Tài liệu Quản trị rủi ro tín dụng của Chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam: ... Ebook Quản trị rủi ro tín dụng của Chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản trị rủi ro tín dụng của Chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại……………………………….5
Khái niệm………………………………………………………………………..…5
Đặc điểm……………………………………………………………………………5
Phân loại hoạt động tín dụng……………………………………………………….6
Vai trò của hoạt động tín dụng.
Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại………………………..…….11
1.2.1.Quan niệm về rủi ro tín dụng……………………………………………………….11
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng………………………………………………….…………12
1.2.3.Các dấu hiệu nhận biết………………………………………………….…………..16
1.2.4.Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng……………………………………………….21
1.2.5.Các biện pháp phòng ngừa, khắc phục và xử lý rủi ro tín dụng……………………23
Chương 2. Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
2.1. Khái quát chung về Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thành Đô……………………………………………………………………...…………………31
Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Thành Đô……………………..31
Cơ cấu tổ chức……………………………………………………………………32
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Thành Đô……………………….33
2.1.3.1 Huy động vốn.
2.1.3.2 Cho vay.
2.1.3.3 Hiệu suất sử dụng vốn.
2.1.3.4 Các hoạt động và dịch vụ khác.
2.2. Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của Chi nhánh Thành Đô………….40
2.2.1. Nợ quá hạn………………………………………………………………………....40
2.2.2. Tỷ lệ gia hạn nợ……………………………………………………………………45
2.3. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô………………46
2.4. Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô……………...47
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát Triển Việt Nam.
3.1. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay của chi nhánh Thành Đô…….…….52
3.1.1 Chú trọng công tác thẩm định khách hàng và phương án vay vốn………………...52
3.1.2 Giám sát chặt chẽ các khoản cho vay………………………………………………54
3.1.3. Thường xuyên đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng nghiệp vụ………………...…55
3.1.4 Mở rộng phát triển các dịch vụ hiện đại ở chi nhánh và các phòng giao dịch…….57
Một số kiến nghị…………………………………………………………….…….58
Hoàn thiện khung pháp lý…………………………………………………………58
3.2.2. Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước……………………..60
3.2.3 Ban hành quy định kiểm toán bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp……………….61
3.2.4 Hoàn thiện trung tâm lưu trữ thông tin……………………………………………..62
Kết Luận
I. Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t:
STT
C¸c tõ nguyªn nghÜa
C¸c tõ viÕt t¾t
1
Ng©n hµng Nhµ níc ViÖt Nam
NHNN VN
2
Ng©n hµng ®Çu t vµ Ph¸t triÓn ViÖt Nam
NH§T & PTVN
3
Chi nh¸nh Ng©n hµng §Çu t & Ph¸t triÓn Thµnh §«
CN Thµnh §«
4
Ng©n hµng th¬ng m¹i
NHTM
5
Tæ chøc tÝn dông, tín dụng
TCTD, TD
6
Tæ chøc kinh tÕ
TCKT
7
Doanh nghiÖp Nhµ níc
DNNN
8
Doanh nghiÖp ngoµi quèc doanh
DNNQ
9
Quü dù phßng rñi ro
DPRR
II. Danh môc c¸c s¬ ®å, b¶ng biÓu dïng trong b¸o c¸o thùc tËp
STT
C¸c s¬ ®å, b¶ng biÓu dïng trong b¸o c¸o thùc tËp
Trang
1
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức CN NH ĐT & PT Thành Đô
33
2
B¶ng 1: Tæng hîp t×nh h×nh huy ®éng vèn
34
3
B¶ng 2: Tæng hîp t×nh h×nh ho¹t ®éng tín dụng
37
4
B¶ng 3: C¬ cÊu d nî ph©n theo thµnh phÇn kinh tÕ
39
5
B¶ng 4: C¬ cÊu d nî vay cã ®¶m b¶o vµ kh«ng ®¶m b¶o
41
6
B¶ng 5: C¬ cÊu tØ lÖ qu¸ h¹n
42
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại đóng vai trò to lớn trong việc đáp ứng nguồn vốn, chu chuyển luồng tiền phục vụ cho mọi hoạt động kinh doanh của các cá nhân tổ chức. Đặc biệt hiện nay nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì ngân hàng ngày càng có vai trò to lớn hơn.
Việt Nam đã gia nhập WTO, đây vừa là cơ hội vừa là thách thúc đối với cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế và đặc biệt là đối với ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại cần có chiến lược nhằm nâng cao nghiệp vụ, đẩy mạnh các hoạt động của mình giúp ngân hàng phát triển an toàn và bền vững trong điều kiện cạnh tranh khố liệt sắp tới.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng luôn là vấn đề được các ngân hàng quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng, ảnh hưởng tới an toàn của ngân hàng và sự tồn tại của ngân hàng. Vì vậy buộc ngân hàng phải có cách nhìn mới vể rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng của Chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Trong đó trình bày về rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại và thực trạng rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam. Từ thực trạng rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô - Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung.
Đề tài của tôi gồm ba phần chính:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát Triển Việt Nam.
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khái niệm.
Trong nền kinh tế, ngân hàng là một trong những loại hình tổ chức tài chính trung gian quan trọng nhất bởi khả năng thu hút tiết kiệm và cung cấp nguồn tài chính lớn nhất. Ngân hàng có những chức năng chính là trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán… Do đó, để kinh tế có sự phát triển bền vững buộc mỗi quốc gia phải có sự quan tâm sâu sắc đến lĩnh vực ngân hàng.
Có thể hiểu, ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là TD, huy động vốn và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trong sự đa dạng nói trên, hoạt động TD và hoạt động huy động vốn là hai hoạt động cơ bản.
Trong khi đi vay là hoạt động thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư, thì ngược lại, TD là hoạt động cung ứng vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu của các thành phần trong nền kinh tế. Một cách chung nhất, TD là một nghiệp vụ của NHTM, theo đó, ngân hàng nhường quyền sử dụng một khoản tiền cho khách hàng trong một thời gian nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả gốc và lãi theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Đặc điểm.
Hoạt động TD của ngân hàng có những đặc điểm cơ bản sau :
TD là hoạt động sinh lời có tỷ trọng cao nhất cho NHTM.
TD là hoạt động truyền thống và không thể thay thế được của ngân hàng. Trong cơ cấu tài sản của ngân hàng, TD luôn là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn nhất và cũng là hoạt động sinh lời có tỉ trọng cao nhất trong ngân hàng. Ngoài TD, ngân hàng còn phục vụ nhiều hoạt động khác nhằm mang lại lợi nhuận như cho thuê tài chính, buôn bán bất động sản, kinh doanh chứng khoán… Những hoạt động này sinh lời cao cho ngân hàng nhưng mức độ rủi ro cũng rất cao và tỉ trọng tài sản dành cho các hoạt động kinh doanh này thường nhỏ hơn so với TD. Tại các ngân hàng, các chi phí như xây dựng trụ sở, chi nhánh, chi phí mua máy móc, công nghệ… đều được tài trợ phần lớn từ lợi nhuận của hoạt động TD.
TD là hoạt động có tỷ trọng sinh lời lớn nên những biến động của hoạt động TD ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động TD trực tiếp làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Chính vì vậy rủi ro trong hoạt động TD luôn được ngân hàng giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế tổn thất của rủi ro TD.
Trong hoạt động TD luôn tồn tại rủi ro.
Ngay cả khách hàng khi có được khoản tiền vay, dùng nó vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình cũng không cho rằng hoạt động kinh doanh của mình chắc chắn có lãi, chắc chắn mình sẽ có tiền để hoàn trả ngân hàng đúng hạn. Về phía ngân hàng, khi quyết định cho khách hàng vay một món tiền, ngân hàng hy vọng là không gặp rủi ro, tức là ngân hàng thu được gốc và lãi đúng hạn, nhưng việc trả gốc và lãi đúng hạn còn phụ thuộc rất nhiều vào kết quả kinh doanh của khách hàng hoặc phụ thuộc vào thiện chí trả nợ của khách hàng. Do đó khi quyết định TD, ngân hàng luôn chấp nhận có rủi ro, ngân hàng luôn sẵn sàng để đối phó với rủi ro, làm sao hạn chế rủi ro và nếu có tổn thất thì cố gắng hạn chế thấp nhất mức độ tổn thất. Ngoài ra, tiền có giá trị theo thời gian, những biến động dù lớn hay nhỏ của các chính sách như chính sách kinh tế, chính sách tài chính …theo thời gian làm biến đổi giá trị tiền tệ, thường làm cho đồng tiền không còn được như giá trị ban đầu của nó. Vì vậy khi đối tượng kinh doanh là tiền tệ, ngân hàng chấp nhận có rủi ro, ngân hàng không thể loại bỏ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình mà chỉ có thể hạn chế rủi ro và các tổn thất của rủi ro.
TD luôn tồn tại rủi ro nên với bất cứ khoản TD nào ngân hàng cần phải giám sát chặt chẽ trong suốt thời gian TD tới khi thu hồi được gốc và lãi.
Phân loại hoạt động TD
Bản thân hoạt động TD rất phức tạp, có nhiều đối tượng vay với mục đích sử dụng khác nhau, thời hạn khác nhau. Vì vậy có nhiều cách thức phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian hoàn trả, vào hình thức vay, vào tính chất đảm bảo của khoản vay… Sau đây là một số cách phân loại chính.
Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian là dựa vào độ dài thời gian vay vốn để phân các khoản TD theo từng nhóm khác nhau. Theo cách phân loại này có TD ngắn hạn, TD trung hạn và TD dài hạn. Đây là cách phân loại phổ biến được các ngân hàng thường xuyên thực hiện đối với mọi khoản TD.
TD ngắn hạn: TD ngắn hạn là các khoản TD có thời hạn hoàn trả dưới 12 tháng, mục đích nhằm tài trợ cho tài sản lưu động, nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất hoặc các nhu cầu chi tiêu, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Ngân hàng có thể áp dụng nhiều loại hình thức TD như: TD trực tiếp hoặc gián tiếp, TD theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo…
Thời hạn TD ngắn nên rủi ro đối với các khoản TD này thấp hơn so với TD trung, dài hạn. TD trong thời gian ngắn thì ngân hàng có thể dự đoán được đựơc phần nào các biến động có thể ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng, ngân hàng có biện pháp nhất định để hạn chế các rủi ro và các ảnh hưởng của rủi ro đối với ngân hàng.
TD trung, dài hạn: TD trung hạn là các khoản TD có thời gian TD từ 12 tháng đến 60 tháng. TD trung hạn tài trợ các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh như: Đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng. Ngoài ra, TD trung hạn còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động của các doanh nghiệp.
TD dài hạn là hình thức TD có thời gian hoàn trả trên 60 tháng, chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu như xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị phương tiện vận tải có tải trọng lớn, và các công trình xây dựng quy mô lớn.
Thời hạn TD là yếu tố quan trọng mà ngay từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, ngân hàng đã phải xác định khoản vay này là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn, để từ đó ngân hàng áp dụng các mức lãi suất sao cho phù hợp với mức độ rủi ro của từng khoản TD. Các khoản TD ngắn hạn rủi ro thấp nên thường được áp dụng các mức lãi suất thấp, còn TD trung dài hạn mức độ rủi ro cao hơn nên ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất cao hơn. Ngoài ra việc phân loại TD theo thời gian còn giúp ngân hàng có cách giám sát các khoản vay tốt hơn dựa vào đặc điểm về thời gian của khoản TD.
Phân loại theo tài sản đảm bảo
Sự phân loại theo tiêu thức này rất quan trọng đối với các Ngân hàng trong việc định hướng thu hồi nợ. Vì tài sản đảm bảo cho các khoản TD cho phép Ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó đi khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Thông thường theo tiêu thức này TD được chia thành hai loại: TD có bảo đảm và TD không có bảo đảm.
TD có tài sản đảm bảo: Là loại TD được thực hiện dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố những tài sản hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. TD có tài sản đảm bảo thường áp dụng đối với các khách hàng mới, mức độ tin tưởng chưa cao, cũng có thể là đối với các khách hàng có uy tín nhưng khoản vay có giá trị quá lớn. Các ngân hàng thường yêu cầu các khoản vay có tài sản đảm bảo nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Nếu sau nhiều nỗ lực thu nợ mà ngân hàng không thu được hoặc chỉ thu được một phần khoản tiền khách hàng nợ thì ngân hàng có thể xử lý bằng cách bán tài sản đảm bảo hoặc yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng. Như vậy tài sản đảm bảo giúp ngân hàng hạn chế tổn thất khi có rủi ro đối với khoản tiền TD. Trong hoạt động TD, ngân hàng luôn cố gắng tăng tỷ trọng TD có tài sản đảm bảo.
TD không có tài sản bảo đảm: TD không có tài sản đảm bảo thường được thực hiện dựa trên cơ sở uy tín. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả Ngân hàng có thể TD dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Với các khoản TD không có tài sản đảm bảo, khi ra hiện tượng khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình không trả thì tổn thất đối với ngân hàng là rất lớn, ngân hàng mất hoàn toàn vốn và lãi của khoản TD.
Phân loại theo đối tượng TD
Phân loại TD theo đối tượng rất quan trọng vì đối tượng TD là chủ thể sử dụng tiền của ngân hàng, đặc điểm của từng khách hàng quyết định mức độ rủi ro của khoản vay. Phân loại TD theo đối tượng TD gồm có:
TD khách hàng quốc doanh: Khách hàng quốc doanh là các khách hàng thuộc sở hữu nhà nước, thường là các doanh nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã nhà nước… Trong điều kiện hiện nay nhiều khách hàng quốc doanh là các doanh nghiệp quốc doanh nhỏ, các hợp tác xã sản xuất nhỏ hoạt động chưa hiệu quả, chưa thích ứng được với điều kiện hiện tại dẫn đến làm ăn thua lỗ, ảnh hưởng nhiều tới ngân hàng. Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam, trong cơ cấu nợ quá hạn thì tỷ trọng nợ quá hạn với khách hàng quốc doanh là rất lớn, thường chiếm hơn 50%. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp quốc doanh, có nhiều khách hàng doanh nghiệp quốc doanh lớn như các tổng công lớn hoạt động trong các lĩnh vực độc quyền do nhà nước sở hữu thì lại rất an toàn cho ngân hàng vì các doanh nghiệp này lại làm ăn rất hiệu quả.
TD doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Các ngân hàng hiện nay xu hướng là tập chung thu hút khách hàng ngoài quốc doanh. Khách hàng ngoài quốc doanh là các đối tượng không thuộc sở hữu nhà nước, là các công ty tư nhân, các công ty liên doanh, các tổ chức cá nhân khác. Đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh rất đa dạng, sỗ lượng khách hàng đông, ngoài TD, ngân hàng còn phục vụ rât nhiều các dịch vụ khác cho đối tượng này. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, các khách hàng này nhìn chung hoạt động kinh doanh tốt, khả năng thích ứng với môi trường nhanh, hoạt động có hiệu quả… Đây là đối tượng khách hàng tiềm năng của các doanh nghiệp hiện nay.
Xét theo quan điểm của ngân hàng về mức độ rủi ro thì đối tượng khách hàng quốc doanh là các khách hàng có mức độ rủi ro lớn hơn rất nhiều lần so với đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh. Hiện nay nhiều ngân hàng thực hiện các khoản TD các khách hàng quốc doanh do chỉ thị của nhà nước, các món vay này thường mang lại rủi ro cao cho ngân hàng, nhiều món TD đối với khách hàng quốc doanh ngân hàng không thu được gốc và lãi, gây tổn thất lớn cho ngân hàng.
Việc phân loại TD theo đối tượng khách hàng là rất quan trọng vì chính đối tượng khách hàng là chủ thể sử dụng món tiền vay vào các dự định của họ, việc sử dụng tiền như thế nào, phục vụ mục đích gì, quá trình quản lý ra sao, hoạt động mang lại kết quả gì, phần nhiều phụ thuộc vào khách hàng. Việc phân loại khách hàng như trên giúp ngân hàng có các chính sách và biện pháp quản lý giám sát phù hợp với từng khách hàng.
Những cách phân loại khác: Ngoài các tiêu thức trên, hoạt động TD còn có thể được phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay như TD tiêu dùng, TD sản xuất; theo đối tượng tài trợ như TD tài trợ cho tài sản lưu động, TD tài trợ cho tài sản cố định…
Vai trò của hoạt động TD.
NHTM là một trung gian tài chính do đó nó giữ vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính. Nó thực sự đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả người có vốn, người cần vốn, cho cả nền kinh tế xã hội và bản thân các tổ chức tài chính trung gian.
Do chuyên môn hoá và thành thạo trong nghề nghiệp, NHTM đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu của người cần vốn và người có vốn. Sự hoạt động ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng, với mức lãi suất huy động hấp dẫn khách hàng- thường xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý và đa dạng hoá các dịch vụ đã thu hút được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế. Chính vì vậy ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Do đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để làm phương tiện thanh toán, tài trợ và TD. Tất cả số tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng nhờ ngân hàng mà dù chỉ trong chốc lát cũng sẽ đưa vào quá trình kinh doanh, làm tăng lượng vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức TD chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Xuất phát từ vai trò của ngân hàng trên thị trường tài chính. Hoạt động của một ngân hàng có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, từ đó tác động đến mọi lĩnh vực: kinh tế, xã hội; mọi phạm vi: vĩ mô và vi mô. Có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua hệ thống ngân hàng mà Chính phủ có thể thực hiện các chính sách tài chính quốc gia như: Nếu tình hình trong nước lạm phát cao thì chúng ta phải dùng biện pháp thắt chặt cung ứng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất huy động ở các NHTM; ngân hàng mở rộng TD đến tất cả các thành phần kinh tế, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các địa phương. Nguốn vốn được vận động từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn để thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia đó là: điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro TD (rủi ro về sự tổn thất tài chính) là khả năng ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi, mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả gốc và lãi như cam kết sẽ có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí là không được trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng.
Khi thực hiện hoạt động TD cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản TD đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản TD đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro TD là không thể tránh khỏi trong hoạt động của ngân hàng. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động TD thì ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
Rủi ro gắn liền với hoạt động của NHTM, phản ánh các tình huống bất ngờ ra, có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro TD thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động của NHTM và luôn phải đối mặt với rủi ro này.
* Phân loại rủi ro TD
Có rất nhiều cách phân loại rủi ro TD.
- Phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro TD có: rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan.
- Phân loại theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro theo khoản TD ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hay vay khoản TD hợp vốn.
- Phân loại theo nguồn gốc hình thành có:
+ Rủi ro từ phía người TD (ngân hàng, các tổ chức TD) gồmủnủi ro ở khâu chính sách, rủi ro ở khâu nghiên cứu, theo dõi, quản lý và xử lý rủi ro, rủi ro ở khâu thông tin, rủi ro ở khâu cán bộ, rủi ro ở công tác kiểm tra, kiểm soát.
+ Rủi ro từ phía người vay gồm:urủi ro về đạo đức (chủ quan), rủi ro do khả năng tài chính yếu kém của người vay, rủi ro do biến động khả năng kinh doanh của người vay, rủi ro từ phía người điều hành doanh nghiệp, mối quan hệ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, rủi ro bất khả kháng.
- Phân loại khác: rủi ro từ khâu quản lý, kiểm tra của NHNN, rủi ro phát sinh từ chế độ chính sách của Nhà nước, rủi ro quốc gia, rủi ro môi trường, rủi ro khác như do sự đánh giá không khách quan, chính xác của cơ quan công chứng đối với tài sản thế chấp, do việc TD bị áp đặt bởi cấp trên.
Các nhân tố ảnh hưởng
Hoạt động TD rất đa dạng do đối tượng vay, mục đích vay, thời hạn vay, phương thức hoàn trả và khả năng hoàn trả là khác nhau. Do vậy, nguyên nhân gây ra rủi ro TD cũng rất đa dạng, với mỗi món vay khác nhau khả năng ra tổn thất là khác nhau.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro TD, tuy nhiên ta có thể xếp chúng vào các loại sau.
1.2.2.1. Nhân tố khách quan
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên thay đổi có thể là một nguyên nhân gây ra rủi ro cho người vay. Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như thay đổi thời tiết dẫn đến hạn hán, bão lũ… làm cho hoạt động kinh doanh của khách hàng bị thua lỗ, đặc biệt là khách hàng hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Khi có sự biến đổi về môi trường tụ nhiên, ví dụ khách hàng vay tiền đầu tư vào nông nghiệp mà gặp lũ lụt hoặc hạn hán gây mất mùa, họ không thể trả nợ ngân hàng đúng hạn. Hoặc môi trường tự nhiên thay đổi làm cho nguồn nguyên liệu của khách hàng trở lên khan hiếm hoặc không có nguồn cung cấp nguyên liệu làm cho hoạt động kinh doanh bị đình trệ, ứ đọng, không tiến hành như dự kiến khiến cho đến kì hạn vẫn chưa thu hồi được vốn … làm cho họ có thể không trả nợ theo đúng hạn, hoặc không trả nợ. Như vậy môi trường tự nhiên thay đổi là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro TD.
Môi trường pháp lý
Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro TD. Môi trường pháp lý ổn định là một trong những điều kiện tốt để phát triển hoạt động kinh doanh, tuy nhiên nếu môi trường pháp lý thay đổi sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng cho hoạt động kinh doanh và là nguyên nhân dẫn đến việc phá sản, kinh doanh thua lỗ. Những văn bản pháp luật mới có thể gây hạn chế cho một số lĩnh vực, việc tăng thuế, giảm thuế, tăng hạn ngạch, tăng giảm bảo hộ đối với một số ngành sẽ gây cho chủ thể kinh doanh ngành đó có những biến đổi nhất định. Những quy định pháp luật không rõ ràng, có sự chồng chéo, không thống nhất gây khó khăn trong việc xin giấy tờ, cấp giấy phép kinh doanh hoặc gây khó khăn qua các thủ tục hành chính phiền hà. Môi trường pháp lý ở nước ta còn nhiều bất cập là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng hoạt động kinh doanh, làm ảnh hưởng mối quan hệ TD giữa ngân hàng và khách hàng.
Môi trường kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Kinh tế càng phát triển, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn càng cao. Tuy nhiên, sự phát triển này không phải đi lên theo một đường thẳng mà thường xuyên biến động. Vì vậy, khi môi trường kinh tế có sự thay đổi ( sự tăng giá cả các nguyên liệu đầu vào, sự gia tăng các đối thủ cạnh tranh…) cũng đều tác động đến người đi vay. Nhiều người vay, với kinh nghiệm của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn, hay người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi…những khách hàng này không gây nhiều tổn thất cho ngân hàng nhưng cũng có nhiều khách hàng do không thích ứng kịp thời với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, không có khả năng hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng hoặc cố ý không hoàn trả ngân hàng gây nhiều tổn thất cho ngân hàng.
Nhân tố chủ quan
Nguyên nhân từ phía khách hàng thường là nguyên nhân chính, chủ yếu gây ra rủi ro. Những rủi ro này ngân hàng có thể phần nào kiểm soát được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc sàng lọc khách hàng và quản lý, giám sát tốt các món vay trong kì hạn vay. Khả năng không trả được nợ đúng hạn của khách hàng có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau :
Do hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ của khách hàng, làm khách hàng không có tiền trả nợ vào thời hạn đã xác định trước, cụ thể do:
- Trình độ quản lý doanh nghiệp yếu kém cả về quá trình sản xuất kinh doanh và sử dụng nhân viên. Quản lý kém gây giảm sút tài sản của doanh nghiệp và dẫn đến khả năng phá sản, không trả được nợ vay. Thực tế cho thấy sự quản lý trong các doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều lạc hậu, mang tính bao cấp, thiếu sự đổi mới… nên rất nhiều công ty làm ăn thua lỗ, phải giải thể, phá sản hoặc sát nhập với các công ty khác gây ra những tổn thất đối với ngân hàng và Nhà nước.
- Do hạn chế trong việc định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh : Điều đó làm cho doanh nghiệp có những nhân định sai về xu hướng thị trường trong tương lai, doanh nghiệp không có sự thay đổi kịp thời về nhân lực và sản phẩm cho phù hợp… Sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận do mẫu mã, giá cả chưa hợp lý, không được sự chấp nhận rộng rãi của người tiêu dùng gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khách hàng gặp rủi ro trong quá trình đổi mới công nghệ, do khách hàng nhầm lẫn hoặc bị lừa đảo trong việc lựa chọn công nghệ, mua phải thiết bị lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Việc mua và sử dụng công nghệ lạc hậu không chỉ làm cho sản phẩm khó đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn gây ra cho doanh nghiệp nhiều khó khăn trong việc đổi mới chúng hoặc thay thế một hệ thống công nghệ mới. Từ đó, cũng làm giảm giảm khả năng trả nợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng.
- Do sự lừa đảo của đối tác làm ăn làm cho doanh nghiệp thua lỗ trong kinh doanh, gây giảm khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Hoặc do sự cạnh tranh gay gắt của thị trường và các đối thủ làm doanh nghiệp bị thu hẹp thị phần, mất khách.
Do khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng: Như cố tình không trả nợ với mong muốn chiếm đoạt khoản vay, hoặc cố kéo dài thời gian sử dụng vốn, hoặc lừa dối ngân hàng về tài sản thế chấp như: giá trị tài sản thế chấp nhỏ hơn giá trị khai tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp đã được thế chấp ở một nơi khác. Nhiều khách hàng lừa đảo ngân hàng bằng cách thực hiện chia nhỏ các khoản vay ở nhiều ngân hàng khác nhau để giảm sự giám sát, cố tình gian dối trong việc kê khai tình hình hoạt động kinh doanh, xây dựng những báo cáo tài chính tốt nhằm xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng, vay các khoản vay mới để trả nợ cho các khoản vay cũ. Thực tế những khách hàng này không có khả năng trả nợ và sớm muộn gì cũng gây tổn thất cho ngân hàng. Đối với những khách hàng cố ý lừa đảo, ngân hàng thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ.
Nhân tố thuộc về ngân hàng.
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tính làm sai... là một trong những nguyên nhân của rủi ro TD. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thâm chí nhiều quốc gia, để TD tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay... Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên TD TD đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lượng, rủi ro TD luôn rình rập họ.
Do công tác quản lý nghiệp vụ TD của ngân hàng chưa được tốt. Cụ thể đó là việc ngân hàng chưa xây dựng được một quy trình TD chuẩn hoá, hợp lý, các biện pháp giám sát các khoản vay có hiệu quả không cao, việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tiến hành chậm làm giảm khả năng chủ động xử lý khi rủi ro TD xuất hiện. Các cán bộ lãnh đạo chưa giám sát chặt chẽ nhân viên ngân hàng làm nhân viên ngân hàng lơ là trong việc thực hiện quy trình TD, chưa giám sát chặt chẽ khoản vay hoặc do buông lỏng quản lý tạo điều kiện cho nhân viên ngân hàng thông đồng với khách hàng thực hiện các khoản TD mang lại nhiều rủi ro hoặc gây mất vốn ngân hàng.
Như vậy sự quản lý không chặt chẽ của cán bộ lãnh đạo và chất lượng nhân viên ngân hàng (bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp) không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro TD.
1.2.3. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Với mục đích cố gắng ngăn chặn những rủi ro trong hoạt động TD, người điều hành ngân hàng phải hiểu được rằng vì sao những rủi ro này có thể ra? Khi xem xét xem những rủi ro trong TD, cán bộ TD phải xem xét xem rằng những rủi ro này phát sinh từ phía ngân hàng gây ra (có thể kiểm soát được) hay do những yếu tố khách quan từ môi trường bên ngoài (không thể kiểm soát được).
Nguyên nhân có thể kiểm soát được
1. Xem xét không kỹ khi TD
2. Không nhận biết được rủi ro
3. Không kiểm soát/theo dõi
4. Không xử lý kịp thời
Nguyên nhân không thể kiểm soát được
1. Sự đổ vỡ trong kinh doanh của người đi vay
2. Biến động chính trị và những nguyên nhân khác
Dùng quỹ dự phòng rủi ro và xoá sổ
Thất thoát trong TD
Mất dần vốn ngân hàng
Ngân hàng đi đến phá sản
Những ngân hàng mong muốn duy trì mức dư nợ TD ở tình trạng tốt, có thể làm giảm bớt kể cả những rủi ro không thể kiểm soát được bằng cách tập trung quá nhiều vốn vào một người vay, tức là áp dụng phương pháp phân tán rủi ro. Vì vậy vai trò của người cán bộ TD ở chỗ cần phải thực hiện những công việc nhất định để tránh những rủi ro trong tương lai.
1.2.3.1. Nhóm dấu hiệu liên quan tới mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Sau khi TD, khách hàng là người trực tiếp sử dụng món tiền đi vào sản xuất kinh doanh và thực hiện các dự định của mình. Còn ngân hàng thì quản lý khoản vay dựa vào những thông tin mà khách hàng cung cấp và kết quả việc tự tìm hiểu khách hàng của các cán bộ ngân hàng. Thông thường, ngoài hồ sơ món vay đảm bảo về mặt pháp lý cho món vay và tài sản đảm bảo của khoản vay, trong suốt thời hạn từ khi TD tới đến lúc hết hạn, thu xong nợ của khách hàng, các cán bộ TD có nhiệm vụ giám sát khoản vay, định kỳ yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan tới món vay như các báo cáo tài chính, các báo cáo kiểm kê, kiểm toán… Để tạo tin tưởng về độ an toàn của khoản tiền vay, khách hàng thường cung cấp các thông tin mà ngân hàng yêu cầu. Tuy nhiên, trong mố._.i quan hệ khách hàng – ngân hàng, có những biểu hiện mà thông qua đó ta có thể phần nào dự đoán khả năng khách hàng không trả được nợ đúng hạn. Cụ thể:
Khách hàng có thái độ không hợp tác với ngân hàng như trì hoãn, gây khó khăn, trở ngại cho ngân hàng khi các cán bộ ngân hàng yêu cầu cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh như báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệ, không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời khi ngân hàng yêu cầu, hoặc các thông tin trong các báo cáo đã được chỉnh sửa sai so với thực tế.
Việc vay, trả nợ ngân hàng của khách hàng thay đổi thường xuyên, mức vay gia tăng liên tục, số dư tài khoản tiền gửi giảm sút bất thường, xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khách hàng có những khoản vay chậm thanh toán lãi khi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đủ, không đúng hạn hoặc đề nghị gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi TD. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất, không còn tồn tại.
1.2.3.2. Nhóm dấu hiệu liên quan tới tình hình tài chính của khách hàng.
Ngân hàng nhận thấy có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế khách hàng thu được so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị vay vốn. Xuất hiện các khoản chi phí bất hợp lý như gia tăng đột biến các loại chi phí quảng cáo, tiếp khách, chi phí văn phòng, thiết bị…
Dấu hiệu cho thấy khách hàng có các nguồn thu nhập bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc không phải từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán, hoặc khách hàng chấp nhận sử dụng nguồn vốn vay khác có chi phí cao với mọi điều kiện.
Trong doanh nghiệp có sự thất thoát, thiếu hụt bất thường về tài sản.
Khách hàng có sự thất bại trong kinh doanh, có vụ làm ăn thua lỗ hoặc có nguy cơ thua lỗ.
1.2.3.3. Nhóm dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý và kinh doanh của khách hàng
Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hội đồng quản trị, ban quản trị điều hành, các cán bộ tổ chức, quản lý, xuất hiện các mâu thuẫn và bất đồng trong quản lý điều hành, có sự thuyên chuyển liên tục các cán bộ nhân viên trong công ty. Sự thiếu trách nhiệm của ban quản lý điều hành trong việc quản lý, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên; thiếu quan tâm đến đời sống công nhân viên, đến lợi ích của cổ đông. Phương pháp quản lý không hợp lý hoặc thay mâu thuẫn bất đồng như trên có thể dẫn tới các quyết định đầu tư không đúng, việc thực hiện không tốt hoặc hiệu quả đầu tư không cao. Điều đó ảnh hưởng nhiều tới hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của khách hàng.
Trong quá trình kinh doanh có những chiến lược mạo hiểm không phù hợp với thực tế khả năng của công ty như từ bỏ các hợp đồng nhỏ mang lại lợi nhuận ổn định mà quyết định đầu tư vào các hợp đồng lớn có mức độ rủi ro cao với các đối tác có tên tuổi với mong muốn tại thương hiệu nhanh tróng trên thị trường. Hoặc đầu tư vào các lĩnh vực mà bản thân người lãnh đạo chưa có kinh nghiệm với nguồn vốn đầu tư được coi là mạo hiểm so với tình hình tài chính hiện tại của doanh nghiệp. Hoặc khách hàng mải mê theo đuổi một đặc tính nhất thời nào đó của sản phẩm mà không chú ý đến sự thích hợp về mặt thời gian cũng như đáp ứng nhu cầu thị hiếu khách hàng về sản phẩm đó. Việc thực hiện các dự án như trên mang lại nhiều rủi ro cho khách hàng, khả năng thu lợi nhuận và hoàn trả tiền cho ngân hàng của khách hàng có thể diễn ra không như dự định của khách hàng.
Khách hàng thay đổi chiến lược kinh doanh do những thay đổi trong chính sách nhà nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế, xuất nhập khẩu; thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất… Hoặc do thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh của khách hàng buộc khách hàng phải thay đổi ngành nghề, chuyển hướng đầu tư, hoặc đầu tư mạo hiểm. Những thay đổi như trên là rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đây cũng là một dấu hiệu của sự suy giảm khả năng hoàn trả của khách hàng, là dấu hiệu của rủi ro trong hoạt động TD của ngân hàng.
1.2.3.4. Nhóm dấu hiệu xuất phát từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Cán bộ ngân hàng soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng TD không rõ ràng, không xác định rõ khả năng hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thoả hiệp các nguyên tắc TD đối với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro.
Nhân viên TD đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, ví dụ: Đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng chỉ thông qua thông tin do khách hàng cung cấp mà thiếu đi sự tự tìm hiểu khách hàng từ những kênh thông tin khác, bỏ qua các “nghi ngờ” được phản ánh qua cấu trúc và cơ cấu của số liệu khi phân tích các dữ liệu tài chính, TD dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tiền TD.
Hồ sơ TD không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về TD. Khi đã TD, khoản vay thiếu sự giám sát, bổ xung các giấy tờ cần thiết.
Chấp nhận cung cấp các khoản vay với khối lượng lớn cho các khách hàng chưa đủ tin tưởng, không có tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài sản đảm bảo nhỏ hơn rất nhiều giá trị khoản TD. Hoặc vì quá tin tưởng khách hàng mà TD các khoản không có tài sản đảm bảo trong khi phương án vay vốn của khách hàng có dấu hiệu rủi ro.
Ngân hàng chạy theo xu hướng cạnh tranh thái quá: Giảm thấp lãi suất TD, phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng cách chấp nhận thực hiện các hợp đồng rủi ro cao bằng mọi cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng để họ không quan hệ với các tổ chức TD khác mặc dù biết rõ các khoản TD mới tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
Ngân hàng buông lỏng sự quản lý nhân viên, tạo khe hở để các nhân viên câu kết với khách hàng như cung cấp liên tục các khoản TD mới để che dấu việc “đảo nợ” hoặc thực hiện việc điều chỉnh kì hạn nợ, gia hạn nợ một cách thiếu căn cứ cho khách hàng nhằm che dấu các khoản nợ quá hạn của khách hàng. Sự câu kết của nhân viên trong ngân hàng với khách hàng thực hiện các khoản TD mà khách hàng cố ýtình không trả nợ ngân hàng đã mang lại không ít tổn thất cho ngân hàng. Ngân hàng không quản lý chặt chẽ để cho các nhân viên ngân hàng thực hiện các hợp đồng TD với các khách hàng là họ hàng thân thích, người quen có mối quan hệ mật thiết tạo điều kiện để lừa đảo, rút tuột ngân hàng gây không ít tổn thất cho ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ TD quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng trong khi ngân hàng không không có sự chuẩn bị để đối phó với tình hình trên.
Như vậy ngay trong bản thân các cán bộ nhân viên trong ngân hàng do trình độ hoặc buông lỏng trong quản lý dẫn đến sự thông đồng giữa nhân viện ngân hàng... cũng là một dấu hiệu của rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy muốn giảm rủi ro TD, ngân hàng cần giám sát chặt chẽ trình độ nghiệp vụ cũng như các hoạt động của các nhân viên.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khi đến hạn trả nợ khách hàng chưa hoàn trả gốc, chưa hoàn trả lãi hoặc cả hai … Thời gian của nợ quá hạn rất quan trọng vì các chi phí và mức độ rủi ro đối với các khoản nợ càng tăng theo thời gian quá hạn. Thời gian qua hạn càng dài, ngân hàng càng tốn nhiều chi phí để thu hồi khoản tiền TD và khả năng thu được tiền ngày càng giảm. Thời gian quá hạn của khoản nợ càng lớn, ngân hàng càng chịu nhiều tổn thất. Tổn thất lớn nhất có thể là mất vốn, không thu hồi được đủ gốc và lãi, ngoài ra, trong suốt thời gian quá hạn, ngân hàng phải chịu những chi phí để có thể thu hồi được khoản TD.. Thời gian quá hạn tỷ lệ thuận với mức độ tổn thất của khoản TD và tỷ lệ nghịch với khả năng thu hồi được vốn của ngân hàng. Ngân hàng thường phân chia các khoản nợ quá hạn như sau:
Nợ quá hạn thông thường: Là các khoản nợ quá hạn mà thời gian quá hạn thấp, tổn thất từ các khoản nợ quá hạn này ít, khả năng thu hồi nợ cao. Thông thường các khoản nợ quá hạn có thời gian quá hạn dưới một kì gia hạn nợ hoặc dưới 90 ngày thì được coi là nợ quá hạn thông thường.
Nợ khó đòi: Là các khoản nợ quá hạn đã qua nhiều nhiều lần gia hạn nợ mà vẫn chưa thu hồi được nợ. Một khoản nợ quá hạn bị xếp vào nợ khó đòi tức là khoản nợ đó được đặt trong tình trạng theo dõi đặc biệt. Vì nợ khó đòi gây nhiều tổn thất nên ngân hàng rất nỗ lực để có thể thu được khoản nợ và để khoản nợ không bị xếp vào nợ có khả năng mất vốn. Nợ khó đòi vẫn có khả năng thu hồi được nợ, tuy nhiên khả năng này không nhiều.
Nợ quá hạn có khả năng mất vốn: Là các khoản nợ quá hạn với thời gian dài, khả năng thu hồi nợ gần như không có. Đối với các khoản vay mà khách hàng chết, doanh nghiệp bị giải thể…trong thời gian quá hạn cũng bị xếp vào loại nợ này. Đây loại nợ này mang lại tổn thất lớn nhất đối với ngân hàng đó là không thu hồi được khoản tiền đã TD.
Từ nợ quá hạn thông thường đến nợ quá hạn có khả năng mất vốn, mức độ rủi ro đối với ngân hàng càng ngày càng tăng. Đối với các ngân hàng, việc thực hiện phân loại nợ các nhóm như trên giúp ngân hàng đánh giá được mức độ rủi ro của ngân hàng trong hiện tại và có cách xử lý thích hợp để các khoản nợ không bị chuyển xuống nhóm nợ có rủi ro cao hơn.
Tuy nhiên, nợ quá hạn chỉ phản ánh giá trị tuyệt đối của các khoản vay không thu hồi được đúng hạn, nó chưa phản ánh được thực chất mức độ rủi ro của ngân hàng vì nó còn phụ thuộc vào cơ cấu, tỉ trọng của nợ quá hạn trên tổng nguồn TD. Để đánh giá tốt hơn mức độ rủi ro của ngân hàng, người ta thường sử dụng các tỉ lệ nợ quá hạn:
Ngân hàng có thể xác định được tỷ trọng của nợ quá hạn, cụ thể là các khoản nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi và nợ có khả năng mất vốn chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng dư nợ. Để đánh giá tốt hơn mức độ nghiêm trọng rủi ro TD, ngoài việc xem xét, đánh giá về tỷ lệ nợ quá hạn, ngân hàng có thể dựa vào tỷ trọng của từng loại nợ quá hạn trong tổng số nợ quá hạn để đánh giá. Trong cơ cấu đó nếu tỷ trọng nợ quá hạn có khả năng mất vốn lớn chứng tỏ ngân hàng phải đối mặt với tổn thất lớn do nguy cơ không thu hồi được vốn.
Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn là các chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi để đo lường rủi ro TD của các NHTM. Sử dụng các chỉ tiêu này một mặt đánh giá được rủi ro TD, tổn thất của rủi ro TD, mặt khác ngân hàng có những định hướng kịp thời nhằm hạn chế phát sinh rủi ro.
1.2.4.2. Tỷ lệ gia hạn nợ.
Gia hạn nợ đối với một khoản nợ là việc ngân hàng đồng ý kéo dài thời gian trả nợ của khách hàng. Tỷ lệ gia hạn nợ được tính bằng:
Gia hạn nợ áp dụng đối với các khoản vay mà khách hàng chưa có khả năng hoàn trả vào thời điểm hết hạn nhưng có khả năng hoàn trả sau khoảng thời gian được gia hạn. Để được gia hạn nợ, khách hàng phải làm đơn xin gia hạn và phải chứng minh được khả năng hoàn trả của mình sau thời gian gia hạn. Như vậy những khoản nợ được gia hạn đều là các khoản không đảm bảo thực hiện được như hợp đồng TD, đây cũng là các khoản nợ chứa nhiều rủi ro. Vì vậy khi nghiên cứu rủi ro TD tỷ lệ gia hạn nợ cũng là chỉ tiêu cần được chú ý. Tỷ lệ gia hạn nợ càng lớn cho thấy khả năng tiềm ẩn ra nợ quá hạn càng lớn nếu ngân hàng và khách hàng thực hiện theo đúng hợp đồng TD.
Tổn thất TD
Tổn thất TD là các tổn thất mà ngân hàng gặp phải khi ra rủi ro TD. Tổn thất TD bao gồm các chi phí trực tiếp từ khoản TD (toàn bộ các chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra đối với khoản TD trong thời gian thu hồi), tổn thất mất vốn (nếu không thu hồi được vốn hoặc thu hồi không đầy đủ) và chi phí cho cơ hội bị bỏ qua do không thực hiện được mục đích kinh doanh ngân hàng do ngân hàng không thu hồi được đúng hạn như dự tính.
Tổn thất TD là một chỉ tiêu khó có thể lượng hoá được do nó bao gồm cả yếu tố định tính (chi phi cơ hội) nên khi có rủi ro TD, ngân hàng khó xác đinh chính xác các tổn thất mà ngân hàng gặp phải. Ngân hàng càng giám sát kĩ hoạt động TD, giám sát tốt khoản vay, dự tính được các biến động có thể ra đối với khoản vay càng chính xác, ngân hàng càng có những biện pháp xử lý kịp thời, các điều chỉnh về vốn, về dự định kinh doanh kịp thời. Điều đó giúp giảm được rất nhiều tổn thất cho ngân hàng. Tổn thất TD ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh của ngân hàng nên các ngân hàng khi gặp rủi ro cần đặc biệt chú ý dự tính tổn thất TD để có các định hướng hoạt động tốt hơn trong thời gian tới.
Các biện pháp phòng ngừa, khắc phục và xử lý rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Các biện pháp phòng ngừa
Các biện pháp phòng ngừa là các biện pháp áp dụng khi rủi ro chưa ra nhưng khoản vay đã có đấu hiệu của rủi ro, tức là khoản vay có khả năng không được thực hiện như hợp đồng đã cam kết. Biện pháp phòng ngừa là các biện pháp nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể ra.
Khi hoạt động kinh doanh của khách hàng xuất hiện các dấu hiệu cảnh báo có nguy cơ phát sinh rủi ro do bất cứ một nguyên nhân nào, để phòng ngừa rủi ro có thể ra, trước hết ngân hàng phải thực hiện các biện pháp kiểm tra giám sát bắt buộc. Về nguyên tắc, tất cả các khoản vay có dấu hiệu rủi ro đều phải được đặt trong tình trạng theo dõi đặc biệt. Các biện pháp phòng ngừa bao gồm:
Quản lý giám sát khoản vay: Thực hiện ngay việc giám sát và thu thập các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng cũng như các thông tin về tình hình tài chính và các thông tin cần thiết có liên quan khác của khách hàng để có thể giám sát khoản vay một cách chặt chẽ để xem tình hình người vay có dấu hiệu tiến triển tốt hơn không.
Nếu phía khách hàng xuất hiện các biểu hiện của hoạt động kinh doanh không tốt, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính thường kỳ hơn và phải kiểm tra chi tiết các báo cáo đó để giám sát chặt tình hình, ngay cả khi những biểu hiện trên chưa rõ ràng thì vẫn phải cần nghiên cứu và phân tích.
Khi xác định rõ xu thế bất lợi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, ngân hàng phải khẩn cấp xác định ngay tính nghiêm trọng của nó, phải xem xét đánh giá nguyên nhân của sự bất ổn này là tạm thời hay do tài chính yếu kém hay do thị trường hay do yếu kém trong quản lý…
Rà soát và xem xét lại tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng: Trong trường hợp khoản vay bị đánh giá là mức độ rủi ro tăng lên, ngân hàng phải rà soát và đánh giá lại ngay tài sản đảm bảo của khách hàng, việc đánh giá lại tài sản đảm bảo của khách hàng phải đảm bảo thực tế và thận trọng. Ngân hàng cần xem xét đánh giá nếu có rủi ro liệu tài sản bảo đảm này có bán được trong điều kiện kinh doanh bình thường hay không, nếu bán thì như thế nào và bán trong điều kiện kinh doanh không bình thường thì như thế nào?
Bổ xung hồ sơ, giấy tờ cần thiết cho khoản vay: Trong suốt quá trình TD, dặc biệt là khi có các dấu hiệu không bình thường từ hoạt động kinh doanh của khách hàng cán bộ phụ trách TD yêu cầu khách hàng nộp các giấy tờ trực tiếp liên quan tới việc thực hiện phương pháp đề xuất vay vốn, các hoá đơn thanh toán, hoá đơn mua bán hàng hoá để ngân hàng có căn cứ về hoạt động kinh doanh của khách hàng, để ra các nhận định chính xác hơn về khoản vay, đảm bảo dự đoán các biến động có thể ra cho khoản vay.
1.2.5.2. Biện pháp khắc phục
Các biện pháp khắc phục được áp dụng khi đã có rủi ro, tức là đã có nợ quá hạn và các tổn thất của ngân hàng nhưng ngân hàng chưa rơi vào tình trạng mất vốn, các khoản nợ vẫn có khả năng thu hồi. Các biện pháp này nhằm làm hạn chế các tổn thất của ngân hàng khi đã có rủi ro. Các biện pháp khắc phục càng tốt thì các tổn thất của ngân hàng càng hạn chế. Các biện pháp khắc phục bao gồm:
Yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo nợ vay
Trong thời gian quá hạn và ngân hàng vẫn đang nỗ lực thu hồi vốn, ngân hàng phải tìm mọi cách để tăng thêm tài sản thế chấp. Các báo cáo tài chính và các thông tin khác của doanh nghiệp phải được kiểm tra kỹ để xác định có thể bổ sung thêm tài sản thế chấp. Cần xác định tài sản thế chấp có thể bán được hoặc chuyển đổi ngay sang tiền mặt mà không ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng. Yêu cầu bổ xung tài sản đảm bảo nhằm tăng giá trị có thể thu hồi để đảm bảo chắc chắn hơn cho khoản vay, trong trường hợp khách hàng không trả nợ thì giá trị tổn thất sẽ giảm đi do có thêm tài sản thế chấp.
Xác định các phương án cơ cấu lại nợ.
Cơ cấu lại nợ là việc ngân hàng đồng ý cho phép khách hàng kéo dài thời gian trả nợ (gia hạn nợ) hoặc ngân hàng và khách hàng xem xét điều chỉnh lại kì hạn vay nợ cho phù hợp với khả năng hoàn trả của khách hàng. Để được cơ cấu lại nợ khách hàng phải có đơn đề nghị ngân hàng xem xét cơ cấu lại nợ và được ngân hàng chấp thuận. Biện pháp này được áp dụng cho các khách hàng được quyết định tiếp tục duy trì mối quan hệ TD. Khi ngân hàng quyết định duy trì mối quan hệ TD với khách hàng này bằng biện pháp cơ cấu lại nợ thì khoản nợ phải được giám sát chặt chẽ. Người vay phải chứng minh được khả năng hoàn trả lãi và gốc đúng hạn khi được cơ cấu lại thì ngân hàng mới có thể cho cơ cấu lại. Ngân hàng phải phân tích và quyết định cho khách hàng cơ cấu lại nợ để đi đến quyết định theo hướng điều chỉnh nợ, giãn nợ, gia hạn nợ.
Khi các khoản nợ được điều chỉnh, cơ cấu lại, khách hàng phải tuân thủ các quy định chặt chẽ do ngân hàng đề ra để ngân hàng giám sát tốt hơn khoản vay. Các khoản nợ được cơ cấu lại này vẫn phải được lưu trong danh mục nợ xấu cho đến khi các khoản này được trả theo lịch định. Với các khoản nợ được cơ cấu lại ngân hàng thường yêu cầu bổ xung tài sản đảm bảo để tăng mức độ tin tưởng của ngân hàng với khách hàng.
1.2.5.3. Các biện pháp xử lý.
Các biện pháp xử lý được thực hiện khi khoản vay không thể phục hồi được, ngân hàng dùng các biện pháp mạnh để thu hồi tối đa số tiền khách hàng nợ ngân hàng. Các biện pháp xử lý bao gồm:
Thu hồi nợ: Ngân hàng quyết định thu hồi nợ với mong muốn chấm dứt hợp đồng TD để giảm các chi phí tiếp tục phát sinh do duy trì khoản vay. Ngân hàng thu hồi nợ bằng cách yêu cầu khách hàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Nếu khách hàng đã hoàn trả đầy đủ số tiền nợ ngân hàng thì quan hệ TD giữa ngân hàng và khách hàng là chấm dứt. Nếu khách hàng hoàn trả không đầy đủ hoặc không trả toàn bộ số nợ ngân hàng thì ngân hàng tiếp tục áp dụng các biện pháp sau nhằm thu được tối đa số vốn bỏ ra: Như phát mại tài sản hoặc trả nợ thay, khởi kiện, bán nợ ….
Phát mại tài sản: Ngân hàng cố gắng thuyết phục khách hàng tự nguyện bán tài sản của mình. Nếu khách hàng không có thiện trí thì ngân hàng sẽ tiến hành bán tài sản cầm cố thế chấp theo sự giám sát và phán quyết của cơ quan pháp luật.
Trả nợ thay: Yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay cho khách hàng vay vốn nếu khi TD khách hàng đảm bảo khoản vay bởi sự bảo lãnh của bên thứ ba. Bên bảo lãnh có nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng về khoản tiền còn thiếu.
Khởi kiện: Trong trường hợp tài sản đảm bảo hoặc bên bảo lãnh không đáp ứng hết nghĩa vụ thanh toán với ngân hàng, ngân hàng có thể dùng biện pháp khởi kiện để thu hồi hết số tiền. Ngân hàng phải làm thủ tục pháp lý cần thiết cho việc khởi kiện.
Bán nợ: Khi ngân hàng không thu hồi được nợ, ngân hàng có thể dùng biện pháp bán nợ, tức là bán khoản nợ cùng giá trị khoản nợ cho một tổ chức khác. Số tiền bán nợ thu được thường nhỏ hơn rất nhiều so với giá trị khoản nợ nhưng đây cũng là biện pháp để thu hồi một phần khoản nợ. Bán nợ thường áp dụng với các doanh nghiệp có giá trị nợ lớn, bán toàn bộ doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp với mục đích sau khi bán doanh nghiệp có sự lãnh đạo mới, có thể cứu vớt tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các biện pháp khuyến khích trả nợ: Miễn giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt… áp dụng cho các khách hàng có thiện chí trả nợ gốc.
Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro: Về nguyên tắc, biện pháp này chỉ được áp dụng đối với các khoản nợ xấu: sau khi ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khắc phục và xử lý mà vẫn không thu hồi được nợ hoặc các khoản nợ đã phát mại hết tài sản nhưng vẫn còn chênh lệch âm (cả gốc và lãi) hoặc các khoản vay bị rủi ro do nguyên nhân khách quan mà không thể khắc phục được.
Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp cho những khoản rủi ro TD ra làm lành mạnh hoá tài chính của ngân hàng chứ không có nghĩa là xoá hoàn toàn nợ vay cho khách hàng. Đối với các khoản nợ được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro: Những khoản vay có rủi ro sau khi được bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro sẽ được chuyển ra ngoại bảng để theo dõi tận thu, ngân hàng vẫn phải dùng các biện pháp khắc phục và xử lý để thu hồi nợ.
Biện pháp đối với cán bộ ngân hàng, các bộ phận liên quan trong ngân hàng.
Ngoài các biện pháp khắc phục và xử lý nêu trên, dựa trên mức độ rủi ro và thiếu sót từ phía cán bộ mà ngân hàng lựa chọn mức độ xử lý (việc này cũng cần phải dựa vào quy định về tổ chức cán bộ của ngân hàng) : Truy cứu trách nhiệm,Bồi thường vật chất, xử lý kiểm điểm cách chức hoặc chịu phạt theo quy định của ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.3.1. Nhân tố thuộc về ngân hàng
Đối với ngân hàng thương mại thì chất lượng TD thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn TD phải phù hợp với khả năng, thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường.
Bao gồm các nhân tố như: Chính sách TD, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy mô vốn của ngân hàng, thông tin TD, quy trình nghiệp vụ TD...
* Chính sách TD
Chính sách TD là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương TD hoặc hạn chế TD để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng thương mại đó.
Do đó, việc hoạch định chính sách TD có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách TD đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động TD dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành đúng luật pháp và đường lối của ngân hàng nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách TD phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng.
Hoạt động TD trong nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi ngân hàng gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách TD, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng TD của một ngân hàng có tốt hay không còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách TD ngân hàng có đúng đắn, phù hợp không.
* Công tác tổ chức ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn TD thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ TD lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, ngân hàng đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân hàng nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
* Thông tin TD
TD không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là DN để TD trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy, hoạt động TD muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của ngân hàng.
* Chất lượng đào tạo cán bộ ngân hàng
Chất lượng cán bộ là "cơ sở vật chất" để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường thường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiện nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ ngân hàng cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo. Trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ để nâng cao chất lượng cán bộ, đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xảy ra.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình độ chuyên môn giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ TD ngân hàng nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xảy ra.
* Những vấn đề thuộc về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát
Mở rộng quy mô hoạt động TD, tăng cường TD mà không tính đến rủi ro, bất chắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng.
Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro đó là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi TD) mà còn được thực hiện đối với bản thân ngân hàng (như quy trình thực hiện TD, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ cán bộ mất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Nâng cao chất lượng TD cũng đồng thời là ngân hàng phải kịp phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Muốn vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là một vấn đề mà không ngân hàng nào coi nhẹ.
1.3.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn TD của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng TD được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc TD.
Khách hàng vừa là đại diện cho bên cung ứng vốn TD, vừa là đại diện cho bên cầu vốn TD. Với tư cách là người cung ứng vốn TD, họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi, do đó sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Với tư cách là người vay, họ mong muốn được đáp ứng đầy đủ vốn phù hợp với yêu cầu kinh doanh có thời hạn vay và lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh chóng.
* Yếu tố con người
Nhân tố con người: bao gồm đạo đức của khách hàng, mục tiêu kinh doanh, nhiệm vụ, động cơ của người vay...
Những thông tin sai trái về người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất lượng TD, ảnh hưởng đến hiệu quả của người vay.
Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm trong kinh doanh của khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ, chất lượng TD của ngân hàng sẽ được đảm bảo và uy tín của ngân hàng được nâng cao.
Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng cũng là một dấu hiệu cho khả năng đảm bảo chất lượng TD của ngân hàng. Một nhà quản trị kinh doanh tốt là một người quản lý tốt đồng tiền vào ra của DN, kiểm soát được các chi phí, nhận biết các cơ hội kiếm lời và đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, từ đó kiếm được lợi nhuận, có nguồn để trả nợ cho ngân hàng.
* Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng
Ngân hàng sẽ chỉ đồng ý TD nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính và khả năng trả nợ của mình đối với ngân hàng. Ngân hàng không dám mạo hiểm TD đối với khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm bảo là một đòi hỏi của ngân hàng để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay. Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì ngân hàng căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền TD tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm bảo (nếu như không có quy định khác).
* Tính khả thi của dự án vay vốn
Khi dự án có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định TD, quy mô TD sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng món vay, ảnh hưởng tới chất lượng TD của ngân hàng.
Mặt khác, nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động TD.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro TD của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
Khái quát chung về Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Thành Đô.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Thành Đô
- C¨n cø QuyÕt ®Þnh sè 1555/Q§ - NHNN cña Ng©n hµng Nhµ níc ViÖt Nam vÒ viÖc më chi nh¸nh cña Ng©n hµng §T & PT ViÖt Nam.
- C¨n cø NghÞ quyÕt sè 172/NQ-H§QT cña Héi ®ång Qu¶n trÞ Ng©n hµng §T & PTVN vÒ ®iÒu chØnh c¸c chi nh¸nh cÊp II trùc thuéc NH§T&PTVN.
- C¨n cø QuyÕt ®Þnh sè 222/Q§-H§QT ngµy 14/8/2006 cña Héi ®ång qu¶n trÞ NH§T & PTVN.
Chi nh¸nh Ng©n hµng §Çu t & ph¸t triÓn Thµnh ®« ®îc thµnh lËp vµ chÝnh thøc ®i vµo ho¹t ®éng trªn c¬ së t¸ch, n©ng cÊp Chi nh¸nh Ng©n hµng §T & PT Long Biªn (Chi nh¸nh cÊp II), trùc thuéc chi nh¸nh NH§T & PT B¾c Hµ Néi.
CN Thµnh §« ®i vµo ho¹t ®éng tõ ngµy 01/9/2006, cã trô së ®Æt t¹i: sè 463, ®êng NguyÔn V¨n Linh, phêng Phóc §ång, quËn Long Biªn, Thµnh phè Hµ Néi.
CN Thµnh §« nhê cã sù quan t©m gióp ®ì cña Ban l·nh ®¹o NH§T & PTVN, c¸c phßng ban t¹i Héi së chÝnh, víi sù cè g¾ng cña Ban Gi¸m ®èc vµ toµn thÓ ®éi ngò c¸n bé nh©n viªn, ®· lu«n hoµn thµnh xuÊt s¾c c¸c chØ tiªu ®îc giao. Trong h¬n hai n¨m qua, CN Thµnh §« ®· kh«ng ngõng ph¸t triÓn, më réng c¸c s¶n ._. giám sát khách hàng có sử dụng tiền vay có đúng mục đích không, giám sát tài sản đảm bảo và quan tâm tới các nhân tố ảnh hưởng tới khách hàng (ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả của khách hàng). Giám sát khoản vay cán bộ TD đặc biệt chú ý tới phân loại và chấm điểm khách hàng, với từng nhóm khách hàng khác nhau thì ngân hàng có các biện pháp khác nhau nhằm giám sát và hạn chế rủi ro.
Việc giám sát chặt chẽ khoản vay cho phép NH sớm phát hiện ra các dấu hiệu của rủi ro, giúp NH có các biện pháp kịp thời nhằm hạn chế rủi ro và các tổn thất của rủi ro đối với NH. Qua việc giám sát các khoản vay, các cán bộ ở chi nhánh Thành Đô có thể phátt hiện ra những khoản vay có khả năng không hoàn trả đúng thời hạn. NH có kế hoạch làm việc trực tiếp với khách hàng, tìm hiểu nguyên nhân, cùng nhau đưa ra các giải pháp cú thể để hạn chế ra nợ quỏ hạn. Nhiều khoản vay khách hàng chưa có khả năng trả nợ khi đến hạn do sự sai lệch về chu kỳ của dòng tiền thực tế của khách hàng với thời hạn hợp đồng vay vốn, NH cùng khách hàng thống nhất áp dụng biện pháp gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ sao cho phù hợp với dòng tiền của khách hàng. Đây cũng là biện pháp hạn chế rủi ro TD được chi nhánh Thành Đô rất chú ý áp dụng.
Công tác thu nợ: Việc thu nợ không chỉ đơn thuần là đến hạn gọi điện yêu cầu khách hàng trả nợ bằng mọi cách mà cũng là “nghệ thuật” thu hồi nợ. Khi gần đến kỳ trả nợ, cán bộ Nh thường liên lạc với khách hàng, một mặt báo trước cho khách hàng biết về thời hạn trả nợ, về số nợ phải trả, mặt khác thông qua trò chuyện, cán bộ TD có thể biết khả năng có trả được nợ hay không hoặc có thể trợ giúp nếu khách hàng có khó khăn . Thái độ nhiệt tình, quan tâm tới khách hàng sẽ tác động nhiều tới thái độ trả nợ của khách hàng vì nếu khách hàng nhận thấy các cán bộ TD cũng như ngân hàng thực sự quan tâm đến họ, muốn thiết lập mối quan hệ lâu dài và uy tín với họ thì họ cũng muốn trở thành khách hàng tin cậy của ngân hàng. Do vậy họ sẽ cố gắng hoàn trả tiền vay cho NH đúng hạn để giữ chữ tín với NH. Còn ngược lại nếu cán bộ TD nhất thiết yêu cầu khách hàng hoàn trả đúng hạn với thái độ gay gắt, không quan tâm tới hoàn cảnh của khách hàng thì sẽ gây ra phản ứng đối lại, khách hàng đó chưa chắc muốn hợp tác với NH trong việc trả nợ. Ở chi nhánh Thành Đô, các cán bộ TD vận dụng tốt điều này trong công tác thu nợ, họ luôn cố gắng tạo mối quan hệ tốt với khách hàng qua sự nhiệt tình, sự quan tâm đúng mực tới khách hàng. Đến kỳ thu nợ, các cán bộ TD nhắc nhở khách hàng rất từ tốn, nhẹ nhành, nhưng cũng để cho khách hàng thấy nghĩa vụ của họ về khoản nợ. Tuy nhiên với những khách hàng khác nhau thì có cách thu nợ khác nhau, có những khách hàng thì vừa cứng rắn vừa không làm phật lòng họ. Nhờ vậy mà có những khoản TD mà khả năng hoàn trả của khách hàng là rất thấp nhưng NH cũng thu được đúng hạn hoặc có những khoản qúa hạn nhưng khi có tiền khách hàng mang đến hoàn trả ngay cho NH và mối quan hệ của NH và khách hàng vẫn tốt. Cách thức thu nợ ở chi nhỏnh Thành Đô giúp chi nhánh giảm được nhiều khoản nợ có nguy cơ quá hạn và giảm được nhiều tổn thất cho ngân hàng.
Về phía cán bộ lãnh đạo.
Chi nhánh Thành Đô có tỷ lệ nợ quá hạn thấp như vậy là do trong hoạt động TD của NH, chi nhánh có những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro như sau:
Giám sát chặt chẽ công tác TD: Ban lãnh đạo chỉ đạo sát sao việc tiến hành TD theo đúng quy trình TD, thường xuyên nhắc nhở cán bộ TD giám sỏt chặt chẽ khoản vay. Trong hoạt động thường ngày NH luôn tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và lịch công tác cho phù hợp với lịch làm việc của cán bộ TD và khách hàng.
Thống nhất xử lý món vay: Khi có khoản TD nào có dấu hiệu rủi ro, tuỳ thuộc vào giá trị khoản TD lớn hay nhỏ, mức độ tổn thất cú thể ra nhiều hay ít mà ban lãnh đạo có những buổi làm việc, bàn bạc, tìm cách giải quyết để hạn chế rủi ro, hạn chế tổn thất. Các quyết định của NH không gây bất đồng nội bộ trong việc xử lý, các quyết định này thường là chính xỏc, do đó làm hạn chể rủi ro và tổn thất của rủi ro TD tới NH.
Quyết định tách phòng TD trước đây khi mới thành lập ra thành hai phòng là phòng TD và phòng thẩm định TD giúp NH ra quyết định TD chính xác hơn, hạn chế rủi ro đối với NH. Khi mới thành lập chi nhánh không cú riêng phòng thẩm định TD mà phòng TD vừa phụ trách công tác thẩm định, vừa phụ trách công tác TD, tức một đề nghị vay vốn chỉ được thẩm định một lần ở phòng TD. Khi phòng thẩm định TD được tách ra, các cán bộ ở phòng thẩm định TD là các cán bộ có kinh nghiệm từ phòng TD sang, trước khi tách đã được đào tạp nghiệp vụ thẩm định. Sau khi tách làm hai phòng như trên, hồ sơ vay vốn được thẩm định ở hai phòng khác. Việc thẩm định và đưa ra ý kiến về món vay ở hai phòng là hoàn toàn độc lập. Và NH quyết định TD nếu hai ý kiến của hai phòng là giống nhau, còn nếu cú ý kiến khác nhau về việc TD thì NH tiến hành thẩm định lại, quyết định cuối cùng do giám đốc quyết.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH THÀNH ĐÔ – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
3.1. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô
3.1.1 Chú trọng công tác thẩm định khách hàng và phương án vay vốn
Thẩm định khách hàng và thẩm định phương án vay vốn là khâu rất quan trọng trong quá trình TD. Thông qua công tác thẩm định này, cán bộ TD có được thông tin cần thiết giúp cho việc ra quyết định có TD hay không TD.
Khi đánh giá khách hàng ngân hàng phải lưu ý 1 số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là về tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn. Tư cách pháp nhân là một yếu tố quan trọng quyết định đơn vị đó có được ký kết các hợp đồng kinh tế hay không hay nói cách khác đơn vị có được tham gia vào hợp đồng TD với ngân hàng hay không. Theo luật pháp quy định một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân tối thiểu phải có những giầy tờ sau:
Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Quyết định tổ chức.
Giấy phép kinh doanh.
Thứ hai, khi phân tích đánh giá khách hàng, ngân hàng cần phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của họ. Doanh thu và kết quả kinh doanh là hai chỉ tiêu quan trọng vì vậy ngân hàng cần phải phân tích hai chỉ tiêu này trước khi TD. Doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ hàng hoá. Doanh thu của doanh nghiệp càng lớn doanh nghiệp càng có điều kiện tăng thu nhập và mở rộng sản xuất có khả năng trả nợ ngân hàng.
Các thông tin về khách hàng như: Năng lực tài chính, năng lực quản lý, mô hình tổ chức, cơ cấu và nguồn nhân lực, ngành nghề kinh doanh, tư cách và năng lực pháp lý… Những thông tin này có thể giúp cho cán bộ TD biết rõ về khách hàng đang có nhu cầu vay vốn, và sự trung thực về các báo cáo mà khách hàng cung cấp. Thẩm định những thông tin chính xác để quyết định có TD hay không. Thông qua đó, cán bộ ngân hàng bước đầu có những nhận xét cá nhân về khách hàng, trả lời cho câu hỏi nếu TD, liệu khách hàng có thực hiện đúng như hợp đồng không? có thực sự muốn thiết lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng không?.
Nghiên cứu kỹ phương án sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn như ngành nghề kinh doanh, thời gian của phương án, tính hợp lý của phương án giúp cán bộ TD trả lời câu hỏi: phương án có khả thi không, thời gian thu lợi có hợp lý không? nếu thực tế có biến động thì lợi nhuận của dự án biến đổi như thế nào? ảnh hưởng như thế nào tới khả hoàn trả của khách hàng?.
Kết hợp thẩm định khách hàng và thẩm định phương án kinh doanh cùng với kiến thức chuyên môn, nhạy cảm nghề nghiệp… giúp cán bộ TD đánh giá về đề nghị vay vốn của khách hàng và ra quyết định cuối cùng về đề nghị vay. Nếu thấy khoản TD là an toàn, có lợi nhuận thì sẽ quyết định TD. Ngược lại qua công tác thẩm định, nếu thấy khách hàng hay phương án vay vốn có vấn đề, cán bộ TD ra quyết định từ chối đề nghị vay của khách hàng. Do vậy quyết định của cán bộ thẩm định phần lớn dựa trên cảm quan nghề nhiệp, có thể quyết định của cán bộ TD là đúng, có thể quyết định của là sai. Ngân hàng rất cần những cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn tốt, kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm... để ra những quyết định chính xác, hạn chể rủi ro.
Cán bộ TD cần đặc biệt quan tâm tới khâu thẩm định. Trong quá trình thẩm định chỉ cần coi nhẹ một yếu tố nào đó hoặc có một nhận xét cá nhận sai lệch về một yếu tố nào đó liên quan tới khách hàng hoặc phương án kinh doanh sẽ dẫn đến những kết luận sai làm, có thể dẫn đến việc không thu hồi được khoản TD, gây tổn thất cho ngân hàng.
Để phục vụ tốt cho công tác thẩm định khách hàng và thẩm định phương án kinh doanh của khách hàng, ngân hàng cần chú ý:
- Hoàn thiện quy trình thẩm định và giám sát chặt chẽ quy trình thẩm định.
- Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phân tích khách hàng và phương án kinh doanh.
- Tăng cường tiếp xúc khách hàng, khảo sát thực tế hình kinh doanh của khách hàng và thẩm định kĩ giá trị tài sản đảm bảo.
- Thực hiện tốt công tác tổ chức và thường xuyên kiểm tra nghiệp vụ của các cán bộ thẩm định.
- Đội ngũ lãnh đạo cần có những ưu tiên nhất định đối với cán bộ thẩm định như công tác đào tạo, tạo điều kiện khi đi tìm hiểu thực tế.
Thẩm định tốt ngay từ đầu là một trong những nhân tố quan trọng giúp ngăn ngừa rủi ro sau khi phát vay. Thẩm định tốt giúp sàng lọc những đề nghị vay vốn không có chất lượng, không đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng. Các ngân hàng luôn đánh giá cao công tác thẩm định và luôn cố gắng để sao cho có chất lượng thẩm định tốt nhất. Tuy nhiên nhiều ngân hàng đặt mục tiêu tăng trưởng TD cao làm cho công tác thẩm định đôi khi không còn mang đúng nghĩa của nó, nhiều khi với mong muốn đạt kế hoạch, có những dự án mà cán bộ thẩm định cảm thấy chưa an toàn lắm nhưng vẫn quyết định TD với mong muốn rủi ro không ra. Điều này rất không tốt vì những khoản TD đó rủi ro là rất cao. Do đó, các ngân hàng nên có mục tiêu phù hợp và chính sách thẩm định hợp lý sao cho công tác thẩm định có chất lượng tốt nhất, đảm bảo an toàn cao nhất cho ngân hàng.
Giám sát chặt chẽ các khoản tín dụng
Sau khi TD một món tiền, ngân hàng cũng như các cán bộ Ngân hàng không thể bỏ mặc khoản tiền đó để cho khách hàng muốn sử dụng khoản tiền đó làm gì cũng được, mà các cán bộ Ngân hàng vẫn phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng. Cán bộ Ngân hàng theo dõi, giám sát hoạt động của khách hàng để biết được khách hàng có dùng tiền vay vào đúng mục đích như đã cam kết với Ngân hàng không, tình hình kinh doanh của khách hàng có những biến động gì, có ảnh hưởng tới khoản vay không, khách hàng có thể hoàn trả tiền vay đúng hạn như đã cam kết không.
Giám sát khoản TD là cả một quá trình tính từ khi khách hàng nhận được tiền đến khi hết kì hạn của khoản vay, giám sát khoản vay càng chặt chẽ bao nhiêu thì Ngân hàng càng có sự chủ động trong việc kiểm soát các loại rủi ro có thể ra. Mỗi cán bộ ngân hàng có những cách khác nhau để giám sát khoản TD của mình nhưng không thể bỏ qua những yêu cầu chung nhất có tính chuẩn mực của Ngân hàng như hàng tháng, hàng quý hay hàng năm cán bộ ngân hàng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các thông cần thiết liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình như báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệ…và những báo cáo này là yêu cầu bắt buộc để hoàn thiện hồ sơ khoản vay trong thời hạn hợp đồng.
Ngoài ra mỗi cán bộ có các cách riêng để tìm hiều tình hình kinh doanh của khách hàng như tiếp xúc trực tiếp, qua trò chuyện, xuống cơ sở của khách hàng hoặc thông qua các khách hàng khác, qua đối tác của khách hàng…
Có thể áp dụng các cách sau:
- Yêu cầu khách hàng phải cung cấp các báo cáo tài chính định kỳ, các giấy tờ cần thiết như các hợp đồng kinh doanh, hoá đơn mua hàng, hóa đơn thuế…
- Yêu cầu khách hàng phải tạo điều kiện cho cán bộ TD trong quá trình kiểm tra định kỳ tình hình sử dụng vốn tại doanh nghiệp khi có sự kiểm tra đột suất.
- Cán bộ ngân hàng thường xuyên đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, cán bộ ngân hàng có thể yêu cầu khách hành dừng việc kinh doanh của mình lại.
- Cán bộ TD đặc biệt chú ý việc giám sát chặt chẽ tài sản đảm bảo. Ngoài công tác thực tế định giá tài sản đảm bảo ở khâu thẩm định, qua suốt kì hạn vay nợ, tài sản đảm bảo có thể có những biến động tăng giảm giá trị, khi đó cán bộ TD sẽ có những biện pháp xử lý kịp thời. Nếu thấy có sự sụt giảm giá trị tài sản đảm bảo, cán bộ TD nhất thiết phải báo cho khách hàng biết và yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo.
- Trong quá trình tham gia giám sát hoạt động kinh doanh của khách hàng, qua các thông tin thu thập được và qua sự tinh ý, nhậy cảm nghề nghiệp cán bộ TD có thể phát hiện ra những vấn đề đối với khoản vay. Cán bộ TD cần thường xuyên theo dõi để phát hiện ra những dấu hiệu của rủi ro TD và có hướng đề phòng.
- Một điều cần thiết là cán bộ ngân hàng cần thường xuyên theo dõi những biến đổi trong tài khoản tiền gửi của khách hàng, những thay đổi thất thường trong tài khoản tiền gửi của khách hàng có thể là dấu hiệu của rủi ro.
3.1.3. Thường xuyên đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng nghiệp vụ.
Việc tuyển dụng nhân việc nên coi trọng như việc đánh giá cán bộ. Nên chọn đúng người đúng việc, căn cứ vào khả năng thực có của họ chứ cũng không nên xem trọng bằng cấp. Nên chọn đủ người chứ không nên chọn nhiều hoặc ít quá, vì hai khả năng này đều dẫn đến sự bất cấp trong vấn đề bố trí công tác.
Việc xác định nhu cầu tuyển dụng nên xuất phát từ cơ sở, định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng. Ngoài ra cần nêu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động để lựa chọn những người có năng lực thực sự.
Thông qua phỏng vấn trực tiếp để đánh giá phần nào năng lực của từng người ...
Trên đây là một số điểm cần lưu ý trong khâu tuyển dụng. Việc tuyển dụng được làm tốt sẽ hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong lĩnh vực nghiệp vụ mà còn nâng cao được chất lượng phục vụ khách hàng, từ đó nâng cao uy tín của ngân hàng.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động TD nói riêng thì vấn đề đào tạo và đào tạo lại chuyên mon cho đội ngũ cán bộ ngân hàng luôn cần được quan tâm. Bởi nhhư chúng đã biết, khoa học ngày càng phát triển đã cho ra đời những máy móc ngày càng hiện đại hơn, như vậy chúng ta sẽ bị tụt hậu so với tiến bộ của loài người. Mà ngân hàng là một ngành cần nắm bắt những công nghệ hiện đại hơn bao giờ hết. Do vậy hàng năm ngân hàng nên tổ chức những đợt tập huấn nhằm nâng cao hơn nữa trình độ của cán bộ nhân viên. Nên thuê thêm những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực ngân hàng để tư vấn cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Tổ chức các cuộc thi tay nghề (nghiệp vụ), tài trợ du học cho các cán bộ có năng lực... Việc tổ chức đào tạo chuyên môn gồm một số giai đoạn lần lượt sau:
- Thực hiện đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của ngân hàng và mức độ đáp ứng nhu cầu hiện đại. Nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này là phát hiện những hụt hẫng về kiến thức của mỗi cán bộ khi thực hiện các chức trách cụ thể và tác động của những thiếu sót đó đến kết quả công việc.
- Tổng hợp các nhu cầu cụ thể về đào tạo cán bộ - Ưu tiên lựa chọn ứng cử viên đi đào tạo là cán bộ, chuyên gia có triển vọng và năng lực nhất, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động của ngân hàng.
- Lập kế hoạch và ngân sách đào tạo theo từng bộ phận.
- Giám sát quá trình đào tạo cán bộ và kết quả đào tạo.
- Tổng kết công tác đào tạo sau một năm, xây dựng các phương pháp động viên cá nhân với việc sử dụng một số khuyến khích về tinh thần và vật chất.
Quá trình đào tạo chuyên môn cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ TD nói riêng cần đi vào bề sâu. Nhân viên TD không chỉ phải biết rõ về các nghiệp vụ TD mà còn phải am hiểu các vấn đề xã hội cũng như một số vấn đề về các ngành kinh tế then chốt, về giá, thị trường. Có như vậy mới bảo đảm giảm tối thiểu được rủi ro khi tiến hành cho khách hàng vay vốn.
+ Bố trí công tác.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng ở Việt Nam đều gặp phải các vướng mắc trong công tác tổ chức và phân chia quyền hạn của cán bộ ngân hàng. Bộ máy tổ chức của ngân hàng quá khồng kềnh, song lại hoạt động kém hiệu quả. Cán bộ TD hiện nay vừa làm công tác thẩm định TD vừa làm công tác TD, điều này là cơ hội để cho một loạt những vấn đề tiêu cực ra, thiệt hại tới lợi ích của ngân hàng. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam vẫn tồn tại được trong môi trường rủi ro với khối lượng nhân viên rất ít những giỏi và cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Tổng dư nợ bình quân của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cung cấp cho nền kinh tế trên 25% tổng dư nợ toàn hệ thống, nhưng dư nợ TD chỉ chiếm khoảng 0,2%.
Với lý do phòng ngừa và hạn chế rủi ro TD, đề tài này xin đưa ra một cơ cấu tổ chức tương đối hoàn chính để thực hiện nghiệp vụ TD nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung của một ngân hàng hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam.
Phân cấp quản lý và chế độ báo cáo TD.
Hầu như tất cả các nội dung thẩm định đều được thực hiện bởi các cán bộ TD, nhưng bên cạnh đó vẫn có mối quan hệ theo chiều ngang, chều dọc giữa các bộ phận trong ngân hàng và giữa các chi nhánh trong ngân hàng mẹ. Những mối liên hệ này nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động TD nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung.
Mở rộng phát triển các dịch vụ hiện đại ở chi nhánh và các phòng giao dịch.
Tại các hội sở chính và các chi nhánh lớn của các ngân hàng cung cấp hầu hết tất cả các dịch vụ hiện đại và truyền thống, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Tuy nhiên ở phần lớn các phòng giao dịch hoặc chi nhánh nhỏ thường cung cấp ít dịch vụ chủ yếu là các dịch vụ truyền thống như nhận tiền gửi của khách hàng và TD khách hàng, chưa đáp ứng được các nhu cầu thanh toán nhanh, nhu cầu về mua bán chuyển đổi ngoại tệ…. Vì vậy để thu hút được đông đảo khách hàng đến với ngân hàng, điều cần thiết là phải đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng ở mọi nơi, mọi lúc. Phát triển các dịch vụ hiện đại ở tất cả các phòng giao dịch và chi nhánh một mặt thu hút thêm nhiều khách hàng mặt khác giúp ngân hàng có điều kiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để có thể cung cấp thêm cách dịch vụ mới, hiện đại ở các phòng giao dịch, các chi nhánh, ngân hàng cần xem xét trích kinh phí để trang bị thêm máy móc hiện đại, hệ thống thông tin liên lạc thông suốt, cập nhật thông tin trên toàn hệ thống.
Một số kiến nghị.
Hoàn thiện khung pháp lý.
Nhà nước cần chỉ đạo cấc cấp, các ngành quan tâm tháo gỡ khó khăn nhất là đối với các doanh nghiệp thua lỗ, có sản phẩm ứ đọng và có nợ quá hạn Ngân hàng không có khả năng trả nợ.
- Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn gây thất thoát vốn của Ngân hàng.
- Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán đúng theo pháp lệnh Hạch toán kế toán và Thống kê,đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp cho các Ngân hàng có được các thông tin tài chính giúp cho việc phân tích TD được chính xác.
- Luật pháp hoá các quy định về an toàn trong hoạt động Ngân hàng, thường xuyên kiểm tra, giám sát và bắt buộc các Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật trong hoạt động TD. Cần hết sức thận trọng trong việc xét đủ điều kiện khi thành lập các Ngân hàng cổ phần, nâng cao tính ổn định và vững chắc của Ngân hàng hiện có.
- Cần Ban hành các quy định cụ thể về tài sản thể chấp: Ban hành các quy định cụ thể về các giấy tờ cần thiết và bắt buộc đối với từng loại tài sản được dùng làm tài sản thế chấp. Các tài sản thế chấp phải được cơ quan có thẩm quyền đảm bảo là không được thế chấp, cầm cố ở nơi khác và nếu đảm bảo sai về tài sản đảm bảo thì nhà nước sẽ xử phạt thật nặng cơ quan có thẩm quyền, quy trách nhiệm cho tổ chức và cá nhân có kết quả đảm bảo sai. Việc thực hiện tốt các quy định về giấy tờ pháp lý của khoản vay và trách nhiệm đảm bảo cho khoản vay giúp ngân hàng loại trừ bớt được tình trạng một tài sản được đem thế chấp ở nhiều nơi mà ở nơi nào cũng có đảm bảo của cấp có thẩm quyền, ở nơi nào giấy tờ cũng hợp lệ.
- Nhà nước cần ban hành cụ thể, rõ ràng về luật thuế đánh vào tài sản đảm bảo khi ngân hàng quyết định bán, thanh lý tài sản đản bảo khi khách hàng vay không có khả năng trả được nợ. Thực tế cho thấy các năm qua ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc bán, thanh lý tài sản đảm bảo nhằm tận thu món nợ của khách hàng, ngoài các khó khăn về thủ tục pháp lý để được bán tài sản đảm bảo rất lằng nhằng, ngân hàng gặp phải tình trạng là tài sản đảm bảo bị đánh thuế trùng lặp. Các tài sản đản bảo là bất động sản thường bị đánh thuế trùng, bị đánh thuế hai lần. Đánh thuế hai lần tức là khi ngân hàng bán bất động sản ra ngoài thị trường, ngân hàng chịu một loại thuế là thuế buôn bán bất động sản, số tiền ngân hàng nhận được bị giảm so giá trị đảm bảo ngân hàng dự tính. Số tiền thu được từ bán tài sản đảm bảo này được cho vào doanh thu của ngân hàng, đến kì tính thuế, khoản doanh thu này lại bị đánh thuế lần nữa theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy trong bản thân luật thuế về các loại thuế khác nhau đã có sự không thống nhất, trồng tréo lên nhau dẫn đến tình trạng một tài sản bị đánh thuế nhiều lần làm cho giá trị thực ngân hàng thu được nhỏ hơn rât nhiều lần giá trị khoản nợ khách hàng, do đó tổn thất của ngân hàng là rất lớn.
Trước thực tế đó, nhà nước cần sớm có các quy định rõ ràng về luật thuế nói chung và luật thuế đánh vào tài sản thể chấp nói riêng để giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng và các thành phần kinh tế khác. Đồng thời với việc ban hành các luật thuế mới cần ban hành ngay các quy định hướng dẫn thi hành luật và có các quy đinh xử phạt thật nghiêm đối với các thành phần làm trái với các quy định pháp luật nói trên.
Thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Chính phủ cần tăng cường quản lý các DNNN cũng như các DNNQD. Đẩy mạnh công tác cổ phần hoá. Hiện nay tình hình nợ đọng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản rất lớn có ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và doanh nghiệp trong hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Chính phủ cần quy định rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư, người quyết định đầu tư, phê duyệt dự án. Đối với nợ đọng Chính phủ nên có biện pháp xử lý dứt điểm, đối với các đơn vị vay vốn ngân hàng để thi công Chính phủ nên có biện pháp cho dãn thời gian vay và cấp bù lãi suất.
Tình hình nợ đọng trong xây dựng cơ bản ở một số tỉnh thành phố cũng rất cao, do đó UBND tỉnh, thành phố có biện pháp bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành để các doanh nghiệp xây dựng ổn định sản xuất.
Việc Thủ Tướng Chính phủ ban hành quyết định số 149/2001/QĐ-TTg phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Theo đó thủ Tướng Chính Phủ cho phép các NHTM xử lý nợ tồn đọng còn dư nợ đến thời điểm 31/12/2000 được đánh giá là một bước ngoặt lớn về chính sách lý nợ tồn đọng và là cơ sở pháp lý quan trọng để các NHTM đẩy nhanh quá trình xử lý nợ tồn đọng. Xong theo ý kiến của các chuyên gia ngân hàng, thì quyết định 149 mới chỉ là điều kiện cần chưa phải là điều kiện đủ để các NHTM xử lý nợ tồn đọng, thì các Bộ,cơ quan ngang Bộ và các Ngành có liên quan khác cần sớm ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền của mình để hướng dẫn cụ thể nội dung quyết định 149.
Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Đây là biện pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp nhà nước hòa nhập tốt vào kinh tế thị trường, phát triển hoạt động kinh doanh, thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ triền miên như trước đây. Trong mấy năm gần đây, chính phủ đang tiến hành cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước và thực tế cho thấy các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã hoạt động rất tốt, nhiều doanh nghiệp trước đây kinh doanh không hiệu quả, đứng bên bờ phá sản nhưng sau khi cổ phần hóa, kinh doanh đã có lãi, và hoạt động hiệu quả hơn. Ngân hàng với mục tiêu là đa dạng hóa đối tượng khách hàng, việc chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần hóa giúp cho Ngân hàng có thêm nguồn khách hàng mới với chất lượng tốt, không những giúp ngân hàng tăng trưởng TD mà còn giảm bớt các khoản nợ quá hạn, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro TD.
3.2.3. Ban hành quy định kiểm toán bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp.
Ban hành quy định kiểm toán bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam giúp ngân hàng có được thông tin chính xác hơn về tình hình hoạt động của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý tốt hơn khách hàng của mình. Quy định kiểm toán ở Việt Nam chưa mang tính bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp, quy định kiểm toán được áp dụng bắt buộc với các doanh nghiệp lớn còn nhà nước chưa có quy định cụ thể bắt buộc kiểm toán với doanh nghiệp nhỏ nên vẫn có tình trạng doanh nghiệp cung cấp báo cáo tài chính sai thực tế đã được chỉnh sửa cho ngân hàng, báo cáo tài chính mang tính chất hình thức với các con số tổng kết đẹp nhằm đánh lừa ngân hàng để vay được tiền. Thực tế cho thấy rất nhiều khách hàng ở các ngân hàng thường xuyên cung cấp báo cáo kinh doanh tốt cho khách hàng và thực hiện nhiều món vay với ngân hàng khi đó tình hình kinh doanh của khách hàng rất xấu, nguy cơ thua lỗ phá sản rất lớn… mà ngân hàng không biết. Chỉ đến khi khách hàng không trả được nợ ngân hàng tìm hiểu mới biết là toàn bộ các thông tin khách hàng cung cấp đều là sai… Để ra hiện tượng đó là do chưa có quy định cụ thể bắt buộc kiểm toán với tất cả các doanh nghiệp.
Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam việc thực hiện ngay quy định kiểm toán bắt buộc với tất cả các doanh nghiệp khó có thể thực hiện tốt được do hiện nay nguồn nhân lực cho cơ quan kiểm toán còn hiếm (số nhân viên kiểm toán có đủ trình độ còn hạn chế), nên để thực hiện tốt việc áp dụng kiểm toán với tất cả các doanh nghiệp nhà nước cần có nguồn tài trợ thích hợp để đào tạo cán bộ kiểm toán, nâng cao năng lực chuyên môn và tăng về số lượng cán bộ kiểm toán. Trong thời gian tới nhà nước cần chủ trọng hơn nữa công tác đào tạo cán bộ kiểm toán, có nguồn đầu tư hợp lý để tăng só lượng cán bộ kiểm toán, đáp ứng phù hợp với số lượng các doanh nghiệp. Có như vậy công tác kiểm toán mới thực hiện được đồng bộ, toàn diện không bỏ xót. Công tác kiểm toán thực hiện tốt ở tất cả các doanh nghiệp thì ngân hàng mới có thể có thông tin chính xác về khách hàng, giúp quá trình phân tích, sàng lọc khách hàng chính xác, giám sát khách hàng trong quá trình TD tốt…
3.2.4. Hoàn thiện trung tâm lưu trữ thông tin.
Hiện nay hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang khai thác thông tin qua trung tâm lưu trữ thông tin (CIC), trung tâm lưu trữ thông tin có chức năng cung cấp các thông tin liên quan đến tình hình phát triển chung của nền kinh tế, tình hình hoạt động của từng ngành cụ thể, thông tin về các các cá nhân, tổ chức là các khách hàng của các ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên các thông tin do trung tâm lưu trữ thông tin CIC cung cấp cho các ngân hàng còn rất sơ sài, hầu hết các thông tin chỉ mang tính chất giới thiệu sơ qua tóm lược, không đầy đủ. Các thông tin thu được hầu như không không có thông tin tài chính không cung cấp nhiều thông tin giúp ngân hàng có thể dự đoán được mức độ tin tưởng khách hàng. Để phục vụ tốt hơn nhu cầu khai thác thông tin của các ngân hàng, trung tâm khai thác thông tin CIC cần
Tăng khối lượng thông tin và chất lượng thông tin: Khi tìm hiểu về một cá nhân, tổ chức cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của họ CIC cần khai thác tối đa các thông tin có thể được, khi cung cấp thông tin đó cho người sử dụng (ngân hàng) CIC cần sàng lọc thông tin đảm bảo mức độ chính xác của thông tin giúp người sử dụng thông tin không quyết định sai lầm do nguồn thông tin sai. Yếu tố thông tin đầy đủ và chính xác giúp ngân hàng rất nhiều trong công tác thẩm định (phục vụ cho việc ra quyết định TD) và giám sát khoản vay của ngân hàng. Việc tăng khối lượng thông tin và chất lượng thông tin do CIC cung cấp giúp ngân hàng dự đoán tốt hơn rủi ro TD.
Tăng tốc độ cung cấp thông tin: Để tăng tốc độ cung cấp thông tin, làm sao cho thông tin đến được với người khai thác một cách nhanh nhất CIC cần có mạng lưới máy tính hiện đại tốc độ truy cập lớn, phục vụ nhiều đối tượng cùng một lúc. KẾT LUẬN
Qua thực tế nghiên cứu rủi ro TD của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng đầu tư & Phát triển Việt Nam, ta thấy rủi ro TD là vấn đề cấp thiết đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung phải có sự quan tâm thích đáng để hạn chế rủi ro TD và tổn thất của rủi ro TD. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát Triển Việt Nam” , chuyên đề đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về ngân hàng thương mại, về hoạt động TD và về rủi ro TD trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng rủi ro TD của chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát Triển Việt Nam, nêu được các nguyên nhân gây ra rủi ro TD tại chi nhánh, nhận xét các biện pháp chi nhánh Thành Đô đã áp dụng nhằm hạn chế rủi ro TD
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chể rủi ro TD của chi nhánh Thành Đô và các ngân hàng thương mại khác, góp phần hạn chế rủi ro, thúc đẩy sự phát triển an toàn và bền vững của các ngân hàng.
Qua chuyên đề tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc hạn chế rủi ro TD ở các ngân hàng, giúp các ngân hàng hoạt động tốt hơn trong điều kiện kinh tế hiện nay và tương lai.
Tôi xin chân thành cảm ơn ThS. Nguyễn Minh Huệ đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành chuyên đề này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị cán bộ chi nhánh Thành Đô – Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập tại ngân hàng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Feredric S. Mysnkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật,2001.
TS. Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng Thương mại, quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê, 2002.
TS. Phan Thị Thu Hà, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2004.
GS. TS Nguyễn Hữu Tài, Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê, 2002.
Các tạp chí ngân hàng Thương mại 2007, 2008
Website www.sbv.gov.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7584.doc