lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp tự do tham gia vào thị trường để tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ, nên điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng đến chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép với mục đích thu lợi nhuận cao nhất.
Tiêu thụ sản phẩm là một nội dung quan trọng, có tính chất sống còn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Chỉ khi thực hiện tốt công tác
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản trị hoạt động tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm ở Tổng Công ty Sách Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu thụ, doanh nghiệp mới có điều kiện để tồn tại và phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, có nhiều doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản do hàng hoá sản xuất ra không có người mua, trong khi đó có nhiều doanh nghiệp đã đứng vững và phát triển được nhờ họ đã làm tốt công tác tiêu thụ. Chính vì lẽ đó mà công tác tiêu thụ sản phẩm đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Đối với loại hình kinh doanh văn hoá phẩm, với những đặc điểm riêng về sản phẩm, đó là những hàng hoá mang tính phổ biến trong xã hội, là sản phẩm của văn hoá tinh thần trí tuệ do con người sáng tạo ra, nên nhu cầu về loại hàng hoá này là rất lớn. Tuy nhiên không phải vì nhu cầu tất yếu đó mà ta xem nhẹ vấn đề tiêu thụ sản phẩm.
Qua thời gian thực tập tại Tổng công ty Sách Việt Nam, xét thấy tình hình tiêu thụ văn hoá phẩm của Tổng công ty đang gặp những khó khăn nhất định, được sự gợi ý của các cô chú, cán bộ công nhân viên và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn, cộng với kiến thức được trang bị sau 4 năm học tại trường. Nên em đã quyết định, lựa chọn nghiệp vụ: “Quản trị hoạt động tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm ở Tổng công ty Sách Việt Nam”, để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Hy vọng rằng, từ bài viết này, có thể đóng góp một phần nào đó giúp cho Tổng công ty đẩy mạnh hơn nữa khâu tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm trong thời gian tới.
Nội dung của báo cáo gồm có 3 phần:
Phần I : Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Sách Việt Nam.
Phần II : Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm tại Tổng công ty Sách Việt Nam.
Phần III : Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm tại Tổng công ty Sách Việt Nam.
Phần I. Quá trình hình thành và phát triển của
tổng công ty Sách việt nam
I. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Sách Việt Nam
1. Vài nét sơ lược về Tổng công ty Sách Việt Nam
Tổng công ty Sách Việt Nam được thành lập theo quyết định 90/TT của thủ tướng chính phủ, là Tổng công ty nhà nước gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó về lợi ích kinh tế tài chính, công nghệ, tiêu thụ, thông tin, nghiên cứu, đào tạo, phát hành và xuất, nhập khẩu bản phẩm, báo chí và các mặt hàng văn hoá thông tin khác.
Tổng công ty do Bộ trưởng Bộ VHTT quyết định thành lập theo uỷ quyền của thủ tướng chính phủ để tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác để nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ và kinh doanh của các đơn vị thành viên, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Góp phần nâng cao dân trí.
Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty
Tổng công ty Sách Việt Nam là doanh nghiệp nòng cốt, làm nhiệm vụ điều tiết phát hành sách xuất bản trong nước và nước ngoài tại Việt Nam và kinh doanh các ngành nghề chính sau đây.
- Tổng phát hành các loại xuất bản phẩm trong và ngoài nước tại Việt Nam
- Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu sách, báo chí, tem chơi và nhập uỷ thác sách, báo, tạp chí theo yêu cầu của ngành và địa phương.
- Liên doanh, liên kết với tổ chức xuất bản, tạo nguồn hàng kinh doanh, sản xuất kinh doanh và nhập khẩu các mặt hàng văn hoá phẩm, các sản phẩm mỹ nghệ, mỹ thuật.
- In, phát hành giấy tờ quản lý biểu mẫu, ấn phẩm.
- Phát hành sách thư viện, trường học.
- Triển lãm, hội chợ về sách trong và ngoài nước.
- Tổ chức đào tạo, nâng cao tay nghề chuyên ngành phát hành sách.
- Kinh doanh khách sạn.
- Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định pháp luật.
Tổng công ty có
- Tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Tên giao dịch quốc tế là:
VIETNAMBOOK DISTRIBUTION CORPORATION
- Tên viết tắt là: SAVINA
- Trụ sở chính đặt tại
44 Tràng Tiền - Hoàn Kiếm - Hà Nội.
- Văn phòng đại diện tại
140B Nguyễn Văn Trỗi - Quận Phú Nhuận - TP HCM.
Một số mặt hàng đang được Kinh doanh tại Tổng công ty
+ Đối với lĩnh vực kinh doanh Sách:
Sách phục vụ hoạt động chính trị xã hội tuyên truyền
Sách pháp luật, sách giáo dục
Sách khoa học - kỹ thuật, sách kinh tế, sách văn hoá nghệ thuật
Sách ngoại văn, từ điển, sách tinh học, sách tham khảo khác
Sách thường thức đời sống, sách gia đình
Sách văn học trong và ngoài nước, truyện thiếu nhi
+ Lĩnh vực kinh doanh Văn hoá phẩm:
Các loại biểu mẫu hành chính, bản đồ
Trang thiết bị đồ dùng văn phòng
In ấn lịch, tranh ảnh nghệ thuật, bưu ảnh, bưu thiếp
Sách vở đồ dùng học tập
Đồ lưu niệm, đồ chơi các loại
Băng, đĩa chương trình giáo dục, ca nhạc giải trí
Hàng mỹ nghệ, mỹ thuật.
Tổng công ty những ngày đầu thành lập
Ngày 10-10-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nhà in Quốc gia- cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên về xuất bản, in ấn và phát hành sách. Đây là thời điểm lịch sử quan trọng của nền xuất bản Cách mạng Việt Nam, mở ra giai đoạn phát triển mới cho hoạt động xuất bản, in và phát hành sách. Khi mới thành lập, tổ chức Phát hành sách là một bộ phận nằm trong nhà in Quốc gia, ngành chỉ có một số chi nhánh ở các liên khu, các hiệu sách cơ sở. Mặc dù hoạt động trong điều kiện vật chất nghèo nàn, địa bàn phân tán, mạng lưới phát hành mỏng như vậy, ngành cũng đã hoàn thành nhiệm vụ phục vụ kháng chiến đi đến thắng lợi.
Hoà bình lập lại ở miền Bắc nhưng miền Nam vẫn còn trong ách thống trị của đế quốc Mỹ, đất nước bị chia cắt. nhiệm vụ đặt ra cho ngành là: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 3/ 1960, sở Phát hành sách Trung ương đổi tên thành Quốc doanh Phát hành sách trung ương, các tỉnh, thành phố đổi thành quốc doanh tỉnh, thành phố. Tháng 10/ 1967, công tác Phát hành sách giáo khoa được chuyển giao sang bộ giáo dục.
Sau khi giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Vào năm 1976, theo chỉ thị của ban tuyên huấn TW, Quốc doanh phát hành sách trung ương mở chi nhánh phát hành sách ở miền Nam để xây dựng và phát triển hệ thống phát hành sách tới các tỉnh, huyện miền Nam. Xây dựng cơ sở vật chất và phát triển mạng lưới hiệu sách nhân dân xuống các huyện, thị. Sau vài năm đã có 90 % các huyện xây dựng được hiệu sách nhân dân. Đã góp phần phục vụ tốt nhu cầu hưởng thụ xuất bản phẩm, văn hoá phẩm của bà con, làm cho dân tin vào Đảng, vào đường lối lãnh đạo của Đảng. Tháng 10/ 1978, Quốc doanh Phát hành sách trung ương đã hợp nhất với Công ty xuất nhập khẩu sách báo thành Tổng công ty Phát hành sách, vừa có nhiệm vụ phát hành sách xuất bản trong nước và sách nhập khẩu, vừa làm nhiệm vụ xuất các loại sách, báo Việt Nam ra nước ngoài. Tháng 12/ 1982, công tác xuất nhập khẩu sách báo được tách riêng, Tổng công ty Phát hành sách vẫn giữ nguyên tổ chức và nhiệm vụ.
Thời kỳ đổi mới
+ Giai đoạn 1986-1998
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, nền kinh tế đất nước đã có những chuyển biến toàn diện và sâu sắc. Ngành Phát hành sách cũng chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và đã gặp phải nhiều khó khăn thử thách.
Sự cạnh tranh gay gắt của các công ty thuộc khối giáo dục, các cửa hàng Phát hành sách của nhà xuất bản, các nhà sách tư nhân,... Ngoài ra, còn có sự rối loạn thị trường kinh doanh xuất bản phẩm, thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng, sự xuất hiện trên thị trường các loại hàng lậu hàng kém phẩm chất,...
Xác định rõ yêu cầu đổi mới đã trở thành vấn đề sống còn, đòi hỏi ngành phải vượt lên, mạnh dạn chuyển hướng, đổi mới phương thức quản lý kinh doanh cho phù hợp với thực tế, để trụ vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Ngày 1/9/ 1988, Bộ Thông tin ra quyết định số 323/ QĐ-BTT thành lập Tổng công ty Phát hành sách theo mô hình hai cấp, tập trung quản lý chuyên ngành, giảm trung gian, tạo ra sức mạnh vật chất, tài chính, đưa xuất bản phẩm đến tay người tiêu dùng. Tháng 12/ 1997, ngành Phát hành sách Việt Nam một lần nữa thay đổi tổ chức - Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam được thành lập trên nền tảng của Tổng công ty Phát hành sách cũ, với mô hình Tổng công ty theo quyết định 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thuộc Bộ VHT, ban đầu với 8 đơn vị thành viên, đến nay là 13 đơn vị thành viên gồm 10 đơn vị chuyên ngành Phát hành sách và 3 đơn vị xuất nhập khẩu.
+ Giai đoạn 1998 – 2004
Trong những năm gần đây, Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam đã có nhiều đổi mới trong phương thức phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh doanh từng bước ổn định hệ thống chuyên ngành phát hành sách, mỏ rộng quan hệ hợp tác với các nhà xuất bản, các công ty và hãng sản xuất văn hoá phẩm để đa dạng hoá các mặt hàng, nâng cao chất lượng khai thác và thu mua được nhiều xuất bản phẩm, phát triển mạng lưới ở cơ sở, phục vụ đông đảo bạn đọc, phát huy hiệu quả xã hội và lợi ích kinh tế.
Tổng công ty chú trọng việc tuyên truyền, giới thiệu, phát hành các loại sách kinh tế, chính trị xã hội, khoa học kỹ thuật công nghệ. Nhằm giới thiệu rộng rãi văn hoá, khoa học, kỹ thuật thế giới với độc giả Việt Nam, tăng cường giao lưu Văn hoá với bè bạn quốc tế, Tổng công ty đã phối hợp với các đơn vị thành viên và các tổ chức quốc tế mở nhiều quộc triển lãm sách trong nước và quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác với các nhà xuất bản, các tập đoàn xuất bản lớn: McGraw-Hill, Pearson Education, Thomson Learning, Cambridge nhằm học tập, trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ xuất bản.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kinh doanh xuất bản-in-phát hành sách, vào ngày 01/04/2004 Tổng công ty đã quyết định đổi tên từ Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam đã đổi tên thành Tổng công ty Sách Việt Nam. Trên cơ sở sát nhập với một số nhà xuất bản, nhà in của Bộ VHTT vào Tổng công ty Phát hành sách. Tạo ra mô hình liên thông giữa 3 khâu xuất bản- in ấn và phát hành, bước đầu thí điểm mô hình tập đoàn. Đây là bước chuyển đổi có tính quyết định nhằm phát triển ngành phát hành sách Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI, tạo tiền đề cho sự hình thành của một tập đoàn xuất bản lớn.
II. Cơ cấu tổ chức Tổng công ty Sách Việt Nam
Bộ máy quản trị của Tổng công ty
Tổng công ty Sách Việt Nam là Tổng công ty nhà nước thuộc Bộ Văn hoá- Thông tin, gồm các đơn vị thành viên. Là một trong những Tổng công ty cổ phần đầu tiên của nhà nước, được thành lập trên cơ sở Quyết định 90/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị cao nhất của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ Nhà Nước giao.
Chức năng nhiệm vụ cơ bản của Hội đồng quản trị:
+ Kiểm tra, giám sát mọi hoạt động trong Tổng công ty về việc sử dụng, bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực được giao.
+ Thông qua đề nghị của Tổng giám đốc để trình lên Bộ trưởng Bộ VHTT phê duyệt chiến lược kinh doanh, kế hoạch phát triển dài hạn, kế hoạch 5 năm Tổng công ty, quyết định mục tiêu, kế hoạch phát triển hàng năm của Tổng công ty.
+ Trình Bộ trưởng Bộ VHTT phê duyệt hoặc được uỷ quyền thì quyết định các dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài theo quy định của Chính phủ, quyết định các dự án liên doanh trong nước, các hợp đồng kinh tế khác có giá trị lớn. Quyết định mở chi nhánh văn phòng đại diện của Tổng công ty ở trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.
+ Ban hành và giám sát thực hiện các định mức, tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật, đơn giá tiền lương, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, khung giá bán các loại sản phẩm và các dịch vụ trong Tổng công ty theo đề nghị của Tổng giám đốc trên cơ sở quy định chung của ngành.
+ Phê duyệt phương án quan trọng về sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ mở rộng thị trường do Tổng giám đốc đề nghị. Xem xét kế hoạch huy động vốn, bảo lãnh các khoản vay, thanh lý tài sản các đơn vị thành viên.
Hội đồng quản trị có 5 thành viên do Bộ VHTT bổ nhiệm, miễn nhiệm, trong đó có Chủ tịch Hội đồng quản trị. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị là 5 năm. Thành viên Hội đồng quản trị có thể bổ nhiệm lại. Cơ chế làm việc của Hội đồng quản trị dựa theo quy định của Tổng công ty.
Bộ máy quản trị
Tổng giám đốc: do Bộ trưởng Bộ VHTT bổ nhiệm, là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị, trước Bộ trưởng Bộ VHTT và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty.
Tổng giám đốc là người có quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày của Tổng công ty.
Tổ chức thực hiện các quyết định của HĐQT, thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Bổ nhiệm các chức danh quản lý, điều hành.
Ký kết các hợp đồng kinh tế, các quyết định đầu tư, các hợp đồng mua bán tài sản, các hoạt động vay, cho thuê tài sản, giá mua, giá bán sản phẩm, dịch vụ theo uỷ quyền của HĐQT.
Phó Tổng giám đốc: gồm có 3 người, giúp Tổng giám đốc theo dõi các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty gồm cả 3 mặt xuất bản- in- phát hành, các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm cũng như thực hiện các quan hệ đối ngoại. Thay mặt TGĐ ký kết các hợp đồng kinh tế theo uỷ quyền.
Bộ máy quản trị: bao gồm các Phòng nghiệp vụ của Tổng công ty, có chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý và điều hành công việc hàng ngày.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các phòng ban
+ Phòng hoạch toán tài vụ
Tham mưu cho TGĐ trong lĩnh vực tài chính thu- chi, vay trả, đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh diễn ra thông suốt. Trực tiếp quản lý vốn, nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Tính toán định mức về đơn giá sản phẩm, giá bán buôn, bán lẻ các loại sản phẩm sản xuất kinh doanh.
+ Phòng nghiệp vụ- tổng hợp
Tổ chức các hoạt động nhiệp vụ, thông tin quảng cáo, lập các đề án, chương trình công tác, các kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho Tổng công ty.
+ Phòng tổ chức hành chính
Có nhiệm vụ quản lý về nhân sự, đào tạo, tuyển dụng và giải quyết các chính sách chế độ tiền lương, thưởng, trợ cấp. Tham mưu cho Tổng giám đốc xây dựng chiến lược, định hướng Tổng công ty về phát triển bộ máy tổ chức cán bộ, xây dựng chiến lược phát triển lao động cho Tổng công ty.
+ Phòng Kinh doanh Sách
Tổ chức cung ứng sách cho các trung tâm, cửa hàng sách trong hệ thống bán buôn, bán lẻ của Tông công ty.
Tổ chức các hoạt động kinh doanh, mua bán, ký gửi sách các loại. Mở rộng mạng lưới khách hàng, liên doanh liên kết với các doanh nhiệp trong ngành tổ chức in ấn phát hành sách.
+ Phòng kinh doanh văn hóa phẩm
Cung ứng hàng hoá cho trung tâm, cửa hàng trong hệ thống bán buôn bán lẻ của Tổng công ty và các công ty PHS địa phương và các bạn hàng khác. Tổ chức các hoạt động kinh doanh, mua bán, nhận ký gửi, liên kết sản xuất mặt hàng VHP các mặt hàng VHTT khác của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế.
Kết hợp với các nhà sản xuất tổ chức các đợt khuyến mại, giảm giá nhằm nâng cao sức tiêu thụ hàng hoá. Tổ chức và phát triển mạng lưới mua bán hàng hoá đa dạng, với nhiều thành phần kinh tế, phát triển nghiệp vụ, từng bước mở rộng nguồn hàng, đa dạng hoá ngành hàng. Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao về các sản phẩm văn hoá thông tin của khách hàng
+ Phòng xuất nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, nhằm thực hiện nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng hoá theo định hướng của Tổng công ty.
Tổ chức cung ứng xuất bản phẩm cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Phối hợp với các phòng chức năng của Tổng công ty tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước.
+ Phòng xuất bản
Liên kết với các nhà xuất bản, các tác giả để tạo ra nguồn hàng chủ động trong sản xuất kinh doanh sách báo.
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất sách, biên tập, khai thác thông tin phục vụ cho quá trình kinh doanh sách của Tổng công ty.
+ Phòng kho vận
Thực hiện chức năng quản lý, lưu trữ, bảo quản sách báo, văn hoá phẩm, phục vụ cho việc kinh doanh.
+ Xưởng in
Chức năng in ấn sách, báo, lịch các loại theo kế hoạch của Tổng công ty. Thực hiện ký kết hợp ồng in ấn với các tổ chức sản xuất kinh doanh khác thu lợi nhuận.
Hệ thống các công ty thành viên
Tổng công ty Sách Việt Nam có 13 đơn vị thành viên, trong đó 10 đơn vị thành viên chuyên ngành Phát hành sách và 3 đơn vị Xuất nhập khẩu và mạng lưới cộng tác viên thường xuyên gồm hơn 100 Công ty phát hành sách tỉnh, thành phố, hàng trăm đại lý, cửa hàng bán lẻ trong cả nước.
Các công ty phát hành sách: làm nhiệm vụ điều tiết phát hành sách xuất bản các khu vực, các tỉnh, là đại lý phân phối chính sách báo, tạp chí, văn hoá phẩm của Tổng công ty. Các thành viên này thường có liên hệ mật thiết với các phòng kinh doanh của Tổng công ty theo hai đường. Thứ nhất, các công ty thành viên lấy hàng hoá của tổng công ty để bán lẻ, hưởng lợi theo tỷ lệ chiết khấu từng loại mặt hàng do Tổng công ty đặt ra. Thứ hai, Tổng công ty thu thập thông tin thị trường từ các địa phương thông qua các đại lý trên nhằm sản xuất và tìm các loại mặt hàng mới đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng tại từng địa phương.
Các công ty xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ xuất nhập khẩu sách, xuất bản phẩm, các mặt hàng văn hoá phẩm, các sản phẩm mỹ nghệ, mỹ thuật, mở hội chợ triển lãm ở nước ngoài. Nghiên cứu thị trường đầu vào tại nước ngoài, tiến hành nhập khẩu các loại hàng hoá văn hoá phẩm có chất lượng, tiến hành đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh của Tổng công ty.
Bảng 1: Hệ thống mạng lưới đại lý của Tổng công ty (2001 - 2005)
Đơn vị: Cửa hàng
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số hiệu sách
141
142
150
156
162
- Tại tỉnh, thành phố
45
45
49
50
50
- Tại huyện, thị xã
96
97
101
106
112
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005 của Tổng công ty Sách Việt Nam
Tổng công ty tập trung mở rộng mạng lưới các cửa hàng, tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp các cơ sở hiện có, mở rộng thị trường, tạo động lực lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm trong thời gian tới.
III. Kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty
Tình hình kinh doanh thực tế của Tổng công ty
Tổng công ty phát hành sách là một trong những tổng công ty 90 đầu tiên của nước ta, với quy mô thuộc loại lớn. Hiện nay, Tổng công ty đang sản xuất kinh doanh nhiều loại sản phẩm khác nhau như sách, báo chí, các xuất bản phẩm, đồ dùng văn phòng, đồ dùng giáo dục và các sản phẩm văn hoá phẩm khác, phục vụ sản xuất kinh doanh trong nước và xuất khẩu. Đây là những sản phẩm tiêu dùng có đặc tính riêng của ngành xuất bản phẩm là theo thời vụ như sách vở đồ dùng học tập, lịch bloc, theo lứa tuổi ngành nghề như các loại sách truyện văn học, các loại sách khoa học kỹ thuật,...và theo thị hiếu của người tiêu dùng. Với những đặc điểm riêng của sản phẩm, nên nội dung, kiểu cách, mẩu mã của sản phẩm phải thường xuyên thay đổi. Do vậy, Tổng công ty phải luôn tiếp cận thị trường, tìm hiểu thị hiếu của khách hàng, theo dõi sự thay đổi mẫu mã để từ đó tìm ra những sản phẩm mới hướng tới nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra, Tổng công ty cần có chính sách, chiến lược về giá cả, có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng tốt cũng như có các biện pháp khoách trương sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường.
Nhìn chung, trong năm qua Tổng công ty đã và đang làm ăn có hiệu quả, các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận và doanh số bán hàng đều vượt chỉ tiêu đề ra 5- 12%. Trong đó, doanh số bán sản phẩm văn hoá phẩm tăng đến 12,6% so với năm 2004 đạt 22.582.000 bản, doanh số bán sách là 11.060.000 bản tăng 3,3% so với năm 2004, nếu so với năm 2005 thì khối lượng tiêu thụ xuất bản phẩm là không cao, tốc tăng trưởng bình quân chỉ đạt 105,7% là chưa tương xứng. Do còn yếu kém ở khâu tiếp thị, và tình trạng in ấn sách lậu, sách kém phẩm chất tràn lan trên thị trường, giá cả còn quá cao so với giá thị trường,... nên các chỉ tiêu kế hoạch đề ra đạt được không cao.
Các đơn vị xuất nhập khẩu trong những năm qua đã làm ăn có hiệu quả, tìm được đầu ra cho các mặt hàng xuất khẩu, doanh thu trong năm 2005 đạt 3.290 triệu USD, tăng 8% so với năm 2004, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 106,9% và tương đối ổn định. Tuy nhiên, để giữ vững và phát triển, các đơn vị XNK cần phải tìm được thị trường xuất khẩu ổn định, tránh tình trạng nhập siêu như hiện nay. Lĩnh vực dịch vụ tại Tổng công ty chưa được đầu tư hiệu quả, tuy đã có sự chuyển biến nhưng chưa đáng kể, cần phải được nâng cao chất lượng cũng như đa dạng hoá các loại hình dịch vụ.
Bảng 2: Kết quả kinh doanh của Tổng công ty năm (2003 – 2005)
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
Tốc độ tăng (%)
2003
2004
2005
04/03
05/04
Doanh thu
Tr đồng
268.914
264.867
291.318
98,5
110,0
+ Sách
1000 bản
10.943
10.707
11.060
97,8
103,3
+ VHP
1000 bản
21.165
20.057
22.582
94,8
112,6
+ XNK
1000USD
2.877
3.050
3.290
106,0
107,8
+ Dịch vụ
Tr đồng
1.698
2.100
2.190
123,6
104,3
Lợi nhuận
Tr đồng
4.355
4.179
5.025
95,6
120,2
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty
Trong lĩnh vực kinh doanh văn hoá phẩm thì công tác in ấn lịch cho các doanh nghiệp, các địa phương theo yêu cầu là loại hình kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất chiếm 85% tổng doanh thu lĩnh vực kinh doanh văn hoá phẩm, doanh số và lãi tăng 30% hàng năm. Trong năm qua, lĩnh vực này cũng thu được nhiều thành công doanh thu từ việc phát hành lịch đạt 89.6 tỷ đồng tương đương 13.351.000 bản đạt 95% chỉ tiêu đề ra.
Tổng công ty có quan hệ kinh doanh với các đối tác trong và ngoài nước. Trong đó có quan hệ mua bán xuất bản phẩm với tất cả các nhà xuất bản ở trung ương và địa phương, các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học kỹ thuật cho đến các hộ kinh doanh cá thể,... Tổng công ty cũng có quan hệ mua bán sách thường xuyên với hơn 40 nhà xuất bản trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá hàng năm trên 40 triệu USD. Trong năm 2005 kim ngạch xuất nhập khẩu toàn Tổng công ty đạt 3.290 Triệu USD tăng 8% so với năm 2004.
Tổng công ty đã xây dựng xong chương trình quản lý kinh tế bằng hệ thống vi tính, chuẩn bị cho việc nối mạng nội bộ với các đơn vị thành viên. Tăng cường công tác chỉ đạo quản lý kinh tế, nghiệp vụ kinh doanh đối với các đơn vị thành viên.
Từng bước mở rộng mạng lưới tiêu thụ đến với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đẩy mạnh công tác xuất khẩu XBP ra các nước trên thế giới,...
Các công ty Phát hành sách đều đạt chỉ tiêu tăng trưởng từ 5-10%, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới phân phối rộng khắp, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đời sống CBNV ngày càng được cải thiện.
2. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
Số liệu được lấy từ các bảng báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán năm 2003- 2005. Tại (Hà nội)*, thuộc Tổng công ty Sách Việt Nam.
Bảng 3: Kết cấu vốn và nguồn vốn kinh doanh của TCT năm (2005-2005)
Đơn vị: 1.000.000 VNĐ
Tài sản
2003
2004
2005
SL
%
SL
%
SL
%
A. Tài sản lưu Động
40.939
66
44.570
70
47.247
67
1. Tiền
12.451
20
15.326
24
17.243
24
2. Các khoản phải thu
19.766
32
20.062
31
20.059
28
3. Hàng tồn kho
7.186
11
7.904
12
8.204
12
4. Tài sản lưu động khác
942
2
1.072
2
1.379
2
5. Chi sự nghiệp
594
1
206
1
362
1
B. Tài sản cố định
20.978
34
19.475
30
23.834
33
1. Tài sản cố định
20.966
19.463
23.822
2. Đầu tư tài chính dài hạn
12
12
12
Tổng tài sản
61.917
100
64.045
100
71.081
100
Nguồn vốn
A. Nợ phải trả
34.911
56
36.811
57
39.223
55
1. Nợ ngắn hạn
34.495
55
36.227
56
38.439
54
2. Nợ dài hạn
3. Nợ khác
416
1
584
1
784
1
B. Nguồn vốn CSH
27.006
44
27.234
43
31.858
45
1. Nguồn vốn, quỹ
26.198
43
26.555
42
31.015
44
2. Nguồn kinh phí khác
808
1
679
1
843
1
Tổng nguồn vốn
61.917
100
64.045
100
71.081
100
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh đơn vị Hà Nội năm (2003-2005)
So với năm 2003 và năm 2004, năm 2005 tài sản và nguồn vốn có tăng lên, số lượng giao dịch diễn ra ngày một lớn, số lượng tiền giao dịch trên thị trường tăng lên từ 12.452 triệu đồng năm 2003 đến năm 2005 tăng lên gần 40% là 17.243 triệu đồng, các loại tài sản cố định được đầu tư tăng lên, nguồn vốn chủ sở hữu cũng được tăng lên, huy động được nhiều nguồn vốn hơn so với năm 2003. Hệ số tài sản cố định/Tổng tài sản tăng 34%, tài sản lưu động giảm xuống còn 66%. Điều này phản ánh thực tế Tổng công ty đã đầu tư tăng khối lượng TSCĐ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy TSLĐ của Tổng công ty có giảm nhưng không đáng kể chiếm 67% trong tổng số Tài sản của công ty, chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh tiến triển tốt, khả năng thanh toán vốn rất tốt. Các khoản phải thu cuối kỳ 2005 là 20.059,1 Triệu đồng so với các khoản phải trả là 39.223,3 triệu đồng chứng tỏ Tổng công ty đã chiếm dụng được nhiều vốn và với số lượng khá lớn 19.164,2 chiếm 41% tổng tài sản lưu động của Tổng công ty, điều này là rất tốt trong kinh doanh, điều này chứng tỏ Tổng công ty rất được lòng tin của các nhà cung cấp, các bạn hàng. Tuy nhiên, Tổng công ty nên trả bớt các khoản phải trả quá hạn và đến hạn, cần tạo ra một hình ảnh tốt đối với Tổng công ty
Tỷ lệ phải thu so với tỷ lệ nợ phải trả là 51%, Tổng công ty(*) được chiếm dụng vốn kết hợp với việc tăng tài sản lưu động, ta có thể kết luận rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty(*) đang tiến triển tốt, cần phải duy trì và phát triển.
Tình hình quản lý tài sản, nguồn vốn
Bảng 4: Tình hình quản lý tiền mặt
Đơn vị: 1.000.000 đồng
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
Chênh lệch
+(-)
%
Tiền mặt
5.309
7.811
2502
47,1
Tiền gửi ngân hàng
10.016
9.432
(584)
(5,8)
Tiền nợ ngắn hạn
36.227
38.439
2162
6,1
Tỷ lệ tiền mặt (%)
0,423
0,449
Nguồn: Báo cáo tài chính tại đơn vị Hà Nội năm (2004-2005)
Ta thấy trong năm 2005, số vốn bằng tiền tăng 1918 triệu đồng với tỷ lệ tăng 12,5% so với năm 2004. Trong đó, số vốn tiền mặt tăng lên 2502 triệu đồng hay tăng 47,1% và tiền gửi ngân hàng giảm xuống 584 triệu đồng giảm (5,8%). Tỷ lệ tiền mặt năm 2004 là chỉ đạt 0,423 % là rất thấp, đến năm 2005 chỉ số này có tăng lên nhưng không đáng kể, chỉ đạt 0,449 %, điều đó chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh là không đảm bảo, việc giao dịch, buôn bán trên thị trường trong ngắn hạn không thể diển ra liên tục, lượng tiền mặt dùng để thanh toán là không đủ. Vì vậy, Tổng công ty cần có biện pháp tăng vốn tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, giảm lượng hàng tồn kho.
Bảng 5: Tình hình biến động tài sản cố định năm (2004 -2005)
Đơn vị: 1000VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
Tài sản cố định
2004
2005
I. Nguyên giá TSCĐ
1. Số dư đầu kỳ
25.739.300
25.858.740
2. Số tăng trong kỳ
119.450
2.513.657
3. Giảm trong kỳ
----------
469.582
4. Số cuối kỳ
25.858.740
27.902.815
II. Giá trị hao mòn
1. Đầu kỳ
4.773.330
2.451.873
2. Trong kỳ
1.622.800
1.628.842
3. Cuối kỳ
6.396.140
4.080.715
III. Giá trị còn lại
1. Đầu kỳ
20.965.970
19.462.600
2. Cuối kỳ
19.462.600
23.822.100
Nguồn: Báo cáo tài chính đơn vị Hà Nội năm (2004-2005)
Giá trị tài sản còn lại cuối kỳ năm 2005 có khối lượng lớn 23.822 triệu đồng tăng 4.359,5 triệu đồng so với năm 2004. Trong đó giá trị hao mòn trong kỳ 1.628,8 triệu đồng, cuối kỳ là 4.080,7 triệu đồng giảm 2.345,4 triệu đồng so với cuối năm 2003. Việc sử dụng TSCĐ HH của Tổng công ty(*) khá lớn 4.359,5 so với năm 2004 là 1.334,2 triệu đồng và năm 2005 là 1.503,3 triệu đồng do Tổng công ty đã đầu tư phát triển làm tăng TSCĐ, như là đưa vào khai thác các trung tâm sách, nâng cấp trang thiết bị đồ dùng văn phòng và xây dựng nhiều nhà sách nhân dân,... với mức tăng TSCĐ trong kỳ là 2.513,7 triệu đồng. Giá trị hao mòn TSCĐ HH trong kỳ tăng không đáng kể so với năm 2004, do việc đưa vào sử dụng mới các tài sản, ngoài ra việc sử dụng các TS CĐ đã gần hết thời gian khấu hao làm cho việc thanh lý TSCĐ trở nên mất giá trị. Qua bảng phân tích tình hình tăng giảm TSCĐ 2004/2005 và bảng cân đối kế toán cuối kỳ 2004/2005 ta thấy Tổng công ty(*) đã chú trong tăng TSCĐ khá hợp lý, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người tiều dùng và nâng cấp trang thiết bị văn phòng hiện đại, nâng cao năng suất lao động của CBNV Tổng công ty.
Khả năng thanh toán của Tổng công ty
Được đánh giá qua các chỉ tiêu: Khả năng thanh toán hiện hành, thanh toán nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh để biết được khả năng thanh toán của Tổng công ty (*) trong giai đoạn hiện nay.
Bảng 6: Khả năng thanh toán của Tổng công ty năm (2003-2005)
Năm
Khả năng thanh toán
2003
2004
2005
+ Hệ số thanh toán hiện hành
1,77
1,74
1,81
+ Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
1,19
1,23
1,23
+ Hệ số thanh toán nhanh
0,36
0,42
0,45
Nguồn: Báo cáo tài chính tại đơn vị Hà Nội năm (2003-2005)
Khả năng thanh toán hiện hành (Tổng tài sản/ Tổng nợ phải tra) của Tổng công ty(*) là rất tốt tuy năm 2004 có thấp hơn so với năm 2003, nhưng sang năm 2005 khả năng thanh toán hiện hành đã được tăng lên 1,81 lần. Do tốc động tăng của Tổng tài sản tăng lên nhanh hơn so với tốc độ tăng các khoản nợ phải trả, hệ số thanh toán hiện hành là 1,81 > 1 chứng tỏ khả năng thanh toán các khoản phải trả bằng số tài sản hiện có là tốt, việc giao dịch buôn bán, chi trả các khoản nợ của Tổng công ty trong ngắn và dài hạn diễn ra hoàn toàn thuận lợi.
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn (Tài sản lưu động/Tổng nợ ngắn hạn) của Tổng công ty(*) trong năm 2005 là 1,23 tăng so với năm 2003, do tốc độ tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng số nợ ngắn hạn của Tổng công ty(*) trong các năm . Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn trong năm 2005 là 1,23 > 1 nên Tổng công ty(*) vẫn có thể bảo đảm khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn trong tương lai. Công ty cần thanh toán những khoản nợ ngắn hạn đến thời kỳ thanh toán, tăng lượng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng để nhằm tăng khả năng thanh toán.
Hệ số thanh toán nhanh (Tổng số tiền/Tổng nợ ngắn hạn) cho biết lượng tiền và các khoản tương đương tiền hiện có của Tổng công ty(*) có khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn. trong năm 2003, hệ số thanh toán nhanh có tăng lên so với năm 2004, nhưng còn thấp cần phải tăng lượng tiền mặt, giúp Tổng công ty(*) có thể nhanh chóng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, tạo điều kiện cho Công ty đẩy nhanh tốc độ sản xuất kinh doanh.
Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
Bảng 7: Kết quả kinh doanh của Tổng công ty Sách Việt Nam năm (2003- 2005)
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
I. Tổng doanh thu
Tr đ
98.537
109.018
121.846
II. Doanh số bán ra
Tr đ
61.457
65.759
74.382
III. Mặt hàng chủ yếu
+ Sách
1000b
3.158
3.389
3.760,5
+ VHP
1000b
4._..760
4.933
5.311
IV. Nộp ngân sách
Tr đ
743
803
915
V. Lợi nhuận trước Thuế
Tr đ
1.123,3
886
1.152,1
VI. Thuế thu nhập DN
Tr đ
359,2
283,5
378,3
VII. Lợi nhuận sau thuế
Tr đ
764,1
602,5
803,8
VIII. Thu nhập BQ CB
Tr đ
1,08
1,21
1,29
Nguồn: Bảng báo cáo kết quả kinh doanh tại đơn vị Hà Nội năm (2003-2005)
Qua bảng đánh giá kết quả kinh doanh ta thấy tổng doanh thu của Tổng công ty(*) tăng tương đối khả quan, doanh số bán ra tăng 17.003 triệu đồng so với năm 2004 và tăng 21.305 triệu đồng năm 2003. Trong đó, lượng sách bán ra tăng là 371.000 bản năm 2004, lượng VHP bán ra tăng 649.000 bản, Tổng công ty đã nộp ngân sách nhà nước là 923 triệu đồng tăng 120 triệu so với năm 2004, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 378 triệu đồng tăng 95 triệu đồng so với năm 2003 và lợi nhuận sau thuế là 803.8 triệu tăng 201,3 triệu đồng và từng bước đưa thu nhập bình quân của CBCNV tăng lên so với năm 2004 là 1,29 triệu đồng. Nhìn chung trong năm 2005, mọi chỉ tiêu hiệu quả đều tăng trưởng tốt, để có được hình dung rõ hơn về sự phát triển này ta xét bảng phân tích tỷ suất sinh lời dưới đây:
Bảng 8: Tỷ suất lợi nhuận của Tổng công ty năm (2003- 2005)
Đơn vị: %
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
1. Tính theo doanh thu
- TSLN trước thuế (1)
1,14
0,81
0,97
- TSLN sau thuế (2)
0,78
0,55
0,70
2. Tính theo tổng tài sản
- TSLN trước thuế (3)
1,90
1,38
1,66
- TSLN sau thuế (4)
1,30
0,94
1,13
3. Tính theo tổng NVCSH
- TSLN sau thuế
2,97
2,21
2,52
Nguồn: Báo cáo tài chính tại đơn vị Hà Nội năm (2003-2005)
Nhìn chung, năm 2004 hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty(*) giám đáng kể biểu hiện bằng các tỷ lệ 1, 2,3,4 ở bản trên thường thấp hơn so với năm 2003, nhưng sang năm 2005 các tỷ lệ 1,2,3,4 đều tăng khả quan báo hiệu sự phục hồi và phát triển của Tổng công ty
Tỷ suất lợi nhuận tính theo doanh thu thể hiện cứ 100 đơn vị doanh thu thì Tổng công ty(*) thu được bao nhiêu lợi nhuận, ta thấy trong năm 2005 tỷ số này đã được cải thiện, nếu cứ 100 đv doanh thu thì Tổng công ty thu được 0,97 đv lợi nhuận trước thuế và 0,70 đv lợi nhuận sau thuế tuy thấp hơn so với năm 2003 nhưng đã tăng lên so với năm 2004.
Cũng như thế, tỷ suất lợi nhuận tính theo tổng tài sản biểu hiện cứ 100 đv Tổng TTS đầu tư vào kinh doanh thi thu được bao nhiêu lợi nhuận, năm 2005 tỷ lệ trên là 1,66 đv lợi nhuận trước thuế và 1,13 đv lợi nhuận sau thuế tăng so với năm 2004 nhưng vẫn còn thấp so với năm 2003 và theo tỷ lệ tăng trưởng của ngành thì các tỷ suất lợi nhuận trước thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo doanh thu cũng như tỷ suất lợi nhuận trước thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo tổng tài sản là tương đối thấp. Nguyên nhân, có thể do Tổng công ty thay đổi cơ cấu mặt hàng kinh doanh, đầu tư vào các tài sản cố định quá nhiều, thừa lao động, mất mát, hư hỏng hàng hoá lớn, năng suất lao động chưa cao, các bộ phận chồng chéo,... sự yếu kém của các nhân tố trên ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, trong đó tác động rất lớn đến tỷ suất lợi nhuận tính theo doanh thu và Tỷ suất lợi nhuận tính theo tổng tài sản.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo tổng VCSH năm 2005 tăng so với năm 2004 là 2,52 có nghĩa nếu các cổ đông bỏ ra 100 đv vốn CSH thì thu lại được 2,52 đv lợi nhuận sau thuế. Tỷ số này là khá cao, khẳng định được rằng Tổng công ty đã và đang làm ăn có hiệu quả, các lỉnh vực sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh tiêu thụ sản phẩm, với nguồn tài chính dồi dào, vững chắc, với nhiều bạn hàng lớn, lượng hàng hoá được tiêu thụ.
Qua các bảng phân tích tình hình kinh doanh ở trên, ta thấy rằng trong những năm qua, các hoạt động sản xuất kinh doanh diển ra rất thuận lợi với một nền tài chính dồi dào, khối lượng tài sản lớn là cơ sở vững chắc cho phép Tổng công ty tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới tiêu thụ tiếp tục đào tạo bồi dưởng lực lượng cán bộ, cũng như hoàn thiên các hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán góp phần nâng cao hoạt động tiêu thụ hàng hoá của Tổng công ty. Ngoài ra, dưới sự quan tâm, chỉ đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước, Bộ VHTT là chổ dựa vững chắc cho Tổng công ty ngày một phát triển, làm ăn có hiệu quả, hoàn thành mọi chỉ tiêu đã đề ra, xứng đáng là Tổng công ty đầu ngành của Bộ VHTT.
IV. Một số đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ Văn hoá phẩm ở Tổng công ty Sách Việt Nam
Đặc điểm ngành kinh doanh Văn hoá phẩm
Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam thuộc Bộ BHTT, cũng là một tổ chức kinh tế được thành lập theo quyết định 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, với nhiệm vụ tổ chức sản xuất và kinh doanh các loại hàng hoá đặc thù là xuất bản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá, tinh thần, trí tuệ của khách hàng.
Loại hình kinh doanh xuất bản phẩm khác với việc kinh doanh các loại hàng hoá thông thường khác ở điểm sau
+ Sản phẩm phải trải qua một quá trình lao động sáng tạo tạo nên, trải qua quá trình tổ chức, vận động tích cực người bán và nhận thức của người mua mới có được mối quan hệ cung cầu xuất bản phẩm.
+ Xuất bản phẩm là loại hàng hoá mà nội dung tri thức của nó có tác động mạnh mẽ đến tâm tư tình cảm tinh thần, trí tuệ của con người. Góp phần tích cực đến sự hình thành nhân cách của con người trong xã hội. Vì thế xuất bản phẩm có ý nghĩa giáo dục rất lớn nước ta hiện nay.
+ Là hàng hoá mà mỗi loại xuất bản phẩm chỉ có thể phù hợp với một hoặc một vài đối tượng sử dụng mà thôi. Điều đó nó quy định bởi nội dung tri thức và mức độ tri thức thể hiện trong xuất bản phẩm như thế nào?
+ Giá trị và giá trị sử dụng của xuất bản phẩm thường không đồng nhất, trong đó các xuất bản phẩm thuộc diện tuyên truyền, giáo dục xã hội vì mục tiêu nâng cao dân trí, các loại xuất bản phẩm trên thường được bán dưới giá thành. Đây là định hướng, chủ trương của Đảng và Nhà nước, là yếu tố quan trọng để quy định chính sách kinh doanh đặc thù của Tổng công ty.
Tổng công ty phải nhằm vào hai mục tiêu cơ bản sau.
+ Mục tiêu xã hội: Thông qua việc phổ biến xuất bản phẩm góp phần tích cực vào tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tri thức và nâng cao dân trí xã hội.
+ Mục tiêu kinh tế: Hoạt động kinh doanh phải có hiệu quả kinh tế, là thước đo giá trị đối với Tổng công ty. đây là điều kiện để Tổng công ty phát triển, mở rộng.
Ngành kinh doanh VHP Việt Nam hiện nay, là một ngành kinh doanh phát triển, thị trường có sức hấp dẫn cao. Với sự phát triển mạnh của khoa học, kỹ thuật, công nghệ tạo ra nhiều loại hàng hoá mới đa dạng về chủng loại, phong phú về kiểu dáng. Sự mở rộng, giao lưu buôn bán hàng hoá quốc tế cũng là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của ngành, các hàng hoá được lưu thông thuận tiện, nguồn cung cấp ổn định và cạnh tranh công bằng trên thị trường.
Qua phân tích tình hình môi trường ngành ta thấy, ngành kinh doanh VHP là ngành đang phát triển, có nhiều tiềm năng, cho phép Tổng công ty tiếp tục mở rộng thị trường, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu tại thị trường rộng lớn này.
Đặc điểm thị trường tiêu thụ
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp xuất bản phẩm đã phải tự chủ hoàn toàn trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà nước chỉ thực hiện việc định hướng, như vậy là Tổng công ty Sách phải tự chịu mọi trách nhiệm trong các hoạt động sản xuất kinh doanh (vốn, vật tư, kỹ thuật,...). Trong cơ chế thị trường các thành phần kinh tế tư nhân sau nhiều năm bị cấm đoán nay đã được tự do hoạt động vào quá trình sản xuất kinh doanh trong đó có ngành xuất bản phẩm. Họ đã trở thành bạn đồng hành, các đối tác kinh tế và cả là những đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế trong kinh doanh xuất bản phẩm với quy mô rộng và phong phú đã khiến thị trường xuất bản phẩm ở nước ta trở nên sôi nổi, hàng hoá xuất bản phẩm phát triển mạnh, phong phú và đa dạng nhằm thoả mãn không ngừng nhu cầu của xã hội.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Tổng công ty đã gặp phải những đối thủ cạnh tranh sau:
+ Các doanh nghiệp phát hành sách các tỉnh thành phố còn lại trong nước
+ Các công ty thuộc khối giáo dục, công ty thiết bị trường học
+ Các công ty, cửa hàng phát hành sách của Nhà xuất bản
+ Các công ty sản xuất kinh doanh Văn hoá phẩm
+ Các công ty kinh doanh Văn hoá phẩm nước ngoài
+ Các cửa hàng, nhà sách tư nhân, hộ kinh doanh gia đình
Sự cạnh tranh xảy ra trên nhiều lĩnh vực: thuế, giá cả, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, các sản phẩm thay thế, tỷ lệ chiết khấu, chính sách ưu đãi đối với người mua, các loại hàng hoá kém chất lượng lẫn lộn được bày bán công khai trên thị trường.
Bảng 9: So sánh lợi thế cạnh tranh của Tổng công ty
Chỉ tiêu
Tổng công ty
Các CT KD VHP
Các cửa hàng,...
+ Thuế
32%
32%
Tuỳ loại hình kd
+ Giá bán
Cao 5-20%
Cao 5-20%
Thấp
+ Mẫu mã
Đa dạng, phong phú
Đa dạng, phong phú
Vừa phải
+ Chất lượng SP
Rất đảm bảo
Đảm bảo
Không rõ
+ Dịch vụ sau bán hàng
Khá hiệu quả
Có
Khá hiệu quả
Nguồn: Phòng kinh doanh văn hoá phẩm 2005.
+ Đối với thuế: là một doanh nghiệp nhà nước, việc nộp thuế là yêu cầu tất yếu, với nhiều loại thuế khác nhau như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế phát hành,... làm cho giá thành sản xuất bị độn cao lên nên hàng bán khó cạnh tranh được với các cửa hàng, nhà sản xuất kinh doanh nhỏ.
+ Đối với giá bán: ở Tổng công ty thường lớn hơn giá thị trường 5-20%. Do quy mô Tổng công ty quá lớn, nên việc hoạch toán kinh tế làm cho chi phí kinh doanh tăng( lương công nhân, thuế, khấu hao,...) khó cạnh tranh được về giá so với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn.
+ Ngoài ra, do trên thị trường có nhiều loại sản phẩm với kiểu dáng, chất lượng khác nhau đặc biệt các loại hàng giả, kém chất lượng như băng đĩa, giấy vở, bút mực,... làm rối loạn về giá, những lợi hàng hoá này tuy chất lượng kém nhưng giá cả thấp nên tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn cho Tổng công ty.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh, Tổng công ty cần phải tiếp tục nâng cao cải tiến công nghệ, đầu tư nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới có chất lượng, với sản lượng lớn, cố gắng hạ giá thành sản phẩm (lịch bloc, giấy vở, đồ chơi,...) nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường tuyên truyền quảng cáo, công tác quản lý,... giảm chi phí kinh doanh tiêu thụ sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh tốt trên thị trường, giữ cho tổng công ty luôn dẫn đầu thị trường ngành xuất bản phẩm.
Ngành Phát hành sách là một ngành đặc thù, bởi các hàng hoá do nó tạo ra mang tính phổ biến trong xã hội là sản phẩm của văn hóa, tinh thần, trí tuệ do con người sáng tạo ra. Do đó, thông qua các hàng hoá xuất bản phẩm Tổng công ty mang đến, nhằm tuyên truyền, giáo dục, phục vụ nhu cầu chính đáng của khách hàng, của người dân.
Khách hàng của Tổng công ty không chỉ là những người tiêu dùng thuần tuý, mà bao gồm tất cả những người nhu cầu có khả năng thanh toán và cả những người không có khả năng thanh toán, thông qua các chính sách tuyên truyền giáo dục của Đảng và Nhà nước đưa Xuất bản phẩm đến tận vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,... trong và ngoài nước.
Đặc điểm môi trường công nghệ
Do đặc điểm khác biệt về sản phẩm, nên việc kinh doanh tiêu thụ mặt hàng văn hoá phẩm cũng có sự ảnh hưởng lớn, trực tiếp của môi trường công nghệ. Thế kỷ XX là thế kỷ của khoa học công nghệ, với sự xuất hiện của điện tử, tin hoc và công nghệ. Sự phát triển công nghệ đã tạo ra nhiều loại mặt hàng mới nhưng cũng đã làm mất đi nhiều sản phẩm không còn thích hợp nữa sự thay đổi công nghệ đó đương nhiên ảnh hưởng đến chu kỳ sống của sản phẩm, mỗi loại sản phẩm sẽ có chu kỳ sống ngắn hơn, chất lượng cũng được đảm bảo hơn và giá cả sẽ thấp hơn. Hơn thế nữa, sự phát triển công nghệ cũng ảnh hưởng tới các phương pháp sản xuất, nguyên vật liệu, sản lượng cũng như thái độ ứng xử của khách hàng.
Đối với mặt hàng VHP, sự thay đổi môi trường công nghệ tác động mạnh đến khả năng tiêu tiêu thụ các sản phẩm VHP. Vòng đời sản phẩm rất ngắn, đối với các loại sản phẩm như các loại giấy đồ dùng văn phòng, các loại đồ chơi điện tử, và hầu hết các sản phẩm VHTT khác, khi công nghệ mới ra đời thì các loại sản phẩm này hiển nhiên bị lỗi thời, kết quả tạo ra những sản phẩm mới có chất lượng cao hơn giá thành rẻ hơn sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn các sản phẩm cũ trên. Việc tiêu thu các loại sản phẩm cũ trên sẽ khó khăn và thường là bán hoá giá, doanh nghiệp sẽ phải chịu lỗ vốn.
Điều cần đặt ra là, Tổng công ty cần phải thường xuyên quan tâm tới sự thay đổi của công nghệ, thường xuyên thay đổi công nghệ mới, vận dụng vào sản xuất nhằm tạo ra nhiều mặt hàng mới có giá phải chăng và chất lượng đảm bảo nâng cao được khả năng cạnh tranh đạt hiệu quả kinh doanh cao trên thị trường.
Đặc điểm nguồn cung ứng
Do đặc điểm ngành nghề kinh doanh của Tổng công ty về VHP với nhiều mặt hàng kinh doanh, hiện nay tổng công ty có trên 5000 mặt hàng VHP đang được khai thác tại các quầy hàng của Tổng công ty. Bao gồm các mặt hàng VHP truyền thống, các loại văn phòng phẩm, các loại biểu mẫu, chứng từ kế toán, các loại đồ chơi với nội dung lành mạnh, các loại băng nhạc đĩa hát, các ấn phẩm điện tử, các mặt hàng mỹ nghệ bưu thiếp bưu ảnh,... Với nhiều loại mặt hàng như vây, nên nguồn cung ứng đầu vào cho Tổng công ty là rất đa dạng, rất nhiều nguồn với nhiều thành phần kinh tế tham gia như các công ty kinh doanh VHP quốc doanh, các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước, các công ty nước ngoài, các làng nghề thủ công hay hộ gia đình.
Từ đặc điểm đa dạng về nguồn cung ứng trên, Tổng công ty nên có những đối sách khác nhau cho những đối tượng cung ứng khác nhau:
Đối với nguồn cung ứng từ những doanh nghiệp sản xuất có danh tiếng, những công ty phân phối lớn trên thị trường Tổng công ty cần giữ mối quan hệ mật thiết, là bạn hàng tốt đẹp, tạo được niềm tin vững chắc cho họ. Nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định, tạo điều kiện cho quá trình kinh doanh diễn ra tốt đẹp.
Đối với nguồn cung ứng là những cơ sở sản xuất nhỏ, các hộ gia đình thì cần phải đặt chất lượng, kiểu dáng cũng như chất lượng dịch vụ lên hàng đầu, có thể lựa chọn từ các nguồn cung ứng khác nhau.
Nên chủ trương nhận làm đại lý phân phối cho các hãng sản xuất VHP, tăng cường kinh doanh các loại hàng hoá ký gửi, các loại hàng hoá có sức tiêu thụ mạnh trên thị trường.
Nói chung, để đảm bảo tốt việc sản xuất cũng như tiêu thụ hàng hoá, Tổng công ty cần chú trọng và xây dựng được khâu cung ứng đầu vào thật tốt.
Đặc điểm nguồn lao động
Tổng công ty Phát hành sách Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước, được cổ phần hoá theo quyết định 90/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ, gồm 13 đơn vị thành viên. Hiện nay, toàn Tổng công ty có 1175 cán bộ công nhân viên, trong đó có 579 cán bộ có trình độ đại học, 56 cao đẳng, 280 trung cấp, 53 văn bằng khác, 83 người sơ cấp và có 124 người chưa qua đào tạo. Trong đó Bộ máy cán bộ quản lý gồm có 579 cán bộ có trình độ Đại học và 56 cán bộ có trình độ Cao đẳng chiếm 51,5% trong tổng số lao động. Cùng với sự chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, Tổng công ty chú trọng củng cố, nâng cấp trang thiết bị văn phòng, từng bước hiện đại hoá mạng lưới thông tin nội bộ giữa Tổng công ty với các công ty thành viên, giữa các phòng chức năng với các quầy hàng, tiến hành buôn bán hàng và giao dịch thương mại quốc tế qua mạng internet.
Chế độ lương thưởng trợ cấp của Tổng công ty:
Thu nhập bình quân năm của cán bộ công nhân viên tăng lên 7-10% năm. năm 2000 thu nhập bình quân là 855 nghìn đồng, năm 2005 thu nhập bình quân là 960 nghìn đồng, và năm 2004 là 1.120 nghìn đồng.
Bảng 10: Tình hình thu nhập của công nhân viên (2003- 2005)
Đơn vị: Đồng
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
1. Tổng quỹ lương
2.586.400.000
2.640.060.000
2.781.600.000
2. Tổng thu nhập
2.805.000.000
2.893.100.000
2.926.000.000
3. Tiền lương bình quân
992.000
1.040.000
1.175.000
4. Thu nhập bình quân
1.080.000
1.120.000
1.265.000
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Tổng công ty năm (2003-2005)
Tổng công ty đảm bảo thực hiện đủ các chính sách đối với người lao động như: nâng lương đúng thời hạn, BHXH, BHYT, hưu trí và các chế độ khen thưởng, lễ tết,.. trả lương cao hơn so với mức quy định chung, giải quyết tiền ăn trưa, quần áo đồng phục hàng năm cho CBNV.
Bảng 11: Tình hình lao động của Tổng công ty
Đơn vị: Người
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
Tổng số lao động
1058
1107
1157
1175
- Trình độ Đại học
475
509
556
579
- Văn bằng khác
30
37
37
56
- Cao đẳng
42
51
52
53
- Trung cấp
240
253
265
280
- Sơ cấp
101
92
89
83
- Chưa qua đào tạo
170
165
148
124
Nguồn: Báo cáo tình hình lao động Tổng công ty năm (2002- 2005)
Để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ Tổng công ty cần tăng cường đào tạo lực lượng lao động trực tiếp sản xuất, đặc biệt là lực lượng lao động bán hàng, là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, giới thiệu sản phẩm cho khách hàng hay là truyền đạt lại những mong muốn, vướng măc của khách hàng để từ đó có những biện pháp khác phục và đưa ra những dịch vụ tốt hơn. Đòi hỏi mỗi người lao động cần phải có kỹ năng bán hàng, có trình độ ngoại ngữ giao tiếp, có khả năng marketing,...
Đặc điểm tình hình tài chính
Tài chính doanh nghiệp có hiệu quả là vừa phải bảo đảm vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa phải tổ chức sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm kích thích phát triển sản xuất kinh doanh vừa là công cụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tổ chức và quản lý tốt tài chính doanh nghiệp và tạo môi trường tài chính lành mạnh sẽ tạo điều kiện đảm bảo cho thắng lợi trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Xét đối với Tổng công ty Sách Việt Nam:
Bảng 12: Tình hình tài chính của Tổng công ty
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Hệ số thanh toán tiền mặt
0,18
0,15
0,20
Hệ số thanh toán nhanh
0,36
0,42
0,45
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn
1,19
1,23
1,23
Nguồn: Báo cáo tài chính đơn vị Hà Nội (2003- 2005)
Hiện nay, tình hình tài chính của Tổng công ty là khả quan. Theo kết quả phân tích tài chính của Tổng công ty năm 2005, các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán bao gồm: khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh đều tăng so với năm 2004, riêng chỉ có chỉ tiêu thanh toán nhanh là hơi thấp, chỉ đạt 0,45 .Việc thanh toán các khảo nợ ngắn hạn gặp khó khăn, Tổng công ty cần phải nâng cao khối lượng tiền bao gồm tiền mặt, tiền gởi ngân hàng, hay các khoản tương đương tiền lên hoặc phải giảm các khoản nợ ngắn hạn xuống. Trong ngành kinh doanh VHP với nhiều loại mặt hàng kinh doanh thì Tổng công ty cần lựa chọn loại hình thanh toán hợp lý để giữ được tỷ lệ thanh toán nhanh một cách hợp lý. Các chỉ tiêu tài sản, cơ cấu tài sản, nguồn vốn đều hợp lý Tổng công ty đã đẩy mạnh đầu tư tài sản cố định tiếp tục tăng nguồn vốn kinh doanh, mở rộng kinh doanh.
Kết quả kinh doanh trong năm 2005 được thể hiện qua các chỉ tiêu hiệu quả là rất khả quan, tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo doanh thu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo tổng tài sản và tỷ suất lợi nhuận sau thuế tính theo tổng vốn chủ sở hữu đều tăng cao so với năm 2004, thể hiện sự hoạt động có hiệu quả của bộ máy lãnh đạo, cũng như sự phát triển đúng hướng của Tổng công ty trong thời gian qua.
Các báo cáo tài chính trong các năm qua cho thấy tỷ lệ tăng bình quân hàng năm của Tổng công ty là khoảng 1,25%, là một tỷ lệ tương đối cao, Tổng công ty cần cố gắng duy trì và nâng cao.
SƠ ĐỒ 1: Bộ máy quản trị ở TỔNG CễNG TY SÁCH VIỆT NAM
Phũng Kinh doanh VHP
Tổng giám đốc
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Phũng Nghiệp vụ tổng hợp
Phũng
Tổ chức
hành chớnh
Phũng Kinh doanh sỏch
TT
Sỏch Thiếu nhi
Phũng Hoạch
toán Tài vụ
Sỏch Ngoại văn
T T
Sỏch Quốc văn
Phòng xuất bản
Phũng Kho vận
Phũng XNK
TT
Sỏch 22B
Hai Bà Trưng
Xưởng in
phần II: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm ở Tổng công ty Sách Việt Nam
1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm của Tổng công ty
Tiêu thụ là khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với hiệu quả kinh tế là cơ sở vững chắc cho quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh, là mục tiêu vươn lên của doanh nghiệp. Tiêu thụ là một quá trình thực hiện thặng dư, là một mắt xích không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh và đống vai trò quyết định.
1.1 Tình hình tiêu thụ sản phẩm văn hóa phẩm của Tổng công ty năm (2003- 2005)
Lĩnh vực kinh doanh văn hoá phẩm là một bộ phận quan trọng, chiếm 55% tổng doanh thu và trên 50% lợi nhuận toàn tổng công ty. Trong đó, có hai loại hình tiêu thụ chủ yếu là bán buôn và bán lẻ. Bán buôn chủ yếu phục vụ các đối tượng khách hàng có nhu cầu lớn như các địa phương, các công ty thành viên, các công ty lớn,... Bán lẻ thường phục vụ các đối tượng khách hàng có nhu cầu mua với số lượng ít, thông qua các cửa hàng, đại lý của Tổng công ty trên địa bàn. Cơ cấu mặt hàng kinh doanh bao gồm các loại văn hoá phẩm tự chọn, văn hoá phẩm và băng đĩa. Việc phân chia cơ cấu mặt hàng như ở trên nhằm tạo thuận lợi cho việc kiểm tra giám sát cũng như nâng cao khả năng hoạt động tiêu thụ của từng mặt hàng.
Bảng 13: Kết quả tiêu thụ văn hoá phẩm tại Tổng công ty năm (2003- 2005)
Chỉ tiêu
ĐV
tính
Năm
Tốc độ tăng (%)
2005
2004
2005
04/03
05/04
BQ
Khối lượng TT
1000b
4.760
4.932
5.311
103,6
107,7
105,7
Bán buôn
1000b
4.485
4.636
4.998
103,4
107,8
105,6
Bán lẻ
1000b
275
296
313
107,6
105,7
106,7
- VHP tự chọn
1000b
150
161
166
107,3
103,1
105,2
- VHP thu TT
1000b
82
90
99
109,8
110,0
109,9
- Băng đĩa
1000b
43
45
48
104,7
106,7
105,7
Doanh thu
Tr đ
61.763
65.815
71.972
106,6
109,4
108,0
Nguồn: Phòng kinh doanh văn hoá phẩm
Kết quả tiêu thụ văn hoá phẩm của 3 năm 2003-2005 ta thấy, khối lượng sản phẩm văn hoá phẩm được tiêu thụ trên thị trường có tăng, năm 2004 là 103,6% so với 2003 đến năm 2005 đã tăng lên 107,7% so với năm 2004, khối lượng tăng bình quân hàng năm là 105,7%, ngang bằng với kế hoạch đề ra của công ty khoảng 105%. Doanh thu tiêu thụ văn hoá phẩm qua các năm 2003-2005 đều tăng khá cao, trung bình hàng năm tăng 108%, đặc biệt doanh thu năm 2005 đã tăng lên 71.972 triệu đồng chiếm 60% tổng doanh thu, đây là điều đáng mừng cho Tổng công ty.
Xét về hình thức tiêu thụ văn hoá phẩm
+ Bán buôn: Những năm gần đây Tổng công ty đã phầm nào chiếm lĩnh được thị trường, có quan hệ làm ăn tốt đẹp với nhiều khách hàng lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực in lịch Blốc, các loại biểu mẩu hành chính, bản đồ,... nên đã thu được nhiều kết quả khả quan, số lượng văn hoá phẩm bán buôn là rất lớn chiếm trên 90% tổng số lượng hàng hoá tiêu thụ trên thị trường. Trong năm 2005 tổng lượng hàng bán buôn đạt 4.998.000 bản tăng 107,8% so với năm 2004 và tốc độ tăng bình quân hàng năm là 105,6%, những kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, do sử dụng hình thức là bán buôn và chủ yếu thông qua các đơn vị thành viên nên chi phí vận chuyển và quản lý là rất lớn, ngoài ra tỷ lệ hưởng hoa hồng trong lĩnh vực tiêu thụ văn hoá phẩm là không cao nên lợi nhuận thu được từ bán buôn vẫn còn rất thấp so với doanh thu đạt được.
+ Bán lẻ: Chủ yếu phục vụ khách hàng có nhu cầu mua với số lượng ít, Trong những năm qua, Tổng công ty đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng thêm nhiều cửa hàng, đại lý nên đã một phần thúc đẩy được hoạt động tiêu thụ trên thị trường, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của hình thức này là 106,7% là tương đối khả quan. So với năm 2003 và năm 2004 thì khối lượng văn hoá phẩm được bán lẻ trên thị trường là có tăng nhưng không đáng kể, nếu xét về tốc độ tăng thì tốc độ tăng trưởng năm 2005 và năm 2004 là 105,7% giảm so với tốc độ tăng trưởng của năm 2004 và năm 2003 là 107,6%. Nguyên nhân chủ yếu do: đội ngũ bán hàng vừa yếu lại vừa thiếu, các biện pháp quảng cáo, xúc tiến bán còn quá ít và không hiệu quả. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh nhỏ chỉ phục vụ mục đích bán lẻ như các cửa hàng văn phòng phẩm, các hộ kinh doanh gia đình,... đang phát triển rất nhanh trên thị trường. Họ chủ yếu cạnh tranh về giá, so với giá bán của Tổng công ty thì giá bán của họ thấp hơn 5-10%. Ngoài ra, lĩnh vực kinh doanh văn hoá phẩm có rất nhiều mặt hàng mới, thường xuyên thay đổi, nên rất khó có thể đáp ứng tốt được nhu cầu, mà đối với các của hàng nhỏ thì những sự thay đổi đó họ có thể kiểm soát được. Bên cạnh đó, sự xuất hiện nhiều loại hàng giả, hàng lậu, hàng kém phẩm chất trên thị trường với giá rất rẻ, các hàng hoá bán lẻ ở Tổng công ty khó có thể cạnh tranh nổi.
Xét về cơ cấu mặt hàng kinh doanh văn hoá phẩm của Tổng công ty: được phân loại dựa vào đặc điểm hình dáng và vị trí đặt trong cửa hàng, chủ yếu để kiểm soát được hàng hoá và chống mất cắp .
+ Các loại văn hoá phẩm tự chọn: là những sản phẩm mà khách hàng có thể tự lựa chọn hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu của mình như tranh ảnh, đồ lưu niệm, các loại bản đồ, các đồ dùng văn phòng phẩm,... Tuy khối lượng tiêu thụ văn hoá phẩm tự chọn có tăng lên trong những năm qua với tốc độ tiêu thụ bình quân hàng năm ở Tổng công ty là 105,1%, nhưng tốc độ tiêu thụ của năm 2005 so với năm 2004 là 103,1% thấp hơn tốc độ tiêu thụ năm 2004 so với năm 2003 chỉ đạt được 107,3%. Điều này do, các mặt hàng văn hoá phẩm tự chọn chưa phong phú về mẫu mã, chủng loại, chưa tìm kiếm được các loại mặt hàng mới, trang thiết bị trưng bày còn thiếu, mặt bằng phục vụ loại hàng hoá này quá chật, chỉ phục vụ được một số đối tượng khách hàng. Để nâng cao được hoạt động tiêu thụ văn hoá phẩm tự chọn, Tổng công ty cần có kế hoạch mở rông cửa hàng, nâng cấp trang thiết bị và cố gắng tìm kiếm được nhiều loại mặt hàng mới đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng .
+ Văn hoá phẩm thu trực tiếp: là những loại sản phẩm bán theo nhu cầu của khách hàng và thu tiền trực tiếp, như các loại bút, mực thiết bị văn phòng nhỏ, các đồ lưu niệm, các loại hàng hoá có giá trị cao,... việc thu trực tiếp nhằm để kiểm soát được số lượng hàng tránh sự mất mát. Đối với loại hàng hoá này, nhu cầu cũng khá lớn, lượng tiêu thụ hàng năm tăng đều, tốc độ tiêu thụ bình quân hàng năm là 110%, năm 2005 tốc độ tiêu thụ có tăng nhưng không đáng kể. Để tiếp tục nâng cao sức tiêu thụ loại sản phẩm này Tổng công ty cần phải đầu tư mở rộng cửa hàng, tìm kiếm các loại hàng hoá mới để phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, cần chú ý đến nghệ thuật bán hàng của nhân viên quầy này.
+ Băng đĩa: bao gồm các loại băng, đĩa giải trí, các loại đĩa chương trình, các loại băng đĩa giáo dục, khoa học đời sống,... Đây là loại hình kinh doanh mới được đưa vào kinh doanh vài năm trước đây, đã đáp ứng được nhu cầu rất lớn của khách hàng đặc biệt là các loại băng đĩa chương trình, các loại băng đĩa giáo dục. Tốc độ tiêu thụ bình quân hàng năm đạt 105,7%, khối lượng năm 2005 là 48.000 bản, so với năm 2004 tăng 3.000 bản, tốc độ tiêu thụ này chưa tương xứng với nhu cầu thực sự của khách hàng đối với loại sản phẩm này. Do đây là sản phẩm trí tuệ, nên khi đem sản phẩm ra tiêu thụ phải là sản phẩm có bản quyền, nên giá cả của loại sản phẩm này là rất cao so với giá các sản phẩm cùng loại bày bán trên thị trường, đó là những sản phẩm được in sao lậu, không mua bản quyền giá rất thấp, ví dụ với các loại đĩa ca nhạc giá bán trung bình 23- 36 nghìn đồng/1đĩa, so với giá của hàng cùng loại in lậu thì giá chỉ 8-10 nghìn đồng/1đĩa, với các sản phẩm phần mềm tin học và giáo dục thì giá trung bình 90-120 nghìn đồng/1đĩa đặc biệt có loại trên 250 nghìn/ 1 đĩa nếu so với đĩa in lậu chỉ bằng 1/10 giá trị. Với giá cả như vậy, hàng hoá tại Tổng công ty rất khó cạnh tranh được, lượng bán ra cũng sẽ rất ít so với nhu cầu. Để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ loại sản phẩm này Tổng công ty cần phải liên kết với các nhà xuất bản, nhà phát hành, các công ty viết phần mềm để làm giảm giá thành sản phẩm, ngoài ra, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền triệt phá được mạng lưới in sao băng đĩa lậu, đem lại sự cạnh tranh công bằng cho thị trờng.
Qua bảng phân tích trên phần nào đã có cái nhìn sơ bộ về tình hình tiêu thụ văn hoá phẩm tại Tổng công ty Sách Việt Nam. Tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ hơn về tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ của các năm qua để hiểu rõ hơn hoạt động tiêu thụ văn hoá phẩm của Tổng công ty.
Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm văn hoá phẩm của Tổng công ty
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phản ánh một cách đầy đủ trình độ dự báo thị trường, kế hoạch có sát thực với thực tế nhu cầu của thị trường thì lượng sản phẩm đầu ra sẽ tiêu thụ có hiệu quả không quá thừa hay không quá thiếu so với thị trường. Nếu đánh giá sai lệch, thì dẫn đến công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn bị sai lệch so với kế hoạch.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm VHP của Tổng công ty được tiến hành xây dựng vào tháng 2 hàng năm. Đây là thời điểm để Tổng công ty tiến hành lập kế hoạch nguyên liệu, sản xuất, tài chính kỹ thuật khác. Đối với khối lợng sản phẩm tiêu thụ theo quý, Tổng công ty tiến hành lập kế hoạch vào khoảng ngày 15 tháng đầu quý. ở thời điểm đó, dựa vào các thông tin dự báo thị trường, các số liệu của những năm trước, các hợp đồng, các đơn đặt hàng đã được ký kết và thực hiện trong năm, dựa vào tình hình chuẩn bị các yếu tố đầu vào,... Phòng kinh doanh văn hoá phẩm, phòng hoạch toán tài vụ và phòng nghiệp vụ tổng hợp sẽ lập báo cáo kế hoạch tiêu thụ VHP trình lên HĐQT, TGĐ duyệt. Kế hoạch tiêu thụ cả năm luôn gắn với nhu cầu của thị trờng, sát thực, gắn liền với tình hình tiêu thụ trong quý và sẽ đợc điều chỉnh cho phù hợp với thực tế phát sinh.
Trong kế tiêu thụ văn hoá phẩm của Tổng công ty có tính đến số lượng sản phẩm đầu kỳ và cuối kỳ, vì đặc điểm tiêu thụ mặt hàng văn hoá phẩm là bán buôn và bán lẻ thông qua các cửa hàng các trung tâm hay tồn kho nên cần phải tích luỹ hàng hoá nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng một cách kịp thời.
Sau đây ta có thể xem xét kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và mức độ thực hiện kế hoạch tiêu thụ tại Tổng công ty.
Bảng 14: Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ văn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5412.doc