Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006-2015

LỜI NÓI ĐẦU Trước đây khi nhắc tới hệ thống kế hoạch hoá trong phát triển các ngành kinh tế quốc dân chúng ta thường bắt gặp nhiều cụm từ: chiến lược phát triển ngành, kế hoạch phát triển ngành... mà ít khi thấy các ngành lập qui hoạch phát triển cho riêng ngành. Sở dĩ là vì qui hoạch gắn với bố trí sắp xếp nên nó phù hợp hơn với hệ thông kế hoạch hoá phát triển cho các vùng, các khu đô thị. Tuy nhiên đã có một thực tế đáng buồn xảy ra với các ngành kinh tế quốc dân đặc biệt là các ngành khai t

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác tài nguyên thiên nhiên đó là việc phát triển một cách tự phát các cơ sở sản xuất không tuân theo bất cứ một khuôn khổ nào, dẫn tới các ngành rất khó kiểm soát và không thể phát triển theo đúng kế hoạch đã đặt ra. Việc này gây ra những rắc rối trong quản lý ngành gây lãng phí mất mát lớn, không đạt hiệu quả trong đầu tư. Trong khoảng 5-10 năm trở lại đây các ngành đã chú trọng hơn tới công tác xây dựng qui hoạch phát triển cho mình (ngành điện, ngành than, ngành xi măng...). Xây dựng qui hoạch là một nội dung khó do nó đòi hỏi phải phân tích tỷ mỉ các điều kiện phát triển ngành ở các vùng, sự liên kết phát triển ngành giữa các vùng và sự hợp tác giữa các ngành trong vùng. Tuy nhiên nếu có được một bản qui hoạch tốt sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho các ngành phát triển nhanh và bền vững. Qui hoạch ngành là một nội dung lớn trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Mỏ và Công nghiệp, em có điều kiện được tìm hiểu về qui trình lập qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam. Chính vì vậy em đã quyết định lựa chọn để tài thực tập chuyên ngành là: Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú trong phòng Kế hoạch của công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Mỏ và Công nghiệp và TS Vũ Thị Ngọc Phùng, giảng viên trường đại học Kinh tế quốc dân đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài thực tập này Chương I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI LẬP QUI HOẠCH PHÁT TRIỂN NGÀNH THAN VIỆT NAM I. Tổng quan về qui hoạch ngành 1. Khái niệm về qui hoạch Quá trình kế hoạch hoá nếu phân theo nội dung thì nó là một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với nhau của các bộ phận cấu thành bao gồm: chiến lược phát triển, qui hoạch phát triển, kế hoạch phát triển và các chương trình, dự án phát triển. Trong đó, chiến lược phát triển xác định các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội mang tính chất dài hạn( 10năm, 15năm, 20 năm,...). Qui hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn và bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ. Kế hoạch phát triển là công cụ điều hành và quản lý vĩ mô, nó được đặc trưng bằng hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể về mục tiêu và biện pháp phát triển trong từng thời kì nhất định. Chương trình và dự án phát triển được xem là công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển, nhằm giải quyết các vấn đề mang tính chất bức xúc của nền kinh tế trong thời kỳ kế hoạch. Không thể thiếu được qui hoạch trong lý thuyết và thực tiễn kế hoạch hoá. Về cơ bản có thể hiểu qui hoạch phát triển là sự thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược vể thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững. Vai trò của qui hoạch phát triển chính là sự cụ thể hoá chiến lược trong thức tế về cả mục tiêu và các giải pháp. Nếu không có qui hoạch sẽ mù quáng, lộn xộn, đổ vỡ trong phát triển, qui hoạch để định hướng, dẫn dắt, điều chỉnh trong đó có cả hiệu chỉnh thị trường. Mặt khác chức năng của qui hoạch còn là cầu nối giữa chiến lược, kế hoạch và quản lý thực tiễn chiến lược, cung cấp các căc cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả. Qui hoạch phát triển bao gồm: Qui hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, qui hoạch ngành và qui hoạch vùng lãnh thổ. Qui hoạch tổng thể là xác định và lựa chọn mục tiêu cuối cùng, tìm những giải pháp để thực hiện mục tiêu. Qui hoạch cũng như chiến lược, xét cho cùng vẫn là định hướng. Tuy vậy, một trong những khâu quan trọng nhất của qui hoạch là luận chứng về tính tất yếu, hợp lý cho sự phát triển và tổ chức không gian kinh tế - xã hội dài hạn dựa trên sự bố trí hợp lý bền vững kết cấu hạ tầng vất chất kĩ thuật phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Trong xây dựng qui hoạch phải đi vào luận chứng ở mức cần thiêt từ khâu điều tra, phân tích đến tính toán chứng minh, so sánh các phương án, các giải pháp, xem xét moi yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng,... đi từ tổng quát đến cụ thể và ngược lại, cần chú ý sự phù hợp cả không gian lãnh thổ và thời gian cụ thể. Trên cơ sở khung qui hoạch tổng thể và chiến lược phát triển, các ngành sẽ xây dựng qui hoạch phát triển của ngành mình. Các tiềm năng phát triển sẽ được đánh giá chuẩn xác hơn và cụ thể hơn, đồng thời trên một mức độ nào đó sẽ lượng hoá các nguồn lực phát triển có thể khai thác từ các nguồn tiềm năng, thiết lập cơ cấu phát triển ngành, làm cơ sở xây dựng các chương trình, dự án chính sách thực hiện các mục tiêu của ngành. Như vậy, qui hoạch ngành là dự kiến phân bố các cơ sở sản xuất của ngành trong phạm vi lãnh thổ toàn quốc trên cơ sở dự báo nhu cầu về sản phẩm của ngành, điều kiện tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý của vùng để tạo ra một cơ cấu ngành hợp lý và hiệu quả. Về ý nghĩa, qui hoạch ngành sẽ là căn cứ để xây dựng qui hoạch vùng, là công cụ để quản lý( theo dõi, kiểm tra) ngành. Qui hoạch tổng thể vùng là những luận chứng khoa học về bố trí sản xuất phục vụ đời sống, sản xuất của dân cư trên phạm vi lãnh thổ của một vùng. Nó tổng hợp qui hoạch của các ngành, xác định mục tiêu phát triển của vùng dựa trên đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng qui hoạch trong thời gian qua. Dựa trên kết quả nghiên cứu nhu cầu hàng hoá dịch vụ trong vùng và ngoài vùng có liên quan để bố trí không gian hợp lý và xây dựng giải pháp thực hiện. Qui hoạch vùng vừa phải đảm bảo các phương án tối ưu liên ngành và liên vùng trên cùng một địa bàn lãnh thổ, vừa phải phát huy tiềm năng và đặc thù của từng vùng để phát triển. 2. Nội dung qui hoạch ngành Trong thực tế nếu không có qui hoạch ngành sẽ phát triển tự phát dẫn tới sự không hiệu quả. Phải có qui hoạch mới bám sát được thị trường đảm bảo tổng cung bằng tổng cầu. Tuỳ đặc thù từng ngành mà trong mỗi phần có những nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên khung cơ bản của một bản qui hoạch cần tuân theo một số nội dung sau: 2.1. Đánh giá các điều kiện, yếu tố phát triển Mục đích của việc đánh giá các điều kiện, yếu tố cho phát triển là chỉ ra những nhân tố cần thiết cho phát triển ngành; đánh giá khả năng tác động của các yếu tố đầu vào đến phát triển ngành; đánh giá vai trò trong hội nhập và tính cạnh tranh của ngành trong phát triển. Phải đảm bảo đánh giá các yếu tố, nguồn lực một cách đầy đủ, tránh việc mô tả chung chung, phải tập trung làm rõ các vấn đề sau: Phân tích sự tác động của các yếu tố, nguồn lực đến phát triển ngành hiện tại và trong tương lai ( tác động gì? và như thế nào? đến phát triển ngành); Mức độ cạnh tranh trong điều kiện hội nhập; Từ phân tích những yếu tố, nguồn lực phải thấy được các điều kiện để có thể khai thác phát huy chúng trong tương lai. Nội dung cụ thể cần đánh giá gồm: a) Xác định vị trí, vai trò của ngành đối với nền kinh tế quốc dân Để xác định vị trí, vai trò của ngành trong nền kinh tế ta có thể dựa vào một số chỉ tiêu: tỷ lệ đóng góp GDP ngành trong nền kinh tế qua các năm, tỷ lệ sử dụng vốn đầu tư của ngành trên tổng vốn đầu tư của toàn xã hội qua các năm, tỷ lệ thu hút lao động của ngành, tỷ lệ trang bị công nghệ hiện đại cho ngành... Dựa vào các chỉ tiêu này có thể đưa ra nhận định chung về tiềm năng và khả năng phát triển ngành ( nhanh, trung bình, yếu), xác định vai trò của ngành trong hệ thống kinh tế, vai trò thu hút lao động của ngành, khả năng hiện đại hoá công nghệ ( tiên tiến, trung bình, lạc hậu)... b) Đánh giá các nhân tố đầu vào cho phát triển ngành Những nhân tố đầu vào cho phát triển ngành gồm: điều kiện tự nhiên, nguyên liệu, cung cấp điện, nước, lao động. Cần đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đối với sự phát triển của ngành. Từ đó đưa ra được các kết luận cụ thể: Mức độ ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến phát triển ngành (là thuận lợi hay khó khăn); khả năng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ngành ( bao gồm cả nguyên liệu từ khoáng sản và nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp) là dồi dào hay khan hiếm; đánh giá nguồn vốn đầu tư, lao động lành nghề cung cấp cho ngành là nhiều hay ít. c) Phân tích ảnh hưởng của bối cảnh thế giới đến phát triển ngành Đánh giá mức độ ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế đến sự phát triển của ngành phải quan tâm đến những vấn đề: Ý kiến của các chuyên gia chuyên ngành; quan điểm của các chuyên gia kinh tế đánh giá chung về ngành;khảo sát các số liệu cơ bản theo các chỉ tiêu chủ yếu về hoạt động của ngành trên phạm vi thế giới và khu vực; xếp hạng mức độ cạnh tranh của sản phẩm. Từ đó rút ra được các nhận định cơ bản về tình hình phát triển của ngành trên thế giới (nhanh/ chậm), xu thế phát triển của ngành trên thế giới và khu vực( then chốt/ bình thường), tình hình cạnh tranh sản phẩm của ngành trên thế giới và trong nước tác động đến phát triển ngành trong tương lai là mạnh/ trung bình hay yếu. d) Đánh giá chung về thuận lợi, khó khăn và hướng khai thác Tổng hợp các phân tích trên để đưa ra những kết luận chính: - Những thuận lợi, khó khăn của ngành ( cơ hội và thách thức). - Hướng khai thác trong tương lai ( phát triển hay không phát triển). 2.2. Đánh giá hiện trạng qui hoạch phát triển ngành Mục đích của việc phân tích, đánh giá hiện trạng qui hoạch phát triển ngành là: Đánh giá toàn bộ hiện trạng ngành theo các chỉ tiêu cơ bản như khai thác tài nguyên, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu ngành, phân bố theo lãnh thổ, đầu tư, lao động, công nghệ...; Đưa ra kết luận về kết quả đạt được, những khó khăn gặp phải, những nguyên nhân chính và hướng giải quyết. Việc đánh giá hiện trạng ngành cần tránh mô tả chung chung về thành tích và hạn chế mà phải đảm bảo đạt được một số yêu cầu sau: - Đánh giá trình độ phát triển ngành trong tương quan với các ngành cũng như đối với cùng ngành trên thế giới. - Đánh giá bối cảnh chung và mức độ cạnh tranh của ngành, sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân. - Rút ra bài học (những qui luật phát triển) của ngành trong thời gian qua. Xác định những điểm cần phải phát huy hoặc cần phải khắc phục trong giai đoạn tới. - Đánh giá được sự phân bố ngành, cơ cấu ngành theo vùng lãnh thổ đưa ra nhận xét về sự hợp lý hay chưa. - Những kết luận rút ra từ phân tích, đánh giá hiện trạng qui hoạch phát triển phải là một trong những cơ sở để đề ra mục tiêu và phương hướng cần khắc phục và phát huy trong giai đoạn tới. a) Đánh giá kết quả công tác qui hoạch phát triển ngành trong 5-10 năm - Đánh giá qui mô, tốc độ tăng trưởng ngành: Thông qua các chỉ tiêu tính toán về: Giá trị sản xuất, số lượng các loại nguyên liệu cung cấp cho ngành, nhịp độ tăng trưởng GTSX, GDP, nhịp độ tăng trưởng GDP, diện tích, năng xuất, sản lượng các sản phẩm chủ yếu của ngành, nhịp độ tăng trưởng của các sản phẩm chủ yếu,... qua các năm. Từ đó đưa ra các kết luận cơ bản về qui mô phát triển của ngành trong thời gian qua; mức độ phát triển của ngành trong giai đoạn vừa qua; khả năng cạnh tranh. - Đánh giá về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành: Mục đích chính là tính toán đóng góp của ngành trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời xác định sự chuyển dịch sự đóng góp đó qua các năm của ngành. Thông qua các chỉ tiêu tính toán: tỷ trọng GTSX, GDP của ngành trong tổng GTSX, GDP cả nền kinh tế; cơ cấu GTSX, GDP, vốn đầu tư, lao động theo các sản phẩm hoặc theo các phân ngành, theo các mốc thời gian; đánh giá và phân tích kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Từ đó đưa ra các nhận định chính về qui mô sản xuất ngành trong nền kinh tế, cơ cấu các phân ngành, so sánh cơ cấu qua các mốc để đưa ra kết luận về hướng chuyển dịch cơ cấu ngành. b) Đánh giá hiện trạng ngành - Đánh giá trình độ và khả năng phát triển khoa học - công nghệ của ngành: Đối với các ngành sản xuất công nghệ đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển. Trong điều kiện hội nhập toàn cầu đổi mới công nghệ mang lại khả năng cạnh tranh cao. Đánh giá mức độ hiện đại hoá công nghệ cho ngành sẽ được tính toán từ các chỉ tiêu: thống kê trang thiết bị theo các thế hệ công nghệ ( cũ/mới); tỷ lệ trang bị hiện đại/đơn vị sản phẩm; tỷ lệ trang bị hiện đại/GTSX ngành; tình hình nghiên cứu và triển khai (R&D) của ngành. Từ đó đưa ra những kết luận cơ bản đánh giá mức độ hiện đại hoá của ngành, trình độ trang bị công nghệ mới, khả năng đổi mới công nghệ cho ngành. - Đánh giá về hoạt động đầu tư cho phát triển ngành: Sử dụng các chỉ tiêu: Tổng số vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư cho ngành qua các năm theo các phân ngành; tốc độ tăng vốn đầu tư cho ngành qua các năm; cơ cấu vốn đầu tư theo các sản phẩm hoặc theo các phân ngành ( vốn đầu tư theo nguồn cung cấp, trong nước- nước ngoài, nhà nước và ngoài quốc doanh...); suất đầu tư ( vốn đầu tư/ GTSX); khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trong ngành; hệ số ICOR theo các năm và theo sản phẩm hoặc phân ngành. Để đưa ra được các kết luận về qui mô đầu tư, cơ cấu đầu tư theo ngành, theo nguồn, hiệu quả đầu tư. - Nguồn nhân lực cho ngành: Thống kê số lao động, phân loại trình độ và khả năng cung ứng lao động cụ thể cần tính toán: số lượng lao động trong ngành qua các năm, theo các sản phẩm hoặc các phân ngành ( số lao động trong ngành theo mức độ đào tạo: lao động phổ thông/ lao động qua đào tạo; công nhân/kĩ sư/thợ lành nghề...); năng suất lao động qua các năm; thu nhập của lao động trong ngành qua các năm; đánh giá khả năng đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển ngành. Rút ra các kết luận về tình hình lao động cho phát triển ngành giai đoạn qua ( thiếu hay dư thừa), cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo đã hợp lý hay chưa, năng suất lao động là cao hay thấp. c) Đánh giá hiện trạng phân bố ngành trên các vùng lãnh thổ Khảo sát và đánh giá sự phát triển của ngành trên các vùng lãnh thổ thông qua các số liệu thống kê về: - Số lượng cơ sở sản xuất của ngành theo các vùng; - GTSX ( GDP) ngành theo các vùng, tốc độ tăng trưởng của GTSX (GDP) ngành theo các vùng; - Cơ cấu ngành và các phân ngành theo các vùng lãnh thổ; - Các khu công nghiệp tập trung trên các vùng. Từ đó đưa ra những nhận xét về tính hợp lý của tình hình phân bố ngành, khai thác nguồn lực của các vùng, hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp khu tập trung khai thác. d) Tổng hợp đánh giá chung Sau những phân tích và nhận xét cụ thể về các mặt trên của ngành ta đưa ra các kết luận chung về tính hợp lý trong công tác qui hoạch hiện tại của ngành, những điểm mạnh và những tồn tại chủ yếu cần khắc phục. Đồng thời nêu được nguyên nhân của các thành công và hạn chế đó. 2.3. Luận chứng phương hướng phát triển Trước tiên cần dự báo được các yếu tố tác động đến phát triển ngành, trong đó có phân tích, dự báo đầy đủ yếu tố thị trường và yêu cầu về năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ. Các nội dung dự báo bao gồm: dự báo khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho phát triển ngành như nguyên, nhiên, vật liệu, điện nước,...; Dự báo về khả năng đổi mới công nghệ của ngành; Dự báo nhu cầu và khả năng cung cấp vốn đầu tư; Dự báo về nhu cầu và khả năng cung cấp lao động theo các trình độ đào tạo. Dựa vào các dự báo này làm căn cứ để đưa ra định hướng qui hoạch phát triển đảm bảo tính cân đối trong qui hoạch phát triển ngành Trong phần này phải đưa ra được quan điểm và mục tiêu phát triển ngành trong thời kì qui hoạch. Ngoài những quan điểm, mục tiêu có tính chất định hướng của phát triển kinh tế nói chung cần nêu ra những quan điểm, mục tiêu thật cụ thể đối với ngành tuỳ thuộc vào vị trí, đặc thù và bối cảnh lịch sử của ngành. Nội dung quan điểm phát triển của ngành phải phù hợp với quan điểm phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thể hiện sự lựa chọn những vấn đề ưu tiên cho ngành, quan điểm hội nhập trong cơ chế thị trường. Đối với mục tiêu còn tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể, song cần thể hiện được sự phát triển bền vững, trước tiên là mục tiêu hiệu quả, mục tiêu đáp ứng những nhu cầu xã hội và đảm bảo ổn định môi trường. Những mục tiêu cụ thể bao gồm các chỉ tiêu về số lượng về tốc độ tăng trưởng, doanh thu, xuất khẩu, lao động, đầu tư,... của ngành Phải đưa ra phương hướng phát triển ngành theo các tiêu chí chung và các sản phẩm đặc biệt chú ý đến các sản phẩm chủ lực. Nêu được hướng đi và các chỉ tiêu định lượng theo hướng đi ra của ngành, tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm. Cuối cùng là đưa ra luận chứng về các phương án qui hoạch phát triển cho ngành. Các phương án phát triển cần phải thể hiện được khả năng phát triển theo hướng hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập, xác định rõ vai trò của nhà nước trong quản lý ngành, nêu bật được khả năng cạnh tranh của ngành trong cơ chế thị trường, hiệu quả kinh tế ngành. Cần đưa ra được 2-3 phương án để lựa chọn, các phương án đi liền với các điều kiện ở mức độ thấp/ trung bình/ cao. Các phương án cần thể hiện được các chỉ tiêu về nhịp độ tăng trưởng của GTSX, GDP, doanh thu, xuất khẩu,... phải thể hiện được cơ cấu hợp lý của các phân ngành và các sản phẩm. Đặc biệt phải thể hiện được ý đồ sắp xếp phân bổ các cơ sở sản xuất của ngành theo vùng lãnh thổ. Đồng thời thể hiện được nhu cầu về vốn đầu tư theo các nguồn, nhu cầu về lao động theo trình độ đào tạo. Từ việc tính toán các chỉ tiêu và phân tích kĩ lưỡng các phương án phải cuối cùng phải lựa chọn được phương án hợp lý cho qui hoạch. Rút ra các kết luận về: - Tăng trưởng kinh tế ngành trong giai đoạn qui hoạch; - Cơ cấu ngành, phân ngành, cơ cầu vùng; - Phân bố các cơ sở sản xuất của ngành theo vùng; - Phân bố các cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp; - Chọn các sản phẩm mũi nhọn và hướng phát triển các sản phẩm mũi nhọn ấy ở đâu (vùng nào). Mạng lưới sản xuất, phân phối, tiêu thụ. Đối với luận chứng phương án phân bổ ngành trên các vùng lãnh thổ, nhất là đối với các công trình then chốt cần đưa ra các kết luận về: Các cơ sở sản xuất của ngành và qui mô của chúng theo các vùng (đặc biệt là các công trình then chốt); Phân bố nguồn vốn đầu tư theo vùng; Phân bố lao động theo trình độ đào tạo theo vùng; Cơ cấu ngành, sản phẩm chủ lực và các điều kiện chủ yếu đảm bảo mục tiêu qui hoạch được thực hiện (đầu tư, công nghệ, lao động). 2.4. Các giải pháp và tổ chức thực hiện qui hoạch Nội dung này đưa ra các giải pháp cần thiết để thực hiện các mục tiêu của qui hoạch và xác định khả năng thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp đưa ra phải thoả mãn được các tiêu chí: tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm vốn, tạo nhiều việc làm, đổi mới công nghệ. Không nêu dàn trải các giải pháp mà tìm những giải pháp chủ yếu nhất để thực hiện qui hoạch, không nêu chung chung mà cần có tính toán cụ thể khả năng thực hiện các giải pháp đó. Phải đưa ra được tiến độ thực hiện cho các thời kì qui hoạch và đề xuất những chương trình lớn, những dự án kêu gọi đầu tư xây dựng. Cụ thể đối với những giải pháp về vốn đầu tư cần phải nêu rõ nhu cầu về vốn đầu tư. Xác định khả năng huy động vốn: Từ nguồn vốn trung ương, vốn địa phương, vốn doanh nghiệp,vốn huy động trong dân, vốn huy động từ nước ngoài. Cần tính toán cơ cấu vốn hợp lý và các giải pháp huy động để đáp ứng yêu cầu; Các giải pháp về chính sách, cơ chế cần chú trọng đến các cơ chế tổ chức sản xuất có hiệu quả; Giải pháp về khoa học công nghệ cần nêu rõ những yêu cầu và biện pháp trang bị, đổi mới công nghệ hiện đại; Cần nêu rõ nhu cầu nguồn nhân lực, cơ cấu nguồn nhân lực và khả năng đáp ứng nguồn nhân lực trong từng giai đoạn qui hoạch đồng thời gắn với xây dựng các cơ sở đào tạo, dạy nghề tại khu vực sản xuất và khuyến khích doanh nghiệp tổ chức đào tạo; Đối với danh mục công trình, dự án đầu tư trọng điểm và tổ chức thực hiện, qui hoạch phải xác định được danh mục các dự án đầu tư dài hạn và xây dựng những dự án ưu tiên, cần thiết cho những giai đoạn 1 đến 5 năm trước mắt. Về tổ chức thực hiện, qui hoạch phải được thông báo cho các cấp địa phương và công khai cho người dân được biết về các nội dung của qui hoạch khi mà qui hoạch được phê duyệt. Phải phân tích trách nhiệm giữa các cấp ngành liên quan như bộ chủ quản, các ngành liên quan, các tổ chức quốc tế khác trong việc thực hiện qui hoạch. Phải xây dựng được cơ chế điều hành phối hợp giữa các cấp. Phối hợp trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện qui hoạch 2.5. Phần phụ lục Đây là phần cuối cùng bao gồm hệ thống các bảng biểu số liệu và biều đồ miêu tả hiện trạng phát triển ngành và dự báo khả năng phát triển ngành trong thời kì qui hoạch. Ngoài ra có thể có các phụ biểu về hiệu quả đầu tư, tính cạnh tranh của ngành. II. Sự cần thiết phải lập qui hoạch phát triển ngành than 1. Sơ lược về lịch sử ngành than Công tác khai thác mỏ than nước ta đã được bắt đầu cách đây 168 năm. Dưới triều Minh Mệnh, tháng 12- 1839, Tổng đốc An Hải là Tôn Thất Bật đã dâng sớ xin triều đình cho thuê dân công lập công trường để khai thác than ở núi An Lăng (xã An Thọ, huyên Đông Triều). Thời đó nghề đào than hết sức đơn sơ, chỉ lấy than ở điểm lộ. Công tác đi tìm mỏ được người Pháp quan tâm và tiến hành đầu tiên ở Bắc Kì vào những năm 1881-1883. Đến cuối năm 1888 toàn bộ khu mỏ Quảng Ninh đã trở thành thuộc địa của Pháp và được phân chia cho các tập đoàn tư bản Pháp khai thác. Cuối năm 1906 ở vùng thượng du Bắc Kì nhiều điểm than được phát hiện và tổ chức khai thác như Đồng Đỏ ( Hà Tĩnh), Khe Bố ( Nghệ An), Làng Cẩm, Quán Triều ( Thai Nguyên), ...Từ đây công nghiệp khai thác than ra đời, đây là ngành công nghiệp ra đời sớm nhất và phát triển nhanh nhất. Những năm 20 của thế kỷ XX, bên cạnh các công ty khai thác than của Pháp, một số nhà tư bản Việt Nam cũng đã đầu tư khai thác mỏ như: Bạch Thái Bưởi, Pham Kim Bảng, Nguyễn Hữu Thu,... Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ngành khai thác than chia làm 2 vùng: ở vùng tự do, công tác khai thác than và quản lý mỏ do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý; Trong vùng bị tạm chiếm Công ty SFCT khôi phục và mở rộng khai thác. Khi vùng Quảng Ninh được hoàn toàn giải phóng, căn cứ theo Hiệp định đã kí kết với công ty Than Bắc Kì của Pháp thì công ty này nhượng lại tất cả máy móc, thiết bị, dụng cụ, vật tư dự trữ cho Việt Nam và Chính phủ trả dần hàng năm cho Pháp bằng than. Khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, 5-8-1964, Vùng mỏ bị đế quốc Mĩ tấn công ác liệt, cán bộ và công nhân vùng mỏ quyết tâm sản xuất tha thời chiến, tổ chức sơ tán thiết bị máy móc, vừa sản xuất , vừa chiến đấu. Thợ mỏ bắn rơi nhiều máy bay Mĩ, binh đoàn than và Tây Nguyên được thành lập. Thời kì 1965-1974 ngành than đã sản xuất được 29,7 triệu tấn than. Sau ngày miền Nam được giải phóng, sản lượng than tăng dần, đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế và giữ vai trò then chốt trong việc đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia. Bước vào thời kì đổi mới, nhất là sự ra đời của Tổng công ty Than Việt Nam (10-10-1994), cán bộ công nhân viên ngành than đã mạnh dạn thay đổi tư duy kinh tế. Trải qua lịch sử khai thác hơn 100 năm từ thời thuộc Pháp, sau những năm hoà bình lập lại, trong qua trình khôi phục và phát triển kinh tế, việc khôi phục khai thác than tại Quảng Ninh đóng một vai trò quan trọng. Việc tổ chức lực lượng kĩ thuật trong đó lực lượng thiết kế và tư vấn kinh tế là một biện pháp xây dựng và phát triển ngành than. 2. Vai trò của ngành than Ngày nay, trong xu thế hội nhập và phát triển của toàn thế giới, Việt Nam cũng đang có những biến chuyển to lớn. Với sự kiện ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và tổ chức thành công hội nghị ASEAM năm 2006 Việt Nam đã chứng tỏ với thế giới con đường đi mở cửa, thông thoáng của mình. Chúng ta đã trở thành một thành viên phát triển không tách rời nền kinh tế thế giới. Đây thực sự là một bước đi đúng đắn, nó thể hiện ở sự đổi mới đang diễn ra hàng ngày từ mọi góc cạnh, diện mạo của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao vào loại nhất nhì thế giới. Chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển nhanh để đi lên một nước công nông nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn này công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhanh hơn nông nghiệp. Sự phát triển công nghiệp với tốc độ cao đòi hỏi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Hiện nay sự khan hiếm năng lượng, cạn kiệt tài nguyên là một vấn đề toàn cầu chứ không riêng gì Việt Nam. Các nguồn năng lượng sạch đã được đầu tư nghiên cứu và khai thác nhưng sản lượng còn nhỏ không thể nào thay thế được những nguồn năng lượng truyền thống. Đặc biệt ở Việt Nam, chúng ta chưa có điều kiện ( cả về vốn và kĩ thuật) để khai thác sử dụng những nguồn năng lượng này. Trong điều kiện như vậy thì những nguồn năng lượng truyền thống: than, dầu khí, thuỷ điện đóng vai trò chủ chốt quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Việt Nam là một nước nhiệt đới sự phân hoá thời tiết thành hai mùa mưa và khô rất rõ rệt nên nguồn thuỷ điện cung cấp là không ổn định. Thêm vào đó là sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế đòi hỏi năng lượng cao phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Chính vì vậy vai trò của ngành than càng trở nên quan trọng hơn đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Việt Nam có may mắn là một trong những nước được thiên nhiên ưu đãi có trữ lượng than lớn và chất lượng tương đối tốt. Ngành công nghiệp khai thác than đã có lịch sử hơn 100 năm phát triển, ngày nay đã được đầu tư hơn về kĩ thuật và vốn mang lại hiệu quả kinh tế lớn, đóng góp đáng kể vào GDP cả nước. Than với công nghiệp điện Hiện nay Việt Nam có 17 nhà máy nhiệt điện cung cấp khoảng 30% sản lượng điện cho cả nước. Nguyên liệu than sử dụng cho nhiệt điện chiếm khoảng 30-50% tổng sản lượng ngành than. Những con số đã phần nào cho thấy vai trò của ngành than đối với ngành công nghiệp điện. Đặc biệt là trong tình trạng thiếu điện trầm trọng như hiện nay thì 30% tổng sản lượng điện cả nước quả thực là một con số vô cung ý nghĩa. Trong giai đoạn tới ngành than còn tính tới việc tăng cường cung cấp than cho nhiệt điện để đảm bảo năng lượng cho phát triển kinh tế đất nước trong cả phương án tăng trưởng bình thường và tăng trưởng cao. Than với các ngành công nghiệp khác Than là nguyên liệu chính cho hầu hết các ngành công nghiệp: ngành sản xuất xi măng, ngành luyện kim, ngành công nghiệp phân bón hoá học, hoá chất, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành công nghiệp giấy, ngành công nghiệp dệt, da, may nhuộm ... Đó đều là những ngành công nghiệp quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với nền kinh tế quốc dân. Ngành sản xuất xi măng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp luyện kim đang phát triền rất mạnh mẽ và đây là những ngành đóng vai trò chính trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp phân bón hoá chất phát triển là điều kiện cần để nâng cao năng suất và hiện đại hoá nền nông nghiệp vốn là ngành chủ đạo và thế mạnh của nước ta. Ngoài ra, Việt Nam là một nước còn kém phát triển so với thế giới và rất dồi dào về lao động. Vì vậy công nghiệp dệt, da, may, nhuộm là những ngành hợp nhất với chúng ta để tận dụng nhân công rẻ, khéo tay. Hơn nữa đây còn là ngành xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam mang về nhiều ngoại tệ và góp phần giải bài toán lao động hóc búa... Từ vai trò quan trọng của các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu than nói trên chúng ta lại càng thấy được vai trò quan trọng của ngành than. Việc phát triển ngành than ổn định là điều kiện cần để phát triển các ngành công nghiệp khác. Xuất khẩu than Hiện nay ngành than đã có một thị trường xuất khẩu khá rộng lớn: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Đức, Đài Loan, Malayxia, Indonexia, Cuba, các nước EU, Philipin, Nam Phi, ... Ngành than luôn coi trọng và quan tâm xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài với các công ty thương mại và các hộ tiêu dùng của Trung Quốc, Nhật Bản, các nước ASEAN, các nước Châu Âu,... để duy trì và tăng sản lượng than xuất khẩu. Đây là nguồn thu ngoại tệ lớn của nước ta, đồng thời còn là nguồn thu chủ yếu đảm bảo hiệu quả kinh tế cho ngành than. Năm 2004 xuất khẩu 10,5 triệu tấn, 2005 xuất khẩu 14,7 triệu tấn. Và trong giai đoạn tới còn có xu hướng tăng cả về sản lượng và giá cả. Ngoài ra ngành than còn thu hút khá nhiều lao động. Năm 2005, ngành đã giải quyết công ăn việc làm cho gần 100 nghìn người. Ngành than phát triển sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn và ổn định đời sống của công nhân viên ngành than. 3. Sự cần thiết khách quan phải lập qui hoạch phát triển ngành than Than là nguồn tài nguyên thiên nhiên quí, là nguồn năng lượng không thể tái tạo. Như đã trình bày ở trên ta cũng đã thấy được vai trò quan trọng của ngành than đối với nền kinh tế quốc dân. Trữ lượng than là có giới hạn vì vậy cần phải có biện pháp khai thác sử dụng than có hiệu quả để tránh thất thoát lãng phí và để có thể sử dụng nguồn tài nguyên này lâu dài. a) Đảm bảo nhu cầu phát triển bền vững năng lượng quốc gia Than là nguyên liệu chính cho nhiều ngành công nghiệp quan trọng. Vì vậy việc cung cấp than đáp ứng đủ nhu cầu của các ngành công nghiệp là điều kiện quan trọng đảm bảo việc sản xuất của các ngành sử dụng nguyên liệu than. Trong hoàn cảnh hiện nay, các ngành công nghiệp đều đang tăng trưởng rất nhanh và nhu cầu về than cũng tăng theo tương ứng. Việc khai thác than cần được tính toán để cân bằng cung cầu. Qui hoạch ngành than sẽ tính toán nhu cầu và đưa ra quyết định khai thác ở đâu, bao nhiêu tránh tình trạng khai thác tràn lan, bừa bãi. Một mặt sẽ giảm thiểu những tác động không tốt đến môi trường, mặt khác sẽ đảm bảo khai thác tiết kiệm, có hiệu quả. Điều này là vô cùng ý nghĩa, nó cho phép nền kinh tế quốc dân có thể sử dụng tài nguyên than dài lâu ít nhất là trong giai đoạn tới, cho tới khi chúng ta tìm ra một nguồn năng lượng khác thay thế. b) Cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh than trung hạn và ngắn hạn Qui hoạch phát triển ngành than được xây dựng dựa trên chiến lược phát triển ngành than. Nó là sự cụ thể hoá các quan điểm chiến lược theo không gian trong một giai đoạn nhất định ( thường là 10-15 năm). Qui hoạch sẽ xác định tập trung khai thác ở đâu và đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật như thế nào để việc khai thác được thuận lợi và mang lại hiệu quả cao nhất, kết nối giữa vùng sản xuất than và thị trường tiêu thụ. Từ đó tạo nên một mạng lưới phối hợp sản xuất và tiêu thụ hiệu quả linh hoạt. Dựa vào đây ngành sẽ triển khai các xây dựng các kế hoạch phát triển sản xuất tầm trung hạn và ngắn hạn ( 3-5 năm, và kế hoạch hàng năm). Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết cũng như trong th._.ực tế sản xuất. c) Cơ sở để hiện đại hoá công tác khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực Qui hoạch phát triển ngành than nêu lên việc qui hoạch khai thác ở đâu và khai thác loại than gì với số lượng như thế nào trong một thời gian tương đối dài. Nó là cơ sở để nghiên cứu lựa chọn sử dụng công nghệ nào để có hiệu quả tốt nhất. Đó là những công nghệ phù hợp với nhu cầu sản xuất của ngành trong giai đoạn tới ( về sản lượng, độ sâu khai thác...), vừa có thể nâng cao năng suất, đảm bảo an toàn lao động, vừa bảo vệ môi trường xung quanh. Từ đó cho phép ra quyết định sử dụng vốn đầu tư như thế nào và nhu cầu về nhân công theo trình độ bao nhiêu là hợp lý nhất. Vì vốn đầu tư luôn luôn có hạn nên việc sử dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của ngành. Cũng như vậy, để có một lao động có trình độ cần một quá trình đầu tư đào tạo là 3- 5 năm, vì vậy phải dựa vào qui hoạch, xem ngành sẽ phát triển ở đâu, như thế nào để từ đó tính toán ra nhu cầu lao động trong giai đoạn tới đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Ý thức được sự cần thiết khách quan nói trên, công tác lập qui hoạch đã được ngành than chú trọng xây dựng từ rất sớm và thường xuyên có những điều chỉnh cả về nội dung và phương pháp lập qui hoạch để đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của ngành. Trong thời gian gần đây công tác lập qui hoạch ngành than do Công ty cổ phần tư vấn đầu tư Mỏ và Công nghiệp (là Công ty tư vấn đầu ngành của Tổng công ty than Việt Nam) đảm nhiệm chính, dựa trên những qui định của nhà nước về phát triển ngành than và sự đóng góp ý kiến của các ban ngành liên quan. 4. Sự cần thiết và cơ sở lập qui hoạch phát triển ngành than giai đoạn 2006- 2015 Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2003/QĐ- TTg ngày 29/01/2003 về việc phê duyệt qui hoạch phát triền ngành than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020. Những định hướng cơ bản trong giai đoạn đầu chiến lược phát triển ngành trong quyết định nói trên đã được triển khai, ngành than đã có những bước đột phá cả về qui mô đầu tư cũng như tốc độ phát triển. Thực tế, sau một thời gian triển khai thực hiện quyết định trên đến nay qui hoạch được duyệt không còn phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế quốc dân do tốc độ phát triển của các ngành kinh tế sử dụng than làm nguyên liệu tăng, nhất là ngành điện, xi măng, hoá chất, phân bón, luyện kim... Nhu cầu của thị trường thế giới về than Antraxit cũng tăng lên không ngừng. Trên thị trường than " cầu" đã lớn hơn " cung", đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp hơn, trước hết là về mặt qui hoạch. Kết quả thăm dò các khoáng sàng, các mỏ than của tập đoàn TKV trong một số năm qua cũng cho thấy điều kiện tài nguyên, một trong những cơ sở đảm bảo tính hiện thực của qui hoạch cũng có nhiều triển vọng hơn. Tiến bộ về khoa học công nghệ của ngành than Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung trong các năm gần đây và trong tương lai cũng có nhiều thay đổi. Ở tầm quản lý vỹ mô, Chính phủ cũng đã có yêu cầu phải rà soát, điều chỉnh, bổ xung các qui hoạch phát triển ngành, các lĩnh vực then chốt cho thời kì 2006-2015 có xét đến triển vọng năm 2025. Với những thay đổi trên, việc lập dự án "Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006-2015 có xét đến triển vọng đến năm 2025" là hết sức cần thiết và cấp bách. Dự án "Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006-2015 có xét đến triển vọng đến năm 2025" nhằm mục đích: Qui hoạch phát triển than bền vững và hợp lý để đáp ứng nhu cầu than ngày càng cao của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là giai đoạn sau năm 2010. Dự án " Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2006- 2015 có xét đến triển vọng đến năm 2025" được lập trên các căn cứ và cơ sở sau: - Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội cả nước đến 2020. - Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày 15/11/2004. - Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) ban hành kèm theo Quyết đinh số 153/2004-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ. - Chính sách năng lượng quốc gia do Bộ công nghiệp lập đang trình Chính phủ phê duyệt. - Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 do Bộ công nghiệp lập đang trình Chính phủ phê duyệt. - Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh đã được đại hội Đảng bộ tình Quảng Ninh thông qua. - Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số: 20/2003/QĐ- TTg ngày 29/01/2003. - Qui hoạch phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001-2010 có xét đến năm 2020 ( Qui hoạch Điện V hiệu chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số: 40/2003/QĐ- TTg ngày 21/03/2003. - Điều chỉnh Qui hoạch phát triển ngành công nghiệp Xi măng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số: 108/2005/QĐ-TTg ngày 16/05/2005. - Qui hoạch chi tiết nhóm cảng biển phía Bắc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 do Bộ Giao thông vận tải lập và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 12/08/2004. - Qui hoạch phát triển Điện lực Việt Nam giai đoạn 2006-2015 có xét đến triển vọng năm 2025 do viện Năng lượng lập năm 2005, đang chuẩn bị trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Các chiến lược, qui hoạch phát triển ngành: điện, xi măng, thép, hoá chất, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, da giầy,... - Thông báo số 184/TB-VPCP ngày 28/09/2005 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến kết luận của thủ tướng Phan Văn Khải về các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu điện giai đoạn 2006-2010. - Hiện trạng ngành than Việt Nam đến quí I/2006. - Các tài liệu thăm dò địa chất, dự án đầu tư và thiết kế các công trình của ngành Than hiện có đến quí I/2006. Chương II: HIỆN TRẠNG NGÀNH THAN I. Kết quả thực hiện qui hoạch phát triển ngành than đến năm 2006 1. Kết quả sản xuất kinh doanh các năm 2003-2005 Theo " Qui hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2010 và dự báo đến năm 2020" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số: 20/2003/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2003 sản lượng than sản xuất và tiêu thụ của toàn ngành như sau: Năm 2005 sản xuất và tiêu thụ 16-17 triệu tấn. Năm 2010 sản xuất và tiêu thụ 23-24 triệu tấn. Năm 2015 sản xuất và tiêu thụ 26-27 triệu tấn. Năm 2020 sản xuất và tiêu thụ 29-30 triệu tấn. Năm 2003 là năm bắt đầu thực hiện Qui hoạch phát triển ngành than do có các thuận lợi về thị trường tiêu thụ than, sản xuất và tiêu thụ than của toàn ngành đã tăng trưởng mạnh. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2003 như sau: - Sản xuất được 20 triệu tấn than nguyên khai tăng 17% so với năm 2002. - Tiêu thụ đạt 18,8 triệu tấn tăng 27% so với năm 2002, trong đó xuất khẩu 6,5 triệu tấn tăng 17% so với năm 2002, tiêu thụ nội địa 12,3 triệu tấn tăng 33% so với năm 2002; - Bóc đất đá 87,18 triệu m3 tăng 36% so với năm 2002; - Đào lò 135,82 ngàn m tăng 6% so với năm 2002; - Doanh thu toàn công ty đạt 10.442 tỷ đồng tăng 30% so với năm 2002. - Lợi nhuận trước thuế: 437,9 tỷ đồng. Năm 2003 toàn ngành đã hoàn thành vượt trước 2 năm sản lượng khai thác và tiêu thụ than của năm 2005 trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 do Đại hội Đảng IX đề ra cho ngành than. Năm 2004, 2005 thị trường trong nước và xuất khẩu đều phát triển mạnh. Trên thị trường quan hệ cung cầu đã thay đổi căn bản: cầu đã lớn hơn cung để tận dụng thời cơ ngành than đã xây dựng kế hoạch và điều hành sản xuất sát với thực tế. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2004 như sau: - Sản xuất 27,3 triệu tấn than nguyên khai, tăng 37% so với năm 2003. - Tiêu thụ 24,7 triệu tấn, tăng 31% so với năm 2003, trong đó tiêu thụ nội địa 14,2 triệu tấn, tăng 15,5% so với năm 2003, xuất khẩu 10,5 triệu tấn, tăng 63% so với năm 2003. - Bóc đất đá 121 triệu m3 tăng 38,8% so với năm 2003. - Đào lò tổng số 175 km, tăng 28,9% so với năm 2003. - Doanh thu toàn Tổng công ty đạt 14509 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2003. - Lợi nhuận trước thuế: 1284 tỷ đồng, tăng 193% so với năm 2004. Năm 2005: - Sản xuất 34,9 triệu tấn than nguyên khai, tăng 27,8% so với năm 2004. - Tiêu thụ 30,0 triệu tấn, tăng 21,5% so với năm 2004, trong đó tiêu thụ nội địa 16 triệu tấn, tăng 12,7% so với năm 2004, xuất khẩu 14,0 triệu tấn, tăng 33,3% so với năm 2004. - Bóc đất đá 130,472 triệu m3 tăng 7,4% so với năm 2004. - Đào lò tổng số 208 km, tăng 18,9% so với năm 2004. - Doanh thu toàn tổng công ty 20.109,6 tỷ đồng, tăng 38,6% so với năm 2004. - Lợi nhuận trước thuế: 2453,8 tỷ đồng, tăng 91% so với năm 2004. Kết quả sản xuất kinh doanh của ngành than trong giai đoạn này vượt rất xa so với mục tiêu qui hoạch đã đề ra. 2. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2006 Trong giai đoạn trước (các năm 2003-2005) kết quả sản xuất kinh doanh của ngành than đều vượt rất xa so với chỉ tiêu qui hoạch phát triển ngành than giai đoạn 2003-2010 có xét tới triển vọng phát triển đến năm 2020, nguyên nhân là do có nhiều biến động lớn về thị trường và sự tiến bộ khoa học công nghệ áp dụng trong ngành than. Và đây cũng là lý do chính để chúng ta phải làm lại qui hoạch ngành than (như đã nói trong chương I). Năm 2006 là năm đầu tiên ngành than tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo qui hoạch mới giai đoạn 2006-2015. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2006 như sau: - Sản xuất đạt 39,7 triệu tấn than, tăng 13.8% so với năm 2005. - Tiêu thụ 34,82 triệu tấn than, tăng 16% so với năm 2005 và vượt chỉ tiêu qui hoạch 0,8%. Trong đó xuất khẩu đạt 17,1 triệu tấn tăng 22% so với năm 2005, tiêu thụ nội điạ là 17,72 tăng 10,75% so với năm 2005. - Doanh thu toàn Tổng công ty đạt 24.466,42 tỷ đồng. Tăng 21,6% so với năm 2005. - Lợi nhuận trước thuế đạt 2.919,44 tỷ đồng, nộp ngân sách 2.731,608 tỷ đồng. Như vậy nhìn chung trong năm 2006 ngành than đã đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tương đối sát so với các chỉ tiêu cụ thể trong qui hoạch phát triển mới ( giai đoạn 2006-2015). II. Hiện trạng khai thác than 1. Hiện trạng khai thác Trong giai đoạn 1995-2005 ngành than đã đạt được những thành tựu đáng kể trong khai thác. Tổng sản lượng than nguyên khai được khai thác khoảng 130.512,14 triệu tấn. Sản lượng than khai thác không ngừng tăng lên nhanh chóng qua từng năm. Tốc độ tăng trưởng sản lượng luôn đạt được những con số ấn tượng cả về số tuyệt đối và tương đối, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Khai thác than chủ yếu bao gồm hai hình thức là: khai thác lộ thiên và khai thác hầm lò. TỶ TRỌNG KHAI THÁC THAN Đơn vị: 1000 Tấn Năm Than nguyên khai Lộ thiên Hầm lò Sản lượng % Sản lượng % Sản lượng % 1995 9369 100 6932 74 2437 26 2000 12200 100 7889 64.7 4311 35.3 2001 14589 100 9585 65.7 5004 34.3 2002 17078 100 10981 64.3 6097 35.7 2003 20000 100 12975 65 7025 35 2004 27300 100 17392 64 10200 36 2005 34928 100 22053 63 12100 37 Nhìn vào bảng sản lượng trên ta thấy khai thác than lộ thiên đóng vai trò chủ đạo. Sản lượng khai thác lộ thiên trong những năm qua luôn chiếm khoảng 60-70% tổng sản lượng khai thác toàn ngành. Cho đến năm 2005 ngành than có 5 mỏ lộ thiên lớn sản xuất với công suất đạt từ 2-3 triệu tấn than nguyên khai/năm ( Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai, Hà Tu, Núi Béo), 15 mỏ lộ thiên vừa và công trường lộ thiên ( thuộc các mỏ than hầm lò) sản xuất với công suất 100.000-400.000 tấn than nguyên khai/năm và hàng chục điểm khai thác mỏ nhỏ và lộ vỉa với sản lượng khai thác than nhỏ hơn 100.000 tấn than nguyên khai/năm. Khai thác lộ thiên có nhiều ưu thế nổi bật hơn so với khai thác hầm lò thể hiện ở các điểm sau: - Điều kiện làm việc thuận lợi, an toàn và vệ sinh công nghiệp tốt do việc toàn bộ các khâu khai thác và phụ trợ được tiến hành trên bề mặt. - Có điều kiện thuận lợi cho việc cơ giới hoá và hiện đại hoá, do đó năng suất lao động cao, giá thành khai thác hạ. - Tổn thất tài nguyên thấp( 7-10%) hơn nhiều so với khai thác hầm lò (30-50%). Tuy nhiên, nhược điểm rất lớn của khai thác lộ thiên đó là chiếm nhiều diện tích đất mặt cho khai trường và bãi thải; ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường sinh thái do gây ra hiện tượng trôi lấp bãi thải, tạo bụi, tiếng ồn, bồi lắng sông suối và ô nhiễm nguồn nước. Hiện nay có trên 30 mỏ hầm lò đang hoạt động. Trong đó chỉ có 8 mỏ có trữ lượng huy động lớn, có công nghệ và cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, khai thác với sản lượng hầm lò từ 1 triệu tấn/năm trở lên. Các mỏ còn lại sản lượng khai thác dưới 1 triệu tấn/năm, dây chuyền công nghệ và cơ sở hạ tầng không đầy đủ và kém an toàn. Một số mỏ còn quá nhỏ, diện tích khai trường hẹp, trữ lượng ít nên không có điều kiện để phát triển sản lượng và cơ giới hoá dây chuyền công nghệ. Khai thác hầm lò có rất nhiều tiềm năng nhưng hiện nay còn hạn chế do công nghệ khai thác chưa đáp ứng được yêu cầu phát phát triển. Xu hướng hiện nay là khai thác lộ thiên giảm dần tỷ trọng và tỷ trọng khai thác hầm lò tăng. Nhưng sản lượng của cả hai loại hình khai thác này đều tăng. Đây là một xu hướng hợp lý, một mặt vẫn đảm bảo chú trọng phát triển cả hai hình thức khai thác, mặt khác tiến tới phát triển theo chiều sâu bằng cách đổi mới công nghệ, ngày càng phát huy tiềm năng của khai thác hầm lò. 2. Đánh giá tình trạng kỹ thuật và công nghệ a) Khai thác lộ thiên Hiện nay tại tất cả các mỏ lộ thiên được trang bị đồng bộ thiết bị khoan, xúc bốc, vận tải ngoài thuộc loại trung bình tiên tiến. Đối với các mỏ qui mô lớn như Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai, Hà Tu, Núi Béo phục vụ cho dây chuyền bóc đất đá là máy khoan thuỷ lực với đường kính lỗ khoan d= 110-200 mm, máy xúc điện EKG có dung tích gàu E=4,6-8 m3, máy xúc thuỷ lực với dung tích gầu xúc E= 3,5-6,7 m3, ô tô tự đổ có trọng tải 30-58 tấn gồm các chủng loại như BelAZ, Komatsu,... Đào hoà tháo khô mở vỉa và khấu than bằng máy xúc thuỷ lực gầu ngược có dung tích gầu E= 2,8-3,5 m3 phối hợp với máy xúc gầu thẳng EKG với dung tích gầu xúc đến 5 m3, vận chuyển than là các loại ô tô trọng tải 15-32 tấn hoặc vận tải băng chuyền liên hợp ô tô- băng tải (mỏ Núi béo và Cọc Sáu). Trong các năm qua Tổng công ty Than Việt Nam đã thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ, cải thiện tình trạng kỹ thuật và công nghệ do quá khứ để lại tại các mỏ lộ thiên như sau: - Đã nghiên cứu và áp dụng thành công hệ thống khai thác khấu theo lớp đứng cho hầu hết các mỏ. - Chỉ đạo và giao chỉ tiêu hệ số bóc đất đá cho các công ty, các mỏ, cải thiện dần các thông số của hệ thống khai thác do các năm trước thu hẹp sản xuất. - Đã nghiên cứu và áp dụng thành công công nghệ đào sâu đáy mỏ bằng máy xúc thuỷ lực gàu ngược đối với các mỏ khai thác dưới mức thoát nước tự chảy. - Đã nghiên cứu và bước đầu đưa vào áp dụng công nghệ và thiết bị khai thác chọn lọc, nâng cao chất lượng và giảm tổn thất than. - Các khâu chủ yếu trong qui trình công nghệ khai thác đã được đầu tư trang thiết bị hiện đại và đồng bộ như: + Công tác khoan lỗ mìn, nạp mìn bằng máy khoan, xe nạp mìn của các nước tiên tiến đang sử dụng. + Máy xúc thuỷ lực gầu thuận, gầu ngược, chạy diezen, có tính cơ động cao, phù hợp với hệ thông khai thác khấu theo lớp đứng, đào hào và khai thác than đáy mỏ, khai thác chọn lọc,... + Ô tô vận tải cỡ lớn ( Trọng tải 42÷60 tấn), ô tô khung động ( xe lúc lắc có khả năng leo dốc cao và bán kính đường vòng nhỏ). Tóm lại, tình trạng kỹ thuật và công nghệ của các mỏ lộ thiên hiện nay đã được cải thiện một bước về chất, đang tiếp tục đổi mới và dần dần đi vào nề nếp, tiến tới phải đảm bảo qui trình, qui phạm kỹ thuật và phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. b) Khai thác hầm lò Công nghệ khai thác áp dụng: Hệ thống khai thác cột dài theo phương lò chợ khấu theo chiều dốc cho vỉa thoải và nghiêng đang là công nghệ khai thác truyền thống có hiệu quả nhất. Chiều dài lò chợ khi chống cột thuỷ lực đơn hoặc giá thuỷ lực di động là 100-150m, sản lượng 100-180 ngàn tấn/ năm; khi chống gỗ là 60-100m, sản lượng 50-60 ngàn tấn/ năm. Một số công nghệ khai thác dưới dàn mềm lò chợ cắt nghiêng, hệ thống khai thác chia lớp ngang nghiêng chống giá thuỷ lực... nhưng những công nghệ này vẫn chưa hoàn thiện, năng suất còn thấp.Với tình trạng kỹ thuật và trình độ công nghệ như hiện nay, sản lượng và năng suất khai thác hầm lò còn thấp. Năng suất lao động 1,5-3 tấn/ca, tốc độ tiến gương lò chợ châm 18-25 m/tháng, tổn thất than ở hầu hết các mỏ hầm lò đều lớn từ 25-40%. Nếu không nhanh chóng hoàn thiện các công nghệ hiện có và đổi mới công nghệ thì hiệu quả sản xuất của ngành than sẽ thấp. Hiện nay Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam đã nghiên cứu triển khai một số công nghệ mới có ứng dụng như: cơ giới hoá khai thác than trong lò chợ, áp dụng thử nghiệm khai thác bằng máy Com bai với giá chống thuỷ lực của Trung Quốc tại vỉa 14 mỏ Khe Chàm và vỉa 9 mỏ Mạo Khê. Công nghệ cơ giới hoá toàn phần ( máy combai+dàn chống thuỷ lực tự hành + máng cào dẻo) đã áp dụng thử nghiệm thành công tại vỉa 14-2 mỏ than Khe Chàm, đây là bước đột phá cũng như tạo tiền đề cho các mỏ than hầm lò trong toàn ngành triển khai áp dụng thử nghiệm thành công tại vỉa 14-2 mỏ than Khe Chàm, đây là bước đột phá cũng như tạo tiền đề cho các mỏ than hầm lò trong toàn ngành triển khai áp dụng công nghệ này nhằm giải quyết việc tăng sản lượng cũng như công tác an toàn đối với tất cả các mỏ than hầm lò. Hệ thống khai thác dàn chống mềm lò chợ cắt nghiêng, áp dụng cho vỉa dày, dốc đứng ở mỏ Vàng Danh, đã đạt được các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật tốt. Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các thông số công nghệ để có điều kiện triển khai thác áp dụng rộng rãi đối với tất cả các mỏ than hầm lò có điều kiện địa chất phù hợp. Các thiết bị áp dụng trong hầm lò hầu hết đang được trang bị lại bằng các loại thiết bị cho năng suất cao như com bai đào lò than AM-50 Chống trong lò chợ đã đưa vào áp dụng chống vì thuỷ lực đơn và giá thuỷ lực di động cho các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khá. Dây chuyền công nghệ vận tải trong hầm lò không đồng bộ, đường lò hẹp, kích thước an toàn nhiều chỗ không đảm bảo do đó khi áp dụng cơ giới hoá khai thác trong lò chợ để tăng sản lượng thì vận tải lại ách tắc. Việc áp dụng hình thức vận tải liên tục trong lò sẽ có điều kiện để cơ giới khầu than nâng cao công suất. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ hầm lò thế giới hiện nay là hoàn thiện sơ đồ công nghệ khấu lò chợ dài theo hướng cơ giới hoá đồng bộ, tăng chiều cao khấu hết chiều dày vỉa. Phát triển sơ đồ công nghệ chia lớp nghiêng với vách giả nhân tạo bằng các vật liệu mới, khấu than dưới dàn tự hành có cơ cấu thu hồi than nóc và cơ giới hoá khai thác gương lò chợ ngắn. 3. Hiện trạng mạng kĩ thuật cơ sở hạ tầng Với khối lượng đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở ở các khu vực khai thác than rất lớn trong các năm 2003, 2004, 2005 song hệ thống hạ tầng cơ sở vẫn còn tồn tại các bất cập so với tốc độ tăng trưởng sản lượng than cụ thể như: + Năng lực của các trung tâm sàng tuyển than hiện nay không đáp ứng được yêu cầu chế biến than, các trung tâm sàng tuyển than hiện có chủ yếu được bố trí găn với các cảng xuất than lớn như Cửa Ông, Nam Cầu Trắng với công nghệ tuyển lạc hậu, không giải quyết triệt để khâu bùn nước sau tuyển đã gây ô nhiễm môi trường cho các khu vực biển, đặc biệt là lượng đá thải sàng tuyển thiếu diện đổ thải cần thiết, việc đổ đá thải ra biển không tuân thủ qui trình đổ thải cũng gây ô nhiễm nước biển một cách đáng kể. + Về công tác vận tải than tại khu vực Uông Bí, Hòn Gai, Cẩm Phả vẫn còn tồn tại việc vận tải bằng ô tô với khối lượng lớn ra các cảng tiêu thụ than đã gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống của dân cư dọc theo các tuyến đường vận tải chưa được khắc phục cụ thể như: - Vận tải than bằng ô tô của các mỏ than Nam Mẫu, Đồng Vồng, VIÊTMINDO về khu vực kho than Khe Ngát và ra cảng Điền Công. - Vận tải than bằng ô tô của các mỏ Núi Béo, Hà Lầm về nhà máy tuyển và cảng Nam Cầu Trắng. - Vận tải than bằng ô thô của các mỏ khu vực Ngã Hai- Khe Tam ra cản km6. - Vận tải than bằng ô tô của các mỏ than Đèo Nai, Cọc 6 ra các cảng Đèo Nai, Đá Bàn. - Vận tải than bằng ô tô của các mỏ khu vực Cao Sơn- Khe Chàm ra các cảng Cẩm y, Khe Dây... + Các tuyến đường sắt khổ 1000 mm chuyên dùng vận tải than chưa được cải tạo và tận dụng hết năng lực, các điểm gia cắt với tuyến QL18A chưa được giải quyết gây mất an toàn giao thông trên tuyến QL18A, hạn chế năng lực vận tải của tuyến QL18A. + Tiến độ đầu tư các cảng lớn, tập trung tại các khu vực theo qui hoạch chậm theo yêu cầu do đó vẫn còn tồn tại một số cảng xuất than nhỏ bố trí trong nội thị các thị xã Uông Bí, Cẩm Phả gây ô nhiễm môi trường một cách đáng kể. Các vấn đề trên cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết một cách đồng bộ và triệt để trong các giải pháp qui hoạch phát triển trong thời gian tới để đảm bảo cho ngành than phát triển ổn định, bền vững và thân thiện với môi trường. 4. Bảo vệ môi trường ngành than Công nghiệp khai thác than có tác động rất lớn đến các thành phần môi trường như: môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí, và cảnh quan của các khu vực,... được đánh giá như sau: - Một trong các nhân tố có tác động rất lớn đến môi trường là các bãi thải đất đá của các mỏ lộ thiên và các nhà máy tuyển. Đá thải trôi lấp đất đai, sông suối, ven biển và ô nhiễm môi trường không khí. Vì vậy cần thiết nghiên cứu qui hoạch bãi thải một cách hợp lý, chống trôi lấp đá thải và khôi phục đất đai thảm thực vật ở khu đã ngừng khai thác và nước thải ngừng đổ. - Quá trình khai thác làm mất đi lớp đất mặt, xào trộn các tầng đất đá và ảnh hưởng đến các đối tượng tự nhiên khác nằm trên khu vực có tài nguyên, từng bước làm thay đổi đặc tính môi trường, tác động đến khí hậu và ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước, đất, không khí... - Các hoạt động khai thác than, đặc biệt là việc khai thác lộ thiên của nhiều năm qua đã để lại hậu quả nghiêm trọng do nạn chặt phá rừng bừa bãi. Rừng tại Quảng Ninh trong những năm qua đã bị suy thoái nghiêm trọng, kể cả các rừng đặc dụng, rừng phòng hộ của các hồ dự trữ nước. Vài năm gần đây, do được chú trọng công tác trồng từng nên độ che phủ rừng của Quảng Ninh có thể đạt tới 43% năm 2005. - Việc khai thác, chặt phá rừng nhất là ở các khu phòng hộ, rừng cạnh các hồ chưa nước đã làm đất đá thải bồi lấp lòng hồ, làm suy giảm trữ lượng và chất lượng nước. Nước thải của các mỏ các nhà máy, nước thải sinh hoạt không được xử lý trước khi ra môi trường tự nhiên đã làm ô nhiễm nguồn nước ở các hồ, các giếng và khu nước ven biển. - Công tác vận tải, sàng tuyển và tiêu thụ than do chưa được xem xét bố trí hợp lý cũng gây ra ô nhiễm môi trường. Việc gây ô nhiễm không khí chủ yếu do công tác vận tải, chế biến và tiêu thụ than, các cụm sàng tuyển. Việc hình thành nhiều các cảng nhỏ của các mỏ đã dẫn đến tình trạng than tiêu thụ của các mỏ được vận tải bằng ô tô cắt qua các khu vực dân cư. Bụi, khói, khí thải sinh ra trong quá trình khai thác, vận chuyển và sàng tuyển làm ô nhiễm không khí cần tiến hành các giải pháp về công nghệ vận tải, chống bụi động bộ ở khai trường, trên đường vận chuyển, nơi sàng tuyển than. - Tình hình suy giảm môi trường trong các khu vực sản xuất than đặc biệt là trong các mỏ hầm lò, các nhà máy sàng tuyển than đã ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của công nhân lao động ngành than, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp có chiều hướng gia tăng. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng dân cư ở những nơi môi trường suy thoái liên quan đến sản xuất than. Quá trình khai thác than hàng trăm năm đã để lại những hậu quả nặng nề về môi trường, đặc biệt là khu vực Quảng Ninh. Trong các năm gần đây nganh than Việt Nam đã có những cố gắng đáng kể trong công tác bảo vệ môi trường tại các khu vực khai thác và sản xuất than. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ môi trường là vấn đề rất to lớn của toàn xã hội. Để bảo vệ môi trường vùng than Quảng Ninh, phát triển ngành than một cách bền vững cần có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước, Tập đoàn công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam và tỉnh Quảng Ninh. III. Hiện trạng phân bố ngành than 1. Phân bố tài nguyên than Theo kết quả thăm do khảo sát trữ lượng than tính đến 01/01/2006 là khoảng 5.882.885 ngàn tấn bao gồm 4 chủng loại: than antraxit, than ábitum, than nâu và than bùn. Trong đó, phân bố chủ yếu ở vùng Quảng Ninh. Trữ lượng vùng than Quảng Ninh vào khoảng 3.863.947 ngàn tấn, chiếm 65,7% tổng trữ lượng than toàn quốc. Than Quảng Ninh là chủng loại than antraxit, chất lượng tốt, phân bố vào 3 vùng chính: Vùng Hòn Gai, vùng Uông Bí, vùng Cẩm Phả. Vùng phân bố than lớn thứ hai là vùng than Khoái Châu thuộc tỉnh Hưng Yên. Trữ lượng than theo kết quả khảo sát tính đến 01/01/2006 vào khoảng 1.580.956 ngàn tấn, chiếm 26,9% tổng trữ lượng than toàn quốc. Than vùng Khoái Châu- Hưng Yên thuộc chủng loại than ábitum, chất lượng không tốt bằng than antraxit ở vùng Quảng Ninh. Vùng phân bố lớn thứ 3 là vùng than Nội Địa, bao gồm một số mỏ than ở các tỉnh: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Đà Nẵng. Trữ lượng khoảng 165.109, chiếm 2,8% tổng trữ lượng than toàn quốc. Than vùng nội địa thuộc chủng loại than antraxít, than abitum và than nâu. Trữ lượng than không lớn nên vùng than này chủ yếu được khai thác để phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng tại địa phương, như phục vụ cho công nghiệp thép ở Thái nguyên,... Thứ tư, còn lại là các mỏ than đia phương (trừ than bùn). Trữ lượng nhỏ khoảng 37.434 ngàn tấn, chiếm 0,6% tổng trữ lượng than toàn quốc. Do trữ lượng nhỏ lại phân bố manh mún, nên việc khai thác các mỏ than địa phương chủ yếu là để tiêu thụ ngay tại địa phương phục vụ cho tiêu dùng của nhân dân trong vùng. Riêng về than bùn, Than bùn ở Việt Nam có trữ lượng vào khoảng 235.438 ngàn tấn, chiếm 4% tổng trữ lượng than toàn quốc (đã trừ đi trữ lượng than bùn bị tiêu huỷ do cháy rừng tại U- Minh, khoảng 165.446 ngàn tấn). Trong đó: miền Bắc là 13.869 ngàn tấn, miền Nam là 221.569 ngàn tấn. Than bùn cho nhiệt lượng ít, nhiều tro, hàm lượng lưu huỳnh cao nên việc sử dụng làm năng lượng bị hạn chế. Tuy nhiên, than bùn có thể làm phân bón rất tốt, vì vậy khai thác và sử dụng than bùn có ý nghĩa lớn đối với ngành công nghiệp phân bón- hoá chất. Các mỏ than bùn nước ta phân bố khá rộng và đều khắp cả nước. Tổng số điểm và mỏ than bùn có trên 216 điểm. Ở miền Bắc và miền Trung các mỏ thường là loại nhỏ và vừa. Các mỏ than bùn lớn tập trung ở các tình đồng bằng Nam Bộ. Tài nguyên than bùn phân bố rải rác và đều trên khắp cả nước là một ưu đãi của thiên nhiên dành cho đất nước ta vì việc khai thác và sử dụng than bùn phù hợp và rất kinh tế đối với việc khai thác, chế biến và sử dụng tại chỗ, đăc biệt là chế biến cho sản xuất phân bón và nhu cầu cải tạo đồng ruộng hoặc sử dụng làm nhiên liệu năng lượng cho việc phát triển công nghiệp nhỏ của địa phương. 2. Trữ lượng than huy động cho qui hoạch Trữ lượng than huy động cho qui hoạch Trữ lượng địa chất ( đơn vị ngàn tấn) QH 2002 QH 2006 Tổng trữ lượng toàn quốc 3.808.852 4.918.691 Trong đó Vùng Cẩm phả 1.316.050 1.435.284 Vùng Hòn Gai 526.910 723.323 Bình minh- Khoái châu( H.Yên) 118.911 1.088.481 Trữ lượng than huy động cho qui hoạch giai đoạn 2006-2015 tăng hơn so với giai đoạn 2003-2010 là do sự tăng lên của các mỏ than Cẩm Phả, Hòn Gai và nhất là mỏ Bình Minh - Khoái châu ở Hưng Yên. - Vùng Cẩm phả tăng do các nguyên nhân sau: tính thêm trữ lượng vỉa dày (2) mỏ Đèo nai dến cao độ -300m: 43.095 ngàn tấn; phát hiện thêm vỉa G(I) khu giáp biên Đèo Nai- Cọc Sáu: 17.500 ngàn tấn; Tình thêm phần trữ lượng bắc Phay B-B Cọc sáu: 20.855 ngàn tấn; Phát hiện và bổ sung thêm mỏ Bãi thải bắc cọc Sáu: 37.784 ngàn tấn. - Vùng Hòn Gai tăng lên do tính thêm trữ lượng gầm mỏ Hà Tu: 9.800 ngàn tấn; tình thêm trữ lượng than phần nằm ngoài khai trường mỏ Thành Công và phần trữ lượng đến độ sâu -300m: 186.613 ngàn tấn. - Vùng Bình Minh - Khoái châu (Hưng Yên) tăng 969.570 ngàn tấn do kết quả thăm dò và tìm kiếm bổ xung theo chương trình NEDO- Việt Nam. Tổng trữ lượng (TL) than toàn quốc huy động vào qui hoạch phát triển ngành than giai đoạn 2006-2015 là 4.918.691 ngàn tấn. Trong đó: - Vùng Cẩm Phả: 1.957.639 ngàn tấn; chiếm 39,8% tổng trữ lượng huy động cho qui hoạch - Vùng Hòn Gai: 747.641 ngàn tấn; chiếm 15,2% tổng trữ lượng huy động cho qui hoạch. - Vùng Uông Bí: 1.269.022 ngàn tấn; chiếm 25,8% tổng trữ lượng huy động cho qui hoạch. - Vùng Nội địa: 944.389 ngàn tấn; chiếm 19,2% tổng trữ lượng huy động cho qui hoạch. Trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác thăm dò để nâng cấp và gia tăng độ tin cậy của trữ lượng, giảm tối đa mức độ rủi do cho công tác đầu tư và sản xuất kinh doanh. BIỂU ĐỒ PHÂN BỐ TÀI NGUYÊN THAN BIỂU ĐỒ PHÂN BỐ TRỮ LƯỢNG THAN VÙNG QUẢNG NINH 3. Hiện trạng phân bố các cơ sở sản xuât ngành than Các cơ sở sản xuất ngành than được phân bố theo sự phân bố tài nguyên than. Hiện nay cả nước có tổng cộng 57 mỏ và công trường than đang khai thác ( không kể các mỏ than bùn và các mỏ than địa phương trữ lượng nhỏ). Cụ thể: - Vùng Cẩm Phả có 28 mỏ/công trường khai thác than, - Vùng Hòn gai có 10 mỏ/công trường khai thác than, - Vùng Uông bí có 10 mỏ/ công trường khai thác than, - Vùng Khoái châu- Hưng Yên có 3 mỏ/công trường khai thác than, - Vùng Nội Địa có 6 mỏ/ công trường khai thác than, - Các mỏ than địa phương có 101 mỏ ( không kể than bùn), - Và 216 mỏ than bùn phân bố rải rác khắp cả nước. Bảng thống kê các mỏ/ công trường khai thác than và công suất khai thác hiện tại có trong phụ lục I. Các mỏ công trường khai thác than do các đơn vị thành viên của Tổng công ty Than Việt nam ( nay là Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam) quản lý. Cụ thể: * Vùng Cẩm Phả: Công ty than Cao Sơn, công ty than Cọc Sáu, công ty than Đèo Nai, công ty than Khe chàm, công ty than Mông Dương, công ty than Thống Nhất, công ty than Dương Huy, công ty than Hạ long, công ty than Quang Hanh, công ty than Hòn Gai, công ty than Đông Bắc, công ty than Nội Địa, Công ty Xây dựng Mỏ, Công ty cổ phần Tây Nam Đá Màig ty than Cao S. * Vùng Hòn Ga._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36634.doc
Tài liệu liên quan