Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc Trường ĐHKTQD, các anh chị là cán bộ tổ tín dụng công nghiệp thuộc phòng kinh doanh ngân hàng công thương Đống Đa và đặc biệt là thầy giáo Phạm Văn Luyện chủ nhiệm bộ môn Luật - ĐHKTQD đã dành nhiều thời gian hướng dẫn nội dung chuyên đề một cách tận tình, chu đáo để em có thể hoàn thành tốt bài viết này.
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện NQ của BCHTW Đảng và NQOF HĐBT (nay là Chính phủ) về việc chuyển hoạt động ngâ
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm tài sản và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hàng sang hạch toán kinh doanh và hình thành ngân hàng 2 cấp, từ tháng 7/1988 hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm: NHTW, hệ thống các NHTM, và các tổ chức tín dụng; trong đó 4 NHTMQ là định chế trung gian tài chính, hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu cơ bản là lợi nhuận.
Sau hơn 10 năm đổi mới, hệ thống NHTMQDVN đã không ngừng lớn mạnh cả về tổ chức và quy mô hoạt động, đã tập trung và cung cấp một khối lượng vốn lớn để phục vụ cho công cuộc CNH-HĐH đất nước tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây hoạt động của NHTM nói chung các NHTMQD nói riêng đã bộc lộ nhiều tồn taị, yếu kém như: Chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao, quy mô vốn nhỏ, sức cạnh tranh lớn...Và đặc biệt đáng chú ý là những khó khăn trong việc áp dụng và xử lý bảo đảm tiền vay.
Nằm trong hệ thống NHTMQDVN, Ngân hàng công thương Đống Đa là một chi nhánh mạnh của NHCTVN, hoạt động của chi nhánh không những đóng góp to lớn cho hệ thống NHCTVN mà còn cho cả thủ đô Hà Nội. Xong cũng giống như bao NHTM khác Ngân hàng công thương Đống Đa cũng đang gặp phải những khó khăn trên.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, được sự hưỡng dẫn nhiệt tình của thầy cô và các anh chị là cán bộ phòng kinh doanh của ngân hàng công thương Đống Đa, em đã lựa chọn đi sâu nghiên cứu vấn đề này với đề tài "Quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm tài sản và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng công thương Đống Đa" với đề tài này em mong muốn đưa ra những giải pháp có căn cứ khoa học và thực tiễn góp phần giải quyếtvấn đề bức xúc trên.
2. Mục đích của đề tài
- NGhiên cứu cơ sở lý luận về quy chế bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng của các NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện quy chế bảo đảm tiền vay.
- Đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện quy chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bảo đảm tiền vay của NHTMVN. Tập trung nghiên cứu quy chế cho vfay có bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng công thương Đống Đa (từ năm 2000-2002), từ đó tập hợp những tồn tại, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc thực hiện quy chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại ngân hàng công thương Đống Đa và các NHTMVN.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Bài viết sử dụng kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp khảo nghiệm tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê phân tích tổng hợp. Ngoài ra bài viết còn sử dụng các bảng biểu, sơ đồ để tính toán và minh hoạ thực tế.
5. Đóng góp của bài viết.
Phân tích, đánh giá thực trạng về quy chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản của chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tháo gỡ những khó khăn của các NHCTVN trong vấn đề trên.
Kết quả nghiên cứu của bài viết có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay tại ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng, các NHTMVN nói chung.
6. Kết cấu của bài viết.
Ngoài phần mở bài và kết luận, bài viết được chia làm 3 chương như sau:
- Chương I: Chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
- Chương II: Thực tiến áp dụng quy chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng tại ngân hàng công thương Đống Đa.
- Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoạt động chế độ pháp lý về cho vay có bảm đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa.
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương I
Chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng Ngân hàng
I. Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại
Có thể nói sự phát triển của lực lượng sản xuất và ngoại thương là những nguyên nhân cơ bản nhất đã đến sự ra đời và phát triển của ngành Ngân hàng.
Khi hai nhân tố trên phát triển nhu cầu trao đổi lưu thông hàng hóa đã không chỉ dừng lại trong phạm vi một quốc gia mà đã vượt ra ngoài biên giới của các quốc gia. Cơ hội làm giàu nhờ buôn bán, sản xuất các mặt hàng phù hợp nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước là rất lớn, chính cái động lực ấy thôi thúc một số người tập trung vốn để đầu tư và thậm chí để đủ vốn đầu tư họ không ngần ngại đi vay thêm vốn. Ngược lại với họ một số người giàu có không muốn mình phải vất vả như vậy mà đồng tiền của họ vẫn sinh lời, để làm được điều đó họ đem vốn của mình cho những người cần vốn vay và tính tiền lãi đến một thời hạn nhất định do hai bên (vay và cho vay) thỏa thuận người đi vay trả lại tiền cho người vay kèm theo tiền lãi. Hoạt động này lúc đầu diễn ra lẻ tẻ bộc phát và thường là hai bên đều rất tin tưởng nhau, nhưng rồi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và ngoại thương, ngày càng có nhiều nhu cầu mượn vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh đã dẫn hình thành nên sự chuyên môn hóa về người cho thuê tài chính hay còn gọi là ngân hàng.
Ngân hàng đầu tiên trên thế giới là ngân hàng Bancadi Bascelona của Tây Ba Nha được thành lập 1401 với các chức năng cơ bản của ngân hàng là nhận giữ tiền, tài sản có giá trị hộ và cho vay tính lãi.
Từ thế kỷ 17 trở đi ngành Ngân hàng đã hình thành nên một hệ thống Ngân hàng và có mặt ở hầu hết các nước châu Âu, chính sự xuất hiện và vai trò của Ngân hàng đã góp phần rất to lớn vào sự phát triển của xã hội châu Âu và cuộc cách mạng khoa học nửa cuối thế kỷ 19, lúc này ngân hàng không chỉ nhận giữ hộ tài sản và cho vay tính lãi mà còn nhận giữ tiền có trả lãi tức là ngân hàng thực sự trở thành trung gian tài chính giữa người chưa có nhu cầu sử dụng vốn ngay. Có thể nói lúc này không một thành phố công nghiệp nào của thế giới lại thiếu sự tồn tại và góp công của ngân hàng, ngân hàng và công nghiệp trở thành hai lĩnh vực luôn tồn tại song song cùng nhau.
Cho đến sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhân loại khép lại trang sử của chiến tranh và bước sang thời kỳ tái thiết và xây dựng, chính yêu cầu tất yếu đó đã tạo ra một triển vọng mới cho công nghiệp và ngân hàng phát triển và tất yếu hình thành lên các ngân hàng quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank: WB) ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS); Quỹ tiền tệ quốc tế (Internaltional Moneytary Fun: IMF). Các ngân hàng tạo điều kiện cho sự phối hợp chính sách tài chính – tiền tệ giữa các nước, khơi thông sự luân chuyển vốn, góp phần tương hỗ thúc đẩy kinh tế của các nước thành viên và toàn thế giới phát triển.
ở Việt Nam quá trình hình thành và phát triển của ngành ngân hàng làm hai giai đoạn sau:
Giai đoạn đầu là giai đoạn hệ thống ngân hàng 1 cấp, ngân hàng một cấp được gọi là ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập ngày 06/5/1951 theo sắc lệnh số 15-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Ngân hàng quốc gia có nhiệm vụ:
- Phát hành giấy bạc, điều hòa lưu thông tiền tệ.
- Quản lý ngân sách quốc gia.
- Quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch quốc tế.
- Quản lý kim dung bằng các thể lệ hành chính.
- Đấu tranh tiền tệ với địch.
- Huy động vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để phát triển sản xuất.
Nhìn chung hệ thống Ngân hàng cấp 1 phù hợp với điều kiện nền kinh tế tập trung và phù hợp với một quốc gia còn đang có chiến tranh như Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là đổi mới có chế quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước ta coi trọng việc đổi mới ngân hàng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng, có tính chất đột phá, mở đường. Với việc ban hành nghị định số 53/NĐ-HĐBT ngày 26/8/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng về việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng 2 cấp, tách biệt chức năng quản lý và chức năng chuyên doanh:
- Cấp một: là Ngân hàng Nhà nước hay còn gọi là Ngân hàng Trung ương, có chức năng quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền tệ và tổ chức thanh toán trong nền kinh tế.
- Cấp hai: bao gồm các Ngân hàng thương mại (ngân hàng chuyên doanh) có chức năng trực tiếp kinh doanh tiền tệ đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, lúc đầu sự phân cấp của Ngân hàng như trên vẫn chưa thể ứng dụng thực tế hiệu quả vì nhiều nguyên nhân khác nhau, mãi tới khi Quốc hội thông qua hai pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Do Quốc hội thông qua ngày 13/5/1990, hệ thống Ngân hàng hai cấp của Việt Nam mới thực sự được xây dựng và có đủ quy chế pháp lý điều chỉnh phù hợp với nền kinh tế hàng hóa, thị trường. Lúc này toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam được chia thành hai cấp như sau:
- Cấp I: Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương)
- Cấp II: Các Ngân hàng thương mại: Ngân hàng chuyên doanh, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng và Ngân hàng đầu tư và phát triển.
Đến 12/12/1997 luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua và thay thế cho hai pháp lệnh về ngân hàng năm 1990 đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện xây dựng hệ thống Ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả, an toàn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng, giao lưu và hòa nhập với kinh tế thế giới.
Hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm 4 ngân hàng thương mại.
+ 1. Ngân hàng Công thương Việt Nam
+ 2. Ngân hàng Đầu tư và phát triển.
+ 3. Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT.
+ 4. Ngân hàng Ngoại thương.
Trong 4 ngân hàng thương mại trên thì Ngân hàng Công thương và Ngân hàng Nông nghiệp là hai ngân hàng thương mại tổng hợp chủ yếu, thực hiện hầu hết các chức năng của Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường, và ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc gia.
Ngân hàng Công thương Việt Nam được tạo ra từ vụ tín dụng công thương của Ngân hàng Nhà nước. Do các khách hàng của lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp chủ yếu ở các đô thị mạng lưới chi nhánh gồm 30 chi nhánh tỉnh và 60 chi nhánh cấp huyện đã được chuyển sang ngân hàng công thương Việt Nam.
- ngân hàng nông nghiệp Việt Nam được thành lập từ vụ tín dụng nông nghiệp của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Do phần lớn khách hàng nông nghiệp ở lĩnh vực nông thôn, nên 440 chi nhánh tại các vùng nông thông đã chuyển sang cho ngân hàng nông nghiệp.
2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại trước hết là một doanh nghiệp, nhưng là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Chính vì vậy đối tượng hoạt động của ngân hàng là tiền tệ một thứ hàng hết sức đặc biệt so với các hàng hóa khác. Sự đặc biệt đó được thể hiện qua các hoạt động chủ yếu của ngân hàng như sau:
* Hoạt động huy động vốn (đầu vào)
Theo các điều 45, 46, 47, 48 luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 thì Ngân hàng thương mại được phép huy động vốn bằng các biện pháp sau:
- Ngân hàng được nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền giử không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác để huy động vốn của cá nhân trong và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định tại khoản 1. Điều 30 luật Ngân hàng Nhà nước.
* Hoạt động tín dụng (đầu ra).
Theo điều 49, luật các tổ chức tín dụng quy định. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
1. Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
2. Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đều tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đời sống”.
- Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín, khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Chỉ có Ngân hàng thương mại được phép hoạt động thanh toán quốc tế mới được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khi mà người nhận bảo lãnh là tổ chức cá nhân nước ngoài.
- Các Ngân hàng thương mại có thể thực hiện cho thuê tài chính đối với các tổ chức, cá nhân nhưng phải thông qua trung gian và công ty tài chính.
* Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Theo các điều 65, 66, 67, 68 luật các tổ chức tín dụng trên. Để tiến hành được hoạt động thanh toán và ngân quỹ, các tổ chức tín dụng phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương quy định.
Các tổ chức tín dụng được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước, cung ứng các phương tiện thanh toán thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ. Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Ngân hàng thương mại (các tổ chức tín dụng) được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
* Các hoạt động khác.
Theo các điều từ 69 đến 75 luật các tổ chức tín dụng: Ngân hàng thương mại (các tổ chức tín dụng, được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật, tham gia thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước tổ chức tổ chức bao gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Các tổ chức tín dụng được kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong và ngoài nước khi được Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Ngân hàng thương mại được uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân theo hợp đồng, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính tiền tệ cho khách hàng, cung ứng bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
3. Chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại
a) Chức năng:
Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay thực hiện các chức năng sau:
a1. Chức năng trung gian tín dụng:
Đây là trong những chức năng cơ bản nhất và thể hiện sự khác biệt cơ bản nhất giữa Ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp khác. Trong khi đối với doanh nghiệp khác cae đầu vào và đầu ra đầu là “hàng” thì đối với Ngân hàng thương mại đầu vào, đầu ra đều là “tiền”, tức là ngân hàng bằng các biện pháp được pháp luật cho phép huy động mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư lại và dùng số tiền đó đem cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay để thực hiện các mục đích kinh tế của họ mà pháp luật cho phép và đến một thời hạn do hai bên thỏa thuận các tổ chức, cá nhân đó lại đem hoàn trả số vốn vay ban đầu kèm theo một khoản lợi gọi là phí sử dụng vốn; ngược lại ngân hàng lại phải dùng số tiền đó đem trả lại cho các cá nhân, tổ chức mà họ đã giử tiền của họ vào ngân hàng, số tiền này bao gồm gốc và khoản lợi theo phần trăm được hưởng. Tất nhiên vì cũng là một doanh nghiệp nên ngân hàng cũng thu được một khoản lời nhờ chênh lệch tỷ lệ phần trăm tiền gửi và tiền cho vay.
Như vậy với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại góp phần thúc đẩy lưu thông, thực hiện tích cực việc phân phối, điều hòa nhu cầu vốn và đẩy mạnh phát triển sản xuất, cải thiện đời sống xã hội.
a2. Chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán:
Ngân hàng thương mại cho phép các cá nhân, tổ chức mở tài khoản tại Ngân hàng và trở thành khách hàng của ngân hàng khi khách hàng mở tài khoản, ngân hàng trở thành thủ quỹ của khách hàng tức là nhập vào, chi ra bao nhiêu đều tuân theo lệnh của khách hàng, thậm chí khi tài khoản của khách hàng báo hết tiền ngân hàng vẫn thực hiện theo lệnh chi của khách hàng và khoản chi đó sẽ được báo nợ tại ngân hàng hay nói cách khác khoản chi đó là khách hàng cho khách hàng mượn chính vì lý đó và ý nghĩa người ta vẫn xem chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán là hai chức năng gắn bó hữu cơ với nhau trong các chức năng của Ngân hàng thương mại. Nhờ có chức năng trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán ngân hàng giúp cho khách hàng của nó tiết kiệm được đáng kể các chi phí dịch vụ, và chi phí thời gian đồng thời đẩy nhanh mức độ luân chuyển vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa và tiết kiệm được nhiều chi phí khác có liên quan.
a3. Chức năng tạo ra số nhân tiền
Số nhân tiền là thương số giữa số tiền thực tế lưu thông trong thị trường với số tiền mà Ngân hàng Nhà nước tung ra.
Ban đầu Ngân hàng Nhà nước ấn định số tiền cần lưu thông trên thị trường và thông qua Ngân hàng thương mại. các ngân hàng này thực hiện chức năng trung gian tín dụng và nhờ đó số nhân tiền được ngân hàng tạo ra. ý nghĩa của số nhân tiền là ở chỗ tiền thực tế lưu thông lớn hơn số tiền mà Ngân hàng Nhà nước tung ra rất nhiều.
a4. Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: trong quá trình hoạt động Ngân hàng luôn có được quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp có được các điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin. Với những điều kiện đó ngân hàng có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho khách hàng, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu đảm bảo đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí ngoài ra ngân hàng có thể kinh doanh các dịch vụ khác như: cho thuê tủ két, làm trung giam mua bán chứng khoán…
a5. Chức năng tài trợ ngoại thương và mở rộng nghiệp vụ quốc tế:
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa thương mại đã trở thành điều tất yếu; hoạt động kinh doanh đối ngoại do đó sẽ rất phát triển, các hoạt động xuất nhập khẩu sẽ không nếu thiếu đi sự giúp đỡ của ngân hàng, chính vì lẽ đó ngân hàng với chức năng tài trợ ngoại thương và mở rộng nghiệp vụ quốc tế có thể giúp doanh nghiệp giữa các quốc gia có truyền thống khác nhau tin tưởng nhau thông qua một trung gian là ngân hàng hay nói một cách khác Ngân hàng đứng ra bảo lãnh, cam kết với bên kia rằng họ sẽ được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng nếu họ thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể giúp khách hàng của mình mở tài khoản tại các quốc gia khác nhau để hỗ trợ thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch quốc tế .
b) Vai trò:
Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, ngân hàng giữ vai trò vô cùng qua trọng mà nếu không để ý ít người có thể hình dung. Thực tế cạnh tranh thị trường giữa các Ngân hàng thương mại đã khiến các ngân hàng phải đua nhau không chỉ trong mức lãi suất tín dụng mà trên nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác và từ đó đóng góp vào nền kinh tế những vai trò vô cùng quan trọng. Vai trò của ngân hàng được thể hiện như sau:
b1. Vai trò trung gian: Ngân hàng thương mại thực hiện huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư lại tập trung chúng và chuyển thành các khoản tín dụng cho các thành phần kinh tế đầu tư nhờ đó sẽ tiết kiệm được chi phí về vốn và thời gian góp vốn thúc đẩy xã hội phát triển.
b2. Vai trò thanh toán: Ngân hàng có vai trò thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ Séc, cung cấp mạng lưới thánh toán điện tử , kết hợp các quỹ và phân phối tiền giấy, tiền đúc.
b3. Vai trò người bảo lãnh: Ngân hàng có thể cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán, nhờ đó quá trình trao đổi hàng hóa, thông thường sẽ không bị đình trệ (chẳng hạn phát hành thư tín dụng).
b4. Vai trò địa lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán với vai trò này ngân hàng có thể tạo cho khách hàng cơ hội tiết kiệm chi phí cả về kinh tế và thời gian (thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
b5. Vai trò thực hiện chính sách: Ngân hàng thương mại nhờ có thể tạo ra số nhân tiền và quản lý các luồng tiền vào, ra do đó nó thường được Chính phủ sử dụng như là một công cụ hữu hiệu góp phần điều tiết tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
II. Tín dụng ngân hàng và các nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
1. Khái niệm, đặc điểm bản chất và vai trò của tín dụng Ngân hàng.
a) Khái niệm:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, tồn tại khách quan, phát sinh khi một bên (chủ nợ giao cho bên kia con nợ, sử dụng một số tiền nhất định, đến hạn trả nợ, người vay phải trả cho người cho vay số tiền đã vay kèm theo một khoản lãi mà hai bên đã thỏa thụân trước.
Tín dụng được biểu hiện ra bằng sự vận động của vốn cho vay diễn ra dưới hai hình thức: tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại phát sinh khi các thương nhân, các doanh nghiệp bán chịu cho nhau và nó phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người bán và khả năng trả nợ của người mua. Trong tín dụng thương mại, vốn cho vay là các hàng hóa chứ không phải là tiền nhàn rỗi và thường có kỳ hạn tương đối ngắn và trong phạm vi một chu kỳ sản xuất. Công cụ lưu thông của tín dụng thương mại chủ yếu là các thương phiếu. Theo điều 219, Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/5/97 thương phiếu là chứng chỉ ghi nhận sự cam kết thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Nói chung tín dụng thương mại ngày nay không phát triển lắm vì các nhược điểm của nó là: quy mô bị hạn chế vì số lượng hàng bán chịu thường chỉ trong một thời hạn không lớn; và đối tác phải có uy tín, có quá trình làm ăn lâu dài với nhà cung cấp, mặt khác tín dụng thương mại thường chỉ có thời hạn là một chu kỳ sản xuất, nếu sản xuất bị đình trệ một chu kỳ thì sẽ gây khó khăn cho cả hai phía. Do các nhược điểm ấy tín dụng thương mại tỏ ra kém phát triển hơn tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch bằng tiền giữa ngân hàng với bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
b) Đặc điểm và bản chất của tín dụng ngân hàng:
* Đặc điểm:
Hoạt động tín dụng ngân hàng bao gồm hai nghiệp vụ chính: Huy động vốn và cho vay. Thực hiện hoạt động huy động vốn ngân hàng trở thành người đi vay, đi thu gom mọi nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngược lại trong hoạt động cho vay ngân hàng trở thành người cho vay, nhà tài trợ cho các dự án của các thành phần kinh tế.
Cả huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thái tiền và đó chính là một đặc điểm nổi bật nhất để phân biện ngân hàng với các doanh nghiệp khác. Ngoài ra trong quan hệ tín dụng người cho vay (tức ngân hàng) chỉ trao đổi quyền sử dụng vốn chứ không trao đổi quyền sở hữu vốn cho người khác.
* Bản chất:
Tín dụng ngân hàng ra đời có một vai trò vô cùng quan trọng đó là điều hòa nhu cầu tạm thời về vốn, chuyển đồng vốn từ những người có nó nhưng hiện chưa có nhu cầu chi tiêu sang những người cần có nó ngay để chi tiêu cho đầu tư nhờ vậy xã hội sẽ không ngừng phát triển, và đồng vốn luôn có cơ hội được sinh lời. Như vậy có thể nói bản chất của tín dụng là quan hệ phân phối dựa trên nguyên tắc hoàn trả vốn.
c) Vai trò của tín dụng ngân hàng:
c1. Tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn bao giờ cũng là điều kiện cần đầu tiên trong mọi giai đoạn của sản xuất kinh doanh. Hiện tượng thừa, thiếu vốn vẫn luôn tồn tại song song với quá trình sản xuất kinh doanh, khi doanh nghiệp này thừa vốn ở giai đoạn này thì lại là lúc doanh nghiệp khác thiếu và ngược lại. Và đối với các nhà đầu tư họ luôn muốn đồng tiền của mình phải sinh lời ngay cả khi họ chưa có nhu cầu đầu tư trực tiếp, trong khi đó những nhà đầu tư khác lại cần vốn để trực tiếp đầu tư và sẵn sàng trả phí sử dụng vốn cho người có nó. Như vậy nếu có sự chuyển nhượng từ người này sang người kia thì hai bên đều có lợi. Hai bên có thể trực tiếp gặp nhau song thông thường sẽ là rất mất thời gian và tốn kém. Nếu có một người khác đứng ra làm trung gian người này chủ động tìm hai người kia thì mọi việc sẽ trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều. Chính vì vậy ngân hàng đã ra đời và đảm nhận vai trò nhà trung gian. Thông qua ngân hàng mọi nguồn tiền nhàn rỗi hiện tại được ngân hàng gom thu lại và trao cho các nhà đầu tư cần nó và như vậy đồng vốn luôn được lưu thông và sinh lời không chỉ cho nhà đầu tư mà còn cho cả người không đầu tư nhưng sở hữu nó.
Có thể nói vai trò trung gian tín dụng của ngân hàng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, và góp phần tích cực vào thúc đẩy sự phát triển sản xuất của các doanh nghiệp và sản phẩm của xã hội.
c2. Tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nên việc tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế trọng điểm là hết sức cần thiết để từng bước tạo dựng thế mạnh của đất nước, để thực hiện điều đó Đảng và Nhà nước ta chỉ sử dụng ngân sách thôi thì chưa đủ mà cần phải có sự tham gia của ngân hàng, ngân hàng bằng các nghiệp vụ của nó thu gom vốn nhàn rỗi lại và tập trung đầu tư theo định hướng của Chính phủ nhờ đó các công trình đồ sộ của đất nước luôn có đủ vốn để hoạt động.
c3. Nâng cao chế độ hạch toán kinh tế của doanh nghiệp.
Khi đem vốn cho các doanh nghiệp vay, ngân hàng đòi hỏi ở doanh nghiệp phải quan tâm sát sao hơn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí, tăng vòng quay của vốn. Tức là phải thực hiện nghiêm mặt chế độ hạch toán kinh tế vì có như vậy kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mới đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Thực tế đây là nguyên tắc bắt buộc của các tổ chức tín dụng khi cho khách hàng vay, song chúng ta thấy rõ rằng nguyên tắc đó một cách không cố ý đã nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh nghiệp và thực tế đã có không ít khách hàng sau khi làm việc với ngân hàng họ đã cải thiện được tình hình kinh doanh.
c4. Kiềm chế và đẩy lùi làm phát.
Lạm phát được sinh ra và phát triển song song cùng với kinh tế thị trường đôi khi lạm phát có lợi và đôi khi lại có hại đặc biệt khi nó ở mức cao. Nếu ở mức cao lạm phát có thể kiến đồng tiền mất giá làm giá cả tăng vọt, sản xuất đình trệ trong khi thị trường lại khan hiếm hiện tượng này có thể thấy rất rõ ở áchentina trong mấy năm trước, chính vì vậy rất cần bàn tay nào đó có đủ khả năng ngăn chặn và đẩy lùi lạm phát.
Ngân hàng với chức năng của mình có thể huy động mọi nguồn tiền của xã hội lại và lại tung ra thị trường đầu tư, có thể hạn chế đầu tư bằng việc tăng mức lãi suất để giữ tiền không cho lưu thông hay khuyến khích đầu tư bằng việc hạ thấp lãi suất để thả tiền ra lưu thông, chính nhờ có khả năng đó Chính phủ luôn coi ngân hàng làm một công cụ đắc lực để điều chỉnh lạm phát, nếu lạm phát xảy ra Chính phủ có thể buộc ngân hàng tăng mức lãi suất huy động và cho vay như vâỵ tiền lưu thông sẽ giảm xuống lạm phát được hạn chế và có thể bị đẩy lùi.
Vì lạm phát đôi khi là cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu nó ở mức hợp lý nên đôi khi Chính phủ cũng thông qua ngân hàng tăng thêm lượng cung ứng tiền tệ ra để nâng mức lạm phát, mức cao như thế nào là tuỳ thuộc từng hoàn cảnh kinh tế của mỗi quốc gia và ngân hàng có thể điều chỉnh được mức đó.
c5. Là cầu nối thúc đẩy quan hệ giao lưu kinh tế trong nước và thế giới.
Toàn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu đối với hầu hết các quốc gia và kèm theo nó luôn là sự chuyển dịch đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác với một lượng vốn vô cùng lớn bên cạnh những dòng vào, ra hàng hóa và ngân hàng luôn được đề cập đến trong mọi hoạt động chuyển vốn và thanh toán quốc tế được thực hiện trôi chảy và hỗỉ trợ đắc lực cho việc phát triển kinh tế toàn cầu.
Nói chung: tín dụng ngân hàng là nhân tố có vai trò tích cực trong nền kinh tế nói chung và đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp nói riêng. Nó tạo ra thị trường vốn cho các doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp có động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi nhuận, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế từ đó đóng góp chung vào sự phát triển của đất nước và nền kinh tế toàn cầu.
2. Các nguyên tắc của hoạt động tín dụng ngân hàng
a) Nguyên tắc vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư, hàng hóa tương đương. Giá trị bảo đảm là cơ sở hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dung.
Cho vay có bảo đảm biểu hiện bằng việc cho vay có cầm cố, thế chấp… động sản, bất động sản và các khoản phải thu… yêu cầu của tài sản bảo đảm mới được vay ngân hàng. Điều quan trọng là khách hàng phải có dự án khả thi có uy tín trong kinh doanh.
Còn tài sản bảo đảm là nhằm bớt rủi ro, mất mát cho ngân hàng trong từng trường hợp người vay không muốn hoặc không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Mỗi một khoản tín dụng đều chứa đựng những rủi ro nhất định do những yếu tốc khách quan mà ta không lường trước được tác động đế kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng, chính vì thế kế hoạch trả nợ không còn dùng như trong hợp đồng tín dụng hoặc có thể dẫn đến khách hàng không trả được nợ. Vì vậy bảo đảm sẽ giúp cho ngân hàng thu lại được vốn của mình.
Bảo đảm bằng tài sản chủ yếu áp dụng với khách hàng còn mới đối với ngân hàng hoặc khách hàng có hệ thống tài chính không đảm bảo, trong trường hợp này bảo đảm là cơ sở để thu hồi vốn khi khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thể thu hồi.
b) Nguyên tắc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả kinh tế.
Khi trình hồ sơ xin vay vốn khách hàng phải gửi tới ngân hàng các giấy tờ cần thiết theo pháp luật quy định và trong đó nhất thiết phải có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, mục đích của yêu cầu này là để đảm bảo rằng đồng vốn mà ngân hàng cấp cho khách hàng phải có khả năng thu hồi. Chính vì vậy sau khi cấp tín dụng cho khách hàng ngân hàng luô._.n giám sát kế hoạch sử dụng vốn xem khách hàng có sử dụng đúng như kế hoạch hay không. Nếu trong sử dụng sai sót với kế hoạch sử dụng vốn ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng hoàn trả lại ngay khoản tín dụng đã cấp.
c) Nguyên tắc vốn vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn.
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế của ngân hàng trước khi là nhà cho vay cũng là người đi vay, vì đi vay nên ngân hàng cũng phải cam kết với những người đưa tiền cho ngân hàng rằng đến thời hạn do hai bên thỏa thuận ngân hàng phải hoàn trả cho họ cả gốc và khoản lãi. Do đó ngân hàng cũng phải yêu cầu khách hàng vay mình cũng phải hoàn trả gốc – lãi đúng hạn để ngân hàng thực hiện nghĩa vụ của họ với những người đưa tiền cho ngân hàng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay việc thực hiện hợp đồng đúng thời hạn là cơ sở để tạo uy tín của doanh nghiệp và đồng thời cùng với yêu cầu buộc thực hiện hợp đồng đúng thời hạn còn buộc ngân hàng và mọi doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động hiệu quả hơn có vậy mới mong tồn tại trong cơ chế thị trường ngày nay.
d) Nguyên tắc phân tán rủi ro không dồn vốn cho một loại tổ chức kinh tế vay.
Nguyên tắc này nhằm mục đích đa dạng khách hàng phân tán rủi ro tránh tình trạng tập trung dồn vốn cho một số ít khách hàng lớn.
Giả sử rằng ngân hàng dồn vốn cho một số khách hàng vay như vậy đồng nghĩa với việc ngân hàng đã gắn số phận của nó với khách hàng của nó tính là nếu số khách hàng đó bị phá sản thì ngân hàng cũng bị phá sản theo.
Chính vì vậy ngân hàng cần thiết phải đa dạng khách hàng và đối với mỗi khách hàng mức tín dụng cấp tối đa không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng (điều 18 quy chế cho vay của tổ chức tín dụng ban hành theo quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/1991 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước). Mục đích của quyết định 1627 trên là nhằm tạo cho ngân hàng hướng phát triển bền vững lâu dài.
3. Hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hình thức pháp lý bằng văn bản xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của mỗi bên trong việc cấp và hoàn trả vốn nay. Hợp đồng tín dụng có thể là hợp đồng kinh tế cũng có thể là hợp đồng dân sự tuỳ thuộc vào mục đích, chủ thể của hợp đồng, do đó luật điều chỉnh có thể là pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989) hoặc Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a) Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Chủ thể của hợp đồng tín dụng bao gồm bên cho vay là ngân hàng (các tổ chức tín dụng) và bên đi vay là các thành phần kinh tế. Theo khoản 2, điều 2, cơ chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì khách hàng vay của tổ chức tín dụng bao gồm:
- Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 Bộ luật Dân sự.
- Cá nhân
- Hộ gia đình.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài.
Tất cả các khách hàng nói trên khi vay tại các Ngân hàng thương mại đều trở thành chủ thể của hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên pháp luật quy định khách hàng vay vốn tại ngân hàng phải có đủ điều kiện sau:
+ Có đủ năng lực pháp luật dân sư, năng lực hành vi dân sư và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
+ Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Có phương án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng của Ngân hàng Nhà nước.
b) nội dung cơ bản của hợp đồng tín dung.
Theo điều 7, quy chế cho vay thì hợp đồng tín dụng ngân hàng phải có đủ các nội dung bắt buộc sau:
Điều kiện vay vốn, mục đích sử dụng vốn, cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, lãi suất, thời hạn vay, phương thức và kỳ hạn trả nợ, bảo đảm tiền vay, biện pháp xử lý tài sản, chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng, các cam kết khác do hai bên thỏa thuận.
Hợp đồng tín dụng phải được người đại diện hợp pháp ký kết, nếu được uỷ quyền phải có căn cứ pháp lý và giấy uỷ quyền.
c) Phân loại hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng thường được căn cứ theo thời gian để phân loại. Nếu căn cứ theo thời gian hợp đồng tín dụng được chia làm 3 loại:
- Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: nhu cầu tài trợ ngắn hạn của các doanh nghiệp xuất phát từ độ lệch lưu chuyển tiền tệ; tức là lưu chuyển tiền vào, ra thường không ăn khớp về mặt thời gian và qui mô. Đây là hiện tượng tất yếu do chu kỳ hoạt động và ngân quỹ của doanh nghiệp quyết định. Xuất phát từ thực tế đó đòi hỏi phải có nguyền tài trợ ngắn hạn về ngân quỹ để đáp ứng mức chênh lệch đó. Hợp đồng tín dụng ngắn hạn là loại hợp đồng có thời hạn dưới một năm.
- Hợp đồng tín dụng trung hạn: Đây là loại hợp đồng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, mục đích vay trung hạn thường là để sửa chữa, cải tạo, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, hoặc đầu tư vào việc xây dựng cơ sở sản xuất có quy mô đầu tư nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Hợp đồng tín dụng dài hạn: là loại hợp đồng có thời hạn trên 5 năm, khoản tín dụng này thường cấp cho khách hàng có nhu cầu đầu tư chiều sâu, có thời gian thu hồi vốn chậm và là các công trình lớn.
III. Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay xuất phát từ việc kinh doanh tín dụng ẩn chứa nhiều rủi ro khó lường, khó tránh. Có thể chia nguyên nhân rủi ro tín dụng thành các nhóm sau:
+ Nhóm nguyên nhân bất khả kháng: Nguyên nhân bất khả kháng bao gồm: thiên tai, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, chế độ chính sách thay đổi.
+ Nhóm nguyên nhân thuộc chủ quan ngân hàng: có thể là do sự yếu kém về chuyên môn của cán bộ tín dụng, yếu kém về quản lý đã không phát hiện ra các rủi ro…
+ Nhóm nguyên nhân thuộc khách hàng: do người vay vốn thiếu chuyên môn, trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh kém nên thua lỗ phá sản, mặt khác đôi khi có những khách hàng có ý định xấu tìm đến ngân hàng chiếm đoạt tài sản, cố tình lừa đảo…
Rủi ro tín dụng ngân hàng luôn mang tính dây chuyền vì ngân hàng phải đi vay mới có để cho vay chính vì vậy nếu một ngân hàng bị phá sản, các ngân hàng lân cận cũng khó khăn theo và nếu nghiêm trọng có thể có một khu vực lớn bị khủng hoảng biến động xấu, chẳng hạn như vụ Ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh diễn ra vào năm 2000 bị phá sản mà báo chí đã đề cập khá chi tiết, chính vì những rủi ro đó nên các biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng ngân hàng là rất cần thiết đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay như đề cập ở trên vì mục đích bảo đảm khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng nên xảy ra các rủi ro tín dụng.
Theo điều 4, NĐ sồ178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/99 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, khi cho vay có bảo đảm bằng tài sản phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản xuất, cho vay không có bảo đảm tài sản theo quy định của NĐ178 và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan được Chính phủ xử lý.
Đối với khách hàng vay được tổ chức tín dụng chọn lựa cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, tổ chức tín dụng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết HĐTD thì có quyền áp dụng biện pháp bản đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
Khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo qui định của Nghị định 178 và các quy định khác theo pháp luật để thu hồi nợ.
2. Các hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng
a) Hình thức cho vay có bảo đảm bằng bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là cho vay mà bên phía khách hàng của ngân hàng cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, hoặc bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay.
b) Hình thức cho vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản được thực hiện trong các trường hợp sau:
b1. Trường hợp do tổ chức tín dụng chọn lựa và quyết định.
Theo điều 2, Thông tư 06/2000/thị trường-NHNN1 ngày 04/4/2000 về hướng dẫn thi hành nghị định 178, khách hàng vay vốn phải có các điều khoản sau:
+ Phải có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong việc sử dụng và trả nợ vốn đúng hạn, đầy đủ.
+ Phải có phương án sản xuất kinh doanh khả thi hoặc phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với các quy định của pháp luật.
+ Phải có khả năng tài chính hợp pháp đảm bảo trả được nợ cho ngân hàng đúng hạn.
+ Cam kết sẽ thực hiện bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng trong hợp đồng tín dụng.
+ Ngân hàng có thể xem xét áp dụng một phần bảo đảm bằng tài sản đối với khoản tín dụng giữa hai bên nếu khách hàng đáp ứng tương đối đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định về cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Các tổ chức tín dụng không được tự ý cho vay không có bảo đảm bằng tài sản cho các đối tượng sau:
+ Tổ chức kiểm tóan, kiểm toán viên đang làm công tác kiểm toán tại tổ chức tín dụng , kế toán tại tổ chức tín dụng, kế toán trưởng, thanh tra viên.
+ Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng.
+ Doanh nghiệp có một trong các đối tượng sau đây sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc, phó giám đốc của tổ chức tín dụng, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc, phó giám đốc.
Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng này không vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các doanh nghiệp tối đa bằng vốn chủ sở hữu. Nhưng không vượt quá 10 tỷ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 5 tỷ đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác. Đối với hộ nông dân, cán bộ công nhân viên chức cho vay không có bảo đảm tối đa là 10 triệu đồng.
Các trường hợp vượt quá các giới hạn trên thì chi nhánh trực thuộc phải trình lên Tổng giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam để xem xét.
b2. Trường hợp cho vay không bảo đảm bằng tài sản bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ.
Tổ chức tín dụng Nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi và điều kiện vay vốn theo các quy định tại các văn bản pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
Trong trường hợp những tổn thất cho tổ chức tín dụng do khách hàng vay vốn theo chỉ định không trả được nợ mà nguyên nhân là do thiên tai, hỏa hoạn và các biến cố rủi ro khác như bị giải thể phá sản mà không còn đủ trả nợ cho tổ chức tín dụng thì sẽ được Chính phủ xử lý tổn thất cho tổ chức tín dụng.
b3 . Trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản nhưng được bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức chính trị – xã hội.
Bảo lãnh bằng tín chấp của các đoàn thể chính trị – xã hội là việc tổ chức có thể bảo lãnh với tổ chức tín dụng giúp cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo được vay một khoản tiền nhỏ của tổ chức tín dụng để đầu tư sản xuất kinh doanh cải thiện đời sống.
Tổ chức hành chính được phép bảo lãnh là: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên CS HCM. Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Các bên phải có nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau, thực hiện đầy đủ các cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh; mức cho vay tối đa do Chủ tịch hội đồng quản trị tổ chức tín dụng quyết định trong từng thời kỳ.
IV. Chế độ pháp lý về các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Theo điều 2 nghị định 178 thì cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vay vốn của khách vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3.
1. Bảo đảm tiền vay bằng cầm cố tài sản
Theo điều 329- Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành thì: “cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ (bên đi vay) giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền (các tổ chức tín dụng ) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu, thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ 3 giữ.
* Về tài sản cầm cố theo điều 11, mục 2, thông tư số 06/2000/thị trường – NHNN1 thì tài sản cầm cố bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, kim quý, đá quý, ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền giử tại tổ chức tín dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ. Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền; riêng đối với cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng phát hành thì tổ chức tín dụng đó không được nhận làm tài sản cầm cố. Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác. Quyền đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật. Tàu biển theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được cầm cố. Các loại tài sản khác theo quy định của pháp luật. Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản cầm cố nếu các bên có thỏa thuận hoặc phấp luật có quy định, trường hợp tài sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
* Điều kiện để xác định tài sản trên được các tổ chức tín dụng nhận cầm cố.
+ Tài sản cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay. Trong trường hợp tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì khách hàng vay phải có giâý chứng nhận quyền sở hữu. Đối với quy định cụ thể của pháp luật.
+ Tài sản cầm cố phải được phép giao dịch: tài sản được phép giao dịch là tài sản mà pháp lụât cho phép hoặc không cầm mua bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác.
+ Tài sản phải không có tranh chấp: tức là không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ hợp pháp trong quan hệ pháp luật tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, khách hàng phải cam kết bằng văn bản với tổ chức tín dụng về việc tài sản cầm cố không có tranh chấp.
+ Nếu tài sản cầm cố mà theo pháp luật phải mua bảo hiểm thì phía khách hàng phải mua bảo hiểm tối thiểu là trong thời gian cầm cố tài sản.
* Việc xác định giá trị tài sản và chuyển giao quyền tài sản cầm cố:
Giá trị tài sản cầm cố được xác định bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản đó, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Giá trị tài sản đem cầm cố được xác định khi ký kết hợp đồng cầm cố và là cơ sở để khống chế mức tối đa mà khách hàng có thể vay từ các tổ chức tín dụng và sẽ là khoản bù đắp thay thế nếu khách hàng vay không trả nợ. Nếu tài sản cầm cố có giá trị lớn hơn nhiều so với khoản vay của khách hàng thì phần còn lại khách hàng có thể sử dụng làm tài sản cầm cố cho các món vay khác miễn sao tổng giá trị khoản vay phải nhỏ hơn giá trị tài sản cầm cố.
Nói chung thông thường tài sản cầm cố được giao cho ngân hàng giữ, nếu tài sản có đăng ký và cần thiết cho hoạt động sản xuất – kinh doanh hàng ngày của khách hàng như xe máy, ôtô… thì hai bên có thể thoả thuận khách hàng vẫn giữ tài sản còn giấy tờ thì giao cho Ngân hàng quản lý.
2. Bảo đảm tiền vay bằng thế chấp tài sản
Thie điều 346-Bộ luật dân sự thì:”thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ bất động sản được thế chấp thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận hoặc pháp luậ có quy định.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bấ động sả có vật phụ, tì vật phụ của bất động sản cũng thuộc tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thoả thuận.
* Về tài sản thế chấp:
Theo điều 1.2, mục 2, thông tư 06 thì tài sản thế chấp bao gồm các tài sản sau: nhà ở, công trình xd gắn liền với đất, kể cả tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. Quyền sử dụng đất mà pháp luật về đất đai quy định được thế chấp, trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản có vật phụ tì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ thuocọ thì phần phụ chỉ thuộc tài sản tế chấp nế các bên có toả thuận. Tàu biển theo quy định của luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được thế chấp. Các loại tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp, nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp.
* Điều kiện để các tài sản trên được thế chấp vay tại các tỏ chức tín dụng.
+ Tài sản phải thuộc sở hữu của khách hàng vay. Đối với quyền sở hữu đất, khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất. Nếu khách hàn là các doanh nghiệp nhà nước khi đem thế chấp tài sản phải tuân theo các qui định của pháp luật.
+ Tài sản thế chấp phải được phép giao dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng và có thể thế chấp.
+ Tài sản thế chấp phải không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp. Và phải được cam kết bằng văn bản của khách hàng.
+ Nếu đối với các tài sản là các hạng mục công trình xây dựng cần thiết phải mua bảo hiểm thì khách hàng phải mua bảo hiểm và phải giao lại cho các tỏ chức tín dụng trong thời gian đem thế chấp tài sản tại tổ chức tsn dụng đó.
+ Việc xác định giá trị tài sản thế chấp và chuyển giao quyền tài sản thế chấp.
Giá trị tài sản thế chấp được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm và được lập thành văn bản riêng.
Giá trị tài sản thế chấp là căn cứ để khống chế mức vay vốn tối đa của khách hàng và là khoản bù đắp nếu khách hàng không trả được nợ.
Việc xác định giá trị tài sản thế chấp là tuỳ từng tài sản cụ thể. Nếu đối với tài sản không phải là quyền sử dụng đất thì giá trị do hai bên thoả thuận hoặc thuê tổ chưcs tư vấn chuyên môn xác định và có tham khảo đến các loại giá của Nhà nước qui định tại tời điểm đó đối với tài sản đó. Nếu tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay là tuỳ từng loaị đất mà có cách xác định cụ thể:
(++): Đất được Nhà nước giao co hộ gia đình cá nhân để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối, đất ở, đất chuyên dùng…thì giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hanh áp dụng tại thời điểm thế chấp.
(++) Nếu giá trị tài sản đem thế chấp lớn hơn nhiều so với khoản vay thì khách hàng có thể dùng phần cfn lại để làm tài sản thế chấp vay khoản mới, hay với cách khác thì một tài có thể đảm bảo cho nhiều khoản vay miễn sao tổng giá trị các khoản vay phải nhỏ hơn giá trị tài sản thế chấp. Mà đối với từng khoản vay tuy chung một tài sản thế chấp song dược coi là các khoản vay có bảo đảm riêng khoong ảnh hưởng gì đến các nội dung của khoản khác khi một khoản vay được thanh lý.
Cũng giống như cầm cố tài sản, thế chấp cũng đòi hỏi phía khách hàng phải giao cho tổ chức tín dụng các giấy tờ cần thiết. Trường hợp các tổ chức tín dụng chovay hợp vốn thì có thể thoả thuận một tỏ chức giữ giấy tờ bảo đảm.
3. Bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh tài sản của bên thứ ba.
heo điều 366-Bộ luật dân sự 1995: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền (là các tổ chưcs tín dụng) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay thế cho bên có nghĩa vụ (là người được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể toả thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người đwcj bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba thực a không khác bao nhiêu so với bảo đảm bằng tài sản trực tiếp giữa hai bên có quan hệ trực tiếp về tín dịnh và vẫn là bảo đảm bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp. Chỉ có một điều khác cơ bản là ở chỗ tài sản thế chấp là của mộ người thứ ba.
4. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng tài sản hình thanhf từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vay trả nợ cho chính khoản vay đó đối với tổ chức tín dụng.
Theo điều 14,NĐ178 việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Tổ chức tín dụng cho vay trung- dài hạn đối với các dự án đầu tư phát sản xuất, kinh doanh dịch vj, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Chính phủ, thủ tướng chính phủ chỉ định một số trường hợp cụ thể co các tổ chức tín dụng.
Đây là hình thức mới đwcj áp dụng do đó các tổ chức tín dụng khi quyết định cho khách hàng vay thừng yêu cầu ở khách hàng tất nhiều điều kiện.
a. Điều kiện cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
* Đối với khách hàng
heo điều 15,NĐ178 khách hàng vay vốn phải có các điều kiện sau: Có tín nhiệm với tổ chức tín dụng; có khả năng tài chính và có nguồn ??? hợp pháp và kip thời; có dự án khả thi; có khả năng hoàn trả nợ. Đây là các điều kiện cơ bản nhất để một ngân hàng quyết định xem có cho khách hàng vay theo hình thức này không.
Khách hàng vay phải có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản cầ cố, thế chấp tối thiếu bằng 50% vốn đầu tư của dự án.
*Đối với tài sản:
Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc quyênf sử dụng; giá trị, số lượng và được pháp giao dịch, nếu tài sản là bất động sản gắn liền với đất thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối voứi khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dưngj theo quy định của pháp luật.
Đối với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, tì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt tời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng.
Như vậy, hình thức bảo đảm tiền vay là sự kết hợp lẫn nhau của từng nghiệp vụ. Bảo lãnh banừgtài sản của bên thứ ba cũng có thể là cầm cố, thế chấp tài sản, đối với bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay cũng có sự tham gia của cầm cố, thế chấp. Điều này cho thấy tính linh hoạt của các hình thức bảo đảm tiền vay của ngân hàng cũng như khách hàng vay, cho thấy điều cốt yếu trong các giao dịch bảo đảm chính là làm sao để có thể tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn được thực hiện sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận, không phải quan tâm tới tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ.
b. Quyền và nghĩa vụ của các bên.
* Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
- Quyền: khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản bảo đảm tiền vay, cho thuê, cho mượn tài sản nếu thoả thuận với tỏ chức tín dụng vay.
- Nghĩa vụ: Phải giao cho tổ chức tín dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khu đất mà tài sản là bất động sản sẽ được hình thành khi ký kết hợp đồng bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Thông báo cho tổ chức tín dụng về quá trình hình thành và tình trạng tài sản bảo đảm. Đối với những tài sản bảo đảm pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì phải giao cho tổ chức tín dụng giữ các giấy tờ đó. Không được bán, cho thuê, tặng tài sản hình thành từ vốn vay nếu chưa trả hết nợ cho tổ chức tín dụng, trừ trường hợp được tổ chức tín dụng đồng ý.
* Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng.
- Quyền: Yêu cầu khách hàng vay thông báo tiền đó hình thành và sự thay đổi bảo đảm tiền vay. Tiến hành kiểm tra và yêu cầu khách hàng vay cung cấp các thông tin để kiểm tra, giám sát tài sản hình thành từ vốn vay. Thu hồi nợ vay trước thời hạn, nếu phát hiện thấy khách hàng không sử dụng vốn như cam kết. Xử lý tài sản hình thành từ vốn vay để thu hồi nợ khi khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Nghĩa vụ: hẩm định, kiểm tra để bảo đảm khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm đảm bảo tiền vay đaps ứng các quy định của pháp luật. Trả lại giấy từ về tài sản khi chấm dứt biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay (nếu tổ chức tín dụng giữ). Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng. Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật và các nghĩa vụ khác.
5. Hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là một văn bản thoả thuận giữa các bên về bảo đảm tiền vay nhằm phòng ngừa rủi ro, và tạo cơ sở pháp lý để thu hồi các khoản nợ mà ngân hàng đã cho khách hàng vay.
a. Chủ thể của hợp đồng bảo đảm tiền vay.
- Đối vứi phía khách hàng của tỏ chức tín dụng thì ngoài các quy định được trình bày tại "II3" ở phần trước còn phải bao gồm cả những điều kiện sau:
+ Có tài sản đáp ứng được các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay (nếu tổ chức tín dụng cho vay có tài sản bảo đảm).
+ Có người đại diện hợp pháp đủ năng lực ký kết hợp đồng hợp pháp.
Nếu bên bảo đảm là khách hàng vay vốn bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay phải có đủ điều kiện sau:
+ Có đủ các điều kiện quy định trong thông tư 06 đã trình bày ở các mục trước.
+ Có người đại diện hợp pháp, đủ năng lực ký kết hợp đồng hợp pháp.
Nếu bên bảo đảm là bên thứ ba tham gia với tư cách là người bảo lãnh phải có đủ điều kiện sau:
+ Có năng lực pháp luật dân sự với bên bảo lãnh là pháp nhân, có năng lực pháp lý dân sự và năng lực hành vi dân sự đối với bảo lãnh là cá nhân.
+ Có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Đối với các tổ chức tín dụng thì phải có đủ các điều kiện sau: Có năng lực pháp lý dân sự, có người đại diện hợp pháp, đủ các tiêu cuẩn theo pháp luật định để ký kết hợp đồng hợp pháp.
- Đối với bên liên quan: là bên có trong hợp đồng bảo đảm bằng tài sản nhưng không là chủ thể bắt buộc chẳng hạn có bên thứ ba tam gia với tư cách là người bảo lãnh.
- Đối với bên giữ tài sản: Phải có năng lực pháp lý dân sự và năng lực hành vi dân sự và đáp ứng được các tiêu chuẩn mà phaps luật quy định đối với bên giữ tài sản bảo đảm.
b. Hình thức và nội dung của hợp đồng bảo đảm:
Hình thức và nội dung của hợp đồng cũng giống như chủ thể của hợp đồng rất quan trọng, nếu các yếu tố này được thực hiện không đúng như các quy định của pháp luật thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu. Vì vậy phải tuân thủ đúng các quy định về hình thức và nội dung khi thực hiện hợp đồng bảo đảm.
Nôi dung của hợp đồng là các điều khoản do hai bên thoả thuận, theo điều 8.1 thông tư 06 thì nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo đảm bao gồm: tê, địa chỉ của các bên, ngày tháng năm. nghĩa vụ của các bên, mô tả tìa sản cầm cố, thế chấp: danh mục, số lượng, chủng loại, đặc điểm kỹ thuật, hoa lợi, lợi tức phát sinh, nếu là bảo đảm tài sản, quyền sử dụng đất thì phải ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới, các vật phụ kèm theo; giá trị của tài sản cầm cố thế chấp, ghi rõ giá trị của tài sản theo văn bản xác định, giá trị tài sản kèm theo mà các bên đã thoả thuận, xác định hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định, bên giữ tài sản, giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp, quyền và nghĩa vụ của các bên, các thoả thuận về trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và các thoả thuận khác.
Nếu là hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản thì theo điều ??????
8.2. Thông tư 06 hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản phải có các nội dung chủ yếu sau: Tên, địa chỉ của các bên, ngày tháng năm, nghĩa vụ được bảo lãnh, phạm vi bảo lãnh: ghi số, ngày tháng năm hợp đồng tín dụng, số tiền được bảo lãnh (một phần hoặc toàn bộ) nghĩa vụ trả nợ: Danh mục, số lượng, chủng loại, đặc điểm, giá trị của tài sản bảo lãnh, quyền và nghĩa vụ của bên bảo lãnh, ngân hàng nhận bảo lãnh, các phương thức xử lý tải sản bảo lãnh, cam kết của bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vj trả nợ thay cho khách hàng vay khi đến hạn mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, cam kết của bên bảo lãnh về việc xử lý tài sản bảo lãnh khi đến hạn mà không thực hiện được nghiã vụ bảo lãnh và các thoả thuận khác.
c. Sự giao kết hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Sự giao kết hợp đồng bảo đảm tiền vay thông thường được chi làm 3 bước:
Bước 1: Đề nghị giao kết hợp đồng: thông thường thì căn cứ vào đơn xin vay vốn của khách hàng vay, hoặc yêu cầu của bên cho vay đối với khách hàng về bảo đảm tiền vay là hình thức của đề nghị giao kết hợp đồng.
Bước 2: Thẩm định: là quá trình kiểm tra tính chất pháp lý, điều kiện bảo đảm của tài sản bảo đảm, định giá tài sản bảo đảm để bảo đảm cho khách hàng vay, bên bảo lãnh và tài sản có đủ điều kiện bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của cơ chế bảo đảm tiền vay với quy định khác có liên quan. Nếu thấy có đủ điều kiện bảo đảm theo quy định thì chấp nhận.
Bước 3: Đàm phán ký kết hợp đồng: Các bên bày tỏ ý chí và đàm phán các điều khoản của hợp đồng và đi đến ký kết - chính thức.
d. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo đảm tiền vay.
* Điều kiện hiệu lực của hợp đồng bảo đảm tiền vay:
- Chủ thể phải có đủ năng lực và thẩm quyền.
- Có sự đồng thuận giữa các bên tham gia giao dịch hợp đồng. Nếu có sự nhầm lẫn, lừa dối cưỡng ép, giao dịch giả tạo...thì hợp đồng vô hiệu.
- Nội dung của hợp đồng, mục đích, hình thức phải hợp pháp.
- Nghĩa vụ bảo đảm phải có hiệu lực, vì hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ thuộc vào hợp đồng chính, khi hợp đồng tín dụng vô hiệu thì hợp đồng bảo đảm tiền vay cũng bị vô hiệu.
* Thời điể phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo đảm tiền vay:
Hợp đồng bảo đảm tiền vay phát si._. trường hợp mặc dù Ngân hàng có quyền sở hữu, định đoạt phương tiện giao thông nhưng đều không quản lý được, để đến mất mát và bị lừa đảo.
Việc định giá tài sản cũng là vấn đề đáng quan tâm. Thông thường việc định giá được căn cứ vào giá cả thị trường, giá hoá đơn.. thì nhưng khách hàng vay thương khai khống giá lên rất nhiều trong khi đó sự hiểu biết các loại tài sản của cán bộ tín dụng tại Ngân hàng công thương Đống Đa còn hạn chế dẫn đến việc định giá tài sản bảo đảm không đúng với giá trị thực.
Thứ tư, những vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm : mặc dù việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của Ngân hàng công thương Đống Đa luôn được áp dụng như một biện pháp hữu hiêụ để thu hồi nợ khó đòi. Tuy nhiên công tác phát mại tài sản trong thời gian qua cho thấy rõ các hạn chế vướng mắc từ các phía khác nhau khiến cho việc thu hồi nợ đạt tốc độ chậm và không hiệu quả. Đây là những vướng mắc không chỉ của Ngân hàng công thương Đống Đa mà còn là của các Ngân hàng thương mại khác. Cá vướng mắc đó là :
+ Những khó khăn do bên thế chấp gâp trở ngại cho việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ:
Người vay tìm đủ mọi cách để lẩn tránh việc phát mại tài sản, bỏ trốn trước khi toà lấy lời khai ban đầu, lấy lời khai toà án nghiên cứu phải đình hoãn xử cho đến khi Công an bắt được con nợ, dựa vào quyền có nhà ở do luật qui định bên thế chấp chây ỳ gây khó khăn cho Ngân hàng đòi phải có chỗ ở khác, có tính sử dụng quyền kháng cáo đề trì hoãn việc trả nợ, xin kiến nghị giám đốc thảm để toà buộc phải xử lý nhiều lần.
Một số khách hàng vay vốn có tài sản tài chính là nhà, đất thì giấy tờ chưa hợp lệ, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc việc xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng không đúng thẩm quyền. Nhà và đất thường từ thời ông cha để lại, nhiều người chưa muốn làm các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà vì khi xây dựng trước đây thiếu giấy tờ cấp phép, mặt khác thuế sang tên trước bạ cao tạo tâm lý không muốn hoàn chỉnh hồ sơ chính chủ. Vì vậy tạo ra việc xử lý tài sản thế chấp gặp khó khăn khi nợ khó đòi phát sinh.
Bên vay thực hiện hành vi lừa đảo, một tài sản thế chấp đem thế chấp nhiều nơi để vay vốn hoặc tài sản đem thế chấp vẫn có những thủ đoạn tẩu tans, bán tài sản khiến cho Ngân hàng phải giành chịu hậu quả.
Bên vay phá sản, mất khả năng thanh toán phải trốn nợ, nên không nhận lại nợ vay do đó không thể làm thủ tục xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ được.
+ Việc bán tài sản thế chấp, cầm cố không thuận lợi.
Nguyên nhân do không phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người mua tài sản cũ kỹ, lạc hậu, tâm lý người mua không muốn tài sản của người "vỡ nợ", nếu bán qua đấu giá thì chi phí quá cao. Thị trường bất động sản ở Việt Nam còn phôi thai, còn nhiều vướng mắc vè pháp lý, hành chính nên quá trình mua bán chuyển nhượng còn nhiều ách tắc. Dây truyền máy móc thiết bị chuyên dùng không đồng bộ hoặc áp dụng công nghệ mới khiến cho việc bán tài sản thế chấp ra thị trường gặp nhiều khó khăn.
+ Quyền của Ngân hàng nhận tài sản thế chấp, cầm cố trong việc xử lý chưa được đề cao: chính vì Ngân hàng có quyền này cho nên khi cần xử lý tài sản, bên thế chấp, cầm cố không bàn giao tài sản cho Ngân hàng, thậm chí còn trây ỳ nhưng chưa có quy định nào được áp dụng để xử lý. Một số nơi chính quyền địa phương chưa thật sự ủng hộ vụ xử lý tài sản do nhận thức chưa đúng về tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế (hoặc dân sự) mà các bên đã thoả thuận ký kết và nhận thức chưa đúng quy định của Hiến pháp 1992 về quyền có nơi ở của công dân nên yêu cầu Ngân hàng phải tìm chỗ ở cho bên thế chấp nếu xử lý tài sản để thu hồi nợ. Điều này khiến cho việc phát mại tài sản để thu hồi nợ của hn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi thu được tiền về nhưng sau khi trang trải tất cả các chi phí, số vốn thu hồi lại của Ngân hàng thực tế chẳng còn bao nhiêu. Mặt khác khi bên vay vốn không trả được nợ của Ngân hàng, Ngân hàng muốn phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ thì phải làm đơn kiện ra toà án kinh tế đề nghị giải quyéet và chỉ khi bản án được quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật : phía Ngân hàng mới - cơ quan yêu cầu trung tâm bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc xử lý tài sản thế chấp còn thiếu chặt chẽ, mỗi cấp nhận thức một khác, thực hiện theo cách riêng của mình. Nhiều nơi cơ quan thi hành án giữ quyền quyết định giá tài sản phát mại, gây nên trở ngại cho việc phát mại tài sản.
Ngoài ra, việc quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế 6 tháng đối với hoạt động Ngân hàng là quá ngắn vì các khoản nợ vay của khách hàng khi đó đáo hạn mà chưa trả cho Ngân hàng, Ngân hàng thường phải thương lượng với khoản thời gian dài. Nếu khách hàng biết được quy trình này cố tình không xác nhận nợ trong thời hạn 6 tháng thì Ngân hàng không thẻe khởi kiện do hết thời hiệu khởi kiện, nên quyền lợi chính đáng của Ngân hàng không được bảo vệ.
+ Thủ tục công chứng tài sản thế chấp có một khâu chưa được thuận tiện :
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thế chấp tài sản phải ký kết bằng văn bản theo hình thức hợp đồng thế chấp chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước, hoặc UBND có thẩm quyền. Hiện nay việc thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại thông tư liên bộ số 01/1996/TTLB - NHNN - BTC - BTP ngày 03/07/1996. Việc chứng nhận của cơ quan công chứng Nhà nước là xác thực việc ký hợp đồng thế chấp, đấu giá tài sản thế chấp thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Khó khăn ở một số khâu như : lệ phí công chứng chưa phân biệt theo các biện pháp cho vay (ngắn, trung và dài hạn) của Ngân hàng, trình độ của người công chứng còn bất cập. Bên cạnh đó, sự phân công giữa phòng công chứng với sở nhà đất, sở địa chính về theo dõi bất động sản chưa chặt chẽ, dẫn đến có trường hợp cùng một tài sản công chứng nhiều bản tạo kẽ hở cho người vay lợi dụng Ngân hàng. Do đó gây cho Ngân hàng nhiều phức tạp.
Do cơ chế thế chấp, cầm cố vay vốn Ngân hàng chưa nâng cao được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho vay của các tổ chức tín dụng trong việc cho vay và quyết định việc cần thiết có bảo đảm tiền vay hay không.
Khi qui định bắt buộc khách hàng phải thế chấp, cầm cố tài sản là một điều kiện cho vay đã làm cho cán bộ tín dụng coi đây là điều kiện -- quyết khi xem xets cho vay, thường chú ý nhiều hơn để đảm bảo đúng thủ tục quy trình tín dụng mà không chú ý đến việc xem xét hiệu quả của dự án vay, xem khoản vay có thu hồi được hay không. Điều này dẫn đến tình trạng nhận bất cứ mọi tài sản mà người cho vay có thể đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng, làm cho bản chất tín dụng tự hiểu lệch theo tính chất hoạt động cầm cố nhiều hơn là hoạt động tín dụng. Về bề ngoài, các khoản vay này đều có đảm bảo chấp hành đúng qui định của pháp luật nhưng lại là những khoản vay không hiệu quả khó thu hồi nợ, và khó xử lý tài sản để thu nợ. Mặt khác, tài sản nhận bảo đảm không được lựa chọn một cách kỹ càng về giá trị, khả năng mua bán, chuyển nhượng nên khi phát mại tài sản để thu hồi nợ gặp rất nhiều khó khăn do tài sản cũ kỹ lạc hậu, giá trị thấp, không đủ giấy tờ hợp pháp, đất mua đi bán lại không có giấy chứng nhận quyền sử dụng, không có tài sản gắn liền làm cho tình trạng ứ đọng tài sản thế chấp, cầm cố không xử lý được càng gia tăng. Một số khoản vay đều có tài sản thế chấp, cầm cố như quy định nhưng vì các tài sản đem thế chấp cầm cố phần lớn được hình thành từ vốn vay Ngân hàng lại mang thế chấp cho Ngân hàng để vay tiếp, nợ chồng lên nợ, sử dụng vốn vay không đúng mục đích và không có hiệu quả nên một khối lượng lớn vốn của Ngân hàng bị chôn vào đất đai, nhà cửa, kho tàng dưới danh nghĩa tài sản thế chấp, cầm cố. Ngược lại, có những khách hàng uy tín trả nợ rất thấp, cho vay rủi ro lớn đáng lý phải có tài sản bảo đảm cho khoản nợ để bảo đảm an toàn hơn thì Nhà nước "cho phép" không phải thế chấp, cầm cố và cũng không qui định trong trường hợp này nếu tổn thất do không có bảo đảm tiền vay thì Nhà nước sẽ xử lý thế nào? Do vậy đã đưa các tổ chức tín dụng rơi vào thế bị động không tự bảo vệ được quyền lợi của mình khi rủi ro xảy ra.
Phần III
một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng Ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương đống đa
i - nhận định chung về việc thực hiện cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại chi nhánh Ngân hàng công thương.
Trong những năm trở lại đây nhờ những cố gắng, và đổi mới trong hoạt động tín dụng của toàn thể cán bộ phòng kinh doanh Ngân hàng công thương Đống Đa việc cho vay có bảo đảm băngf tài sản của chi nhánh đã có bước phát triển rõ rệt, từng bước giảm nợ quá hạn, tăng thu nợ, nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh. Để phù hợp với tình hình kinh tế mới của toàn xã hội Ngân hàng công thương Đống Đa đã chủ động áp dụng linh hoạt các hình thức cho vay có bảo đảm nhằm phù hợp với những đổi mới trong nền kinh tế, xã hội.
Những kết quả mà Ngân hàng công thương Đống Đa đạt được trong thời gian qua không phải là nhỏ, sự tăng trưởng và phát triển không chỉ thể hiện trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng mà còn ở tất cả các mặt hoạt động của Ngân hàng. Với lợi thế là nằm tại trung tâm của quận Đống Đa, có hệ thống đường giao thông ổn định, thông thoáng, lại là một đơn vị giàu truyền thống, có quan hệ rộng rãi với nhiều cơ quan chức năng, có uy tín đối với khách hàng nên việc cập nhật thông tin của đơn vị được Ngân hàng công thương Việt Nam đánh giá là tương đối mau chongs và nhạy bén những yếu tố đó là những thế mạnh của chi nhánh để tiếp tục khẳng định mình trên con đường phát triển của Ngân hàng công thương Việt Nam.
Trong vài năm trở lại đây số lượng các doanh nghiệp mới tăng không nhiều phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ sản xuất thủ công, sơ chế hoặc là các doanh nghiệp chuyên về thương mại, trao đổi với thị trường chủ yếu là trong quận Đống Đa, tính cạnh tranh, khả năng cạnh tranh là rất thấp, thua lỗ và thực tế trong những năm gần đây đã có không ít các doanh nghiệp này là khách hàng của Ngân hàng công thương Đống Đa làm ăn không hiệu quả và bị thua lỗ không có khả năng hoàn trả nợ cho Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ phải tiến hành xử lý tài sản để thu hồi vốn, thế nhưng như đã trình bày ở các phần trước vấn đề xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn hãy còn nhiều khó khăn vướng mắc. Thêm vào đó, các loại tài sản bảo đảm còn hạn chế về chủng loại; tài sản thế chấp chủ yếu là nhà xưởng, nhà ở, khâu này đã phát sinh các vấn đề cần giải quyết cụ thể : giấy tờ sử dụng nhà đất đến nay chưa có sự thống nhất. Hiện nay đang lưu hành nhiều loại giấy phép khác nhau do nhiều cấp có thẩm quyền phê duyệt làm cho đôi khi Ngân hàng ở vị trí lúng túng không biết là nên sử dụng loại giấy tờ nào cho tối ưu. Có một số trường hợp nhà cửa thuộc quyền sử dụng của khách hàng song họ không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ trong khi đó nhu cầu vay vốn của anh ta là hợp lý, khả thi vậy Ngân hàng nên xử lý thế nào ? Một số trường hợp khác nhà cửa được sửa chữa thay thế do vậy việc đăng ký trước bạ và thực trạng ngôi nhà có sự mâu thuẫn với nhau. Đó là những vấn đề xuyên suốt mà chúng ta cần trao đổi.
Bên cạnh đó hình thức cầm cố tài sản khi Ngân hàng cho khách hàng vay với bảo đảm là tài sản cầm cố nhiều khi cũng gây lungs túng cho Ngân hàng: Trong khi Ngân hàng muốn giữ, được quản lý tài sản cầm cố; thì đối với khách hàng đó lại là tài sản vô cùng quan trọng cho hoạt động kinh doanh của mình.
Ví dụ : Xe máy, ô tô... chúng ta hãy giả sử rằng Ngân hàng chỉ giữ giấy tờ đắng ký sở hữu còn tài sản khách hàng giữ, vậy khi những chiếc xe này vi phạm luật giao thông và cảnh sát giao thông yêu cầu giấy tờ thì sao, giải quyết như thế nào thì ổn thoả nhất cho cả Ngân hàng, khách hàng và cả đối với luật giao thông...
Tóm lại, mặc dù Ngân hàng công thương Đống Đa đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật, mở rộng phạm vi cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng nhưng nói chung hoạt động tín dụng về cho vay có bảo đảm bằng tài sản của Ngân hàng công thương Đống Đa hãy còn nhiều tồn tại cần giải quyết, và trao đổi thêm.
ii - một số kiến nghị, giải pháp
Từ những lý luận và thực trạng của tình hình thực hiện cơ chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Ngân hàng công thương Đống Đa thời gian qua em xin đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Ngân hàng công thương Đống Đa.
Các ý kiến dưới đây có thể còn chưa sâu, và tính ứng dụng có thể chưa được tiếp nhận để triển khai ngay nhưng em mong rằng những ý kiến này có thể phần nào đó góp phần cải thiện hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản đối với chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và các Ngân hàng công thương nói chung.
1 - Kiến nghị đối với cơ quan chức năng Nhà nước hữu quan.
a. Đối với chính phủ :
Chúng ta đều thừa nhận rằng kinh doanh Ngân hàng là loại hình kinh doanh hết sức đặc biệt, nó khác hẳn các loại hình kinh doanh khác và luôn tièm ẩn nhiều rủi ro mà nếu không có một thị trường phát triển và môi trường pháp lý phải được hoàn thiện thì có thể cả một hệ thống Ngân hàng sẽ đi đến bờ vực phá sản.
Chính phủ, nhà tổ chức và điều hành hoạt động của nền kinh tế của cả một quốc gia và thậm chí có những tác động lớn tới cả nền kinh tế thế giới, luôn là người có vị trí, vai trò vô cùng quan trong đối với hoạt động và sự phát triển của Ngân hàng. Có thể nói chỉ cần một tác động dù nhỏ của Chính phủ vào bất cứ lĩnh vực gì của nền kinh tế - xã hội cũng sẽ gây nên một phản ứng trở lại ngay; chính vị vậy sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ đối với hoạt động Ngân hàng sẽ tạo nên những thay đổi cho hoạt động của ngành Ngân hàng.
Với những gì đã trình bày trong phần thực trạng hoạt động của Ngân hàng công thương Đống Đa, và các Ngân hàng thương mại nói chung, thiết nghĩ Chính phủ nên có những tác động sau để tăng hiệu quả hoạt động cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm tiền vay :
- Cần có một cơ chế bảo đảm tiền vay theo hướng mở là chỉ nên đơn cử các hình thức bảo đảm: cầm đồ, thế chấp, bảo lãnh là ba hình thức ví dụ chứ không phải tổ chức tín dụng chỉ được chọn một trong ba hình thức treen, Chính hủ nên trao cho tổ chức tín dụng quyền chủ động linh hoạt trong việc lựa chọn hình thức bảo đảm miễn sao có hiệu quả, phù hợp với thực tế của khách hàng là được:
- Chính phủ không nên qui định cho tổ chức tín dụng là khách hàng nào cần bảo đảm, khách hàng nào không cần bảo đảm bằng tài sản mà nên trao cho tổ chức tín dụng quyền tự quyết, lựa chọn khách hàng cho vay không cần bảo đảm bằng tài sản. Sở dĩ đề nghị này được đưa ra là vì các tổ chức tín dụng vì sự tồn tại của mình mà đối với từng khách hàng sẽ biết được nên áp dụng biện pháp bảo đảm nào sẽ là tốt nhất.
- Chính phủ nên bỏ qui định cho vay theo chỉ định của Chính phủ đi và thay vào đó qui định cho vay theo uỷ nhiệm của Chính phủ. Tức là khi nào Chính phủ muốn cho đối tượng nào vay vốn thì sử dụng ngân sách thông qua các tổ chức tdd cho vay chứ không nên lấy vốn của tổ chức tín dụng cho vay theo chỉ định của Chính phủ; điều này xuất phát từ thực tế ngày nay nhu cầu vốn của khách hàng đầu tư là rất lớn trong khi nguồn vốn của tổ chức tín dụng lại có hạn nên nếu cho vay theo chỉ định của Chính phủ số vốn còn lại sẽ bị giảm đi. Mặt khác cho vay theo chỉ định của Chính phủ khi khách hàng không trả được nợ, Chính phủ xử lý khoản nợ này thông thường là không thu hồi được đủ vốn - chứ đừng nói lãi cho cacs tổ chức tín dụng.
Với những thay đổi trên cơ chế bảo đảm tiền vay sẽ hạn chế đáng kể một số vướng mắc :
+ Nâng cao quyền tự chủ trong việc lựa chọn khách hàng vay và các biện pháp bảo đảm khoản vay.
+ Giải quyết những hạn chế mâu thuẫn giữa các qui định trong Nghị định 178 và 165.
* Đơn giản hoá thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Điểm mấu chốt của thủ tục cho vay có bảo đảm bằng tài sản thường nằm ở khâu công chứng các giấy tờ sỏ hữu tài sản, hiện nay việc kiểm tra các giấy tờ hợp lệ cuả các tài sản bảo đảm để công chứng nhiều khi rất mất thời gian vì các giấy tờ này nhiều loại chưa có văn bản hướng dẫn do đó mà các công chứng viên nhiều khi cũng lúng túng, gây khó dễ cho khách hàng. Do vậy thời gian tới đề nghị Chính phủ cải tiến, bổ xung hệ thống các văn bản liên quan đến giấy tờ sở hữu tạo điều kiện cho việc công chứng diễn ra dễ dàng. Chính phủ cũng nên thống nhất việc công chứng trong cả nước và giao toàn bộ việc xác nhận công chứng cho các phòng công chứng; đồng thời thống nhất các giấy tờ cần thiết cho việc công chứng trong cả nước vì hiện nay mỗi nơi một qui định. Được vậy sẽ tiết kiệm được chi phí đi lại và nâng caogiá trị pháp lý của các giấy tờ công chứng cho cả phía Ngân hàng và khách hàng.
* Chính phủ cần thiết nâng cao vai trò của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm vì lý do sau :
Khi giao dịch bảo đảm được lưu vào hệ thống dữ liệu quốc gia tại bất kỳ khu vực nào truy cập ra giao dịch bảo đảm dễ dàng sẽ tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng kiểm tra được hiệu khách hàng của mình, có lừa mình hay không tài sản bảo đảm mà khách hàng mang đến liệu có thể chấp nhận là tài sản bảo đảm không...
* Tạo điều kiện để việc xử lý tài sản đơn giản hơn
- Chính phủ nên cho thành lập trung tâm bán đấu giá tại các tỉnh trong cả nước, đối với các tỉnh, thành phố lớn có thể có nhiều trung tâm này tuỳ nhu cầu của từng nơi để hỗ trợ cho việc xử lý tài sản thu hồi vốn của Ngân hàng diễn ra mong chóng có hiệu quả. Đơn giản hoá các giấy tờ thủ tục không cần thiết tạo điều kiện để tài sản mua bán chuyển nhượng dễ dàng.
- Chính phủ cũng cần quy định thứ tự ưu tiên thanh toán cho các tổ chức tín dụng nhận cùng một tài sản làm vật bảo đảm, tránh việc tranh giành kiện tụng giữa các tổ chức tín dụng có quyền lợi liên quan hoặc qui định một tài sản chỉ được bảo đảm tại một tổ chức tín dụng chứ không phải là nhiều tổ chức tín dụng như hiện nay qui định, Chính phủ có thể qui định các tổ chức tín dụng có thể cùng cho vay hợp vốn đối với một khách hàng, nếu có tài sản bảo đảm chung khoản vay hợp vốn đó thì các tổ chức tự thoả thuận, người giữ tài sản bảo đảm hoặc thuê bên thứ ba giữ chứ không nên quy định một tài sản có thể bảo đảm tại nhiều tổ chức tín dụng như hiện nay.
* Bổ sung thêm vốn cho các Ngân hàng thương mại :
Với xu thế phát triển và hội nhập đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng doanh nghiệp Nhà nước nói chung phải đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực mới đáp ứng được khả năng cạnh tranh và hội nhập nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO, AFTA hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ được thực hiện vì vậy đề nghị Chính phủ cấp vốn điều lệ cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh theo tiến độ đề án cơ cấu lại Ngân hàng quốc doanh để sớm đạt hệ số an toàn quốc tế là 8% (hiện nay các Ngân hàng quốc doanh hệ số an toàn tương đối thấp, riêng Ngân hàng công thương mới đạt 3,54%). Đối với những khoản vay của doanh nghiệp Nhà nước trước năm 2000 mà không có khả năng thu hồi nợ, đề nghị Chính phủ có biện pháp giải quyết về vốn để Ngân hàng thương mại quốc doanh sớm có thêm nguồn lực bổ sung nhằm mau chóng hoàn thiện cơ cấu tài chính.
b) Đối với Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành liên quan:
- Ngân hàng Nhà nước cần sớm trình lên Chính phủ dự án "luật tín dụng" để các Ngân hàng thương mại sớm có một luật chung điều chỉnh các vấn đề liên quan tới hoạt động tín dụng Ngân hàng. Luật tín dụng Ngân hàng không còn là vấn đề mới nữa, ngày nay ở các nước phát triển như Mỹ đã ban hành ra luật tín dụng và hiệu quả của nó là rất hiệu quả. Vì hoạt động tín dụng Ngân hàng được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật thống nhất không như ở Việt Nam hiện nay hoạt động tín dụng điều chỉnh mà các văn bản điều chỉnh nào hiện nay thì quá nhiều và không chỉ do một cơ quan quy định nên nhiều khi mâu thuẫn với nhau như các NĐ 178 và NĐ 165.
- Ngân hàng Nhà nước cần chủ động phối kết hợp với các Bộ ngành : Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Tổng cục địa chính để ban hành văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi và an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các ách tắc trong việc giải toả xử lý tài sản bảo đảm ở các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Hiện nay các phương tiện giao thông của khách hàng nếu đem cầm cố tại Ngân hàng thì phải trao cho Ngân hàng giấy tờ sở hữu và chỉ được cầm biên bản cầm cố tài sản nên khi lưu hành tham gia giao thông nếu vi phạm luật giao thông thường phải gặp nhiều rắc rối với cảnh sát giao thông. Vậy đề nghị Ngân hàng Nhà nước phối hợp cùng Bộ công an ban hành thông tư liên tịch trong đó qui định biên bản cầm cố, thế chấp tài sản đối với các Ngân hàng cũng có giá trị pháp lý lưu hành tham gia giao thông như các giấy tờ sở hữu nhằm tạo điều kiện cho việc bảo đảm tài sản tại các Ngân hàng thương mại được dứt điểm và cũng là tạo thêm điều kiện cho người vay vốn Ngân hàng thực hiện thành công phương án đầu tư của họ để sớm hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng.
- Ngân hàng Nhà nước cũng cần sớm trình Chính phủ dự án thành lập một Công ty tổ chức bán đấu giá nhằm xử lý các tài sản bảo đảm cho Ngân hàng một cách tốt nhất.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Việt Nam
- Ngân hàng công thương Việt Nam cần hệ thống hoá các văn bản của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước lại là hướng dẫn thi hành trong trường hợp để ban hành toàn hệ thống, ban hành việc áp dụng khác nhau ở mỗi chi nhánh do không hiểu hết các qui định của các văn bản pháp luật.
- Ngân hàng công thương Việt Nam chỉ nên tổ chức thi tuyển cán bộ và ra đề thi, chấm thi còn thành phần nhân sự thì lấy chỉ tiêu theo đề nghị của chi nhánh sau khi tiến hành kiểm tra nhân sự tại chi nhánh, nếu được vậy các cán bộ mới được tuyển ở các chi nhánh sẽ dễ dàng làm quen với công việc sau khi được tuyển hơn là áp dụng như hiện nay. Ngân hàng công thương tổ chức thi tuyển và trao nhân sự cho chi nhánh nhưng lại không chú trong đến việc nhân sự để có phù hợp với công việc mà chi nhánh cần hay không dẫn đến chỗ thừa chỗ thiếu.
- Ngoài ra Ngân hàng Việt Nam cũng nên giao quyền tự quyết hơn nữa cho các chi nhánh trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Để từ đó tạo điều kiện cho chi nhánh hoạt động tốt hơn và xử lý tài sản bảo đảm được nhanh chóng gọn nhẹ hơn.
Hiện nay tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng công thương Việt Nam là 3,54% vốn tự có, trong khi tiêu chuẩn dự trữ bắt buộc của thế giới đối với Ngân hàng thương mại là 8% vậy Ngân hàng công thương Việt Nam cần mau chóng trình Chính phủ dự án yêu cầu cấp bổ xung vốn để nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của hệ thống lên 8%(mức dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng thương mại quốc tế) nhằm tạo thêm uy tín và sự an tâm khi quan hệ với quốc tế.
Hiện nay nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế là rất lớn các Ngân hàng thương mại nói chung đều không đủ vốn đẻe đáp ứng các nhu cầu vay. Hiện nay trong khi đó mức nợ quá hạn của các doanh nghiệp Nhà nước đối với Ngân hàng công thương Việt Nam từ năm 1999 trở về trước là còn khá nhiều do vậy Ngân hàng công thương Việt Nam cần trình Chính phủ yêu cầu Chính phủ giải quyết các khoản nợ đó để thu hồi vốn.
- Ngân hàng công thương Việt Nam hiện là Ngân hàng thương mại lớn nhất trong hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay và có quan hệ với hầu hết các thành phần kinh tế trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp. Trước ngưỡng cửa của sự mở cửa, hội nhập quốc tế như hiện nay chắc chắn Ngân hàng công thương Việt Nam sẽ là cầu nối quan trong trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đấy thương mại quốc tế phát triển. Do vậy đề nghị Ngân hàng công thương Việt Nam chuyển giao các chương trình cho người nghèo vay vốn và cho sinh viên vay vốn sang Ngân hàng chính sách để tập trung vốn đầu tư vào các chương trình kinh tế khác.
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Đống Đa
Chúng ta đều biết rằng hợp đồng bảo đảm tiền vay là hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng tức là nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì hợp đồng bảo đảm cũng vô hiệu theo. Ngược lại nếu hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu thì hợp đồng tín dụng tuy không bị vô hiệu theo nhưng sẽ ảnh hưởng rất sấu tới hợp đồng tín dụng, thông thường bên thiệt sẽ là phía các tổ chức tín dụng.
Điều này cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng Ngân hàng và hoạt động bảo đảm tín dụng Ngân hàng, chỉ cần chút xíu nhầm lẫn sai sót trong cả hai hoạt động trên đều có thể gây nên một thiệt hại không nhỏ cho các tổ chức tín dụng. Do vậy để hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản được tiến hành một cách suôn sẻ và thực sự là biện pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu cho Ngân hàng trong thời gian tới Ngân hàng công thương Đống Đa cần thực hiện một số điểm sau :
Thứ nhất : Ngân hàng công thương Đống Đa cần mở rộng chiến lược thu hút khách hàng, giảm tỷ trọng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước xuống và nâng tỷ trọng các thành phần kinh tế khác lên (hiện nay lượng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước của chi nhánh là 80%) nhằm đa dạng hoá khách hàng. Tiếp tục thực hiện phục vụ tốt các khách hàng cũ để tạo tiếng nhằm thu hút thêm các khách hàng mới.
Thứ hai: Ngân hàng công thương Đống Đa chủ động trình lên Ngân hàng công thương Việt Nam đề suất Ngân hàng công thương Việt Nam chú trọng hơn nữa việc tập huấn nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ thẩm định dự án phương án và định giá tài sản bảo đảm vì hiện nay trình độ chuyên môn của cán bộ về lĩnh vực này tại chi nhánh nói chung là chưa đủ đáp ứng yêu cầu thực tế. Việc tập huấn có thể theo đợt hoặc định kỳ hàng năm, hàng quí. Được như vậy trình độ thẩm định của cán bộ chi nhánh trực thuộc Ngân hàng công thương Đống Đa nói chung sẽ được cải thiện từ đó nâng cao chất lượng và vai trò của hợp đồng bảo đảm và hợp đồng tín dụng.
Thứ ba: Ngân hàng công thương Đống Đa cần định kỳ hàng năm tổ chức gặp mặt khách hàng, buổi gặp mặt chính là cơ hội để Ngân hàng công thương Đống Đa lắng nghe những đánh giá của khách hàng về những việc làm được và chưa làm được của cả Ngân hàng và khách hàng. Nên coi buổi gặp gỡ là một toạ đàm từ đó cả hai bên đầu tư rút ra được những ý kiến bổ ích cho chính mình.
Ngân hàng công thương Đống Đa cũng có thể tổ chức điều tra xã hội học thăm dò ý kiến của khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng, việc thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, về thái độ của các cán bộ Ngân hàng, thủ tục và các điều kiện tài sản... để có thể từ đó rút ra kinh nghiệm cũng như phát hiện các nhu cầu mới của khách hàng. Thường xuyên giữ mối quan hệ với khách hàng, để vừa trực tiếp kiểm tra giám sát các khoản vay, các tài sản dược dùng làm bảo đảm vừa giúp đỡ khách hàng trong các lĩnh vực có thể khi họ yêu cầu.
Thứ tư: Ngân hàng công thương Đống Đa cần tham khảo kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới về vấn đề tín dụng và bảo đảm tài sản khi cho vay từ đó chắt lọc ra những ý tưởng phù hợp với thực tế ở Việt Nam. Đặc biệt ngày này ở nhiều nước tiến bộ như Mỹ đã có luật tín dụng Ngân hàng thiết nghĩ Ngân hàng công thương Đống Đa, cũng như các Ngân hàng thương mại Việt Nam cần tham khảo luật này để cơ chế sớm tiếp cận được các qui tắc mơí xoay quanh vấn đề tín dụng, hơn nữa chắc chắn trong một tương laigần Việt Nam cũng sẽ có luật tín dụng Ngân hàng do vậy việc tham khảo luật naỳ trước cũng là điều cần thiết cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Thứ năm: Ngân hàng công thương Đống Đa cần tạo điều kiện cho những cán bộ có năng lực, có tinh thần cầu tiến, có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của chi nhánh được tham gia các khoá học tập trung nâng cao trình ddộ như thạc sĩ, tiến sĩ... và coi đây như là nguồn ổ sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo Ngân hàng trong tương lai.
4. Kiến nghị đối với khách hàng
Thứ 1: khách hàng (là tất cả các thành phần kinh tế) cần tiếp tục hoàn thiện, trao dối vốn kiến thức kinh doanh của mình về các lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tiếp tục hoàn thiện và kiện toàn bộ máy tổ chức điều hành của doanh nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, năng lực lãnh đạo của doanh nghiệp, nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân của doanh nghiệp.
Thứ 2: Nhu cầu vay vốn của khách hàng phải được xuất phát từ nhu cầu cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Khách hàng cần phải xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả, mang tính khả thi cao, đồng thời thiết lập một kế hoạch trả nợ phù hợp với năng lực tài chính và hợp đồng tín dụng mà khách hàng đã ký với Ngân hàng.
Thứ 3: Khi giao kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng, khách hàng cần chủ động cung cấp đầy đủ, trung thực mọi thông tin, giấy tờ liên quan tới tài sản bảo đảm khoản vay cho Ngân hàng. Hoàn thiện các giấy tờ mà Ngân hàng yêu cầu càng sớm càng tốt để hợp đồng tín dụng được ký kết sớm; hơn nữa với việc chủ động hợp tác chắc chắn khách hàng sẽ được Ngân hàng ghi nhận và coi đó là một trong những căn cứ để đánh giá và xếp loại khách hàng.
Kết luận
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, khảo nghiệm tổng kết thực tiễn và các phương pháp khác; qua các nội dung đã trình bày, bày viết cơ bản đã hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của NHTM trên thế giới và ở Việt Nam, khái quát các chức năng hoạt động chủ yếu mà các NHTM trên thế giới đã và đang thực hiện.
2. Trình bày, diễn giải quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động tín dụng ngân hàng của các NHTMVN.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm tài sản trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa.
4. Tổng kết, nhận định chung việc thực hiện quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn cho chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa nói riêng và các NHTMVN nói chung trong việc thực hiện quy chế pháp lý về cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết mà tác giả đã trình bày, với khối lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian thực tế cũng không nhiều, hơn nữa những gì mà bài viết đề cập đến hãy còn đang được tranh luận chưa thống nhất nên bài viết khó tránh khỏi những hạn chế cần được đóng góp bổ sung cho phù hợp với thực tế. Chính vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết này được hoàn thiện và thiết thực hơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33564.doc