể tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả 2 phía và chất lượng nợ trong hoạt động kinh doanh mới đảm bảo, nó góp phần hạn chế rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận.
Khi ngân hàng có nợ thì tức cán bộ tín dụng ngân hàng phải tiến hành tìm hiểu, phân loại các khoản nợ đó theo nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn và từ đó lựa chọn biện pháp xử lý nợ cho phù hợp như khoanh nợ, xoá nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ … phù hợp với các quy định của ngân hàng, và của pháp luật.
3.1. Khoanh nợ
Khoanh nợ là biện pháp mà Chính phủ cho phép ngân hàng không tính lãi suất trong một thời gian nhất định đối với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan, khó có khả năng thu hồi. Những khoản nợ được Chính phủ cho phép khoanh nợ sẽ được chuyển dư nợ từ ngân hàng sang tài khoản phải thu của ngân hàng nhà nước.
Khoanh nợ được quy định trong khoản 1 Mục B, phần II Thông tư liên tịch số 03/ 1997/TTLT-NHNN-BTC ngày 22/11/1997 về xử lý nợ quá hạn trong các ngân hàng thương mại quốc doanh qua trấn chỉnh hoạt động ngân hàng sau thanh tra.
* Phạm vi đối tượng xử lý :
Đối tượng được khoanh nợ là các doanh nghiệp nhà nước do thay đổi cơ cấu chính sách, mất thị trường, doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, ngừng hoạt động nhưng không giải thể hoặc chưa được sắp xếp lại.
* Nguyên tắc :
Chỉ khoanh nợ đối với các khoản nợ do nguyên nhân khách quan.
Không tính lãi khoanh nợ được khoanh.
Khoản nợ được khoanh sẽ được chuyển từ dư nợ NHTM sang tài khoản phải thu của ngân hàng nhà nước hoặc được bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro.
Hồ sơ thủ tục :
Theo thông tư liên tịch số 03/1997/TTLT-NHNN-BTC thì đối tượng được khoanh nợ phải lập hồ sơ như sau :
-Các văn bản liên quan trực tiếp đến việc phát sinh nợ quá hạn của doanh nghiệp, quyết định ngừng hoạt động của các cấp thẩm quyền mà cụ thể là ra quyết định thành lập.
-Đề nghị các doanh nghiệp, có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Đây là căn cứ quan trọng để tránh việc doanh nghiệp lợi dụng việc khoanh nợ của nhà nước cố tình lừa bịp trốn tránh trách nhiệm trả nợ ngân hàng.
-Phương án kinh doanh có hiệu quả về kế hoạch trả nợ ngân hàng sau khi hết hạn khoanh nợ.
-Khế ước vay vốn
Hồ sơ sẽ được gửi lên Ban chỉ đạo xử lý nợ quá hạn của NHTM.
Đối với những khoản nợ sau khi được Ban chỉ đạo xử lý nợ quá hạn đồng ý cho khoanh nợ thì NHTM yêu cầu khách hàng đến ký biên bản bổ sung hợp đồng tín dụng để xác định lại lịch trả nợ.
3.2. Xoá nợ
Xoá nợ là biện pháp áp dụng nếu việc nợ khoanh vẫn không được giải quyết thu hồi và một số khoản nợ không có khả năng thu hồi.
Theo quy định trong Khoản 2 Mục B, phần II Thông tư liên tịch số 03/ 1997/TTLT-NHNN-BTC ngày 22/11/1997 thì xoá nợ là việc xoá bỏ các khoản nợ có vấn đề ra khỏi bảng cân đối kế toán. Đây là biện pháp xử lý nợ nhằm loại bổhàn toàn khoản nợ tồn đọng tại ngân hàng
Phạm vi đối tượng xử lý
Khoản nợ của khách hàng là doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, hộ gia đình do nguyên nhân bất khả kháng như : thiên tai lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh dẫn đến không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Doanh nghiệp nhà nước có quyết định tuyên bố phá sản của toà án nhân dân hoặc quyết dịnh giải thể không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
Khách hàng là cá nhân bị Toà án tuyên bố là đã chết theo quy định tại điều 91 Bộ luật Dân sự hoặc tuyên bố mất tích tại điều 88 mà không còn người thừa kế tài sản theo quy định của pháp luật.
* Hồ sơ thủ tục
Các đối tượng thuộc diện được xoá nợ phải lập hồ sơ theo quy dịnh tại Khoản 1 Phần B Thông tư liên tịch số 03 bao gồm :
Biên bản xác nhận vay vốn tại ngân hàng
Biên bản xác nhận thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, mất mùa đối với đối tượng vay vốn, trong đó ghi rõ mức độ và số vốn bị thiệt hại, có đề nghị hoặc xác nhận của cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi xảy ra thiệt hại. Cụ thể như sau :
Doanh nghiệp nhà nước : có xác nhận của UBND Tỉnh, Thành phố, xác nhận của cơ quan chức năng liên quan đến nguyên nhân này ở địa phương, xác nhận của ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và ngân hàng cho vay vốn.
Nếu là doanh nghiệp nhà nước đã giải thể phá sản thì phải có quyết định giải thể hoặc phá sản của Toà án. Kèm theo phương án giải thể, phân chia tài sản của doanh nghiệp, báo cáo quyết toán quá trình giải thể.
Khế ước vay vốn
Việc xoá nợ đối với khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại sẽ giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thu hồi tạo điều kiện cho các khách hàng vay vốn không may mắn có cơ hội làm lại không bị gánh nặng nợ nần. Song với hồ sơ thủ tục như trên thì khách hàng thuộc diện được xoá nợ phải có quá nhiều giấy chứng minh xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau. Tuy các giấy tờ xác minh là điều cần thiết để tránh khách hàng lợi dụng rút tiền của nhà nước nhưng cũng nên đơn giản bớt thủ tục để tạo điều kiện cho khách hàng không tốn kém quá nhiều thời gian, tiền của khi làm hồ sơ thủ tục xin xoá nợ.
3.3 Gia hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ
Điều 3, Quyết định 1627/2001/QĐ-TTg ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng quy định :
Gia hạn nợ là việc tổ chức tín dụng chấp nhận kéo dài thêm một khoảng thời gian ngoài thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Điều chỉnh kì hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về việc thay đổi kỳ hạn trả nợ đã thoả thuận từ trước trong hợp đồng tín dụng. trong khái niệm này kỳ hạn trả nợ được hiểu là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng.
Sự khác nhau giữa gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn trả nợ là : gia hạn nợ sẽ làm thay đổi kỳ hạn trả nợ cuối cùng theo như thoả thuận trong hợp đồng còn điều chỉnh kì hạn trả nợ thì không làm thay đổi kỳ hạn trả nợ cuối cùng mà chỉ làm thay đổi kỳ hạn trả nợ từng phần trong hợp đồng.
Gia hạn nợ, điều chỉnh kì hạn trả nợ là hình thức xử lý đơn giản nhanh chóng vừa giảm nợ quá hạn tại ngân hàng vừa tạo đi._.ều kiện cho khách hàng có thêm thời gian để thu xếp nguồn tiền trả nợ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những doanh nghiệp vay vốn do một nguyên nhân nào đó làm chậm chu kỳ kinh doanh, làm đọng vốn ở khách hàng hoặc sản phẩm hàng hoá không kịp thu hồi để trả nợ.
Phạm vi đối tượng : là các khoản nợ do nguyên nhân khách quan mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn và khách hàng có nhu cầu kéo dài thời hạn trả nợ.
Thủ tục gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
Khách hàng lập giấy đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gửi cho ngân hàng nơi vay trước ngày đến hạn trả nợ.
Cán bộ tín dụng thẩm định, trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc.
Giám đốc xem xét và quyết định.
Các trường hợp ngân hàng đồng ý gia hạn nợ, điều chỉnh thời hạn trả nợ thì ngân hàng với khách hàng thoả thuận bổ sung vào hợp đồng tín dụng.
3.4 Thanh lý tài sản
Ngoài các biện pháp xử lý trên thì đối với những khoản nợ có tài sản bảo đảm Ngân hàng có thể thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Việc thanh lý tài sản áp dụng theo Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 23/04/2001 của NHNN, Bộ tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính hướng dẫn xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng và các văn bản khác có liên quan.
* Phạm vi áp dụng
Áp dụng đối với các khoản nợ vay có tài sản bảo đảm.
*Nguyên tắc áp dụng
Xử lý tài sản bảo đảm phải đảm bảo nguyên tắc công khai, đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi cho các bên và tiết kiệm chi phí.
* Thủ tục xử lý
Việc xử lý tài sản bảo đảm có thể do hai bên thoả thuận hoặc do Ngân hàng toàn quyền xử lý tuỳ thuộc vào từng khoản nợ và việc xử lý phải tuân theo các quy định khác nhau.
+Xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận : Được quy định tại Mục I, Phần B Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-TCĐC. Ngân hàng và bên bảo đảm tại hợp đồng hoặc hợp đồng bảo đảm có thể thoả thuận sửa đổi bổ sung hoặc thoả thuận mới về xử lý tài sản bảo dảm. Trước khi xử lý Ngân hàng, tổ chức tín dụng phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm và đăng ký thông báo yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm(Nội dung thông báo được quy định tại điểm 2, Mục I, Phần B-Thông tư liên tịch số 03/2001).
-Chuẩn bị xử lý tài sản
Tổ chức tín dụng lập biên bản xxử lý tài sản bảo đảm.
Ngân hàng, tổ chức tín dụng, khách hàng có thể thoả thuận phương thức xử lý sau :Bán tài sản bảo đảm, tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ trả nợ, nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên bảo đảm.
- Sau khi xử lý tài sản bảo đảm xong tổ chức tín dụng xoá đăng kí khoản vay xử lý tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm.
* Xử lý tài sản thuộc quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng : quy định tại Điều 34 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các Tổ chức tín dụng và tại Mục II phần B Thông tư liên tịch 03.
Đối với tài sản bảo đảm thuộc quyền xử lý của tổ chức tín dụng thì khách hàng, bên bảo lãnh phải giao tài sản cho tổ chức tín dụng để xử lý theo các biện pháp sau:
-Trực tiếp bán cho người mua
-Uỷ quyền bán đấu giá tài sản cho Trung tâm bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
-Uỷ quyền hoặc chuyển giao cho tổ chức có chức năng được mua bán tài sản để bán.
-Nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho nhiệm vụ trả nợ.
-Nhận tiền hoặc tài sản từ bên có nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng vay.
Tài sản bảo đảm khi chưa được xử lý thì tổ chức tín dụng có quyền khai thác sử dụng tài sản bảo đảm. Số tiền thu được từ khai thác, sử dụng tài sản sau khi trừ chi phí sẽ dùng để thu hồi nợ.
3.5. Bán nợ
Bán nợ quá hạn được áp dụng theo quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết dịnh số 140/1999/QĐ-NHNN4 ngày 19/1/1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Bán nợ là việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với các khoản nợ từ tổ chức tín dụng sang bên mua nợ.
* Phạm vi áp dụng
Bán nợ quá hạn chỉ áp dụng đối với các khoản nợ mà bên nợ đang hoạt động, khoản nợ có khả năng thu hồi nhưng gặp khó khăn tạm thời về tình hình sản xuất kinh doanh chưa trả được nợ gốc hoặc cả gốc và lãi khi đến hạn.
* Nguyên tắc
An toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, phải phù hợp với những quy định của pháp luật Việt Nam.
Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng, bên mua nợ.
Khoản nợ được chuyển giao theo hợp đồng tín dụng hoặc khế ước vay.
* Thủ tục bán nợ
Ngân hàng xử lý nợ bằng biện pháp bán nợ phải đảm bảo đúng đối tượng theo đúng nguyên tắc xử lý và tuân theo thủ tục bán nợ được quy định tại Điều 8 - Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN ngày 19/4/1999 của Thống đốc NHNN ban hành qyu chế mua bán của các tổ chức tín dụng.
-Tổ chức tín dụng nợ thông báo cho bên mua nợ các nội dung liên quan (số dư, lãi suất, thời hạn, giá cả mua bán).
-Bên mua phân tích các khoản nợ, tình hình hoạt động của con nợ
-Tổ chức tín dụng và bên mua thống nhất nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng được quy định tại Điều 9 Quyết định số 140/QĐ-NHNH4.
-Tổ chức tín dụng gửi thông báo bằng văn bản về hợp đồng mua bán cho bên nợ biết. Nội dung của thông báo được quy định tại Khoản 5, Điều 8, Quyết định số 140/ QĐ-NHNN.
- Thực hiện hợp đồng mua bán: tổ chức tín dụng chuyển giao toàn bộ hồ sơ có liên quan đến khoản nợ được bán, bên mua chuyển tiền cho bên bán theo giá trị thoả thuận.
- Giải quyết các vấn đề tồn tại (nếu phát sinh).
Bán nợ không chỉ là một biện pháp xử lý nợ quá hạn mà còn là một hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cho phép các ngân hàng thương mại bán các khoản nợ của mình và thu về một số tiền có thể là ít hơn khoản nợ nhưng tránh được những rủi ro khi khách hàng xù nợ, chạy nợ không thu hồi được. Bán nợ thực chất là sự chuyển rủi ro từ ngân hàng sang bên mua nợ. Trong quy chế mua bán nợ thủ tục mua bán nợ đơn giản giống như việc mua bán một hàng hoá thông thường, nợ được coi là hàng hoá điều này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay.
3.6. Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
Ngân hàng thương mại được phép thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại theo quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 của Thủ Tướng Chính phủ về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là công ty con, công ty trực thuộc Ngân hàng thương mại, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, hoạt động trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản nợ vay. Trong định nghĩa này chưa nêu rõ loại hình công ty và điều kiện để được thành lập công ty là phải có ít nhất ba năm hoạt động, số vốn lớn đã kiến cho các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh không được phép thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Điều này một phần là nhằm tạo điều kiện cho hoạt động của các công ty quản lý và khai thác tài sản có hiệu quả và vững chắc nhưng đồng thời nó tạo ra sự bất bình đẳng trong hệ thống các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
*Nội dung hoạt động của công ty bao gồm
_Quản lý nợ và khai thác tài sản theo sự uỷ thác của Ngân hàng bao gồm việc tiếp nhận quản lý các khoản nợ của Ngân hàng Thương mại để tiến hành xử lý thay cho ngân hàng; tiếp nhận, quản lý tài sản thế chấp của Ngân hàng Thương mại để tiến hành xử lý thay cho ngân hàng; tiếp nhận, quản lý tài sản thế chấp của Ngân hàng Thương mại để cải tạo nâng cấp, sửa chữa, khai thác, bán, cho thuê nhằm thu lại được số nợ mà khách hàng đã không trả ngân hàng.
_Thu hồi các khoản nợ quá hạn theo sự uỷ thác của ngân hàng
_Thực hiện việc mua bán với các Ngân hàng Thương mại khác hoặc với các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác.
_Hoàn chỉnh hồ sơ các khoản nợ được khoanh, được xoá để giải quyết dứt điểm các khoản nợ theo uỷ thác của Ngân hàng Thương mại.
_Quản lý khai thác bán các khoản nợ và tài sản của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản khác.
_Thực hiện các hoạt động khác theo uỷ quyền của Ngân hàng.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thực hiện xử lý nợ theo quy định của pháp luật hiện hành.
3.7. Sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất vì vậy Ngân hàng nhà nước đã ban hành quy định về trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản rủi ro có thể xẩy ra đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động an toàn và ổn dịnh. Việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro được quy trong Quyết định 448/2000/QĐ- NHNN ngày 27/11/2000 của Thống đốc NHNN về quy chế phân loại tài sản có trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro.
Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý là việc hạch toán chuyển những khoản rủi ro từ hạch toán nội bảng sang hoạch toán ngoại bảng. Xử lý rủi ro bằng quỹ dự phòng rủi ro không làm giảm đi nghĩa vụ trả nợ của khách hàng cũng như trách nhiệm thu hồi nợ của ngân hàng.
*Nguyên tắc
Xử lý nợ bằng qiũy dự phòng rủi ro là cách dùng quỹ này để bù đắp vào phần nợ đã bị thất thu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàngnên phải tuân thủ các nguyên tắc về trích lập và xử lý rủi ro như :
-Xử lý rủi ro trong giới hạn quỹ dự phòng rủi ro
-Không điều chỉnh giảm số nợ trong hồ sơ cho vay đối với phần nợ đã được xử lý điều này có nghĩa là việc xử lý nợ bằng phương pháp này chỉ là việc tạm thời dùng quỹ dự phòng bù đắp để ổn định về tình hình tài chính của ngân hàng mà không làmg thay đổi số nợ cũng như nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
-Đảm bảo bí mật và tuyệt đối không được thông báo cho khách hàng để tránh tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.
-Ngân hàng tiếp tục theo dõi và có các biện pháp tích cực để thu hồi nợ.
*Phạm vi đối tượng xử lý
Trong Quyết định 448/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 có quy định rõ về từng đối tượng được sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp như sau :
Khách hàng là tổ chức bị phá sản giải thể và đã hoàn thành việc thanh toán tài sản nhưng không đủ bù dắp khoản nợ.
Khách hàng vay vốn, người bảo lãnh, người được hưởng dịch vụ thanh toán do nguyên nhân bất khả kháng không trả nợ được ngân hàng.
Những khoản nợ được Chính phủ cho phép xoá nợ nhưng chưa được cấp nguồn vốn bù dắp.
Hồ sơ thủ tục :
Xử lý nợ quá hạn bằng quỹ dự phòng rủi ro phải tuân theo quy định về trích lập và xử lý rủi ro theo Quyết định 448/2000/QĐ-NHNN ngày 27/11/2000 bao gồm :
-Hồ sơ cho vay và thu hồi nợ, các giấy tờ khác có liên quan đến những rủi ro do ngân hàng lập trong quá trình kiểm tra việc sử dụng vốn.
-Hồ sơ xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, xiết nợ nếu là tài sản phát mại.
-Khế ước vay vốn
Ngoài ra hồ sơ cần có cần có thêm các loại giấy tờ :
-Quyết định tuyên bố phá sản của toà án hoặc quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền.
-Đối với khoản nợ được Chính phủ cho phép xoá nợ thì phải có văn bản của Chính phủ cho phép xoá nợ.
Hồ sơ sẽ được trìn lên hội đồng xử lý rủi ro xem xét và quyết định.
3.8. Yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Trong một số trường hợp khách hàng hoạt động không có hiệu quả dù đã cố gắng nhưng vẫn không có khả năng trả nợ ngân hàng thì cho dù ngân hàng có cố áp dụng các biện pháp xử lý nợ như đã nêu trên cũng không có khả năng thu hồi nợ. Khi đó ngân hàng phải yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tài sản còn lại của doanh nghiệp được xử lý để thanh toán công nợ theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004.
*Phạm vi áp dụng
Việc yêu cầu toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán nợ một cách trầm trọng sau khi đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không có dấu hiệu phục hồi.
*Thủ tục :
Theo Luật Phá sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004 thì ngân hàng muốn yêu cầu Toà án tuyên bố doanh nghiệp phá sản để thu hồi nợ thì phải tuân theo thủ tục sau :
-Ngân hàng Thương mại làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp. Nội dung đơn yêu cầu được quy định tại Điều 13 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 15/6/2004.
-Toà án kinh tế thuộc Toà án Nhân dân Tỉnh thụ lý đơn, xem xét và quyết định.
-Việc xử lý tài sản của doanh nghiệp được quy định tại Luật phá sản doanh nghiệp.
-Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự :
+Chi phí giải quyết phá sản
+Nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội.
+Nợ thuế, ngân sách nhà nước.
+Nợ các chủ nợ khác
Như vậy, sau khi tài sản còn lại của doanh nghiệp được dùng để chi trả phí giải quyết tại toà, khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, nợ nhà nước nếu còn thì thanh toán đến các khoản nợ ngân hàng. Nếu tài sản của doanh nghiệp không đủ bù đắp khoản nợ thì ngân hàng sẽ dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp.
Đối với các khoản nợ quá hạn có dư nợ đến ngày 31/12/2000
Do tình hình nợ quá hạn tồn đọng tại các ngân hàng thương mại khá cao và việc xử lý nợ gặp khó khăn. Bởi vậy theo đề nghị của các ngân hàng thương mại về cơ cấu lại nợ xấu, lành mạnh tình hình tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 149/2001/QĐ-TTg ngày 05/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án xử lý nợ tại các ngân hàng thương mại. Nợ quá hạn có dư nợ đến ngày 31/12/2000 gọi tắt là nợ tồn đọng được xử lý theo quyết định này và các văn bản phát luật có liên quan bao gồm : nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm, nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại đang hoạt động.
4.1. Nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm
* Nguyên tắc xử lý : Xử lý nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm phải hoàn toàn tuân thủ theo nguyên tắc chung về xử lý nợ tồn đọng được quy định tại Điều 1 Quyết định 149/2001/QĐ-TTg. Việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại phải bảo đảm vững chắc; không tái diễn, không gây mất ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế. Phải có biện pháp tận thu nợ tồn đọng của ngân hàng để hạn chế tối đa tổn thất tài sản quốc gia và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
Ngoài ra việc xử lý nợ có tài sản bảo đảm còn phải tuân thủ theo nguyên tắc riêng như phải tiến hành xử lý công khai, nhanh chóng, đúng pháp luật.
*Phạm vi xử lý
Theo quy định tại khoản 3, Điều 1, Quyết định 149/20001/QĐ-TTg Chỉ thị số 01/2002/CT-NHNN ngày 07/01/2002 của Thống đốc NHNN về xử lý nợ quá hạn tại các NHTM.
Tài sản bảo đảm của các khoản nợ tồn đọng được xử lý bao gồm :
-Tài sản thế chấp, tài sản cầm cố, tài sản gán nợ, tài sản được toà án giao cho ngân hàng theo bản án quyết định của toà án đã có hiệu lực thi hành kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng.
-Tài sản bảo đảm nợ vay thuộc những vụ án được toà án phán quyết nhưng chưa giao cho ngân hàng quản lý.
-Tài sản có đầy đủ thủ tục pháp lý và không có tranh chấp
-Tài sản chưa được bán
*Cơ chế xử lý
Với đối tượng xử lý trên thì phải tuân theo cơ chế xử lý được quy định tại điểm 2.3 Chỉ thị số 01/2002/CT-NHNN.Cụ thể là các ngân hàng thương mại, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM được chủ động bán các tài sản bảo đảm nợ vay thộc quyền định đoạt của ngân hàng theo hình thức sau :
-Tự bán công khai trên thi trường theo hình thức bán đấu giá công khai
-Bán qua trung tâm dịch vụ bán đấu giá
-Bán cho công ty mua bán nợ nhà nước
+Tự bán công khai trên thị trường
Thủ tục bán công khai trên thị trường được quy định tại phần 2-Thông tư liên tịch 02/2002/TTLT/NHNN-BTP ngày 5/2/2002 hướng dẫn thực hiện quyết định 149.
NHTM, công ty quản lý nợ có thẩm quyền quyết định đưa tài sản ra bán đấu giá công khai, trực tiếp ký kết văn bản hoặc hợp đồng mua bán, chuyển nhượng tài sản, làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng. NHTM, công ty quản lý nợ thành lập hội đồng xử lý tài sản để tiến hành bán đấu giá công khai nhiệm vụ quyền hạn của hội đồng xử lý tài sản.
Thủ tục bán đấu giá công khai:
-Niêm yết, thông báo công khai việc bán tài sản tại trụ sở của NHTM,công ty quản lý nợ nơi bán đấu giá và trên báo địa phương hoặc bảo trung ương 2 lần, mỗi lần cách nhau 3 ngày, trước ngày tổ chức bán đấu giá 15 ngày. Với nội dung thông báo là : loại tài sản, địa điểm đăng ký mua tài sản, bán tài sản, phương thức bán, giá khởi điểm, điều kiện đối với người mua và các thông tin khác liên quan.
Tổ chức trưng bày, cho xem tài sản hoặc hồ sơ về tài sản
-Lập biên bản danh sách người đăng ký mua hợp lệ, căn cứ vào ngày đăng ký và khoản tiền đặt trước theo phần trăm giá khởi điểm. Trừ trường hợp tài sản là động sản có giá trị khởi điểm dưới 10 triệu đồng.
-Tiến hành bán đấu giá do người điều hành bán đấu giá chủ trì.
-Công bố kết quả bán đấu giá.
*Bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
Thủ tục bán tài sản qua trung tâm bán đấu giá được quy định tại Phần II –Thông tư liên tịch 02/2002/TTLT/NHNN-BTP ngày 5/2/2002 hướng dẫn thực hiện quyết định 149.
Theo quy định đây là việc bán đấu giá tài sản bảo đảm nhưng không do NHTM, công ty quản lý nợ trực tiếp đứng ra tổ chức bán đấu giá mà NHTM, công ty quản lý nợ uỷ quyền cho trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Theo đó NHTM, công ty quản lý nợ trực tiếp ký hợp đồng uỷ quyền bán đấu giá tài sản với trung tâm dịnh vụ bán đấu giá. Trung tâm dịnh vụ bán đấu giá thành lập hội đồng xử lý tài sản, chỉ định người điều hành bán đấu giá theo thủ tục bán đấu giácông khai.
*Bán cho công ty mua bán nợ Nhà nước
Thực chất đây chỉ là quy định trên giấy tờ mà không thể áp dụng vì kể từ đó đến nay Nhà nước chưa thành lập công ty mua bán nợ như quy định.
Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nợ gốc, lãi, lãi quá hạn cho NHTM, công ty quản lý nợ tạm giữ và thông báo cho người có tài sản bảo đảm hoặc cho cơ quan thi án nếu đó là tài sản bảo đảm được giao cho ngân hàng theo bản án, qyết định của toà án. Nếu số tiền thu được đó nhỏ hơn giá trị nợ tồn đọng thì NHTM xử lý phần chênh lệch đó bằng quỹ dự phòng rủi ro.
Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay không thuộc quyền định đoạt của NHTM, công ty quản lý nợ như tài sản của những vụ án đã được toà phán quyết nhưng chưa giao tài sản cho ngân hàng, tài sản chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và chưa có tranh chấp thì NHTM báo cáo ngân hàng Nhà nước trình ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính ngân hàng xem xét yêu cầu toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện thủ tục pháp lý giao cho NHTM để có thể tiến hành xử lý tài sản, thu hồi nợ.
Đối với tài sản bảo đảm nợ vay chhưa bán được thì NHTM, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản áp dụng các biện pháp như :Cải tạo, sửa chữa nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh,góp vốn, liên doanh bằng tài sản thu hồi nợ.
4.2. Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không có đối tượng thu hồi nợ
Đây là khoản nợ đến nay không còn đối tượng để thu hồi nợ, các ngân hàng thương mại phải phân loại nợ,hoàn chỉnh hồ so để thu nợ trình Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định xử lý nợ theo nguyên tắc được quy định tại Điều 1 Quyết định 149/2001/QĐ-TTg.
Nguyên tắc xử lý:
Việc xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại phải bảo đảm vững chắc; không tái diễn, không gây mất ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và nền kinh tế.
Phải có biện pháp tận thu nợ tồn đọng của các ngân hàng để hạn chế tối đa tổn thất tài sản quốc gia và tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
Thủ tục xử lý
Với các khoản nợ tồn đọng không còn đối tượng để thu hồi nợ được xử lý theo quy định tại Phần III- Công văn 174/NHNN-TÍN DụNG ngày 21/2/2001 như sau:
Đối với các khoản nợ chưa được xử lý khoanh nợ.
Đối với các khoản nợ này thì ngân hàng lập hồ sơ đề nghị khoanh nợ với nội dung:
Tài liệu liên quan đến tư cách vay vốn, bao gồm một số các văn bản sau:
+ Quyết định giải thể doanh nghiệp và phương án giải thể doanh nghiệp, báo cáo thanh lý tài sản doanh nghiệp (nếu có)
+ Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp
+ Trong trường hợp khách hàng đã giải thể, tự giải thể nhưng do một số điều kiện cụ thể không có quyết định giải thể. Phương án giải thể, báo cáo thanh lý tài sản thì phải có văn bản xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Các giấy tờ chứng minh người vay chết, mất tích có xác nhận của UBND, cơ quan công an cấp xã, phường.
+ Bản sao khế ước vay vốn hoặc giấy tờ chứng minh khách hàng còn nợ ngân hàng.
+ Biểu tổng hợp đề nghị xử lý nợ do ngân hàng lập có xác nhận của UBND, chi nhánh NHNN tỉnh thành phố trực thuộc trung ương nơi NHTM có trụ sở. Biểu tổng hợp đề nghị được lập theo mẫu quy định tại Công văn 174/NHNN-TD ngày 21/2/2001. Hồ sơ do Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM lập, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định khoanh nợ.
Đối với khoản nợ đã xử lý khoanh nợ
Nợ tồn đọng đã xử lý khoanh nợ từ trước ngày 05/10/2001 thì phải bổ sung thêm vào hồ sơ khoanh nợ văn bản chứng minh không còn đối tượng để thu hồi nợ (nếu thiếu).
Ngân hàng tiếp tục áp dụng các biện pháp để xử lý thu hồi nợ. Nếu vẫn không thu hồi được khoản nợ thì lập báo cáo trình lên Thủ tướng Chính phủ đề nghị xoá nợ.
Khoản nợ được xoá tại NHTM sẽ dùng ngân sách nhà nước để bù đắp, nếu thiếu thì NHTM lập biểu tổng hợp đề nghị xử lý nguồn bù đắp và báo cáo NHNN trình Thủ tướng xem xét quyết định.
4.3. Nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại đang hoạt động.
Đây là khoản nợ còn đối tượng để thu hồi, các ngân hàng thương mại phân loại, lập hồ sơ để xử lý theo nguyên tắc sau :
+Nguyên tắc
Các NHTM tiến hành thẩm định, xem xét rõ tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của con nợ để nhanh chóng có biện pháp xử lý hợp lý.
+Biện pháp xử lý
NHTM, công ty quản lý nợ của NHTM được hực hiện một số biện pháp xử lý như :
-Bán lại nợ để thu hồi vốn theo quy chế mua bán nợ thông thường.
-Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp và được chuyển nhượng phần vốn góp này. NHTM phải dùng vốn điều lệ, quỹ dự phòng tương ứng với phần nợ đã chuyển thành vốn góp vào doanh nghiệp và phải bảo đảm tỉ lệ vốn góp theo quy định của pháp luật.
-NHTM đánh giá lại các khoản nợ của doanh nghiệp Nhà nước để xác định giá trị thực còn của phần nợ và xử lý theo hướng dẫn của Nhà nước được quy định tại Thông tư số 74/2002/TT-BTC ngày 09/09/2002.
-Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, NHTM được cơ cấu lại nợ bằng nhiều hình thức thích hợp như giãn nợ, miễn giảm lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay thêm. Việc giãn nợ, miễn giảm lãi suất được thực hiện đúng theo quy định hiện hành.
NHTM sử dụng quỹ dự phòng rủi ro trích lập hàng năm để xử lý nợ không có tài sản bảo đảm và đối tượng thu hồi nợ còn đang tồn tại đang hoạt động.
Các quy định pháp lý về xử lý nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại hiện nay được phân loại rõ ràng theo loại nợ có thời gian khác nhau. Đối với các khoản nợ quá hạn phát sinh trước ngày 31/12/2000 được nhà nước đặc biệt quan tâm ban hành những quy chế pháp lý rõ ràng, các biện pháp xử lý cụ thể hơn tạo thế chủ động cho các ngân hàng thương mảitong việc xử lý nợ quá hạn tồn đọng. Đối với các khoản nợ quá hạn sau ngày 31/12/2000 áp dụng theo quy chế pháp lý hiện hành với rất nhiều các biện pháp xử lý khác nhau đối với các khoản nợ khác nhau.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ TẠI NHNo&PTNN CHI NHÁNH BẮC VĨNH YÊN.
Quá trình hình thành và phát triển NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên .
1.1. Quá trình hình thành của NHNo&PTNN Bắc VĨnh Yên.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT), một trong Ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu hiện nay. Được thành lập từ tháng 3/1988 trên cơ sở Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), sau 18 năm, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, NHNo&PTNN đã có sự phát triển khá mạnh mẽ, với tổng tài sản trên 220 ngàn tỷ đồng. Đặc biệt trong những năm qua, thực hiện Đề án tái cơ cấu 10 năm (2001-2010) do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, NHNo&PTNN đã có những đổi mới theo hướng một ngân hàng thương mại hiện đại và đã đạt được những kết quả to lớn, tạo nên những điểm mạnh khi bước vào hội nhập.
NHNo&PTNN với năng lực tài chính tăng khá nhanh và vững chắc. Trong 5 năm qua, nhờ sự ủng hộ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, vốn điều lệ đã tăng 3 lần (từ 2.200 tỷ đồng lên trên 6.500 tỷ đồng, xấp xỉ 450 triệu USD). Theo lộ trình đã được Chính phủ duyệt, các biện pháp tăng vốn sẽ được áp dụng mạnh hơn (Nhà nước cấp, tự phát hành trái phiếu, vay nước ngoài dài hạn…), phấn đấu cuối năm 2007, đạt mức an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế (Vốn điều lệ /Tổng tài sản có rủi ro =8%).Nợ tồn đọng đến cuối năm 2000, trên 5000 tỷ đồng, thời điểm trước khi bước vào thực hiện Đề án tái cơ cấu đã giải quyết được cơ bản.Từ năm 2001-2006, NHNo&PTNN đã trích lập quỹ dự phòng rủi ro 12.774 tỷ đồng, trong đó năm 2006 trích lập được 4.082,1 tỷ đồng, bù đắp không những khoản rủi ro mới phát sinh mà cả nhưng khoản rủi ro tiềm ẩn từ những khoản vay có tính chất chính sách, và chỉ định trong cơ chế tín dụng bao cấp từ các năm trước như : mía đường, bão lụt …
Năm 2005 là năm đầu tiên NHNo&PTNN có lãi theo kế toán Quốc tế (IAS). Nếu theo kế toán Việt Nam (VNS) thì NHNo&PTNN liên tục có lãi từ năm 1993. Như vậy, trong 1,2 năm tới, với tổng tài sản gần 16 tỷ đô la Mỹ, tỷ lệ vốn an toàn đạt tiêu chuẩn quốc tế, bảng cân đối tài chính khá lành mạnh, NHNo&PTNN sẽ có năng lực tài chính tối thiểu cần thiết so với các ngân hàng thương mại trong khu vực. NHNo&PTNT Việt Nam có tư cách pháp nhân đầy đủ theo pháp luật Việt Nam, hoạt động theo luật Tổ chức tín dụng, có trụ sở chính đặt tại số 2 phố Láng Hạ, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, gọi tắt tên tiếng Anh là Agribank, viết tắt VBARD. NHNo&PTNT Việt Nam dần chiếm vai trò chủ đạo, chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với các hoạt động kinh doanh đa năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho mọi khách hàng trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên đã ra đời để phục vụ cho mục tiêu chung của NHNo&PTNT Việt Nam.
Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên được thành lập theo quyết định số 104/QĐ-NHNo&PTNT-02 ngày 16/2/1996 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Có trụ sở nằm trên đường Hùng Vương - Đồng Tâm - Vĩnh Yên -Vĩnh Phúc. Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên là đại diện pháp nhân, có con dấu riêng, hoạch toán kinh tế nội bộ, có bảng cân đối tài khoản, hoạt động theo luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, và theo điều lệ qui chế của NHNo&PTNT Việt Nam.
Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên là một ngân hàng cấp II trực thuộc tỉnh, có nguồn vốn chủ sở hữu là 3.016 triệu đồng, nguồn vốn huy động là 58 tỷ đồng, dư nợ cho vay bình quân 76 tỷ đồng (số liệu năm 2006). Mục tiêu kinh doanh của ngân hàng là an toàn hiệu quả, phấn đấu trở thành ngân hàng loại I ngân hàng đứng hàng đấu trong tỉnh, vì sự thành đạt của khách hàng và mọi doanh ngiệp dựa trên việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đúng theo chính sách, pháp luật của nhà nước. Cho đến nay NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên đã nhanh chóng bắt kịp với những biến động của thị trường và thực hiện đúng chức năng của một ngân hàng thương mại, trở thành ngân hàng kinh doanh lớn có hiệu quả, có đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp nông thôn ở Vĩnh Phúc. Từ một ngân hàng bé nhỏ cả về mạng lưới, về quy mô nguồn vốn dư nợ và nguồn tài chính đến nay chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên đã là hệ thống rất phát triển về mọi mặt của lĩnh vực hoạt động, đảm bảo việc làm và thu nhập cho lao động, xu hướng phát triển vững chắc, ổn định, thành quả của NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên đã khẳng định quyết tâm trong chỉ đạo điều hành của ban lãnh đạo, sự phấn đấu không mệt mỏi của tập thể nhân viên, tin tưởng thời gian tới sự nghiệp của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên sẽ tốt đẹp.
1.2. Chức năng và nhiệm vụ của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Vĩnh Yên.
1.2.1.Chức năng:
- Trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn theo phân cấp của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc
- Tổ chức và điều hành kinh doanh, quản lý và kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo uỷ quyền của Giám đốc NHNo & PTNT tỉnh
- Thực hiện các chức năng khác theo sự uỷ quyền của giám đốc NHNo&PTNT tỉnh.
1.2.2. Nhiệm vụ:
* Huy động vốn
- Khai thác và nhận tiền gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo các quy định của NHNo&PTNT.
- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính Phủ, chính quyền địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của Ngân Hàng Nông Nghiệp
- Được phép vay vốn của các tổ chức tín dụng, tài chính trong nước khi Tổng giám đốc NHNo&PTNT cho phép.
* Cho vay:
- Cho vay ngắn hạn (dưới 12 tháng); cho vay trung hạn (từ 2 – 3 năm); cho vay dài hạn (từ 3- 5 năm) bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với tổ chức kinh tế.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
* Kinh doanh ngoại hối: Huy động vốn, cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính Phủ, ngân hàng Nhà Nước và ngân hàng Nông Ngiệp
* Kinh doanh dịch vụ thu, chi tiền mặt; dịch vụ thẻ tín dụng; nhận cất giữ chiết khấu các loại giấy tờ có giá trị được bằng tiền.
* Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh NHNo&PTNT trực thuộc địa bàn .
* Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo&PTNT.
* Làm dịch vụ ngân hàng phục vụ người nghèo.
* Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đạo tạo, thi đua khen thưởng và phân cấp uỷ quyền của ngân hàng Nông Ngiệp.
* Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ. chế định, nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định của ngân hàng Nông Ngiệp.
* Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế, quy chế nghiệp vụ và văn bản pháp luật của nhà nước, ngành ngân hàng và ngân hàng nông nghiệp có liên quan đến hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT.
* Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng và đề ra kế hoạ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32012.doc