i nói đầu
Hòa cùng xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa về hợp tác kinh tế đang nổi trội, với sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường, với tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và thương mại giữa các quốc gia đang ngày càng sâu xắc, Việt nam đã và đang không ngừng cố gắng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nền kinh tế hòa nhập vào sự năng động của khu vực Đông Nam á, hay nói rộng hơn là vành đai Châu á- Thái Bình Dương. Với xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp nghèo n
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở tổng Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn lạc hậu, còn hạn chế về trình độ khoa học kỹ thuật thì con đường nhanh nhất để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế là cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài để tiến hành nhập khẩu thiết bị hiện đại phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Bối cảnh đó đã đặt ra cho ngành xây dựng nói chung và tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng nói riêng những cơ hội và thử thách lớn lao. Đó là làm thế nào để có được những công nghệ tốt nhất, hiện đại nhất với thời gian và chi phí ít nhất, cho hiệu quả cao nhất.
Trong một thời gian thực tập tại phòng kinh doanh XNK, tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, trên cơ sở những kiến thức về kinh tế và nghiệp vụ XNK đã được truyền đạt tại nhà trường và một số kinh nghiệm thực tế thu được, với mục đích tìm hiểu thêm về qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng. Tôi quyết định chọn đề tài báo cáo thực tập của mình là: Qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng .
Trên cơ sở mục đích của đề tài, thu hoạch thực tập tốt nghiệp gồm những phần chính sau:
Chương I: Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị trường
Chương II: Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Duy Liên- Thầy trực tiếp hướng dẫn tôi, các thầy cô trong khoa kinh tế ngoại thương, tập thể cán bộ Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng(LICOGI), các cô chú và anh chị trong phòng kinh doanh XNK đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản báo cáo thực tập này.
Chương I
Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
trong cơ chế thị trường
Các khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
1. Thiết bị toàn bộ là gì? đặc điểm của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
cùng với sự phát triển và thay đổi cơ cấu của nền kinh tế việt Nam, các khái niệm và định nghĩa này cũng được bổ sung và phát triển.Ngày 13/11/1992 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 91/TTg ban hành “Quy định về quản lý nhập khẩu máy móc, thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước ”, trong đó đưa ra định nghĩa Thiết bị toàn bộ như sau :
Thiết bị toàn bộ là tập hợp toàn bộ máy móc thiết bị ,vật tư dùng riêng cho một dự án có trang bị công nghệ cụ thể có các thông số kinh tế-kỹ thuật được mô tả và quy định trong thiết kế của dự án .
Như vậy, nội dung của hàng hóa thiết bị toàn bộ bao gồm:
Khảo sát kỹ thuật
Luận chứng kinh tế-kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế.
Thiết bị ,máy móc, vật tư... cho xây dựng dự án.
Công tác xây dựng, lắp ráp, hiệu chỉnh, hướng dẫn vận hành.
Các dịch vụ khác có liên quan đến dự án như chuyển giao công nghệ, đào tạo ...
Việc nhập khẩu được tiến hành thông qua một hợp đồng(theo hình thức trọn gói) với toàn bộ nội dung hàng hóa nêu trên, hoặc thực hiện từng phần tùy theo yêu cầu.
Điều đó có nghĩa là khi nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ như một nhà máy sản xuất xi măng, thì ngoài các thiết bị lẻ cũng như phạm vi nhập khẩu của các loại hình này bao gồm hình thức nhập khẩu hàng hóa vật chất và hàng hóa phi vật chất .Tuy rằng ra đời hơi chậm và còn có những khiếm khuyết nhất định nhưng có thể nói Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính Phủ đã đưa ra định nghĩa rõ ràng và chính xác về thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ cũng như phạm vi của chúng, góp phần rõ rệt vào việc nâng cao hiệu quả của việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, xác định chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như phương thức và trình tự để tiến hành việc nhập khẩu thiết bị ,máy móc trong nền kinh tế thị trường phù hợp với xu hướng mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới cũng như chủ trương đơn giản hóa các thủ tục hành chính của Nhà nước .
2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt nam hiện nay.
2.1.Người nhập khẩu.
Trước kia, theo quy định của thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ thương mại, muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp phải được bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh phù hợp với Điều 5 Nghị định số 144 /HĐBT ngày 7/7/1992 trong đó ở phần nhập khẩu có ghi ngành hàng thiết bị, máy móc. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải đáp ứng các yêu cầu như :
Doanh nghiệp có bộ máy tổ chức, bộ máy cán bộ có đủ năng lực chuyên môn kỹ thuật ,nghiệp vụ ngoại thương, giá cả, pháp lý quốc tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ .
Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu ngành hàng máy móc thiết bị lẻ tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong năm không dưới 5 triệu USD .
Doanh nghiệp có vốn lưu động do nhà nước giao tự bổ sung bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị .
Do đó, doanh nghiệp cần phải xin đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ với Bộ Thương mại bằng cách gửi bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh, bao gồm :
Đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị .
Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu .
Hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động (bao gồm vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung ).
Bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng (Biểu tổng hợp ).
Sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ năng lực kinh doanh thiết bị .
Tuy nhiên, sau này theo nội dung của nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 về
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, nhập khẩu và tiếp đó là Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 qui định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công, đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài; để được phép kinh doanh xuất nhập khẩu (kể cả hàng hóa thiết bị toàn bộ), doanh nghiệp phải được thành lập theo qui định pháp luật, được phép xuất nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, đã đăng ký mã số kinh doanh với Cục Hải Quan tỉnh, thành và hàng hóa đó không thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất nhập khẩu .Với cơ chế mới, để mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể trực tiếp nhập khẩu thiết bị toàn bộ thông qua đấu thầu; hoặc doanh nghiệp có thể uỷ thác cho doanh nghiệp khác được phép kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị .Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là đối với một doanh nghiệp muốn được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng này thì trong những văn bản ban hành sau thông tư 04/TM-ĐT như đã kể trên lại chưa được quy định cụ thể, trong các danh mục ngành hàng mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu lại không có tên của ngành hàng “thiết bị toàn bộ”.Do vậy, trong thực tế, hiện nay các doanh nghiệp muốn kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ vẫn áp dụng các quy định của thông tư 04/TM-ĐT .Bản thân giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng cũng được cấp dựa theo giấy phép cũ mà Bộ Thương mại đã cấp cho tiền thân là Liên hiệp các xí nghiệp thi công cơ giới trước đó, chứ còn nếu áp dụng theo các quy định của Nghị định 33/CP hay Nghị định 57/1998/NĐ-CP thì khó có thể cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu đối với hàng thiết bị toàn bộ cho Tổng công ty
2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cả nước trong những năm gần đây.
Qua bảng dưới cho ta thấy tổng kim ngạch XNK, nhập khẩu tăng dần qua các năm 1999, 2000 đặc biệt là năm 2000: tổng kim ngạch XNK của năm 2000 so với năm 1999 tăng là 27,42% tương đương với 6349 triệu USD, tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2000 so với năm 1999 là 30,63% tương ứng với 3564 triệu USD, điều này cũng dễ hiểu bởi lý do trong giai đoạn này nền kinh tế khu vực đã tạm ổn định và có chiều hướng tăng trưởng nhanh cộng thêm việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Mặt khác từ số liệu trên cho ta thấy kim ngạch nhập khẩu của nước ta luôn chiếm trên 50% tổng kim ngạch XNK, từ đó có thể nói rằng đây là một thế mạnh của nước ta trong lĩnh vực kinh doanh XNK.
B
Bảng1: Tỷ trọng kim ngạch của cả nước qua các năm
Chỉ tiêu
97
98
98/97%
99
99/98%
00
00/99%
Th1-8/01
Tổng kim ngạch XNK
(trUSD)
20777,3
20746
-0,15
23159
11,63
29508
27,42
20208
Tổng kim ngạchNK
(trUSD)
11592,3
11390
-1,74
11636
2,16
15200
30,63
10802
Tỷ trọngNK(%)
55,8
54,9
-0,9
50,2
-4,7
51,51
1,31
53,45
Tổng kim ngạch XK
(tr USD)
9185
9356
1,86
11523
23,16
14308
24,17
94046
Tỷ trọng XK(%)
44,2
45,1
0,9
49,8
4,7
48,49
-1,31
46,55
2.3 Thị trường kinh doanh XNK
Vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt nam đang tích cực mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang các nước Châu Âu(EU), một số nước châu Phi, từng bước khôi phục lại thị trường SNG và Đông Âu, thúc đẩy quan hệ thương mại với các nước Châu Mỹ và tập trung chủ yếu vào các nước Châu á.
2.4 Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu
Nước ta đã và đang tích cực khai thác nguồn nội địa để phục vụ xuất nhập khẩu thông qua các hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước để đầu tư nuôi trồng, khai thác, gia công chế biến mặt hàng nông sản xuất khẩu hoặc xuất khẩu các sản phẩm của các dây truyền công nghệ nhập khẩu như cao su và các chế phẩm từ cao su, nông sản thực phẩm, than đá, hàng công nghiệp, các sản phẩm khác,....
Về mặt hàng nhập khẩu, ta đặc biệt trú trọng đến nhập khẩu thiết bị toàn bộ có công nghệ tiên tiến, hiện đại và phù hợp với trình độ công nghệ mà ta đã đề ra và vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, một số hàng công nghiệp tiêu dùng thiết yếu cho đời sống của nhân dân.
Các văn bản pháp lý liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ
Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một công tác phức tạp, nó không chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về chuyên môn sâu sắc mà còn đòi hỏi sự am hiểu pháp luật có liên quan ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hiệu quả nhập khẩu thiết bị, đòi hỏi phải có hệ thống văn bản pháp quy tạo điều kiện cho việc thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành, các cấp có liên quan trong các giai đoạn nhập khẩu công trình, đặc biệt đối với các công trình được nhập khẩu bằng nguồn vốn vay của nước ngoài.
1.Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng chính phủ
Quyết định này ban hành quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, trong đó nêu định nghĩa và xác định rõ phạm vi hàng hóa thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ không chỉ bao gồm phần hàng hóa hữu hình ( máy móc, thiết bị, vật liệu,....) mà còn bao gồm cả phần hàng hóa vô hình ( thiết kế, giám sát, đào tạo, chuyển giao công nghệ,....).
Theo quyết định này thì Bộ thương mại giữ vai trò chính thay nhà nước quản lý việc nhập khẩu, cụ thể trong các mặt sau:
Quyết định cụ thể doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu.
Cùng các ngành quản lý hữu quan và chủ đầu tư xử lý cụ thể khi phải nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng.
Quy định cụ thể trình tự và phương thức nhập khẩu máy móc thiết bị.
Phê duyệt hợp đồng nhập khẩu có giá trị nhỏ hơn 5 triệu USD, là Chủ tịch hội đồng thẩm định nhà nước phê duyệt dự án có vốn đầu tư từ 5-10 triệu USD, hoặc đề nghị Thủ tướng chính phủ phê duyệt đối với các hợp đồng nhập khẩu lớn hơn.
Cấp giấy phép nhập khẩu cho từng chuyến giao hàng.
2. Nghị định 52/1992/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ.
Nghị định ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng, được ra đời thay thế cho nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 và nghị định 92/CP ngày 23/8/1997, với mục đích khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn huy động được do nhà nước quản lý, đồng thời đảm bảo quy hoạch xây dựng, áp dụng hiệu quả công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Quy chế đã quy định việc phân loại dự án đầu tư theo 3 nhóm A,B,C cùng với phân cấp trách nhiệm quản lý đầu tư, quản lý vốn, thẩm định dự án đầ tư,phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của dự án đầu tư, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư....của các Bộ ngành liên quan tương ứng với từng nhóm.
Nhằm đảm bảo tính thống nhất của công tác quản lý đầu tư và xây dựng, Quy chế đã quy định trách nhiệm quyền hạn của chủ đâù tư, tổ chức tư vấn đầu tư, nhà thầu xây dựng, trình tự lập dự án đầu tư, nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi, nội dung công tác thẩm định dự án đầu tư và thực hiện đầu tư, nguyên tắc quản lý đấu thầu và chỉ định thầu trong xây dựng, tư vấn mua sắm thiết bị và xây lắp.
3.Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 4/9/1999 của Chính Phủ
Nghị định ban hành Quy chế đấu thầu ,thay thế cho Quy chế đã ban hành kèm Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định 93/CP ngày 23/8/1997 của Chính Phủ ,nhằm mục đích thống nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn ,mua sắm hàng hóa ,xây lắp và lựa chọn đối tác để thực hiện dự án hoặc từng phần dự án trên lãnh thổ Việt Nam .Quy chế đấu thầu đã đưa ra định nghĩa cho các chuyên dùng trong đấu thầu như “đấu thầu”, “đấu thầu trong nước” , “đấu thầu quốc tế”, “xét thầu”, “dự án”, “bên mời thầu”, “người có thẩm quyền”, “nhà thầu”, “cấp có thẩm quyền”, “tư vấn”, “xây lắp”...
Những nội dung cơ bản của công tác đấu thầu và tổ chức đấu thầu đã được bổ sung thêm ,đưa ra những quy định cụ thể hơn,hệ thống hơn ,đặc biệt là công tác quản lý nhà nước về đấu thầu trong việc :
Soạn thảo ,ban hành hoặc trình ban hành các văn bản quy định pháp luật về đấu thầu ;
Tổ chức hướng dẫn thực hiện ;
Tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu của dự án thẩm định kết quả đấu thầu;
Phê duyệt kế hoạch đấu thầu của dự án và kết quả đấu thầu ;
Tổ chức kiểm tra công tác đấu thầu ;
Tổng kết,đánh giá ,báo cáo tình hình đấu thầu và thực hiện Quy chế đấu thầu;
Giải quyết các vướng mắc ,khiếu nại về đấu thầu .
4.Thông tư 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ Thương Mại
Thông tư hướng dẫn thực hiện quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước .Đồng thời với việc đưa ra các định nghĩa về “Thiết bị”, “Chủ đàu tư”, “Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị”, “Cơ quan chủ quản”, Thông tư đã quy định rõ các tiêu chuẩn của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ ,thiết bị lẻ và quyền cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị của Bộ Thương Mại .
Trong Thông tư đã quy định cụ thể về trình tự nhập khẩu thiết bị toàn bộ,nêu rõ vai trò và quyền hạn của Bộ Thương Mại trong công tác quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ ,cụ thể như:Bộ Thương Mại có quyền chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu thiết bị ;Bộ Thương Mại quy định hình thức nhập khẩu thiết bị qua đấu thầu hoặc mua sắm trực tiếp...
Thông tư đã nêu rõ việc chuyển giao công nghệ là một phần của Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ ,đồng thời đưa ra điều khoản phê duyệt Hợp đồng nhập khẩu thiết bị của các cơ quan có thẩm quyền ; quy định trình tự và văn bản cần thiết để phê duyệt Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ .
5.Một số văn bản pháp luật của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường
Hệ thống những văn bản của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã ra đơì nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị máy móc thiết bị như thông tư 28/TT-QLKH của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ngày 22/1/1994 hướng dẫn chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam, thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998 của Chính Phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ ,Quyết định số 2578/QĐ-TĐC ngày 28/10/1996 cuả Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành quy định kiểm tra Nhà nước về chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ,Quyết định 1091/1999/QĐ-BKHCNMT.
6.Một số văn bản pháp luật về thuế ,tài chính và hải quan:
Hệ thống văn bản quản lý về thuế và thủ tục hải quan cũnglần lượt ra đời,thay đổi theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể ,đã góp phần không nhỏ vào việc điều chỉnh hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo quản lý của Nhà nước ,thông qua các văn bản chính thức như:
thông tư số 132/1998/TT-BTC ngày 1/10/1998 quy định và hướng dẫn việc áp
dụng thuế nhập khẩu thiết bị đồng bộ của dây chuyền sản xuất .
thông tư số 37/1999/TT-BTC ngày 7/4/1999 hướng dẫn cách phân loại hàng
hóa theo Danh mục biểu thức nhập khẩu năm 1999.
Nghị định 16/1999/NĐ-CP ngày 27/3/1999 ban hành quy định về thủ tục hải
quan, giám hải quan và lệ phí hải quan.
Thông tư 01/1999/TT-TCHQ ngày 10/5/1999 hướng dẫn về thủ tục hải quan
quy định tại Nghị định số 16/1999/NĐ-CP ngày 27/3/1999 của Chính Phủ
Quyết định 197/1999/QĐ-TCHQ ngày 3/6/1999 ban hành Quy chế quản lý
hải quan đối với địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu và hàng hóa
xuất nhập khẩu chuyển tiếp...
đánh giá kết quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ và những nhân tố ảnh hưởng
đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở việt nam.
1. đánh giá kết quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ .
Dựa vào hiệu quả tổng hợp của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, chỉ tiêu hiệu quả nhập khẩu (tỷ xuất ngọại tệ đối với hàng hóa nhập khẩu, số vòng quay và mức doanh lợi của vốn lưu động). Ta thấy hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt nam nói chung là có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất nước, bởi vì Việt nam xuất phát từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu và còn hạn chế về trình độ khoa học kỹ thuật.
2.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Trên thực tế ,việc xác định được chính xác và đầy đủ tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nào đó trong nền kinh tế sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định trong việc đem lại hiệu quả cho hoạt động đó .Tuy nhiên ,việc xác định này phức tạp và chỉ thực hiện được bằng cách chọn lọc ra những nhân tố cơ bản để nghiên cứu.Trong phạm vi thu hoạch thực tập này ,tôi cũng chỉ đưa ra một số những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ như sau:
2.1.Trình độ khoa học -công nghệ của Việt Nam .
Việt Nam hiện nay đang cố gắng khắc phục một số tình trạng là rất nhiều các công trình thiết bị toàn bộ nhập khẩu về chỉ đạt từ 30-35%công suất ,một số công trình không sử dụng được ,nhiều kiên doanh đã bị biến thành một nơi tiêu thụ hàng hóa tồn kho ứ đọng của các máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng hoặc đã lạc hậu của phía nước ngoài .Hàm lượng công nghệ của nhiều nhà máy thể hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp khoảng 20%,ngược lại chi phí vật tư nguyên liệu nhập ngoại còn cao hơn 70%.Đó là trong khi xây dựng nhà máy ,nhiều nhà đầu tư do trình độ kém ,không hiểu biết và quan tâm tới lợi ích xã hội nên đã cố tình cắt giảm nhiều hạng mục sử lý chất thải ,máy móc thiết bị bảo vệ người lao động và môi trường .Các yếu tố có hại trong môi trường lao động không chỉ gây ô nhiễm tại nơi làm việc mà còn ảnh hưởng xấu đến cả môi trường sống của dân cư xung quanh .Theo thống kê chưa đầy đủ ,hiện có 1,69% tổng số người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn ,vệ sinh lao động nhưng chưa được cấp giấy phép hoặc giấy phép đã hết sử dụng cần phải được đăng kiểm lại ;7,33%tổng số người lao động phải làm việc với máy móc thiết bị mà bộ phận che chắn các yếu tố nguy hiểm không có hoặc không đảm bảo ;2,35% máy móc thiết bị đang ở trong tình trạng cũ ,hỏng,rò rỉ các chất độc hại ra môi trường .
Rõ ràng là hiệu quả của những công trình thiết bị toàn bộ ở Việt Nam đã không đạt được như ý muốn ,chưa phát huy được hết vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế quốc dân.Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng yếu kém về phát triển kinh tế ,với những nhà máy ,công trình thiết bị toàn bộ nhập khẩu về chất lượng không cao lắm ,chất lượng sản phẩm chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới ,hiệu quả kinh tế xã hội thấp...chính là do chất lượng “Tài nguyên sức người” của Việt Nam không cao .Tài nguyên sức người là một khái niệm hoàn chỉnh ,bao gồm người lao động trí óc,người lao động chân tay ,là tổng hòa toàn bộ nhân viên các ngành ,các nghề ,các tầng lớp ,các loại hình trong xã hội .Việc nhập khẩu một công trình thiết bị toàn bộ không chỉ do một doanh nghiệp,một nhóm người nào đó đứng ra quyết định mà đòi hỏi có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền cuả Chính Phủ ,những cơ quan này ,thường không có đủ cán bộ chuyên môn để thẩm định một dự án đầu tư ,một dự án xin vay vốn,thẩm định công nghệ của một công trình cũng như tính toán đầy đủ hiệu quả kinh tế -xã hội mà công trình đó có khả năng mang lại...Theo như “Báo cáo đánh giá Chính sách công nghệ và đổi mới của Việt Nam”của nhóm chuyên gia quốc tế IDRC thì cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt Nam còn thiếu hiệu qủa ,tuy rằng con người Việt Nam vốn cần cù chịu khó và ham học hỏi ,nhưng hệ thống nghiên cứu và triển khai (Research and Deverlopment-R&D) của Việt Nam còn chưa phù hợp ,nêú không phát huy được thế mạnh về tri thức khoa học .
2.2 Tỷ giá hối đoái:
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ, hàng hóa nhập khẩu trở lên đắt hơn vì người nhập khẩu phải dùng nhiều đơn vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một số lượng hàng nhập khẩu. Điều này, kích thích sự tăng giá cả trong nước, làm hạn chế nhập khẩu hàng hóa hoặc kích thích sự phát triển sản xuất các hàng hóa thay thế nhập khẩu ở trong nước. Tỷ giá hối đoái giảm tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí đồng tiền dân tộc để mua hàng hóa từ nước ngoài, các nhà nhập khẩu đã phải tăng chi phí sản xuất kinh doanh của mình. Đây là một nhân tố cơ bản làm giảm hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. Việc tăng chi phí sẽ dẫn tới tăng giá thành sản xuất, do đó sẽ làm giảm cầu trên thị trường nội địa về sản phẩm nhập khẩu. Mặt khác, do giá cả tăng nên người tiêu dùng nội địa sẽ sử dụng hàng hóa thay thế khác. Điều này, làm giảm kết quả của hoạt động nhập khẩu dẫn tới giảm hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu.
Như vậy, nếu tỷ giá giảm sẽ làm giảm hiệu quả nhập khẩu theo hai hướng tăng chi phí và giảm kết quả. Nhưng xét về hiệu quả kinh tế-xã hội khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, tăng tiềm năng sản xuất trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân thanh toán.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng hóa nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả chung trong nước. Chi phí kinh doanh giảm xuống, làm cho kết quả kinh doanh tăng.
Chương II
Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng .
I.Lịch sử hình thành và phát triển của tổng công ty.
1.Tổng quan về tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng .
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tổng công ty.
Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng (LICOGI)-Bộ xây dựng, tiền thân là Liên hiệp các xí nghiệp thi công cơ giới-Bộ xây dựng được thành lập 28/1/1961. Suốt một thời gian dài trong thời kỳ bao cấp ( 1961-1989 ), LICOGI hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ hầu như dựa vào uỷ thác của các công ty không được cấp giấy phép hoạt động xuất nhập khẩu. Dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ ngoại thương, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Văn phòng Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, các ngành, các chủ đầu tư, LICOGI đã nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho hơn 500 công trình lớn nhỏ bằng các nguồn vốn khác nhau. Nhiều dây chuyền công nghệ mà LICOGI nhập khẩu đã và đang phát huy tác dụng cho nền kinh tế Việt nam, trong đó có một số công trình giữ vai trò nền tảng cơ bản và là động lực cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế nước ta bước sang một giai đoạn mới-giai đoạn thực hiện nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước đề ra. Chính Phủ chủ trương chuyển giao việc xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho tất cả các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế có đủ điều kiện trong cả nước. Trong tình hình mới đó, bản thân LICOGI một lần nữa lại tự khẳng định mình, nỗ lực và cố gắng để đứng vững và phát triển, thể hiện vai trò chủ đạo của mình để đảm bảo phục vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho mình và cho tất cả các ngành. Cũng trong thời gian này LICOGI được Bộ xây dựng cho phép đổi tên thành Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, thực hiện hạch toán kinh doanh toàn phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có điều tiết của Nhà nước, với chức năng nhiệm vụ mở rộng và đa dạng hơn bao gồm cả sản xuất và xuất nhập khẩu.
Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, tập thể cán bộ công nhân viên của LICOGI vẫn tiếp tục phấn đấu không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, cùng đoàn kết nhất trí trong chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ, cùng nhau vượt qua những thử thách của nền kinh tế thị trường. Qua 10 năm hoạt động theo cơ chế mới ,LICOGI đã nhanh chóng hòa nhập với nền kinh tế nhiều thành phần, đa phương hóa và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, đảm bảo sự ổn định và phát triển, đứng vững trước những khó khăn to lớn mà tổng công ty chưa từng gặp phải trong 10 năm trước đó, đặc biệt là sự cạnh tranh với các đơn vị xuất nhập khẩu cũ và mới xuất hiện. Bên cạnh việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị lẻ, LICOGI đã liên doanh liên kết với mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước để có thể khép kín toàn bộ các công đoạn để có được nguồn hàng xuất nhập khẩu thông qua các dự án đầu tư từ những nguồn vốn khác nhau. Các khâu trong quy trình khép kín này bao gồm từ lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi, lập hồ sơ mời thầu, xét thầu đến đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức xuất nhập khẩu, giao nhận hàng đến tận chân công trình hoặc đứng ra nhận thầu với nước ngoài cung cấp thiết bị cho các thành phần kinh tế trong nước. Kết quả bước đầu cho thấy mặc dù có rất nhiều đơn vị xuất nhập khẩu thực hiện việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhưng trong tình hình mới này, LICOGI vẫn giữ vững được uy tín và vị trí chủ đạo trong công tác xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao nhất, phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Với những thành tích và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, LICOGI đã được Chủ Tịnh nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1965; Huân chương Lao động hạng Nhì năm 1984; hai lần Huân chương Lao động hạng Nhất năm1990, 1997 và liên tục được Chính Phủ tặng cờ luân lưu là “ Đơn vị dẫn đầu ngành xây dựng” trong các năm 1996,1997,1998,1999.
Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận trong Tổng công ty.
Trong thời gian gần đây, LICOGI đã và đang từng bước ổn định và xắp xếp lại bộ máy quản lý, tổ chức đào tạo nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ viên chức, cán bộ kinh doanh để theo kịp với tình hình mới. LICOGI hiện nay có cơ cấu tổ chức hết sức gọn nhẹ nhưng năng động và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đa dạng của quá trình sản xuất kinh doanh.
Là tổng công ty trực thuộc Bộ xây dựng cho nên LICOGI có Chủ tịch Hội đồng quản trị do Bộ xây dựng bổ nhiệm, Tổng giám đốc là người đứng đầu tổng công ty có nhiệm vụ quản lý và điều hành tổng công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Hội đồng quản trị và trước pháp luật về mọi hoạt động của tổng công ty. Giúp việc cho tổng giám đốc là ba phó giám đốc và một kế toán trưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị và Bộ xây dựng quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Hiện nay, LICOGI có 6 phòng nghiệp vụ, ba phòng chức năng và năm đơn vị trực thuộc. Ngoài ra LICOGI còn có mạng lưới văn phòng đại diện tại rất nhiều nơi trong nước và trên thế giới. Sau đây là sơ đồ tổ chức của LICOGI:
Chủ tịch HĐ quản trị
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Các phòng chức năng
Các phòng nghiệp vụ
Các đơn vị trực thuộc
Tài chính kế toán
Phòng XD
Công ty tư vấn xây dựng
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng kinh doanh XNK
Công ty xây dựng &thiết bị Delta
Phòng KT kế hoạch
Phòng KT kỹ thuật thi công
Cty KD thiết bị xây dựng
Phòng dự án cấpnước môi trường
Cty cơ giới và xây lắp số 13 Thanh Xuân Bắc
Phòng cơ giới vật tư
Ban quản lý các khu công nghiệp
Phòng KCS
1.2.1Các đơn vị trực thuộc.
Chức năng của các đơn vị trực thuộc là tư vấn về đầu tư, xây dựng và thương mại cho các đơn vị trong tổng công ty, các chủ đầu tư ngoài các cơ quan thuộc các Bộ, ngành và các đơn vị khác. Trong những năm qua, các đơn vị trực thuộc đã và đang góp phần tích cực giúp cho các địa phương xây dựng các công trình trọng điểm, giúp các chủ đầu tư tính toán nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ, lập ra các dự án và quy hoạch các khu công nghiệp an toàn, hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế cao, phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu về quản lý Nhà nước và môi trường.
1.2.2Các phòng chức năng.
Các phòng chức năng có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc hạch toán,kế toán ,quản lý vốn ,tài sản,thuế ,quản lý tiền hàng ,quản lý nhân lực ,hoạch định các chính sách về lao động tiền lương,quản lý các chương trình đào tạo nhân lực ,lập các dự án đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty .
1.2.3Các phòng nghiệp vụ.
Hiện nay Tổng công ty có 7 phòng nghiệp vụ có chức năng thực hiện các hoạt động xây dựng các công trình phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật đã đề ra, cung cấp cơ giới vật tư đúng tiến độ, lập dự án cấp nước và môi trường cho các công trình, kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Các trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về vốn, tài sản và công việc được giao.
1.Tình hình hoạt động chung của tổng công ty.
2.1Phạm vi hoạt động kinh doanh của tổng công ty.
Phạm vi hoạt động kinh doanh của tổng công ty trong lĩnh vực xuất nhập khẩu bao gồm:
Nhập khẩu trực tiếp và nhận uỷ thác nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ, các dây chuyền công nghệ, các máy móc thiết bị lẻ, phụ tùng, nguyên nhiên liệu... phục vụ sản xuất, xây dựng đầu tư chiều sâu, mở rộng và hiện đại hóa các công trình kinh tế văn hóa, giáo dục... và các loại hàng hóa khác phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội.
Xuất khẩu trực tiếp các loại hàng hóa, công trình do LICOGI đầu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34240.doc