Quản trị nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)

Tài liệu Quản trị nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB): ... Ebook Quản trị nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản trị nguồn vốn kinh doanh và thực trạng công tác quản trị nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trên con đường đổi mới, CNH- HĐH đất nước, mục tiêu đặt ra là nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Để thực hiện mục tiêu đó thì có thể nói Vốn chính là nguồn lực đầu tiên và cơ bản để thực hiện mục tiêu đó, và NHTM sẽ là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và cho sự phát triển nền Kinh tế quốc dân nói chung. Hoà mình với công việc đổi mới chung của đất nước, cùng góp phần vào những thành tựu đã đạt được trong thập niên qua, ngành Ngân hàng đã phải vượt qua không ít khó khăn để phấn đấu cho mục tiêu phát triển đất nước. Vì mục tiêu này, không ai khác mà chính hệ thống Ngân hàng thương mại phải trở thành bàn đạp vững chắc cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường đang trong tiến trình mở cửa, hội nhập với thế giới, Ngành ngân hàng đang phải đối mặt vối vô vàn những khó khăn thách thức cũng như những cơ hội mới, mà để tồn tại và phát triển, các Ngân hàng thương mại không ngừng phải nỗ lực hết mình để khắc phục những khó khăn, phát huy những điểm mạnh, tận dụng những cơ hội. Và một trong những vấn đề được quan tâm hiện nay của các ngân hàng là hiệu quả của công tác Quản trị Nguồn vốn. Là một bộ phận cấu thành trong guồng máy của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển nền kinh tế Việt Nam. Song cũng không tránh khỏi những khó khăn chung. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị Nguồn vốn để củng cố sự tồn tại và phát triển ngân hàng, đã đang và sẽ là vấn đề được quan tâm bởi Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung. Chính vì vậy trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, em đã mạnh dạn đi sâu tìm hiểu và hoàn thành đề tài: "Quản trị Nguồn vốn kinh doanh và Thực trạng công tác quản trị Nguồn vốn kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội". Với cấu trúc như sau: Chương 1: Một số lý luận cơ bản về Quản trị Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng công tác Quản trị nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác Quản trị nguồn vốn vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Do thời gian có hạn, vấn đề lại rất phức tạp và đa dạng, hơn nữa khả năng chuyên môn và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, nên những gì em trình bày trong chuyên đề khó tránh khỏi sai sót, rất mong có sự bổ sung, góp ý hướng dẫn của các thầy, cô và cơ sở nơi em thực tập. CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1 Các khái niệm và định nghĩa 1.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong các ngành công nghiệp ra đời sớm nhất. Ở Mỹ Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập năm 1782, trước khi Hiến pháp liên bang được thông qua và nhiều Ngân hàng thương mại được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động. Ở mỗi mỗi một nước, luật Ngân hàng thương mại có quy định khác nhau, người ta thường dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của Ngân hàng trên thị trường tài chính để đưa ra cách hiểu về Ngân hàng thương mại. Ở Pháp, theo luật ngân hàng hàng năm 1941 thì "Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác, các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp vụ chứng khoán tín dụng hay dịch vụ tài chính". Hay như ở Ấn Độ, luật ngân hàng năm 1950 và được bổ sung năm 1959 đã nêu: "Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ, đầu tư". Và theo luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: "Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hàng nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...". Để hiểu về Ngân hàng thương mại thì có rất nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng ta thấy rằng các Ngân hàng thương mại không phải là các trung gian tài chính duy nhất và để hiểu được các Ngân hàng thương mại là như thế nào và để phân biệt các Ngân hàng thương mại với các trung gian tài chính khác như: Các Công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư... gọi chung là các tổ chức phi ngân hàng thì cần phải dựa trên tính chất cơ bản của Ngân hàng thương mại đó là: Ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền ký thác, tiền ký gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu vá các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng. Ở Việt Nam, theo Điều 20 Luật tổ chức tín dụng (TCTD) được Quốc Hội thông qua tháng 12 năm 1997 có nêu: "Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán". Luật chỉ nêu ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tổ chức và mục tiêu hoạt động của các loại hình ngân hàng, hiện nay hệ thống Ngân hàng Việt Nam bao gồm năm loại ngân hàng: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác, Ngân hàng thương mại ra đời với tính chất là nhận tiền gửi, sử dụng vào nhiệm vụ cho vay, chứng khoán và các dịch vụ khác của ngân hàng, ngày càng thể hiện rõ vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế. Với chức năng của mình, Ngân hàng thương mại giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiện qua các nội dung sau: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều khó khăn hơn lợi íchả là cần có người đứng ra tập trung tiền nhàn rỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội. Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường. Bước sang cơ chế thị trường, cạnh tranh đòi hỏi các nhà máy, xí nghiệp phải đầu tư các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện bằng vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn dĩ đã rất ít ỏi, và vốn tín dụng ngân hàng là giải pháp cho vấn đề này. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thường trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đó là một ngân quỹ để dành cho việc đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những cán bộ có năng lực và những công nhân lành nghề. Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh (NHTM). Các NHTM được Nhà nước sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia. Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nèn tài chính quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. Chức năng của Ngân hàng thương mại : Chức năng làm trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua sơ đồ luân chuyển vốn sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn Cá nhân và doanh nghiệp Gửi tiền Uỷ thác đầu tư Ngân hàng thương mại Cho vay Đầu tư Cá nhân và doanh nghiệp Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, nó quyết định sự duy trì và phát triển của Ngân hàng đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng sau: Chức năng trung gian thanh toán: Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng. Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống Ngân hàng thương mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với Ngân hàng thương mại chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại. Chức năng tạo tiền: Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng có thể đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền. 1.1.2 Nguồn vốn - Các thành phần trong Nguồn vốn của một Ngân hàng thương mại Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nguồn vốn kinh doanh của NHTM bao gồm: - Vốn tự có - Vốn huy động - Vốn đi vay - Vốn khác 1.1.2.1. Vốn tự có: Chúng ta có thể thấy rằng không chỉ riêng đối với các NHTM mà ở tất cả các tổ chức kinh tế hoạt động trong nền Kinh tế, vốn tự có là yếu tố không thể thiếu được khi khởi đầu thành lập, nó được như tài sản đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng, nó duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn của các chủ sở hữu hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Ở những nước khác nhau, định nghĩa về vốn tự có có thể khác nhau nhưng nét chung nhất vốn tự có bao gồm các thành phần sau: 1 - Vốn góp của chủ sở hữu để thành lập hoặc mở rộng ngân hàng. 2 - Các quỹ dự trữ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng theo cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn như : Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính.... 3 - Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh chưa sử dụng 4 - Các khoản nợ được coi như vốn. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, chức năng bảo vệ và điều chỉnh đối với hoạt động ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, thì vốn tự có của ngân hàng chiếm dưới 10%, như vậy vốn ký thác của ngân hàng khoảng trên 90%. Các Ngân hàng Trung Ương quy định mức vốn tự có của ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này muốn nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng vỡ nợ, mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe doạ bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ quan quản lý xác định, điều chỉnh hoạt động cho ngân hàng ví dụ như các ngân hàng chỉ có thể cho một khách hàng lớn nhất vay không quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Nếu như ngân hàng cho vay quá số đó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động an toàn của ngân hàng. Ở nước ta, Vốn tự có của một NHTM bao gồm các bộ phận sau: Vốn điều lệ (hay vốn pháp định): là vốn mà ngân hàng thương mại phải có để đi vào hoạt động được ghi trong văn bản pháp quy. Tùy theo hình thức sở hữu mà nguồn vốn này được hình thành từ những nguồn khác nhau: Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh, nguồn vốn này do Nhà nước cấp. Đối với ngân hàng cổ phần, nguồn vốn tự có được hình thành do phát hành cổ phiếu. Chẳng hạn, năm 1990, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh như Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là: 2.200 tỷ đồng Việt Nam, các Ngân hàng Công thương, Ngoại thương là 1.100 tỷ đồng Việt Nam, đối với ngân hàng cổ phần đô thị ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là 70 tỷ, tại các tỉnh , thành phố khác là 50 tỷ. Vốn pháp định cho ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn là 5 tỷ VNĐ. Các quỹ dự trữ được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có : quỹ dự trữ để bổ sung vốn pháp định và quỹ dự trữ để dự phòng bù đắp rủi ro. Vốn coi như tự có: gồm phần lợi nhuận chưa chia, các quỹ khác chưa sử dụng có thể xem là phần vốn coi như tự có của ngân hàng thương mại, vì đó là những khoản tiền mà ngân hàng phải sử dụng vào mục đích nhất định nhưng chưa sử dụng. 1.1.2.2 Vốn huy động: Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ ký thác, các nghiệp vụ khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyển sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn (nếu là tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn (nếu là tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức: Nhận tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm); phát hành các công cụ nợ (tín phiếu, trái phiếu); và nguồn vốn đi vay. Ngoài ra vốn của ngân hàng còn được hình thành thông qua việc làm uỷ thác, đại lý cho các tổ chức trong và ngoài nước hoặc cung cấp các phương tiện thanh toán như thẻ rút tiền tự động từ máy ATM... Nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng từ 70% - 80% và nó có tính biến động. Nhất là đối với loại tiền gửi không kỳ hạn và vốn ngắn hạn, hơn nữa vốn huy động chịu tác động lớn của thị trường và môi trường kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Vì vậy Ngân hàng thương mại cần phải đi sâu tìm hiểu, phân tích nguồn hình thành vốn này, dự đoán trước tình hình cung cầu vốn để có đối sách phù hợp. Vai trò đầu tiên của vốn huy động đó là nó quyết định đến quy mô của hoạt động và quy mô tín dụng của ngân hàng. Thông thường nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được ở thị trường trong nước, ngoài nước thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ yếu trong cộng đồng. Mặt khác do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về chính sách, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Thứ hai, vốn huy động quyết định đến khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của các ngân hàng trên thị trường trong nền kinh tế. Để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động, đòi hỏi ngân hàng phải có uy tín trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó trước hết phải được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn, đồng thời với nó tạo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng lớn, đồng thời với nó tạo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với quy mô lớn, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, đảm bảo uy tín, nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường. 1.1.2.3 Vốn đi vay: Vay của Ngân hàng Trung Ương: Các NHTM được quyền vay tiền tại tại NHTW trong những tình huống thiếu hụt dự trữ, hoặc quá kẹt tiền mặt thông qua cửa ngõ chiết khấu. NHTW sẽ cấp Tín dụng cho NHTM qua hình thức chủ yếu sau: Tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá. Nó được thực hiện theo ba cách: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Cho vay thế chấp hay ứng trước. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền trung ương, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu: Thực chất các chứng chỉ tiền gửi đó giống như tín phiếu do các Ngân hàng trung gian ở Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành trong năm 1995. Nó là loại phiếu Nợ, phiếu vay tiền do Ngân hàng phát ra giống như Séc chẳng hạn. Ở Việt Nam hiện nay đã và đang huy động vốn qua các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn. Các khoản vay trên thị trường chủ yếu thông qua hình thức phát hành trái phiếu. Đây là một công cụ vay Nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức ghi nhận giấy Nợ do các tổ chức Tín dụng ( bao gồm các NHTM ) phát hành. Vay từ các tổ chức Tín dụng khác: Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên Ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng thực ra nó là hình thức tương trợ giữa các Ngân hàng để có được sự thoả thuận và sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Vay nước ngoài: Hiện nay các NHTM ở Việt Nam được phép vay vốn của các tổ chức nước ngoài qua các hình thức: + Vay bằng tiền (vay tài chính). + Phát hành trái phiếu ra nước ngoài. + Thuê tổ chức nước ngoài. + Nhập khẩu hàng hoá dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư Tín dụng. + Các loại hình vay nước ngoài khác. Để huy động được nguồn vốn vay nước ngoài, các NHTM cần có những giải pháp sử dụng nguồn vốn Tín dụng có hiệu quả và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai các chương trình quốc gia, tham gia vào các kế hoạch cụ thể do Thủ Tướng Chính phủ ra quyết định để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ phía Nhà nước. 1.1.2.4 Vốn khác: Đây là phần vốn Ngân hàng được ủy thác đầu tư theo dự án hay mục đích nào đó, Ngân hàng chỉ là người đại diện thực hiện theo mục đích ủy thác của Nguồn vốn và thu phí theo hợp đồng, không được chủ động sử dụng nó theo mục đích kinh doanh riêng của mình. 1.1.3 Tầm quan trọng của Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, khi mà quy mô hoạt động của nó càng mở rộng, các NHTM kinh doanh trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán thì Ngân hàng nào nhiều vốn thì Ngân hàng đó sẽ có nhiều thế mạnh hơn. Do đó Ngân hàng cần phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Như vậy Vốn chính là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, là nhân tố quyết định quy mô hoạt động Tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Bên cạnh đó vốn còn quyết định năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của NHTM. 1.2 Các vấn đề về Quản trị Nguồn vốn Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian, kinh doanh tiền tệ dựa vào các vào nguồn vốn vay mượn. Để có nguồn vốn kinh doanh, các ngân hàng thương mại bán các quyền sử dụng vốn tiền gửi cho các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Ngoài ra nếu xét ở góc độ chi phí, nghiệp vụ vay mượn vốn kinh doanh làm phát sinh, chi phí lớn nhất trong số các khoản mục chi phí hoạt động của ngân hàng và do đó cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thu nhập ròng của ngân hàng. Chính vì vậy, quản trị nguồn vốn nhằm đảm bảo ngân hàng luôn có đủ nguồn vốn duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh ở mức độ chi phí có thể đem lại lợi nhuận tối ưu cho ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ quá trình quản trị tài chính ngân hàng. Việc này đòi hỏi cân nhắc các rủi ro phụ cũng như khoản chênh lệch giữa chi phí vay vốn(chủ yếu là lãi suất vay của các ngân hàng khác) và mức lợi nhuận có thể thu được khi đầu tư vào tín dụng chứng khoán. Mục tiêu chính của phương thức quản lý nàylà bảo đảm thanh khoản của ngân hàng, đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu tín dụng hợp lệ và duy trì lãi suất cơ bản ròng và doanh lợi. Ngoài việc coi các khoản tiền gửi có thể phát séc là nguồn vốn tín dụng hàng đầu, các ngân hàng còn tìm cách thu hút thêm nguồn vốn đi vay mới bằng cách phát hành các loại phiếu ngân hàng, phát hành tài sản nợ....để tăng thêm vốn vay. Quản trị nguồn vốn bao gồm bốn vấn đề chính sau: Huy động vốn- Vấn đề then chốt. Ước tính chi phí cho nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi. Rủi ro của các loại nguồn vốn - Vấn đề lựa chọn giữa chi phí và rủi ro. Rủi ro thanh khoản- Vấn đề quan trọng hàng đầu. Giải pháp đối với Vốn tự có. 1.2.1 Huy động vốn- Vấn đề then chốt. 1.2.1.1 Huy động từ các tài khoản tiền gửi Tiền gửi không kỳ hạn Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách hàng không có thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức lãi suất thấp hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì, tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại: - Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi... Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng thì ngân hàng coi đây là một khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn kinh doanh của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân hàng do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản của khách hàng. - Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an toàn vì khách hàng không xác định được thời gian nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ không có nhu cầu sử dụng tiền gửi thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Nhìn chung, trước thập niên 70 của thế kỷ XX, tiền gửi không kỳ hạn của Nhân dân là bộ phận lớn nhất trong tài sản Nợ của các NHTM ở các nước. Đến những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, mặc dầu với việc cải tiến hệ thống quản lý bằng vi tính, các Ngân hàng dễ dàng vào bất cứ lúc nào chuyển các khoản gửi từ tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản không kỳ hạn cho Nhân dân sử dụng Séc một cách tự động nhưng các khoản gửi không kỳ hạn vẫn chiếm một phần lớn trong tài sản của các Ngân hàng. Hiện nay ở Việt Nam, các khoản tiền gửi loại này huy động chủ yếu từ các tổ chức Kinh tế và các cá nhân, tuy nhiên số lượng vẫn còn thấp, bởi lẽ tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, lãi suất trả không đáng kể (khoảng 0,1% /tháng), đồng thời, ngân hàng cũng thu phí thanh toán khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn định vì ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng để thanh toán cho khách hàng đúng thời hạn. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng.... mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Chính vì là loại tiền gửi mà ngân hàng có quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định nên loại tiền gửi này được trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Lãi suất mà các NHTM trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì với khoản tiền gửi ổn định này, ngân hàng có thể chủ động sử dụng nó trong thời gian nhất định để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn, ít rủi ro hơn, và do đó Ngân hàng cũng sẽ trả lãi cao hơn để kích thích khách hàng đến gửi. Tuy nhiên để tạo tính lỏng cho loại tiền gửi có kì hạn này - nhằm hấp dẫn khách hàng hơn- ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước hạn với những khoản phạt đáng kể (chẳng hạn chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn). Ở nhiều nước phát triển trên thế giới, tiền gửi có kỳ hạn còn được biến tướng dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi (CD), chủ yếu được phát hành cho các công ty và các ngân hàng khác mua.CD loại lớn là loại có thể đem bán lại ở các thị trường thứ cấp trước khi đến hạn. Vì lý do đó, loại CD này được các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ và các tổ choc tài chính khác nắm giữ như là tài sản thay thế cho các tín phiếu Kho Bạc và những trái khoán ngắn hạn khác. Việc xuất hiện CD là một cuộc cách mạng trong hoạt ngân hàng. Các chủ ngân hàng giờ đây có trong tay công cụ huy động vốn chủ động theo nhu cầu sử dụng vốn mà không phụ thuộc hoàn toàn vào nhu cầu gửi của khách hàng. Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là tiền đề để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Hình thức phổ biến và cổ điển nhất là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một cuốn sổ dùng để ghi tiền gửi vào và tiền rút ra. Đồng thời quyển sổ này cũng xác nhận số sổ tiền đã gửi. Loại hình này vẫn còn tồn tại cho đến nay và trong những năm 90 nó có thể chuyển sang tài khoản xéc dễ dàng. Do vậy nó có khả năng thanh toán rất cao. Ngoài ra ở nhiều nước còn có các loại tiền gửi tiết kiệm phổ biến chẳng hạn như chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm(savings certificates), trái phiếu tiết kiệm(saving bands). Ở Việt Nam, các hình thức tiền gửi tiết kiệm phổ biến là: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất định. Tuy vậy khách hàng có nhu cầu rút tiền trước hạn cũng có thể được đáp ứng với điều kiện được hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn) hoặc thậm chí không được hưởng lãi. Các ngân hàng có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thông thường (người gửi chỉ được hưởng lãi trong từng thời kỳ) và có thể áp dụng tiền gửi tiết kiệm có thưởng kèm theo lãi để khuyến khích nhân dân gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Nhứng người tham gia loại hình tiết kiệm này ngoài việc hưởng lãi còn ._.được ngân hàng cho vay nhằm mục đích bổ sung thêm vốn cho xây dựng nhà ở. Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao dịch. Chúng có đặc tính chung là được hưởng lãi và chủ những tài khoản này không được phát hành séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tiền gửi tài khoản séc bởi vì những người gửi tiền đó không được hưởng nhiều dịch vụ như đối với tài khoản séc. Vốn tiền gửi là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Chính vì vậy người ta gọi ngân hàng thương mại là ngân hàng ký thác hay ngân hàng tiền gửi. 1.2.1.2 Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá Giấy tờ có giá mà các Ngân hàng thương mại dùng để huy động vốn thực chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân hàng vay tiền xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một mức lãi suất và ngày hoàn trả nhất định. Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn sử dụng có tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt có tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế. Ngân hàng thường sử dụng các loại giấy tờ có giá dưới các hình thức: Phát hành trái phiếu: Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, các Ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung Ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng. Phát hành chứng chỉ tiền gửi. Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ. Phát hành kỳ phiếu. Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử dụng cho mục đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng. Giấy tờ có giá khác. Điển hình là việc phát hành EURO DOLLAR. Đây là hình thức phát hành phiếu nợ để thu hút vốn ở nước ngoài. Nó có đặc điểm là chỉ dùng huy động vốn bằng đô la và khi trả lãi và vốn gốc cũng bằng đô la. Đối với loại này ngân hàng sử dụng để thu hút vốn huy động ngắn hạn (3 tháng). Ở các trung tâm tài chính, loại phiếu nợ này được chấp nhận như là đô la. Quyền phát hành ở một số nước trong đó có Việt Nam được giới hạn ở một số ngân hàng đặc biệt, như Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng xuất nhập khẩu. Các ngân hàng trên được phép phát hành phiếu nợ này ở trong nước và nước ngoài, còn với các ngân hàng khác chỉ được phát hành ở nước ngoài. Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy khi phát hành các Ngân hàng thương mại phải căn cứ vào đầu ra để quyết định đến khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động phù hợp. 1.2.1.3 Huy động vốn trên thị trường Liên ngân hàng và Vay Ngân hàng Trung Ương Đây là nguồn vốn mà Ngân hàng thương mại có được nhờ thông qua quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Trung Ương hoặc các Ngân hàng thương mại với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Vốn đi vay là nguồn vốn mà ngân hàng chịu chi phí cao hơn vốn huy động vì vậy chỉ trong trường hợp ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn nào đó thì ngân hàng mới tìm đến các Ngân hàng thương mại khác để thoả mãn nhu cầu vốn khả dụng. Nếu Ngân hàng thương mại không thoả mãn được nhu cầu đó từ phía các Ngân hàng thương mại khác thì giải quyết tiếp theo là đi vay của Ngân hàng Trung Ương. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, các Ngân hàng thương mại có thể vay Ngân hàng Trung Ương các loại vốn: Vốn vay ngắn hạn bổ sung vốn ngắn hạn còn thiếu của Ngân hàng thương mại hoặc vốn vay để thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong thanh toán, hoặc các Ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến Ngân hàng Trung Ương xin tái chiết khấu (tái cấp vốn). Ngân hàng Trung Ương thông qua nhu cầu vay vốn của Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Trung Ương nhằm mục đích phát hành thêm tiền Trung Ương theo kế hoạch, bổ sung lượng vốn khả dụng cho Ngân hàng thương mại một cách thường xuyên và là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các Ngân hàng thương mại khi cần thiết, nếu sự đổ vỡ của các Ngân hàng thương mại có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng. 1.2.2 Ước tính chi phí cho nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi Để có thể gia tăng nguồn vốn bằng các dịch vụ tiền gửi và phi tiền gửi, ngân hàng cần phải trả lời cho được 2 vấn đề chủ yếu sau đây: Chi phí để có thể được có được nguồn vốn là bao nhiêu? Mối quan hệ phụ thuộc và rủi ro của mỗi nguồn vốn. Chúng ta sẽ lần lượt tìm lời giải đáp cho 2 vấn đề trên. Mỗi ngân hàng thương mại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay cần phải biết mỗi khoản mục chi phí bao gồm những gì. Điều này đặc biệt chính xác đối với huy động vốn bởi vì đối với hầu hết các ngân hàng và tổ chức tín dụng chi phí trả lãi cho nguồn vốn là cao nhất trên cả chi phí nhân viên, chi phí quản lý gián tiếp và các khoản chi phí nghiệp vụ khác. Có ba phương pháp ước tính chi phí thường được sử dụng như sau: 1.2.2.1 Phương pháp chi phí quá khứ bình quân Phương pháp chi phí quá khứ bình quân là phương pháp phổ biến nhất để tính chi phí huy động vốn của ngân hàng thương mại. Phương pháp chú trọng vào cơ cấu hỗn hợp các nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động trong quá khứ và xem cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi mỗi ngân hàng phải trả cho mỗi nguồn vốn đi huy động.Thương số của lãi suất phải trả và tổng mức vốn đi huy động trong quá khứ tạo thành chi phí bình quân gia quyền. Công thức tính chi phí lãi suất bình quân như sau: Chi phí phải trả bình quân = Tổng chi phí trả lãi Tổng vốn huy động Phương pháp nói trên có ích cho ngân hàng trong việc theo dõi động thái của chi phí huy động vốn theo thời gian và mức chi phí lãi suất bình quân cung cấp một chuẩn mực tương đối cho việc ra quyết định nên cho vay và đầu tư như thế nào. Tuy nhiên, việc tính toán như trên là thật sự chưa hoàn hảo bởi vì nó chỉ mới dừng lại ở mức độ xem xét giá vốn của nguồn vốn, nghĩa là vẫn còn có những chi phí khác cần phải tính thêm để thật sự có được nguồn vốn. Các chi phí cấu thành này bao gồm: Chi phí phi lãi suất: Tiền lương và chi phí quản lý gián tiếp Mức dự trữ bắt buộc theo quy định Phí bảo hiểm tiền gửi Như vậy tỷ suất sinh lời tối thiểu để bù đắp chi phí có thể tính như sau: Tỉ lệ thu nhập hòa vốn đối với tài sản sinh lời = Tổng chi phí trả lãi+ chi phí phi lãi Tài sản sinh lời Chi phí vốn chủ sở hữu: Thực chất đây là chi phí cơ hội thể hiện lợi nhuận kỳ vọng của những người góp vốn để hình thành nên ngân hàng. Nếu ngân hàng không tạo ra được tỷ suất sinh lợi thỏa đáng trên vốn chủ sở hữu thì các cổ đông đóng góp vốn sẽ bắt đầu rút vốn ra và tìm nơi đầu tư hấp dẫn hơn. Để tính chi phí vốn chủ sở hữu, một phương pháp hợp lý là ước tính mức tỷ suất sinh lợi cần thiết mà các cổ đông cho rằng cần thiết để duy trì vốn góp hiện tại. Như vậy, tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết phát sinh từ toàn bộ các nguồn vốn huy động và vốn chủ sở hữu của ngân hàng sẽ là: Tỷ suất sinh lời tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn CSH = Tỷ lệ thu nhập hòa vốn + Tỷ lệ chi phí trước thuế cho vốn CSH = Tỷ lệ thu nhập hòa vốn + ROE x Vốn tự có (1-thuế suất) Tài sản sinh lời Đây là tỷ lệ thu nhập tối thiểu mà ngân hàng phải cố gắng đạt được theo yêu cầu của cổ đông. 1.2.2.2 Phương pháp chi phí vốn biên tế Phương pháp bình quân tuy có ưu điểm là đơn giản nhưng chỉ nhìn về quá khứ để xem xét chi phí và tỷ suất sinh lợi tối thiểu đã thực hiện của ngân hàng. Trong khi đó, phần lớn các quyết định kinh doanh của ngân hàng là cho hiện tại và tương lai. Vậy để được số vốn cho yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ phải tốn phí bao nhiêu. Nếu lãi suất có xu hướng giảm trong tương lai thi chi phí biên của vốn huy động sẽ có thể thấp hơn nhiều so với các nguồn vốn còn lại của ngân hàng. Một số khoản cho vay và đầu tư không có lãi khi so sánh với chi phí trung bình, sẽ có thể có mức lợi đáng kể khi so với mức chi phí biên thấp hơn vào thời điểm hiện tại để đầu tư vào những khoản vay đầu tư mới. 1.2.2.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn Phương pháp định giá nguồn vốn này lại hướng tới tương lai: tỷ lệ thu nhập ngân hàng phải tạo ra từ các khoản tín dụng và đầu tư chứng khoán tương lai tối thiểu phải là bao nhiêu để có thể bù đắp chi phí huy động những nguồn vốn mới? Toàn bộ chi phí cho tiền gửi và các khoản vay khác là: Chi phí cho tiền gửi và tiền vay = Tổng các chi phí hoạt động dự tính Vốn huy động dự tính Tuy nhiên, lượng vốn huy động dự tính không bao giờ được sử dụng dến 100% (Do: dự trữ bắt buộc, vốn tồn đọng, bảo hiểm tiền gửi…). Nó chỉ được đầu tư một phần lớn vào tài sản sinh lời, ta có: Thu nhập tối thiểu trên tài sản sinh lời = Tổng chi phí hoạt động dự tính Tổng tài sản sinh lời mới Ngân hàng phải tạo ra mức thu nhập bình quân tối thiểu phải bằng chỉ tiêu này mới có thể bù đắp được chi phí huy động vốn dự tính. Phương pháp tập trung nguồn vốn giúp nhà quản lý ngân hàng có thể xác định được ảnh hưởng của bất kỳ sự thay đổi nào trong chi phí huy động vốn. Chẳng hạn, nhà quản lý ngân hàng có thể tiến hành thử nghiệm với các giao dịch về chi phí tiền gửi khác nhau (lãi suất, phí và mức dự trữ tối thiểu) cho bất kỳ kế hoạch huy động vốn nào và đánh giá ảnh hưởng của chúng đến chi phí huy động vốn của ngân hàng. Đương nhiên, các nhà quản lý cần phải xác định mức tiền gửi tối thiểu mà tại đó ngân hàng vẫn đảm bảo hoạt động có lãi. Có như vậy chính sách định giá dịch vụ tiền gửi mới thực sự an toàn. Hơn nữa, việc định giá dịch vụ tiền gửi mới thực sự an toàn. Hơn nữa, việc định giá quá dễ dãi dựa trên mối quan hệ qua lại giữa ngân hàng với khách hàng lớn có thể dẫn đến sự tăng lên đột biến trong chi phí huy động vốn trong khi tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng không tăng lên đáng kể. 1.2.3 Rủi ro của các loại nguồn vốn - Vấn đề lựa chọn giữa chi phí và rủi ro Việc chọn nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi của ngân hàng tùy thuộc không chỉ vào chi phí tương đối của mỗi nguồn, mà còn tùy thuộc vào rủi ro của chúng. Những nguồn có chi phí thấp có thể tạo rủi ro cao cho ngân hàng là do vậy, sẽ tạo ra khả năng gây thiệt hại nghiêm trọng hơn. Ví dụ trước đây, ngân hàng nhận thấy tài khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm là hai trong những nguồn vốn rẻ nhất, đặc biệt là những tài khoản tiền gửi vào hạn chế hoạt động của khách hàng (chẳng hạn như số lần gửi và rút tiền hàng tháng). Nhưng đây cũng là những nguồn vốn lại thường dao động và “bay hơi” nhanh nhất trong điều kiện biến động kinh tế- xã hội cũng như lãi suất. Một sự đột biến tăng lãi suất thị trường hay con số thất nghiệp thất nghiệp gia tăng và bán ế ẩm sẽ dẫn đến một lượng lớn tài khoản tiền gửi lại này bị rút ra hoặc đóng tài khoản luôn. Chính trong tình hình đó, các nguồn tiền gửi nhạy cảm với lãi suất hơn (như các chứng chỉ tiền gửi hay tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ) lại tỏ ra ổn định và đang tin cậy hơn, bởi vì các ngân hàng có thể dễ dàng giữ chúng bằng cách thỏa thuận trả lãi suất cho khách hàng cao hơn một chút so với đối thủ cạnh tranh. Các loại rủi ro tác động nguồn vốn huy động Để đánh giá rủi ro của các loại nguồn vốn tiền gửi và phi tiền gửi, một ngân hàng cần phải định lượng nhiều chiều hướng rủi ro khác nhau. Rủi ro huy động vốn bao gồm các loại sau đây: Rủi ro lãi suất: Quy mô và chi phí trả lãi của mỗi nguồn vốn tiềm năng tỏ ra nhạy cảm như thế nào đối với những thay đổi của lãi suất thị trường? Nói cách khác, nhu cầu của khách hàng trong mỗi loại nguồn vốn có độ co giãn đối với thay đổi của lãi suất ra sao? Và mức chênh lệch lãi suất của ngân hàng tương quan giữa tỷ suất sinh lợi bình quân của tài sản sinh lợi và chi phí bình quân của tài sản sinh lợi và chi phí bình quân của nguồn vốn huy động trả lãi sẽ chịu tác động ra sao trước bất kỳ sự thay đổi lãi suất thị trường nào. Rủi ro thanh khoản: Liệu có khả năng xảy ra trường hợp nguồn vốn bất kỳ nào đó bị giảm sút trầm trọng và đột ngột hay không? khi đó ngân hàng phải đương đầu với sự sút giảm ngân quỹ to lớn và buộc phải tìm vay nguồn khác với chi phí cao. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, vì vậy em nghiên cứu thành một mục riêng ngay sau. Rủi ro sở hữu: Hỗn hợp các nguồn vốn như thế nào để có thể đóng góp nhiều nhất vào việc đạt được mức và sự ổn định của lợi nhuận thuần mà các cổ đông của các ngân hàng mong muốn, cũng như hạn chế rủi ro kinh doanh của nó? Bởi vì nguồn vốn đi vay làm tăng rủi ro tín dụng và kinh doanh của ngân hàng nên cần phải phân bổ kết cấu nguồn vốn đi vay và vốn chủ sở hữu? Khi tỷ lệ vốn đi vay so với vốn chủ sở hữu tăng lên thì liệu ngân hàng có bị những người gửi tiền và các nhà đàu tư xem lại rủi ro cao hơn hay không ? Nếu có liệu định chế có bị ép phải huy động vốn với chi phí lãi phải đắt hơn hay không ? Những vấn đề trên đưa đến việc Ngân hàng phải lựa chọn giữa chi phí và rủi ro, lựa chọn cơ cấu nguồn vốn tối ưu nhất: Nhà quản trị ngân hàng phải tính toán với những thách thức to lớn trong việc quản trị và kiểm soát các chiều hướng rủi ro huy động vốn khác nhau trên đây. Như đã nêu trên, trước tiên là có một sự đánh đổi giữa rủi ro và chi phí huy động vốn – nguồn vốn có chi phí thấp có thể phải chịu rủi ro cao về lãi suất, thanh khoản hay là vốn sở hữu. Như thế mỗi khi phải huy động vốn mới, nhà quản trị ngân hàng phải lựa chọn một vị trí, theo chỉ đạo của các đại cổ đông của ngân hàng tương quan ưu tiên giữa rủi ro và lợi nhuận, trên bảng đối chiếu giữa rủi ro và chi phí theo từng cách phối hợp giữa các nguồn vốn. Hơn nữa, mức độ rủi ro của các nguồn vốn khác nhau thay đổi theo những chiều hướng rủi ro được xem xét. Chẳng hạn như, loại sổ tiết kiệm dành cho những hộ gia đình thu nhập thấp và trung bình có thể tương đối nhạy cảm với những thay đổi lãi suất (độ co giãn thấp), nhưng cũng chính loại tiền gửi đó lại có thể gần với cao điểm rủi ro thanh khoản những thời vụ nhất định trong năm hoặc những giai đoạn nào đó trong chu kỳ kinh doanh (như thời kỳ kinh tế khủng hoảng) xảy ra việc rút tiền ồ ạt vì loại tiền gửi này chịu những đột biến và bất thường. Chính vì vậy thách thức chủ yếu đối với nhà quản trị ngân hàng trong việc chọn một hỗn hợp nguồn vốn bao gồm việc lựa chọn các mức độ rủi ro thích hợp ở mỗi chiều hướng rủi ro huy động vốn và điều chỉnh theo chi phí thích hợp của các mức rủi ro đó. 1.2.4 Rủi ro thanh khoản- Vấn đề quan trọng hàng đầu. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng thương mại là đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Một ngân hàng thương mại được xem là có khả năng thanh khoản nếu nó tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn khả dụng ở chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết. Điều này có nghĩa là ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay hoặc có thể tăng thêm bằng cách vay mượn hoặc bán bớt một số tài sản ngân hàng tự có. Thực tế cho chúng ta thấy hiện tượng thiếu hụt thanh khoản, thường là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy ngân hàng đang ở trong tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Kế đến những ngân hàng có vấn đề này bắt đầu mất các khoản tiền gửi cũ và mới, nguồn cung cấp tiền ngày càng khác ở trong tình thế cho vay hỗ trợ một cách miễn cưỡng vì thiếu sự an toàn hoặc với lãi suất cao hơn, một tác nhân làm suy giảm hơn nữa lợi nhuận của ngân hàng có vấn đề. Nhiều ngân hàng thực sự cho rằng có thể vay mượn các nguồn thanh khoản không giới hạn bất kỳ lúc nào cần đến. Do đó, không cần phải dự trữ thanh khoản nhiều dưới hình thức các tài sản có giá ổn định dễ bán.Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng thiếu hụt ngân quỹ ở một mức độ lớn tại một số ngân hàng đã chỉ ra rằng vấn đề thanh khoản là không thể bỏ qua. Ngày nay, quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với trước đây rất nhiều, bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc dù về kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản của một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng. 1.2.4.1 Cung- cầu và trạng thái thanh khoản Cung cầu về thanh khoản. Nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng bao gồm: Các khoản tiền gửi sẽ nhận được (S1) Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ (S2) Các khoản tín dụng sẽ thu về (S3) Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng (S4) Vay mượn từ thị trường tiền tệ (S5) Cầu về khả năng thanh khoản Trong lĩnh vực ngân hàng , những hoạt động sau đây tạo ra nhu cầu về thanh khoản : Khách hàng rút các khoản tiền gửi (D1) Đề nghị vay vốn của khách hàng (D2) Thanh toán các khoản phải trả khác (D3) Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng (D4) Thanh toán cổ tức cho cổ đông (D5) Trạng thái thanh khoản Ở bất kỳ thời điểm nào, các nguồn cung và nhu cầu thanh khoản đến cùng lúc và tạo thành trạng thái thanh khoản ròng và có thể được tính như sau: NLPt = Net Liquidity Position = (S1 + S2 + S3 + S4 +S5)- (D1 +D2 +D3 + D4 + D5) Ở đây xảy ra một trong hai trường hợp: NLPt > 0: Điều này có nghĩa là ngân hàng ở trong tình trạng thặng dư thanh khoản (Liquidity surplus). NLPt < 0: Điều này có nghĩa là ngân hàng ở trong tình trạng thâm hụt thanh khoản (Liquidity deficit). Yếu tố thời gian của vấn đề thanh khoản Xét về thời gian nhu cầu thanh khoản của ngân hàng bao gồm cả trong ngắn hạn và dài hạn. Nhu cầu thanh khoản ngắn hạn mang tính tức thời hoặc gần như thế. Các khoản tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi có kỳ hạn đến hạn, các công cụ huy động thuộc thị trường tiền tệ… nằm trong phạm vi nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản thuộc loại này, đòi hỏi ngân hàng phải duy trì ở mức độ khá lớn các loại tài sản có tính thanh khoản cao (tiền mặt tại quy, tiền gửi tại NHTW và các định chế tài chính khác, chứng khoán chính phủ…). Nhu cầu thanh khoản dài hạn do các nhân tố mang tính chất thời vụ, chu kỳ và xu hướng tạo ra. Chẳng hạn nhu cầu rút tiền hay vay mượn của cá nhân thường đặc biệt tăng cao vào ngày cận kề các dịp lễ hội trong năm để trang trải chi tiêu, mua sắm. Để đáp ứng loại nhu cầu thanh khoản này, đòi hỏi ngân hàng cần phải dự phòng trước khả năng cung cấp vốn từ nhiều nguồn khác nhau và ở mức độ cao hơn so với nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Ví dụ như đặt kế hoạch thu hút các khoản tiền gửi mới, thỏa thuận vay dài hạn từ công chúng hoặc từ quỹ dự trữ của các ngân hàng khác… Do yếu tố thời gian là mang tính quyết định. Làm thế nào, khi nào và ở đâu có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản mỗi khi cần đến. Bản chất của vấn đề quản trị thanh khoản Bản chất của vấn đề quản trị thanh khoản có thể hiểu thông qua các phát biểu như sau: Rất hiếm khi cung – cầu thanh khoản của một ngân hàng cân bằng với nhau tại một thời điểm cụ thể. Các ngân hàng phải thường xuyên đối mặt và giải quyết một trong hai trạng thái thanh khoản hoặc thặng dư hoặc thâm hụt. Có một sự đánh đổi giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lợi. Càng có nhiều nguồn vốn hơn được giữ lại để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, khả năng tạo ra lợi nhuận của các ngân hàng càng thấp hơn và ngược lại. Giải quyết vấn đề thanh khoản buộc các ngân hàng phải mất chi phí, chi phí thực tế và tiềm năng bao gồm chi phí trả lãi các nguồn vốn vay mượn, và các chi phí giao dịch tìm nguồn vốn, chi phí cơ hội dưới hình thức lợi nhuận tương lai mất đi do phải bán các tài sản sinh lợi. Các nguyên nhân gây ra các vấn đề thanh khoản của ngân hàng Tình trạng khó khăn về thanh khoản của ngân hàng thương mại xuất phát từ những lý do chính sau đây: Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi, quỹ dự trữ từ các cá nhân và các tổ choc tài chính khác, sau đó chuyển hóa thành những tài sản đầu tư có kỳ hạn. Vì vậy, tình trạng mất cân đối về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn xảy ra đối với ngân hàng.Trường hợp hiếm they là luồng tiền thu hồi được từ các khoản đầu tư cân bằng chính xác với luồng tiền đang chỉ ra để trang trải cho các nguồn vốn huy động trước đây. Do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi rút tiền vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỉ suất sinh lợi cao hơn, còn các khách hàng vay tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và tích cực tiếp cận các khoản tín dụng có lãi suất thấp hơn. Như vậy, sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền và cả hai đều tác động trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng về sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm nguồn cung cấp thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ. Ngoại trừ hai nhân tố nêu trên, điều cơ bản là các ngân hàng phải đặt một sự ưu tiên cao đối với việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Mất cảnh giác trong khu vực này có thể làm tổn hại nghiêm trọng niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Một trong những nhiệm vụ của các nhà quản trị thanh khoản là duy trì mối liên hệ gần gũi với những khách hàng gửi tiền lớn và những khách hàng vay đang nắm giữ hạn mức lớn để xác định có hay không và khi nào rút vốn. 1.2.4.2 Chiến lược quản trị thanh khoản Định hướng chung về quản trị thanh khoản Để quản trị thanh khoản có hiệu quả tốt, một số nguyên tắc mang tính chất chỉ đạo sau đây cần được thiết tuân theo: Người quản trị thanh khoản thường xuyên bám sát hoạt động của các bộ phận chịu trách nhiệm huy động vốn và sử dụng vốn trong phạm vi ngân hàng và điều phối hoạt động của các bộ phận này với nhau. Chẳng hạn, bất cứ khi nào bộ phận phụ trách tài khoản tiết kiệm dự kiến nhận một số chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn trong một vài ngày tới, thông tin này cần được chuyển ngay tới người quản trị thanh khoản hoặc bộ phận cho vay đã thỏa thuận cấp hạn mức tín dụng mới cho khách hàng, nhà quản trị thanh khoản cần chuẩn bị khả năng khách hàng rút tiền từ hạn mức đó. Nhà quản trị thanh khoản cần phải biết trước khả năng ở đâu và khi nào khách hàng gửi tiền/ vay tiền dự tính rút vốn hoặc bổ sung thêm tiền gửi/ trả nợ. Điều này cho phép người quản trị thanh khoản hoạch định đón đầu để xử lý hiệu quả hơn phần thanh khoản thặng dư hay thâm hụt đang xuất hiện. Nhu cầu thanh khoản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề thanh khoản phải được phân tích trên cơ sở liên tục để tránh kéo dài hai trạng thái thặng dư hoặc thâm hụt thanh khoản phải được xử lý nhanh chóng nhằm tránh sự khẩn trương gây gắt trong việc việc phải vay mượn hay bán tài sản. Chiến lược quản trị thanh khoản Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau: Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản) Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản (sử dụng vốn) Đây là cách tiếp cận truyền thông để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM chiến lược này đòi hỏi phải dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh khoản được đáp ứng đầy đủ. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này được gọi là sự chuyển hóa tài sản bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản bằng cách chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt. Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau: Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng. Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi phục khoản đầu tư. Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho bạc, các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán cơ quan chính phủ…Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp cận các nguồn cung cấp thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền đầy đủ kịp thời và lúc nó được cần đến. Tuy nhiên, sự chuyển hóa tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị thanh khoản : Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài sản này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản. Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa hang phí phải trả cho người môi giới chứng khoán. Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá trên thị trường . Nhìn chung khả năng sinh lời của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là thấp nhất trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có tính thanh khoản cao thi ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những tài sản khác. Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường tiền tệ . Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải tất cả nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ được triển khai khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết. Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng chỉ tiền gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại NHTW… Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ. Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn đề thanh khoản( nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động lãi suất trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng). Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự sẵn có nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng thêm mức độ không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài hcính thì hầu như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu biết về những khó khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút vốn ồ ạt. Đồng thời các tổ chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản. Chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng Do những rủi ro vốn có khi có sự phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và những chi phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn chiến lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến lược trên để tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng. Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác, trong khi đó các nhu cầu thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ bằng các thỏa thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những nhà cung cấp vốn khác. Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng khoán sẽ chuyển hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện. 1.2.4.3 Ước lượng nhu cầu thanh khoản Các phương pháp sau đây được các ngân hàng sử dụng đê ước lượng nhu cầu thanh khoản: Phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn Phương pháp cấu trúc vốn Phương pháp các chỉ tiêu thanh khoản Mỗi phương pháp dựa trên một số giả thuyết cụ thể, và kết quả thu được chỉ là gần đúng so với nhu cầu thanh khoản thực sự tài thời điểm đã cho. Phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn Phương pháp bắt đầu với hai thực tế đơn giản: Thanh khoản ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và tiền vay giảm. Thanh khoản ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và tiền vay tăng. Bất cứ khi nào mà nguồn tạo ra thanh khoản và nhu cầu sử dụng thanh khoản không cân bằng với nhau, ngân hàng có sự chênh lệch thanh khoản (liquidity gap) có thể xác định như sau: Độ lệch thanh khoản (LG) = Tổng các nguồn tạo thanh khoản (1) - Tổng nhu cầu sử dụng thanh khoản (2) Khi (1)>(2), ngân hàng có một độ chênh lệch thanh khoản dương và phần thanh khoản thặng dư nhanh chóng phải được đầu tư vào những tài sản sinh lợi cho tới khi chúng được cần để trang trải nhu cầu tiền trong tương lai. Khi (1)<(2), ngân hàng có một độ chênh lệch thanh khoản âm, trong trường hợp này, ngân hàng cần phải gia tăng thanh khoản từ nhiều nguồn cung cấp sẵn có khác nhau một cách kịp thời và chi phí rẻ nhất. Tiến hành thực hiện các bước cơ bản trong phương pháp nguồn và sử dụng như là: Tiền vay và tiền gửi phải được dự báo trong một khoảng thời gian hoạch định thanh khoản đã cho. Những thay đổi về tiền vay và tiền gửi phải được tính toán cho cùng khoảng thời gian xác định đó. Người quản trị thanh khoản ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng, hoặc thặng dư hoặc thâm hụt. Để dự báo các khoản tiền vay và tiền gửi cho một khoảng thời gian trong tương lai (tháng hoặc quý), ngân hàng có thể ding các biến số thống ke kinh tế và xác định mối quan hệ giữa chúng với xu hướng vận động của tiền vay và tiền gửi. (A) Thay đổi của tổng số tiền vay trong khoảng dự báo tùy thuộc vào: Tăng trưởng GDP dự kiến Lợi nhuận doanh nghiệp dự kiến Tỷ lệ tăng trưởng về cung ứng tiền của NHTW Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng Tỷ lệ lạm phát ước tính. (B) Thay đổi của tổng số tiền gửi và các khoản nợ phi tiền gửi trong khoảng dự báo tùy ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32526.doc
Tài liệu liên quan