Tài liệu Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945: ... Ebook Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc th¸i nguyªn
trƯỜNG §¹i häc sƯ ph¹m
----------------
Ph¹m thÞ thƯ
Quan niÖm v¨n chƯƠNG cña
Xu©n DiÖu TRƯỚC 1945
Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam
M· sè: 60.22.34
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Người hướng dÉn khoa häc:
PGS.TS. Vò TuÊn Anh
Th¸i nguyªn, 2008
§¹i häc th¸i nguyªn
trƯỜNG §¹i häc SƯ ph¹m
----------------
Ph¹m thÞ THƯ
Quan niÖm v¨n chƯƠNG cña
Xu©n DiÖu TRƯỚC 1945
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Th¸i nguyªn, 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Mục lục
Trang
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc luận văn
B. Phần nội dung
Chương I: Tư tưởng của xuân diệu về xây dựng nền quốc văn mới
1.1. Sự xuất hiện của Xuân Diệu và những tác phẩm văn xuôi
trữ tình, phê bình - tiểu luận trong bối cảnh văn chương
đương thời.
1. 2. Thiết tha xây dựng một nền quốc văn, một nền văn
chương An Nam.
1.2.1. Đề cao tiếng mẹ đẻ, kêu gọi sáng tạo bằng quốc ngữ
để xây dựng nền quốc văn.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Tính cách An Nam trong văn
chương và vấn đề Mở rộng văn chương.
1.3. Vấn đề thanh niên với quốc văn.
1.4. Tư tưởng văn chương và quan niệm về thơ của Xuân Diệu
qua phê bình.
Chương II: Quan niệm của Xuân Diệu về văn chương và thi ca
2.1. Quan niệm về văn chương và người nghệ sĩ
2.1.1 Người nghệ sĩ phải có tâm hồn thành thật và một trái tim
đa cảm.
2.1.2. Người nghệ sĩ phải là kẻ hiến dâng.
3
6
12
12
13
15
15
20
20
25
28
31
38
38
40
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
2.2. Quan niệm về thi ca và nhà thơ.
2.2.1. Sự tinh chất của thơ-Thơ ngắn.
2.2.2. Tính trừu tượng và phức tạp của thơ - Thơ khó
2.2.3. Thơ phải hướng về con người - Thơ của người
2.2.4. Quan niệm về Ái tình và Thơ tình.
Chương III: Một phong cách văn Xuôi trữ tình và phê bình - tiểu
luận độc đáo
3.1. Tương quan giữa văn xuôi và thơ.
3.2. Cách diễn đạt giàu hình tượng.
3.3. Giọng điệu.
3.3.1. Giọng tâm tình chia sẻ
3.3.2. Giọng điệu nồng nàn, tha thiết.
3.4. Cách tổ chức ngôn ngữ trong diễn ngôn phê bình - tiểu
luận của Xuân Diệu.
3.4.1. Lối đặt tên bài, cách mở đầu mới mẻ tạo ấn tượng
3.4.2. Lối hành văn diễn đạt mới mẻ.
3.4.3. Cách lặp từ vừa tạo những điểm nhấn cho tư tưởng , vừa
tạo nhạc điệu cho văn.
3.4.4. Mới mẻ và táo bạo trong sử dụng từ ngữ
c. Kết luận
Tài liệu tham khảo
49
49
51
54
59
67
67
70
72
73
75
77
77
78
80
81
84
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
A - Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
1.1 Xuân Diệu (1916-1985) là một nghệ sĩ đa tài, một tài năng độc
đáo của thơ ca Việt Nam hiện đại. Trải qua nửa thế kỉ miệt mài sáng tạo,
ông đã để lại trong kho tàng Văn học dân tộc một gia tài đồ sộ , gần năm
mươI tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: thơ văn, nghiên cứu, dịch
thuật, phê bình. ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được nhiều thành tựu xuất
sắc, gây được nhiều cảm tình trong lòng bạn đọc, bạn thơ văn và những
người mến mộ tài năng của ông. Xuân Diệu mở đầu sự nghiệp và nổi tiếng
trên văn đàn từ những năm 1930 bằng hàng loạt các tác phẩm: Thơ thơ
(1938) Gửi hương cho gió (1945) tập truyện ngắn Phấn thông vàng,
Trường ca và một số tác phẩm lẻ sáng tác từ 1938 đến 1945.
Với tư cách là nhà Thơ Mới, Xuân Diệu là người đưa Thơ Mới lên đỉnh
cao của sáng tạo nghệ thuật và ông là một hiện tượng tiêu biểu của phong
trào. Sở dĩ ông được coi là một hiện tượng điển hình, là một nhà thơ tiêu biểu
nhất của phong trào Thơ Mới, là bởi ông không chỉ có đóng góp lớn về số
lượng mà chính là những đóng góp mới về chất lượng và nội dung tác phẩm.
Đọc thơ Xuân Diệu ta thấy ở đó có một cái tôi thi sĩ luôn rạo rực say mê, luôn
hối hả, gấp gáp với cuộc sống đang chảy trôi theo thời gian. Đó là cái tôi của
một tấm lòng yêu đời, yêu con người, yêu cuộc sống đến tha thiết.
1.2 Bên cạnh một Xuân Diệu với tư cách là nhà thơ xuắt sắc của Thơ
Mới, “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” ta còn thấy một Xuân
Diệu - nhà văn với nhiều tác phẩm văn xuôi, phê bình - tiểu luận đặc sắc.
Thông qua những bài tiểu luận -phê bình này, người ta nhận thấy nổi bật vai
trò của một cây bút nhiệt huyết và mang tinh thần tiên phong trong xây dựng
và đổi mới văn chương đương thời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Phấn thông vàng và Trường ca của Xuân Diệu khi xuất hiện trên văn đàn
đã được giới nghiên cứu phê bình văn học đánh giá cao , thể hiện một xu
hướng sáng tạo mang vẻ đẹp riêng với tính chất độc đáo, đặc sắc của một
kiểu mô hình văn xuôi mới. Điều này được Huy Cận đưa ra nhận xét như
sau: “Phấn thông vàng đã gây xôn xao, một sự xôn xao thú vị trong giới văn
học thời đó, xôn xao bởi vì đây là một sư sáng tạo: Truyện mà gần như không
có truyện, không phải truyện đời mà là truyện tâm hồn, còn văn là những bài
thơ văn xuôi dạt dào cảm xúc, cực kì gợi cảm” [2,442]
Song song với mảng văn xuôi trữ tình, ông còn viết nhiều bài phê bình
- tiểu luận thể hiện rõ những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc
văn.Đây cũng là một cách bộc bạch con người Xuân Diệu trong cuộc đối
thoại với chính mình, với văn chương và thời đại. Những bài phê bình - tiểu
luận đó chủ yếu được đăng báo Phong hoá, Ngày nay trong những năm 1937-
1939.
Có thể nói Xuân Diệu xứng đáng được xem là một tài năng đa dạng,
một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hoá lớn.
Xuân Diệu với tư cách là một nhà thơ đã được nghiên cứu nhiều và
càng ngày người ta càng nhận ra những giá trị mới, những vẻ đẹp mới của thơ
Xuân Diệu. Về văn xuôi Xuân Diệu, đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình
khảo sát và phân tích giá trị của nó, nhưng có thể nói cho đến nay, mảng văn
xuôi trữ tình của Xuân Diệu với vẻ đẹp của ý tưởng nghệ thuật riêng, mang
đậm phong cách Xuân Diệu đã được phân tích khá nhiều tuy vẫn cần được
tiếp tục có những nghiên cứu phân tích. Đồng thời mảng phê bình, tiểu luận
của Xuân Diệu - một phương diện rất đáng được chú ý trong hoạt động văn
chương của người thi sĩ trẻ khi ấy còn ít được nghiên cứu. Một vài bài trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
số đó có vẻ như bị lãng quên, chúng không có mặt trong Tuyển tập Xuân Diệu
và ngay cả trong Toàn tập Xuân Diệu mới được xuất bản.
Chọn đề tài Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945 , luận
văn nhằm tới những mục đích như sau:
Một là, văn xuôi, phê bình - tiểu luận của Xuân Diệu thể hiện một phần
tư tưởng tài năng của ông, chứa trong đó những giá trị tư tưởng và nghệ thuật
đặc sắc. Có nhiều tư tưởng, quan niệm, cảm xúc của Xuân Diệu về nghệ thuật
và cuộc đời được trình bày qua truyện ngắn, tuỳ bút, phê bình tiểu luận mở ra
cho ta thấy nhiều khía cạnh, phương diện trong tư duy và cảm xúc của Xuân
Diệu - người thi sĩ trẻ tuổi.
Hai là, thông qua việc nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật của Xuân Diệu
(truyện ngắn, bút kí) cũng như mảng văn tiểu luận - phê bình của nhà thơ, có
thể hiểu thêm được thực trạng nhu cầu, khát vọng của văn chương đương thời
và của Thơ Mới. Đặt tư tưởng, Quan niệm văn chương của Xuân Diệu
trước 1945 trong mối tương quan với văn chương đương thời cũng để thấy rõ
hơn phong cách riêng của Xuân Diệu, đồng thời thấy được những đóng góp
của ông cho nền văn học hiện đại.
Ba là, tác gia Xuân Diệu được chọn giảng trong chương trình Đại học ,
Cao đẳng và các trường THPT như một tác giả văn học có một vị trí quan
trọng. Trong nhà trường phổ thông, tác phẩm của ông không chỉ có thơ mà cả
văn xuôi được giảng dạy với một số tiết tương đối lớn. Về thơ, Đây mùa thu
tới, Thơ duyên, Vội vàng là ba tác phẩm được chọn giảng chính thức. Còn
Nguyệt Cầm chọn đọc thêm. Về văn xuôi có bài đọc thêm Toả nhị Kiều. Như
vậy cùng với thơ, văn xuôi Xuân Diệu mà Toả nhị Kiều là một trong những
tác phẩm tiêu biểu cũng đã được khẳng định như những giá trị văn chương
Xuân Diệu. Việc nghiên cứu mảng văn phê bình -tiểu luận của Xuân Diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
cùng những quan niệm văn chương của ông sẽ góp phần làm rõ hơn những tác
phẩm của ông được giảng dạy trong nhà trường.
Vì vậy, với đề tài Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước
1945, luận văn mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu những đặc
sắc nội dung và nghệ thuật của văn xuôi, phê bình tiểu luận của Xuân Diệu
một cách đầy đủ hơn. Đồng thời về mặt chuyên môn, luận văn cũng hi vọng
góp phần thiết thực phục vụ cho việc giảng dạy những sáng tác của Xuân
Diệu ở trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1 Thời kì trước 1945.
Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, Xuân Diệu đã gây được sự chú ý
của giới nghiên cứu phê bình văn học, đã lọt vào “mắt xanh” của những cây
bút có tên tuổi và uy tín trong giới văn nghệ. Có nhiều ý kiến đánh giá khác
nhau, khen có, chê có. Nhưng tựu trung lại, các bài viết đều thống nhất đánh
giá cao đóng góp của Xuân Diệu ở cả hai thể loại thơ và văn xuôi. Ngay khi
Xuân Diệu xuất hiện với những bài thơ đầu tiên, Thế Lữ đã hào hứng giới
thiệu nhà thơ trẻ này với bài Một nhà thi sĩ mới - Xuân Diệu trên báo Ngày
nay Khi Thơ thơ- tập thơ đầu của Xuân Diệu được xuất bản (1937), Thế Lữ
viết Lời tựa với những tình cảm ưu ái và hào hứng đón chào nhà thơ mới.
Người ta thường đánh giá bài viết này là "chiếu nhường ngôi " của nhà thi sĩ
lãng mạn Thế Lữ nổi tiếng nhất đương thời dành cho Xuân Diệu. Báo chí
cũng đăng tải nhiều bài khen ngợi. Xuân Diệu được đánh giá là "nhà thơ mới
nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh), hay “Một thi sĩ rất giàu lòng yêu
dấu” (Vũ Ngọc Phan). Về văn xuôi Xuân Diệu, dư luận cũng đã chú ý nhiều
đến phong cách viết độc đáo, đầy chất trữ tình trong văn ông. Ra đời sau tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Thơ thơ một năm, tập văn xuôi Phấn thông vàng của Xuân Diệu được công
chúng đón nhận nồng nhiệt và đánh giá cao ngay từ khi mới ta đời.
Là nhà văn viết văn xuôi, nên văn xuôi Xuân Diệu rất giàu chất thơ, ý
vị thơ. Vũ Ngọc Phan, tác giả của Nhà văn hiện đại đã rất tinh tế khi phát hiện
ra chất thơ chan chứa ở văn xuôi Xuân Diệu; “Xuân Diệu ở đâu cũng đem
theo một hồn thơ bát ngát và mộng mơ. Trong quyển Phấnthông vàng mà
Xuân Diệu gọi là một tập tiểu thuyết ngắn, tôi chỉ thấy thơ là thơ. Không phải
thơ bằng những câu có vần, có điệu, không phải thơ ở những lời gọt đẽo mà là
thơ ở những lối diễn tính tình cùng tư tưởng, ở những cảnh vật cỏn con mà tác
giả vẽ nên nhưng nét tỉ mỉ, khi ảm đạm lúc xinh tươi tuỳ theo cái hứng sáng
tạo của tác giả” [28,208]
Đồng thời, Vũ Ngọc Phan sau khi đọc Phấn thông vàng cũng đưa ra
nhận xét về mối quan hệ giữa ý và lời văn Xuân Diệu: “lời chẳng qua chỉ là
những dấu hiệu để ghi những ý nghĩ và tình cảm, vậy cứ gì lời thanh, lời thô,
lời nào phô diễn được hết tình ý đều có thể dùng được cả”. Như vậy, Vũ
Ngọc Phan cho rằng văn xuôi Xuân Diệu rất chú trọng vào việc phô diễn ý
nghĩ và tình cảm con người nên không qúa chú ý đến lời, bởi thế, bất luận là
lời thanh hay lời thô ông đều không đắn đo khi sử dụng, miễn sao nói được
hết ý nghĩ và tình cảm của mình: "“Có lẽ Xuân Diệu chú trọng về ý nghĩ về
tình cảm thái quá nên không nghĩ đến sự lựa lời, dùng chữ. [28,209].
Huy Cận - người bạn thân thiết nhất của Xuân Diệu trong bài Phấn
thông vàng và những truyện ngắn trữ tình của Xuân Diệu đưa ra nhận xét về
một đặc trưng của văn xuôi Xuân Diệu: “Truyện mà gần như không có
truyện, không phải là truyện đời mà là chuyện tâm hồn” và chính Xuân Diệu
cũng cho rằng: Tâm hồn người có biết bao nhiêu là chuyện. Vấn đề tâm hồn
mà Xuân Diệu muốn nói ở đây là vấn đề nhân bản chủ nghĩa, trong đó tác giả
đầu tư cảm nghĩ của mình về cuộc sống, về con người, nhưng trong đó cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
đầy rẫy những nét, những tình tiết của cuộc đời “thiên hạ”. Rõ ràng là tác
phẩm của một người có các thớ lòng đã gắn bó xoắn xưýt với đồng loại”
[2,442]. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong nghiên cứu về lối viết văn
xuôi của Xuân Diệu, khẳng định ngay rằng cái điều tưởng như “chơi vơi”,
tưởng như “trẻ con học nói, hay người ngoại quốc võ vẽ tiếng Nam, câu văn
tuồng bỡ ngỡ” lại chính là chỗ “Xuân Diệu hơn người”. Sở dĩ theo Hoài
Thanh, đó là do “dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những điều sẵn
có, ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn cũng phải lung lay” [32,116].
Tóm lại Hoài Thanh, Huy Cận, Vũ Ngọc Phan vừa là những nhà phê
bình văn học, vừa là những người cùng thời với Xuân Diệu, đều đánh giá rất
cao về những vấn đề nội dung, ý tưởng, phong cách trong sáng tác của văn
xuôi trữ tình Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945.
Tuy vậy, hình như những bài phê bình - tiểu luận của ông ít được dư
luận chú ý vì đây chỉ là những bài báo lẻ, không in thành sách. Tập Thanh
niên với quốc văn được in trước Cách mạng tháng Tám vài tháng nên cũng
chưa kịp được nhắc đến nhiều trên báo chí trong một hoàn cảnh đặc biệt của
một không khí sôi sục trước Cách mạng.
2.2. Thời kì sau 1945.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính Xuân Diệu đã tự kiểm điểm về
các sáng tác thời kì lãng mạn của mình và tự ăn năn, hối lỗi: “Những tác
phẩm của tôi, trong thời Pháp thuộc đã tuyên truyền cho một tình yêu mê
muội, đắm đuối, một trò ích kỉ của cá nhân, cho một lòng thương ngậm ngùi,
buồn tủi, cho sự hưởng lạc trong cảm xúc, sắc dục, cho sự bị động buông
xuôi, tiêu cực. Đứng trên lập trường mà xét, tiểu thuyết đó hoàn toàn vô giá
trị. Những thơ văn ấy đều đầu độc một số người thành thị nhất là thanh niên
học sinh”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Từ năm 1975 đến nay, sự nhìn nhận đánh giá của xã hội đối với Thơ
Mới không còn khắt khe như trước nữa. Các tác phẩm của Xuân Diệu cũng
được nhìn nhận một cách thoả đáng hơn, đúng đắn hơn đặc biệt đưa vào giảng
dạy ở nhà trường và được khẳng định bằng hàng loạt các bài nghiên cứu.
Mã Giang Lân trong bài “Sự đa dạng của Xuân Diệu” đánh giá cao văn
xuôi Xuân Diệu: “Văn xuôi Xuân Diệu mang một hình thức toàn mĩ và thơ
khẳng định ở anh sự mẫn cảm dồi dào”.
Lưu Khánh Thơ trong bài “Xuân Diệu một tài năng đa dạng” cũng đã
đưa ra nhận xét về đặc điểm của văn xuôi Xuân Diệu: Đặc điểm nổi bật trong
văn xuôi của Xuân Diệu thời kì này chính là tính trữ tình lãng mạn. Những
trang văn thật đẹp, với những câu văn, những hình ảnh được trau chuốt, gọt
giũa kĩ càng, câu văn giàu nhạc điệu, không sa vào biền ngẫu song lại luôn
tạo được âm hưởng riêng...Xuân Diệu đã giãi bày đầy đủ hơn, rõ ràng và đậm
nét hơn những quan niệm về tình yêu con người và cuộc sống. Bao trùm lên
những trang văn của Xuân Diệu là niềm khát khao gắn bó với cuộc đời và
một tình yêu say đắm không giới hạn [34,13].
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, người nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về
Xuân Diệu, trong bài “Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu”, đã điểm lại
toàn bộ sáng tác của văn xuôi Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Về văn
xuôi Xuân Diệu trước cách mạng, ông đưa ra nhiều nhận xét ở nhiều góc độ
nghệ thuật khác nhau. Ông cho rằng “Phấn thông vàng và Trường ca là hai
tác phẩm đều mang đậm một đặc tính chung: tính trữ tình, nội dung trữ tình
khi thì sục sôi, mãnh liệt, khi thì tha thiết vỗ về như ru lòng người trong tình
thương mến” [19,98]
Về sự giao hoà, bổ sung và hô ứng giữa thơ và văn xuôi Xuân Diệu,
ông nhận xét: “có rất nhiều tứ thơ của Xuân Diệu đã được diễn đạt bằng cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
của văn xuôi”. Đó là tứ “xuân không mùa, xuân vĩnh viễn”, “tình yêu lớn gặp
người yêu nhỏ”.
Như vậy, văn xuôi của ông thật sự đã trở thành những câu chuyện tâm
tình của cái tôi chủ quan, bộc lộ những quan niệm sâu xa, mới mẻ của ông về
nghệ thuật và cuộc sống. Hơn nữa, ông còn đưa ra ý kiến “không muốn tách
biệt văn với thơ” và đặc biệt nhấn mạnh đến khả năng chuyển tải tư tưởng và
cảm xúc của văn xuôi Xuân Diệu: “Văn vẫn có nhiều khả năng thuật tả
chuyện đời cặn kẽ hơn thơ. Cho nên cái phần gắn bó với đời của Xuân Diệu
được thể hiện đầy đủ hơn, đậm nét hơn trong văn xuôi”; "Về mặt giọng điệu,
Xuân Diệu năm 1939 cũng là Xuân Diệu những năm về sau, tự nhiên, nhẹ
nhàng mà không kém phần duyên dáng. Văn ông không sa vào biền ngẫu
nhưng lại tạo được âm hưởng riêng. Câu văn như lời trò chuyện dung dị,
thỉnh thoảng lại có cái đột ngột của một thứ đối thoại tâm tình. Đọc những bài
viết ra từ năm 1939 này, người ta vẫn nhận ra nét bút riêng của con người sau
này sẽ viết nên Tiếng thơ, Dao có mài mới sắc, Và cây đời mãi mãi xanh
tươi..." [19,100].
Các quan điểm về văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng đã
được các nhà nghiên cứu chú ý. Trong bài Xuân Diệu và một quan niệm cởi
mở về tính dân tộc của Vương Trí Nhàn { 33;257} đã sưu tầm giới thiệu bài
Mở rộng văn chương của Xuân Diệu, trong đó nhấn mạnh đến tinh thần cới
mở của nhà thơ về tính dân tộc. Ông viết: " Chúng ta sẽ gặp ở đây một cách
hiểu khá rộng rãi của Xuân Diệu: ông không nghĩ tính dân tộc là một cái gì
nhất thành bất biến. Ngược lại, từ kinh nghiệm riêng của một người làm việc,
ông bảo chúng ta phải mở cửa, phải biết tiếp nhận. Có những cách nói ban
đầu khó nghe rồi dần dần sẽ quen. Chừng nào còn là người Việt, những cái
chúng ta viết sẽ là văn chương Việt Nam. Không phải chỉ có một lối giản dị,
"chân quê" mới là dân tộc như có người đã nghĩ!"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Lê Quang Hưng cũng là một nhà nghiên cứu có nhiều bài viết đề cập
đến các vấn đề về lý tưởng thẩm mỹ, cái tôi trữ tình của Xuân Diệu. Trong bài
Tinh thần phục hưng trong lý tưởng thẩm mỹ của Xuân Diệu trước 1945, nhà
nghiên cứu cho rằng: " Lịch sử phát triển nghệ thuật nhân loại phản ánh cố
gắng của con người tìm cách khẳng định mạnh mẽ hơn bản lĩnh, in ấn sắc nét
hơn bộ mặt cá nhân mình trong thế giới tác phẩm do mình tạo nên". Và ông
đã làm rõ điều này thông qua việc phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong mối
quan hệ với thế giới và con người (33;325).
Có thể kể thêm một số bài viết khác đề cập đến một số khía cạnh trong
phong cách thơ và thế giới tư tưởng -thẩm mỹ của Xuân Diệu, trong đó ít
nhiều cũng có đề cập đến văn xuôi Xuân Diệu như Nỗi buồn và sự cô đơn
trong thơ Xuân Diệu của Lý Hoài Thu (33;295), Quan niệm nghệ thuật về
con người trong thơ Xuân Diệu của Nguyễn Thị Hồng Nam (33;339)...
Tập trung nghiên cứu sự nghiệp phê bình của Xuân Diệu, công trình
của tác giả Phan Ngọc Thu Xuân Diệu - nhà nghiên cứu phê bình văn học đã
có sự phân tích đánh giá khá hệ thống về vấn đề này. Tác giả đã chú ý đến
Quan niệm của Xuân Diệu về văn học và phê bình, Thành tựu của lý luận phê
bình Xuân Diệu qua các thời kỳ và phong cách phê bình của Xuân Diệu. Như
tên công trình, tác giả chú ý trước hết đến công việc lý luận phê bình của
Xuân Diệu, đồng thời cũng đề cập đến một số quan niệm về văn chương của
ông. Cuốn sách cũng đã nhìn lại một số tác phẩm phê bình của Xuân Diệu qua
các thời kỳ, nhấn mạnh thành tựu phê bình của Xuân Diệu đối với di sản văn
học cổ điển dân tộc cũng như một nét đặc sắc trong phong cách phê bình của
ông - đó là "nhà thơ trong nhà phê bình" [35].
Gần đây, nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh cũng đã có một bài viết trực
tiếp đề cập đến T ư tưởng về quốc văn và văn chương của Xuân Diệu thời trẻ
(trước 1945) đăng trên Tạp chí Văn học số 2-2008. Nhà nghiên cứu đã chú ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
phân tích mảng tiểu luận phê bình của Xuân Diệu để từ đó nhận ra những tư
tưởng văn chương độc đáo và có tính tiên phong của nhà thơ trẻ này: nhiệt
tình xây dựng nền quốc văn, chống những biểu hiện nô lệ và xa rời dân tộc,
bàn bạc về những vấn đề về thơ với nhiều ý kiến mới mẻ so với quan niệm
thơ ca đương thời.
Những bài viết, công trình trên dù đề cập trực tiếp hay không trực tiếp
đến đề tài luận văn cũng là những gợi ý quý báu để chúng tôi thực hiện luận
văn Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945.
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy toàn bộ những ý kiến trên đều khá
thống nhất trong việc khẳng định giá trị tư tưởng, nghệ thuật của văn xuôi
Xuân Diệu:
1. Tác phẩm văn xuôi của ông đều thấm đẫm chất trữ tình, rất gần với
thơ, ở đó thế giới cảm xúc phong phú của chủ thể trữ tình được phơi bày đậm
nét.
2. Tư tưởng và quan niệm về văn chương của Xuân Diệu khá phong
phú. Nó được thể hiện trong cả những áng văn xuôi trữ tình như Phấn thông
vàng, Người lệ ngọc, Chú lái khờ..., đồng thời cũng được thể hiện một cách
trực tiếp qua các bài phê bình - tiểu luận như Thơ của người, Tuy Lý Vương -
thi sĩ Tàu, Tính cách An nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Thanh
niên với quốc văn...
Nhìn một cách tổng quát, ta thấy các sáng tác của Xuân Diệu đã thu hút
được nhiều nhà nghiên cứu phê bình với các công trình nghiên cứu công phu,
đa dạng và phong phú. Tuy vậy, hầu hết các công trình đều tập trung khẳng
định những đóng góp và vị trí của Xuân Diệu trong phong trào Thơ Mới mà
chưa tập trung nhiều vào vị trí của văn xuôi Xuân Diệu và nhất là phần tiểu
luận phê bình còn hầu như ít được đề cập.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
1. Về tiểu luận phê bình: các bài Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu, Công của thi
sĩ Tản Đà, Đôi lời tự thuật Thơ Thơ, Thơ ngắn, Thơ khó, Thơ của người, Thơ
ái tình. Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương, Đàn bà
hay người yêu: ái tình và khuôn sáo, những bài này chủ yếu đăng trên báo
Ngày nay trong khoảng 1937-1939. Ngoài ra còn có tập Thanh niên với Quốc
văn (lấy tên bài nói chuyện với Sinh viên tại trường Đại học ngày 4 tháng 2
năm 1945) cùng một số bài khác như Hàng bia Văn Miếu, Công danh và sự
nghiệp, Cái học quẩn quanh.
2. Hai tập Phấn thông vàng, Trường ca cùng một số tác phẩm lẻ in trong
Tuyển tập Xuân Diệu tập II - NXB Văn học Hà Nội 1987, trong đó chú ý đặc
biệt đến những truyện ngắn liên quan đến đề tài như Người lệ ngọc, Chú lái
khờ, Phấn thông vàng...
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu, chúng tôi kết hợp sử dụng các
phương pháp:
4.1 Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, chúng tôi
xem xét cả những tác phẩm văn xuôi trữ tình cũng như mảng văn xuôi, phê
bình tiểu luận như một hệ thống, có chú ý đến đặc điểm nội dung và nghệ
thuật riêng. Đồng thời, các quan điểm về văn chương của Xuân Diệu được đặt
trong toàn bộ hệ thống và sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu để làm nổi bật
quan điểm, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của ông.
4.2 Phương pháp phân tích - tổng hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Tiến hành khảo sát phân tích các tác phẩm, bài viết tiêu biểu, làm sáng tỏ
khía cạnh nội dung nghệ thuật, đồng thời sử dụng phương pháp nghệ thuật
tổng hợp hệ thống hoá để nhận ra những đặc điểm lớn, có tính đặc trưng.
4.3 Phương pháp so sánh, đối chiếu
Trong quá trình phân tích chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu sự tương giao
giữa văn xuôi và thơ Xuân Diệu cũng như trong mối tương quan với một số
tác giả khác để thấy được nét đặc trưng trong cảm quan sáng tác cũng như
phong cách phê bình - tiểu luận của Xuân Diệu so với các tác giả cùng thời
như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Thạch Lam...
5 .Cấu trúc luận văn
I. Phần Mở đầu
II. Phần nội dung: gồm 3 chương
Chương I: Tư tưởng của Xuân Diệu về xây dựng nền Quốc văn
mới
Chương II: Quan niệm của Xuân Diệu về văn chương và thi ca.
Chương III: Một phong cách văn xuôi trữ tình và phê bình - tiểu
luận độc đáo.
III. Phần Kết luận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Chương I
Tư tưởng của Xuân Diệu về xây dựng nền quốc văn mớiT
1.1. Sự xuất hiện của Xuân Diệu và những tác phẩm văn xuôi trữ tìnhS,
phê bình - tiểu luận trong bối cảnh văn chương đương thời.
Xuân Diệu đã sớm nổi tiếng từ những bài thơ đăng báo từ giữa những
năm 30 và thực sự được thừa nhận như một nhà thơ đặc sắc hàng đầu của Thơ
mới với hai tập thơ Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945).Đã có biết
bao nhiêu định ngữ gắn liền với các tên Xuân Diệu ngay từ khi nhà thơ trẻ
xuất hiện trên thi đàn Thơ Mới. Thế Lữ, người đã có công đầu trong việc gây
dựng phong trào Thơ mới và được coi như nhà thơ xuất sắc nhất vào giai
đoạn khởi đầu của Thơ mới đã sung sướng nhận ra Một nhà thi sĩ mới - Xuân
Diệu. Thế Lữ trân trọng giới thiệu Xuân Diệu trong số Xuân Ngày nay 1937.
Dư luận tiếp tục đánh giá Xuân Diệu bằng những lời ngợi ca nồng nàn nhất.
Ông được coi là nhà thơ " mới nhất trong những nhà thơ mới" (Hoài Thanh),
“thi sĩ nồng nàn nhất" (Vũ Ngọc Phan), đặc biệt trong thơ tình. Dường như
vượt lên tất cả các nhà thơ đương thời, những vần thơ tình say đắm của ông
đã mở ra cho Thơ Mới cả một vườn trần đầy hương sắc.
Xuân Diệu bước vào làng thơ khi Thơ mới đã thực sự thắng thế Thơ cũ
và xác lập vị trí độc tôn của nó trên thi đàn cũng như trong lòng người đọc.
Có thể nói, Xuân Diệu xuất hiện vào thời cực thịnh của Thơ mới và chính nhà
thơ trẻ này càng làm cho Thơ mới càng thêm xuân sắc. Thơ mới thời kỳ này
đã có một đội ngũ nhà thơ đông đảo và tài năng, đã có nhiều tác phẩm không
phải chỉ đủ sức xô đổ những cũ kỹ của Thơ cũ mà còn thực sự cho thấy những
sự lộng lẫy say đắm của một nền thơ ca mới đang có sức hấp dẫn lớn với độc
giả đương thời. Các tác phẩm của Xuân Diệu càng làm Thơ mới giàu sức
quyến rũ. Nhưng khi Xuân Diệu xuất hiện, Thơ mới vẫn còn đang tiếp tục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
vượt lên: biết bao nhiêu vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển của cả nền thơ
khi đó. Báo Ngày nay với mục Tin thơ do Thế Lữ chủ trì vừa đăng thơ vừa
bình thơ, vừa có mục đích khuyến khích sáng tác thơ và có thể nói, "gánh
vác" cả nhiệm vụ dạy người đọc làm thơ thông qua những bài phê bình giới
thiệu, nhiều khi làm cả công việc sửa chữ, uốn vần cho nhiều bài thơ. Hàng
loạt bài phê bình lý luận Thơ mới được đăng tải trên báo chí cho thấy Thơ
mới tiếp tục củng cố những bước đi và thành tựu của nó trên con đường phát
triển. Không còn là chuyện cần đấu tranh với sự trì trệ, sáo mòn của Thơ cũ
nữa mà vấn đề là Thơ mới cần khắc phục những công thức mới của chính nó ,
tiếp tục mở rộng con đường sáng tạo thơ ca.
Đồng thời, nhìn rộng hơn ra nền văn học Việt Nam đương thờ i, công
việc xây dựng nền quốc văn mới được khởi sự từ những năm đầu thế kỷ vẫn
được tiếp tục đặt ra ngày càng cấp bách, đặc biệt trong yêu cầu hiện đại hóa.
Làm sao để xây dựng nền quốc văn mới, vừa có sự tiếp thu những thành tựu
hiện đại của văn học Tây phương, vừa giữ vững bản sắc và tinh thần Việt
Nam.
Luồng gió văn hóa Tây phương đã ùa vào Việt Nam, đem đến biết bao
sự mới mẻ, hấp dẫn và chính nó đã tạo một lực đẩy to lớn cho văn hóa và văn
học Việt Nam trên đường hiện đại hóa. Nhưng đồng thời, người ta đã có thể
nhìn thấy và lo lắng về một cuộc "xâm lăng văn hóa" từ phương Tây. Vấn đề
xây dựng một nền quốc văn mới, thực sự Việt Nam đang trở thành một thách
thức trước những người trí thức và những nhà văn nghệ đương thời. Liệu có
thể tạo nên một sự phục hưng văn hoá, đưa văn hoá dân tộc hoà đồng vào thế
giới hiện đại? Khát vọng ấy đòi hỏi một sự tăng tốc mạnh mẽ và mở rộng
cánh cửa văn hoá ra thế giới. Nhưng tình thế ấy lại đặt văn hoá dân tộc trong
một tư thế chênh vênh: liệu một nền văn hoá “ nhỏ” có thể chống lại ảnh
hưởng áp đặt của những nền văn hoá “ lớn” và có thể chống lại sự cưỡng bức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
văn hoá của chủ nghĩa thực dân phương Tây sẵn sàng xoá bỏ từng bước
truyền thống văn hoá bản địa. Trước tình thế ấy, văn hoá Việt Nam đã thể
hiện một cách ứng xử mềm dẻo, linh hoạt và khôn ngoan, thể hiện rõ bản lĩnh
văn hoá và tinh thần dân tộc trên cả hai phương diện: một mặt, nhanh chóng
và gấp gáp củng cố nội lực văn hoá, vun đắp gốc rễ truyền thống và mặt khác,
tiếp thu mạnh mẽ những tinh hoa, kinh nghiệm của văn hoá hiện đại phương
Tây, và rộng hơn, của cả thế giới văn minh hiện đại.
Nhưng bản thân việc tiếp thu và sáng tạo cũng là một vấn đề không đơn
giản. Có thể thấy điều này qua rất nhiều ý kiến xuất hiện trên báo chí và trong
văn chương. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết trong Lời tựa cuốn Việt Nam
văn hoá sử cương: “ Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của
những giá trị cổ truyền của văn hoá cũ với những điêù mới lạ của văn hoá Tây
phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến
cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải
nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy. Tức một mặt phải xét cho biết nội dung
của văn hoá xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu chân giá trị của văn hóa
mới". Như vậy, vấn đề xây dựng một nền quốc văn mới vừa dân tộc, vừa
hiện đại đang được đặt ra một cách khẩn thiết.
Với tư cách một nhà thơ trẻ, một người có tinh thần tiên phong và nhất
là có một lòng yêu quốc văn tha thiết, Xuân Diệu đã có những tiếng nói tích
cực và đầy nhiệt huyết để xây dựng nền quốc văn mới trong hàng loạt bài viết
về chủ đề này. Sự vồ vập với thơ Xuân Diệu và rất nhiều hào quang quanh
thơ ông đã phần nào lấn át đi một phương diện rất đáng chú ý trong hoạt
động văn chương của người thi sĩ trẻ khi ấy: đó là những tư tưởng đặc sắc của
ông về văn chương và quốc văn được lên tiếng trực tiếp qua các bài phê bình -
tiểu luận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
ở giai đoạn văn học 1930-1945, các thể loại văn học đều phát triển và
đại đến đỉnh cao. Thơ Mới ra đời và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ với
công lao to lớn của những nhà thơ như: Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư,
Văn học giai đoạn 1930-1945, song song với sự thức tỉnh ý thức xã hội
và ý thức cá nhân mạnh mẽ đã mở ra nhiều hướng, nhiều dòng hay có thể nói
nhiều loại hình văn xuôi khác nhau: văn xuôi trào phúng, văn xuôi tả thực,
văn xuôi tâm lý, văn xuôi phong tục... Mỗi loại hình mang những nét thẩm
mỹ riêng, chức năng riêng, cấu trúc loại hình riêng, tạo nên sự đa dạng phong
phú cho mầu sắc của văn xuôi nghệ thuật.
Bên cạnh những loại hình văn xuôi nói trên, trong đời sống văn học
Việt Nam những năm 1930-1945 người ta đã có thể nhận ra một dòng văn
xuôi k._.hác, đó là văn xuôi mang đậm tính trữ tình, được khởi nguồn từ Thạch
Lam, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Ngọc Giao, Đỗ Tốn, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh
Văn xuôi nghệ thuật là một thể loại mới và trẻ, đang trên đường tìm kiếm phát
triển và hoàn thiện về cấu trúc và chức năng thể loại. Các tác giả văn xuôi vẫn
đang tiếp tục đào sâu, mở rộng tầm nhìn tiếp cận xã hội bằng nhiều cách khác
nhau.
Khác hẳn với các thể loại văn xuôi kể trên, văn xuôi trữ tình là một loại
hình phức hợp. Nó vân dụng nhiều phương pháp, kết hợp nhiều yếu tố thể loại
khác nhau tạo nên sự đan cài, khó phân định những tiêu chí thể loại và thẩm
mỹ rạch ròi. Là văn xuôi song lại có rất nhiều yếu tố thơ, khiến cho văn xuôi
đôi khi trở thành những bài văn xuôi đầy sức hấp dẫn, lắng đọng sâu xa. Đồng
thời trong văn xuôi trữ tình lại có sự hài hoà giữa chất hiện thực và chất lãng
mạn, giữa tính thời sự và tính trữ tình, tạo thành đặc điểm và công năng thẩm
mỹ riêng; ở đây có sự tiếp thu, kế thừa truyền thống và ưu thế văn học dân
tộc, đó là thơ ca. Vì thế ta thấy văn xuôi trữ tình du nhập khá mạnh các yếu tố
thơ vào văn xuôi, làm cho nó trở nên thân quen, nồng ấm, tác động mạnh mẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
vào cảm xúc con người thời đại. Loại hình văn xuôi này về cơ bản vẫn mang
đặc điểm của một tác phẩm tự sự nhưng lại xen những đoạn mang tính trữ
tình. Những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả thâm nhập vào câu chuyện và các
biến cố vẫn trong kiểu cấu trúc của các tác phẩm tự sự, kết hợp với cách kể
khéo léo: cốt truyện, nhân vật, người kể cùng hiện diện khiến cho khả năng tự
biểu hiện và cảm xúc trữ tình bộc lộ một cách tự nhiên. Do đó văn xuôi trữ
tình là loại hình nghệ thuật nằm ở khu vực ranh giới giữa văn xuôi và thơ.
Nằm trong dòng chảy của văn xuôi nghệ thuật nói chung và văn xuôi
trữ tình nói riêng, văn xuôi Xuân Diệu lại có đặc điểm riêng mang những nét
đặc trưng của phong cách Xuân Diệu. Nếu như nhiều tư tưởng nghệ thuật
được thể hiện trong thơ, thông qua lăng kính thơ thì văn xuôi Xuân Diệu lại
có ý nghĩa và vị trí riêng. Đó là những phát biểu trực tiếp dưới hình thức
văn xuôi trữ tình những quan niệm của ông về cuộc sống và nghệ thuật.
Văn xuôi của Xuân Diệu là những trang văn rất gần với thơ mà tiêu biểu là
tập Phấn thông vàng, Trường ca .
Song song với những tác phẩm văn xuôi trữ tình, Xuân Diệu còn là một
cây bút phê bình tiểu luận năng động, sắc sảo và đầy nhiệt huyết. Những bài
này chủ yếu đăng tải trên báo trong khoảng thời gian 1936-1945 như: Tuy Lý
Vương - thi sĩ Tàu, Công của thi sĩ Tản Đà, Đôi lời tự thuật Thơ Thơ, Thơ
ngắn, Thơ khó, Thơ của người, Tính cách An Nam trong văn chương, Mở
rộng văn chương, Thơ ái tình. Ngoài ra ông còn có tập: Thanh niên vói
quốc văn, Hàng bia Văn Miếu, Công danh với sự nghiệp, Cái học quẩn
quanh...
Những tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn được lên
tiếng trực tiếp qua các bài phê bình N - tiểu luận này. Chúng thể hiện cái nhìn
của ông, suy nghĩ của ông về những vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển của
văn học đương thời. Cho đến nay một số bài viết ấy có vẻ như đã bị lãng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
quên, chúng không có mặt trong các Tuyển tập và Toàn tập Xuân Diệu. So
sánh với những nhà thơ đương thời, người ta có thể đưa ra một nhận xét: ông
là một nhà thơ viết nhiều nhất cũng như đề cập đến nhiều vấn đề trong văn
chương và quốc văn rộng rãi hơn cả những nhà Thơ Mới thời kỳ này.
Trong một số truyện ngắnT, thực chất là những áng văn xuôi trữ tình,
Xuân Diệu đã gửi gắm nhiều quan niệm của ông về văn chương và người
nghệ sĩ. Đồng thời, qua những bài phê bình tiểu - luận của Xuân Diệu, ta có
dịp nhìn lại những tư tưởng của ông để có một chân dung đầy đặn về ông, qua
đó, có thể lý giải những động lực tư tưởng và cảm xúc làm nên cái mới và sức
trẻ trong thơ ông. Cũng qua đó, người ta có thể hiểu thêm những yêu cầu cấp
thiết đặt ra trong sự phát triển của Thơ Mới cũng như của văn chương đương
thời được lên tiếng thông qua một đại diện xuất sắc - nhà thơ trẻ Xuân Diệu.
Những bài tiểu luận, phê bình này cũng còn là một cách bộc bạch con người
Xuân Diệu - tư tưởng và cảm xúc của con người nghệ sĩ trong cuộc đối thoại
với chính mình, với văn chương và thời đại.
1.2. Thiết tha xây dựng một nền quốc văn, một nền văn chương An Nam.
Xuân Diệu được coi là nhà thơ "mới nhất trong những nhà Thơ mới" vì
cảm xúc thi ca của ông trẻ trung mới mẻ, đồng thời cũng là một nhà thơ viết
những câu thơ được coi là “Tây quá" (Vũ Ngọc Phan) “có những lối dùng chữ
đặt câu quá Tây” (Hoài Thanh). Một nhà thơ trí thức Tây học, từng làm công
chức nhà nước bảo hộ (Bỗng dưng thi sĩ hóa Tây đoan) mà lên tiếng một cách
nồng nàn thiết tha về việc xây dựng nền quốc văn mới - điều ấy chứng tỏ tinh
thần dân tộc, lòng yêu văn hóa nước nhà của nhà thơ trẻ là sâu rễ bền gốc đến
ngần nào!
1.2.1. Đề cao tiếng mẹ đẻ, kêu gọi sáng tạo bằng quốc ngữ để xây
dưng nền quốc văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Những tiếng nói thiết tha về quốc văn của Xuân Diệu là sự đáp ứng với
yêu cầu sinh tồn và phát triển của văn hóa Việt trong nửa đầu thế kỷ XX và
cũng hòa điệu với tiếng nói của nhiều trí thức học giả cùng nhiều nhà văn
nghệ khác về vấn đề này. Xây đắp quốc văn, giữ vững bản sắc dân tộc là tinh
thần của văn hóa Việt, của văn học Việt - điều này từng được thể hiện trong
nhiều bài viết. Sáng tạo ra cái của mình, mang bản sắc của dân tộc mình - đó
cũng là điều luôn được quan tâm trong dư luận phê bình. Tính cách An nam
trong văn chương cũng là tên một bài viết của Thạch Lam và đây cũng là một
nhà văn hết sức chú ý đến bản sắc dân tộc trong văn chương. Nguyễn Văn Tố ,
một học giả uyên thâm cả Hán học lẫn Tây học phát biểu: “Mỗi văn chương
có một cái đặc sắc riêng. Văn chương ta cũng vậy, để bỏ mất cái đặc sắc ấy
đi, rất là không nên”. Và so sánh với văn chương nước ngoài, dư luận thời đó
cũng đã có được niềm tự hào và đề cao những tác phẩm Việt Nam: “Ngồi mà
nghiền mãi những khoé văn của Flaubert thì có hứng sao bằng đọc bài văn tả
chân của ông Phạm Duy Tốn? Đem tuồng Andromarque ra mà tỉa tách thì chi
bằng dò cho hết nghĩa Truyện Kiều. Văn ông Alphonse Daudet ở Pháp , tôi
tưởng cũng không hơn văn ông Nguyễn Công Hoan trong những chương
đoản thiên tiểu thuyết” (Nguyễn Triệu LuậtN).
Xót xa về thực trạng văn chương nước nhà còn nghèo, Xuân Diệu kêu
gọi các nhà văn, đặc biệt là tuổi trẻ hãy yêu mến Quốc văn và ra sức sáng tạo
để xây dựng ngôi nhà văn chương không thua kém các dân tộc khác. Như hầu
hết những nhà Thơ Mới “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu trong tình
yêu Tiếng Việt” - tiếng An Nam, lòng tha thiết xây dựng một nền thơ phong
phú trong nền quốc văn nước nhà là chủ đề tập trung trong các bài tiểu luận
của Xuân Diệu.
Để xây dựng ngôi nhà văn chương của dân tộc, trước hết, cần có sự
đoạn tuyệt với văn chương Tàu, với "chữ Tàu". Điều này được Xuân Diệu nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
lên một cách dứt khoát, mạnh mẽ và không khỏi có phần cực đoan bồng bột.
Có thể coi bài Tuy Lý Vương - một thi sĩ Tàu là một bài viết ít nhiều mang
tính "luận chiến” với cuốn khảo cứu mới xuất bản về nhà thơ này. Sau khi dẫn
hai câu ngự thi “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán - Thi đáo Tùng Tuy thất
Thịnh Đường” vốn như một niềm tự hào của văn chương nước nhà, Xuân
Diệu bày tỏ thái độ của mình:
"Tuy Lý Vương là nhà thi hào làm mất cả Thịnh Đường? Có lẽ, có lẽ
lắm. Nhưng dường như thời Thịnh Đường ở bên Tàu thì phải. Vậy thì ông
Tuy Lý Vương ấy có quan hệ gì đến tôi, người chỉ biết tiếng Việt Nam? Với
tôi, với văn chương Việt Nam, Tuy Lý Vương chỉ là: "thi sĩ củ khoai" mà
thôi!. Ông giỏi giang đến thế, ông giàu có đến thế, mà ông đành tâm vứt cài
tài của ông vào trong những bài thơ chữ Hán, những bài thơ mà người Việt
Nam và cả người Tàu nữa chẳng biết dùng để làm gì!".
Xuân Diệu phản đối cái mà người ta gọi Tuy Lý Vương là một “ bậc thi
hào” và ông cho rằng cái việc Tuy Lý Vương làm thơ chữ Hán giống như
hành động “gánh vàng đổ xuống sông Ngô”, “đem tài hoa của mình phụng sự
văn chương ngoại quốc”. Và ông trách: “Nếu ông đừng chê tiếng của mẹ ông
thì văn chương Việt Nam thì văn chương Việt Nam tự hào rằng có thể hay
hơn văn chương Tàu, vì trong thơ Việt Nam, làm bằng tiếng Việt Nam, cái thi
tứ lại dồi dào tao nhã hơn thơ Đường nhiều lắm”.
Phê phán giễu cợt Tuy Lý Vương làm thơ chữ Hán, Xuân Diệu không
hề có ý khinh thị văn chương truyền thống. Ông vẫn tỏ ra trân trọng chữ nôm,
văn thơ nôm dùng tiếng mẹ đẻ để ghi lại ý tình: "Trong đôi bài văn thơ chữ
nôm, Thần Siêu Thánh Quát đã tỏ cho ta thấy những đặc điểm rất hay".
Và trong bài này, còn không ít những câu phê phán nặng nề hơn nữa về
văn chương chữ Hán và cả việc cha ông ta đã sử dụng chữ Hán để sáng tác
văn chương, bộc lộ tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam. Chắc không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
cần phải đến khi nhà thơ trở thành tác giả của cuốn sách Các nhà thơ cổ điển
(1959), có lẽ chỉ ít lâu sau, chính Xuân Diệu (khi viết bài này mới 21 tuổi) sẽ
nhận ra sự bồng bột trong những câu như thế. Nhưng “thiết tha và bồng bột”
đó chính là cái “tạng” của Xuân Diệu và chính sự bức xúc bảo vệ tiếng mẹ để
và xây dựng một nền Quốc văn đã khiến ông cất những lời nồng nàn và cũng
cực đoan đến thế. Nhưng người ta sẽ hiểu hơn toàn bộ tư tưởng ông trong lời
kết luận cuối cùng:
“Và, thưa các bậc kỳ tài làm văn, làm thơ Tây, nãy giờ tôi chưa nói
mất lòng các ngài, nhưng chắc các ngài cũng khá thông minh để hiểu rằng sở
dĩ tôi cãi kịch liệt về Tuy Lý Vương, là cốt ý cho các ngài cũng tự ngắm các
ngài một chút”.
Qua những lời kết luận của bài viết, người có thể hiểu và thông cảm với
ý kiến của Xuân Diệu: ông không chỉ giễu cợt một thi nhân hoàng tộc làm
những câu thơ hay không phải bằng tiếng mẹ đẻ, mà còn đả kích chua cay
những người lấy tiếng Tây làm phương tiện diễn đạt ý tình trong văn chương.
Hàng bia Văn Miếu cũng đầy tinh thần cảnh tỉnh, luận chiến khi nói về
cách lập thân bằng công danh để đạt trong khoa cử thi chữ Hán thời xưa.
Ông chế giễu tên tuổi những Thái học sinh từng được khắc tên bia đá là
những người chỉ "khéo thuộc lòng, khéo ăn cắp sách, khéo nấu nướng những
món văn sách, kinh nghĩa, nấu giả Đường, giả Tống cũng như người ta nấu
giả cầy và dọn lên cho các quan trường thưởng thức” và do thế, họ chỉ là
những người làm việc không công cho nước Tàu”.
Như chúng ta đã biết, nền thi cử bằng chữ Hán đã bị bãi bỏ năm 1919
nhưng dư âm của nó thì mãi mãi vẫn còn, cụ thể là trong Văn Miếu (Hà Nội)
có hai hàng bia khắc tên các vị khoa giáp ngày trước. Bia làm bằng đá và mỗi
tấm đứng trên lưng một con rùa với ý nghĩa là lưu danh thiên cổ và “sống lâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
như rùa" - con rùa mà theo Xuân Diệu là biểu tượng của "sự đi chậm, sự lười
biếng, sự ngu độn nữa kia"!
Xuân Diệu đã cho rằng hai hàng bia đá đó là sự mỉa mai cho “phương
danh, quý tính của chư vị Thái học sinh, của những bậc đỗ đạt rất cao, văn tài
rất giỏi, vẻ vang cho nước nhà thuở xưa”. Nhà thơ trẻ mỉa mai: "Chắc những
người có tên trên hai bảng vàng danh dự đó, xưa kia đã chắc mẩm nắm được
hậu thế trong tay, và gật gù làm thêm những sách vở bằng chữ Tàu để sau này
cho con cháu Việt Nam học. - Cũng như bây giờ..." Câu văn buông lửng đầy
hàm ý. Cái hàm ý ấy lại một lần nữa bộc lộ công khai trong lời kết của bài
viết nhằm tới một chủ đích rõ ràng: Cái dụng ý xây đài kỷ niệm cho các ông
nghè, “nay đã hỏng bét” và "Người Việt Nam đời này đã bỏ xó cái “công
danh Tàu” đời trước; còn cái “công danh Tây” đời này, người Việt Nam đời
sau sẽ để vào góc nào? ”
Cũng liên quan đến học vấn và công danh được các thế hệ trước xây
dựng trên nền tảng Hán học, trong bài tiểu luận Công danh và sự nghiệp viết
ngày 20-3-1945) Xuân Diệu nói về khoa cử thời xưa: “Khoa cử là cái khuôn
sẵn của nhà cầm quyền để nắn ép nhân tài. Khoa cử là cái học chật hẹp , cái
học bóp chẹt người ta trong khuôn khổ một câu văn, trong sáo hủ của vài ý
tưởng chính thức được nhà cầm quyền công nhận, cái khoa cử ấy nó nghiêm
ngặt quá, nên nhân tài nào đi qua cũng phải chặt bớt, đẽo bớt, gọt cho nhẵn,
sửa cho cân, đến nỗi ra xong cái khuôn, thì nhân tài đã chết rồi, chỉ còn lại
một ông cống, ông nghè vô vị”.
Tựu trung lại vẫn chỉ là sự đả phá của nhà thơ trẻ với mọi thứ công
danh văn nghiệp xây dựng từ cái vốn ngoại lai và mong muốn tha thiết vun
đắp một nền quốc văn nước nhà - nhất là khi cái nền quốc văn ấy còn đang
trong cảnh “nhà nghèo cơm thiếu”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Cái tâm nguyện thiết tha ấy được nói lên một cách bồng bột và có
những ý không đủ độ sâu sắc và chính xác nhưng cũng đủ sức thuyết phục và
chia sẻ vì nhiệt tình chân thực và nồng nàn trong mỗi bài viết. Và có lẽ nhiều
nhà khảo cứu văn chương chữ Hán đang cố công phục hồi những giá trị quá
khứ cũng không lấy làm phật ý bởi những lời bồng bột của nhà thơ trẻ. Họ
đọc thấy ở đấy rất nhiều sự đồng cảm về sự tha thiết với nền quốc văn Việt
Nam cũng đang thức tỉnh trong chính lòng họ và thúc đẩy những cố gắng âm
thầm của họ. Xuân Diệu là như thế. Với ông, tình yêu là vô biên, tuyệt đích,
dù đó là ái tình hay tình yêu dành cho tiếng Việt:
“Anh em không nghe tiếng mẹ gọi hay sao? Anh em nỡ lòng nào mà
hờ hững cho được! Nhà nghèo mà anh em biết chịu thương, chịu khó, biết cố
gắng, biết hi sinh thì chả mấy chốc mà cái nhà Văn học Việt Nam từ vách đất
mái tranh sẽ hoá nên lâu đài cung điện (Sinh viên với quốc văn).
Trước phong trào "phục cổ", "quay về vốn cũ của cha ông", "nhiều bạn
tân học quay về học chữ Hán", Xuân Diệu viết bài Cái học quẩn quanh. Tiếp
tục phê phán chế giễu lối học nệ cổ, ca ngợi giá trị văn chữ Hán, ông viết:
" Sao chúng ta, người Việt Nam, lại lấy vốn văn chương của người Tàu làm
cái vốn của mình? ". Lấy tiếng Việt, vốn văn chương Việt làm căn cốt cho
mọi sáng tạo - tư tưởng ấy vang lên như một thúc giục thiết tha.
Một loạt bài chung một chủ đề: hãy xây dựng nền quốc văn thực sự,
nền quốc học thực sự Việt Nam bộc lộ rõ rệt tình cảm thiết tha của Xuân
Diệu đối với văn hóa văn chương nước nhà.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Tính cách An nam trong văn chương và vấn
đề Mở rộng văn chương.
“Tính cách An Nam trong văn chương"và "Mở rộng văn chương" là hai
tiểu luận gắn bó với nhau một cách mật thiết, tập trung thể hiện quan niệm
tích cực, mới mẻ của Xuân Diệu về tính dân tộc trong văn chương và khát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
vọng cách tân, đưa văn chương dân tộc hoà nhập với văn chương nhân loại.
Chúng ta bắt gặp cái tôi của Xuân Diệu với ý thức cá nhân, cá thể đã được
thức tỉnh dám lên tiếng nói thẳng những suy nghĩ riêng của mình. Ông viết :
“Có lẽ ý tôi sẽ ngược với rất nhiều người” song vẫn “mong được cái tự do tư
tưởng”; “nói những điều tôi thành thực tin”; và dám cam đảm chấp nhận” dù
bị công kích cũng đánh”. Một thái độ dũng cảm của tuổi trẻ, hay đúng hơn,
của một Xuân Diệu trẻ tuổi đầy tự tin vào tư tưởng của mình.
Đứng vững trên lập trường dân tộc, với nhiệt tình yêu nước của tuổi trẻ
Xuân Diệu phê phán kịch liệt những tư tưởng cố chấp , hủ lậu nhân danh
thuyết “Tính cách An nam” nhưng thực ra đã biến cái thuyết đẹp kia thành
một thuyết chật hẹp, nông nổi. Xuân Diệu thẳng thắn bầy tỏ thái độ:
“Chúng ta phải giữ gìn cho tính cách An Nam. Điều ấy rất phải.
Nhưng giữ gìn bờ cõi có phải là đóng hết cửa biển, tuyệt hết giao thông, bế
tắc cả nước lại đâu! Giữ gìn không phải là đánh tâm mến yêu một cảnh nghèo
đói”
Nhà thơ tin vào quy luật đào thải tự nhiên của văn chương: những cái
phản với tinh thần quốc văn tất phải tiêu diệt, cái gì không hợp với tiếng Việt
Nam tất phải chết. Xuân Diệu phê phán lối văn nô lệ cho văn Tàu hay văn
Tây đồng thời rất quan tâm đến vấn đề mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi
là bản sắc dân tộc: “Văn mỗi nước có một tinh thần, khó diễn tả cho rõ được,
ta phải có một thứ cảm xúc riêng để cảm nghe cái tinh thần ấy”. Và cái bản
sắc riêng ấy, tức là tính dân tộc của văn học, hay nói theo cách diễn đạt của
tác giả lúc bấy giờ: “ Tính cách An Nam trong văn chương” được Xuân Diệu
quan niệm một cách rất cởi mở.
Trước hết, “Văn chương Việt Nam được giữ gìn một cách chắc chắn là
tiếng Việt Nam; có hình thức, có mẹo luật riêng” và có cả một “tinh thần
riêng mà ta cảm nghe rất rõ”. Vì vậy, dùng Tiếng Việt (chữ Xuân Diệu dùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
là tiếng An Nam) như một khí cụ, dùng đúng, dùng cẩn thận theo tinh thần
Việt Nam thì nhất định văn ta là văn Việt Nam. Quan điểm này đặt vào hoản
cảnh ra đời của nó khi mà sau gần chín thế kỷ, văn học nước ta vẫn còn nặng
nề với những điển cố, điển tích, Hán tự, khi mà dân tộc ta dù đã có chữ viết
nhưng trong nhà trường để đào tạo ra tầng lớp công chức Tây học , nhà nước
thực dân thống trị chỉ daỵ học bằng tiếng Pháp, còn Tiếng Việt lại bị kinh bỉ,
khinh rẻ, chúng ta mới thấy hết được ý nghĩ sâu xa bền chặt của tình yêu và
cả một thế hệ nhà thơ cùng thời nói chung.
Mặt khác, Xuân Diệu còn lập luận: “Chúng ta là người An Nam, có
chịu ảnh hưởng Âu Tây, nhưng vẫn là người An Nam. Mà người Âu Tây là
gì? Họ cũng là người. Trừ những điều riêng Tây quá, chứ cái “kho” cái “đáy”;
cái “vốn” của con người ở đâu đâu cũng giống nhau”. Do đó “có cái đẹp riêng
của văn mỗi nước và có cái đẹp mà văn nước nào cũng có thể như nhau”. Phải
chăng, ở đây Xuân Diệu là một trong những nhà phê bình, bằng tiên cảm của
một nhà thơ lớn đã thấy được mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính nhân loại.
Và cũng từ đó, Xuân Diệu cho rằng để có tính cách An Nam trong văn
chương, không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi dân tộc mình với những cái đã
có mà còn cần phải “mở rộng văn chương” để giao lưu tiếp thu thêm, để làm
mở mang thêm trí não, tình cảm dân tộc, làm cho “con người” của ta giàu
thêm. Ông đặt câu hỏi: “Cái học Âu Tây đã làm cho chung ta tinh vi, kỹ
lưỡng; vì sao chúng ta không có những điều ấy trong văn học Việt Nam? ” !
Đồng thời cũng như nhiều nhà văn khác, trong quan niệm của Xuân
Diệu, văn chương là một sự sáng tạo, người viết văn còn phải truyền sự sống,
thêm sự sống vào cho người thường, nó không chỉ dừng lại ở sự mô tả mà
thôi đâu, văn chương còn là sự dò xét, sự đoán hiểu.Vì vậy Xuân Diệu nhiệt
tình cổ vũ cho sự tiếp thu và sáng tạo cái mới với mục đích để văn học làm
sao diễn tả biểu hiện cho được sự sống đa dạng, phong phú và phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
không ngừng của tâm hồn con người Việt Nam. Xuân Diệu hào hứng và sôi
nổi: “Chúng ta phải tạo thêm, phải bày đặt ra những cách dùng mới mà xưa
kia các cụ không chịu tìm, vả lại chúng ta ở thế kỉ XX, chúng ta có những cái
phức tạp mà các cụ không có”; “Đốt đi, củi sẽ cháy, tưới đi đất sẽ ướt, ta cứ
nói đến một sự sống mãnh liệt, đầy đủ, tất nhiên những tâm hồn Á Đông sẽ có
sự hưởng ứng. Người Á Đông giấu trong lòng một ngọn lửa thần, như than
lấp dưới tro ta phải làm cho ngọn lửa ấy biểu lộ”.
Tất nhiên cũng phải thấy rằngT, trong cái nhìn và quan niệm của Xuân
Diệu về tính dân tộc thời bấy giờ đôi lúc chưa thể tránh khỏi phiến diện hoặc
cực đoan. Chẳng hạn như ông viết: “Chúng ta nay chịu ảnh hưởng của văn
học Tây Âu, nhưng ta phải ngoan lên nhiều lắm, đã tỉnh dậy nhiều lắm, đã
không nô lệ cho văn học nước ngoài. Ta đã biết làm như La Fontaine: Sự bắt
chước của ta không phải là nô lệ”; chứ ngẫm cái quá khứ văn học của ta mà
xem, cha ông ta đă bắt chước Tàu một cách tệ hại là nhường nào. Đành rằng
ta gần Tàu hơn Tây, nhưng chúng ta xưa đã ăn cắp chứ không chịu ảnh
hưởng”. Chỉ nhấn mạnh một chiều "cha ông ta đã bắt chước Tàu một cách tệ
hại là nhường nào" mà không thấy sự tiếp thu có sáng tạo của cha ông để tạo
nên không ít kiệt tác văn chương, mang đậm tâm hồn và bản sắc Việt Nam -
điều đó phản ánh cái nhìn một chiều và không khách quan của nhà thơ trẻ. Có
lẽ cách nói quá lên này âu cũng là một cách gây ấn tượng và cũng là căn bệnh
thường gặp của những cuộc cách tân ở vào buổi đầu của nó.
1.3. Vấn đề thanh niên với quốc văn.
Thiết tha xây dựng nền quốc văn nước nhà, Xuân Diệu bộc lộ tâm
nguyện và nhiệt huyết ấy trong nhiều bài viết. Và một điều đáng chú ý là ông
đã chia sẻ tâm nguyện ấy trước hết và tha thiết hơn cả với những người đồng
lứa, những trí thức văn nhân thuộc thế hệ ông. Nhà thơ trẻ đã có bài nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
chuyện Sinh viên với quốc văn - một bài nói với sinh viên trường Đại học
ngày 4 tháng 2 năm 1945- trước ngày 9 tháng 3 (Nhật đảo chính PhápN) chỉ
hơn một tháng và cuộc Cách mạng tháng Tám cũng đã đến rất gần.
Đó trước hết là một cuộc nói chuyện tâm tình, " tâm tình với quốc văn,
tâm tình của chúng ta với quốc văn". Những gì ấp ủ trong lòng nhà thơ về đất
nước, dân tộc càng có dịp bộc lộ mạnh mẽ và tha thiết.
Trước hết nhà thơ nói về tình trạng coi thường tiếng mẹ đẻ, "tiếng nói
của mẹ Việt Nam ". Với nhiều sinh viên khi đó, " có cái gì như là khinh khỉnh
đối với quốc ngữ. Ông giáo giảng văn, các bạn nghe bằng lỗ tai chểnh mảng"
vì còn cố làm bài luận Pháp văn cho kịp nộp! Với lối học coi thường tiếng
Việt, cái thứ tiếng bị coi là "nôm na mách qué" như thế, làm sao tuổi trẻ có
thể hiểu và cảm được cái hay của những áng văn chương dân tộc.
Sau khi nhấn mạnh tình trạng quốc ngữ, quốc văn bị "bỏ hoang", Xuân
Diệu nói về việc sinh viên phải có bổn phận với quốc văn. Nhà thơ nhấn
mạnh: "Trong những việc hệ trọng, tất phải có việc ra sức vì quốc văn", bởi vì
sinh viên là những học sinh bậc nhất, những thanh niên may nhất, học cao
nhất. Nếu sinh viên, bên cái học nhà trường, không nghĩ đến cái học quốc
ngữ, thì những người nhiệt tâm với quốc ngữ đều là những người khác hay
sao? ".Xuân Diệu ví von: tiếng Việt chỉ như người "mẹ nhỏ" so với tiếng
Pháp ở vị trí "mẹ cả", nhưng người con vẫn phải dành phần thiêng liêng nhất
cho mẹ đẻ của mình; tình cảm ấy dù có phải che giấu đi, thì "càng che giấu lại
càng thắm thiết, càng lấp vùi lại càng nóng hổi, càng chặt đẽo lại càng nở lộc,
đâm chồi".
Bài tiểu luận này của Xuân Diệu cũng đề cập đến những công việc cụ
thể phải làm với quốc văn. Qua những ý kiến của nhà thơ, người ta có thể
nhận ra phần nào thực trạng quốc văn ở thời kỳ này và những việc thiết thực
mà sinh viên, trí thức phải làm để xây dựng và củng cố quốc văn. Trước hết,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
đó là công việc dịch những tinh hoa văn chương thế giới. Không phải là dịch
cẩu thả, không phải là dịch qua bản dịch của một ngôn ngữ khác mà phải dịch
tận nguồn. Nhà thơ xót xa với tình trạng "cái gia tài văn học của ông cha ta để
lại, hiện nay ta chưa khai thác gì cả". Phải nghiên cứu, tìm hiểu nhưng phải
làm công việc đó một cách nghiêm cẩn, sâu sắc. Và sau tất cả những điều ấy,
là phải sáng tác, sáng tạo cho nền văn chương nước nhà. Xuân Diệu dành
những lời trân trọng nhất đề cao văn chương sáng tác: “ Viết bài này, tôi
muốn dựng lại cái thang giá trị, muốn lập lại các ngôi thứ, muốn dành bậc
nhất cho văn sáng tạo. Tôi muốn nhắc cho công chúng nhớ rằng chỉ có văn ở
đầu óc ta nghĩ ra, còn mang vết máu tuỷ của ta, mới là đáng kể. Tất cả những
cái khác chỉ có giá trị của những tài liệu. Những văn mượn, văn dịch chỉ là
những món phân để vun bón cho những lá, những hoa của văn nước nhà...
Chúng ta tha hồ dịch, dịch tất cả văn hay ngoại quốc, thu thập rất nhiều của
lạ, nhưng trí sáng suốt của ta không lầm lẫn bao giờ, không xao lãng sự sáng
tạo của chúng ta". Chỉ có như thế, văn chương nước nhà mới phát triển, "chứ
không lơ thơ lẻ tẻ nhơ cái cảnh chợ chiều hiện nay".
Với tư cách là người đi trước cùng với uy tín của một tên tuổi lừng lẫy
trên thi đàn, Xuân Diệu tiếp tục đi xa hơn trong việc vạch ra và phê phán
"những tật xấu trong tinh thần A đông" - những tật xấu này sẽ làm phương
hại, trì trệ đến công việc xây dựng quốc văn. Đó là lối lười suy nghĩ, chỉ dập
khuôn theo cổ nhân, theo Tàu; phải thực sự cúc cung tận tụy với công việc;
phải làm thực, nghĩ thực chứ không phải bôi phết qua loa như những công
trình khảo cứu, dịch thuật đương thời - ông gọi đó là thứ "voi nan". Nhà thơ
cũng đề ra những điều mà ông gọi là "nguyên tắc" : đó là trọng sự thật, trọng
sự lành mạnh. Giọng văn Xuân Diệu đầy tính phê phán khi ông nói về những
"tài tử văn nhân" sống sa đọa với rượu và thuốc phiện đồng thời gieo rắc cái
đó trong văn chương đương thời. "Họ ca tụng rằng: Khói huyền lên! Khói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
huyền lên!... Họ nói rằng: Nhớ quê sầu trắng một đêm nay... Quê đây là cái
quê nâu của họ, của một bọn người không còn quê hương nào để phụng thờ
nữa cả, cho nên phải lấy thuốc phiện làm quê hương". Một nguyên tắc nữa,
theo Xuân Diệu, đó là trọng sự sáng sủa. Ông phê phán thứ văn chương làm
bộ tân kỳ, bí hiểm, tối tăm. Thứ văn ấy, "nói mà chẳng muốn cho người ta
nghe, thì cứ nói riêng ở trong phòng, chứ sao lại còn in ra thành sách để bán?
". Không gọi đích danh tác giả của các "hiện tượng" được đem ra phê phán,
nhưng những sinh viên, những độc giả thời ấy hẳn cũng nhận ra những hiện
tượng, những tác giả văn chương này.
Một lần nữaM, người ta lại thấy thái độ thẳng thắn nhìn vào sự thật của
văn chương đương thời, dũng cảm lên tiếng về nó là sự thể hiện trực tiếp nhất
tình cảm nồng nàn yêu mến của Xuân Diệu đối với quốc văn. Sáng tạo , xây
dựng là cho hôm nay và cho tương lai. "Phải học quốc ngữ, để mà viết quốc
ngữ, phải làm ra sách hay bằng quốc ngữ, để cho các em của ta lớn lên, chúng
nó được hưởng cây nhà lá vườn", để chúng khỏi "như chúng ta hiện nay, phải
đi lang thang xin xỏ ở văn học ngoài những thứ cần thiết".
Nhà thơ kết thúc bài viết bằng những lời tha thiết và tin tưởng: "Nhà
nghèo mà anh em ta biết chịu thương chịu khó, biết cố gắng, biết hi sinh thì
chả mấy chốc mà cái nhà văn học Việt Nam, từ vách đất mái tranh sẽ hóa nên
lâu đài cung điện. Thưa anh em, văn học Việt Nam đang mong mỏi ở mỗi
người chúng ta!".
1.4. Tư tưởng văn chương và quan niệm về thơ của Xuân Diệu qua
phê bình.
Trước 1945, Xuân Diệu không viết nhiều bài phê bình trực tiếp về một
tác giả, tác phẩm thơ. Dường như những tác giả, tác phẩm nào thực sự gây
cho ông những ấn tượng sâu sắc, gợi cho ông những suy nghĩ và cảm xúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
mạnh mẽ mới tạo nên cảm hứng cho ngòi bút phê bình Xuân Diệu. Bời thế,
những bài viết về thơ Tản Đà, thơ Huy Cận có thể được coi là những bài tiêu
biểu và đầy giá trị của ngòi bút phê bình văn học của Xuân Diệu .
Về Tản Đà, Xuân Diệu đã có những bài tiểu luận như Công của thi sĩ
Tản Đà và Một vài kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà. Nói về Công của nhà thi sĩ lớp
trước Tản Đà, mở đầu bài tiểu luận, Xuân Diệu khẳng định: “Tản Đà là người
thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tàn Đà là người thứ nhất
có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ
một bản ngã, dám có một cái “Tôi”. . Để làm rõ hơn thái độ khẳng định qủa
quyết của mình, Xuân Diệu phân tích, lý giải, so sánh bằng cách gợi lại truyền
thống dân tộc và đặt Tản Đà vào bối cảnh chung của nền văn học nước nhà:
“Chúng ta nói sự thật, thì chúng ta nói rằng trong văn học Việt Nam,
những chân thi sĩ không nhiều, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Xuân Hương, số
thi sĩ chân thành đếm không đủ lên mười ngón tay".
Từ xưa hồn thơ Việt Nam tù túng trong khuôn khổ của lễ nghi, đạo
đức. Tản Đà sinh vào hồi giao thời lúc thơ cổ vào hồi tàn lụi, và thơ kim
đương phôi thai. Không ai khác mà chính là Tản Đà bắt đầu ca lên những điệu
mới, đầy rẫy hồn thơ: "Giữa lúc thơ Việt Nam khô khan ở trong dấu xe cũ,
giữa lúc lối “thơ Nam Phong” trị vì một cách bệ vệ, dùng những tiếng lớn nói
những chuyện con, diễn những ý sáo bằng những lời sáo hơn bội phần, giữa
lúc trống rỗng và buồn tênh, Tản Đà đem đến một hồn thơ, Tản Đà cho văn
học Việt Nam một thi sĩ”. Bằng niềm tri ân tinh nhạy giữa những tâm hồn
đồng điệu, Xuân Diệu phát hiện lên những cái mà “lần đầu” thi sĩ Tản Đà
đem đến cho thơ Việt Nam: lần đầu tiên, người ta được nghe một giọng nói
dịu dàng trong trẻo, nhẹ nhõm có duyên của “một tấm lòng thực thà hé phơi,
và người ta cảm động”; lần đầu tiên, Tản Đà dám vẩn vơ, dám mơ mộng, dám
cho trái tim và linh hồn được có quyền sống cái đời sống của chúng, lần đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
tiên “ông tự nhiên để cho bản ngã của mình tràn ra ngoài khuôn khổ”. Những
nét đặc sắc ấy chính là phong cách nghệ thuật và đóng góp của thơ Tản Đà:
“Say, Ngông và Mộng, ba điểm ấy làm cho thơ ông nhẹ nhàng phóng khoáng.
Tản Đà đã có một bản ngã, đó là công trình của ông trong thơ Việt Nam”. Và
Xuân Diệu phê phán, tranh luận: “Thế mà xưa kia có người thấy đó là một
điều đáng mỉa mai trách móc. Sao nhà học giả đeo kính lại muốn cản đường
của nhà thi sĩ đeo hồ lô? ”. Ngòi bút phê bình của Xuân Diệu trong một ít
dòng, quả là đã phơi bày những khía cạnh bản chất nhất của hồn thơ Tản Đà.
Đồng thời, Xuân Diệu cũng nhấn mạnh tính chất An nam trong thơ
Tản Đà - cũng là một cách khẳng định quan niệm về Tính cách An Nam
trong văn chương. Xuân Diệu khẳng định: “Là thi sĩ đầu tiên trong thơ Việt
Nam hiện đại, là cái mầm thứ nhất của thơ chân thành, Tản Đà còn là thi sĩ rất
An Nam, có thể nói là hoàn toàn An Nam. Đó là một điều không dễ”. Ông chỉ
ra tính dân tộc trong thơ Tàn Đà với “những vần thơ nhẹ nhàng, phất qua như
gió”, “những câu ca có duyên, những đoạn phong dao mộc mạc” mà Tàn Đà
thể hiện rất thuần thục, rất trong trẻo như hơi thở tự nhiên của pho._.ì khao khát mơ mộng, khi buồn bã thất vọng, khi mỉa mai giễu cợt...Có
thể nói, những giọng điệu phối hợp, chuyển hóa nhau trong văn Xuân Diệu
cũng tạo nên một sức lôi cuốn riêng.
3.3.1. Giọng tâm tình chia sẻ.
Giọng tâm tình chia sẻ được Xuân Diệu sử dụng trong nhiều sáng tác
về thiên nhiên, tình yêu. ở đó gam chủ trong giọng điệu của ông là sự sôi sục ,
mãnh liệt, say mê sôi nổi, bộc lộ niềm thiết tha với cuộc sống, thiết tha với tạo
vật. Ý thức được quy luật sinh tồn, ông luôn sợ mọi thứ tuột khỏi tầm tay nên
ông vội vàng, cuống quýt giục giã mọi người hãy hưởng gấp những gì cuộc
đời ban tặng, đừng để phí hoài, bằng giọng nửa như dỗ dành, nửa như thuyết
phục, mà không kém phần thiết tha:
“Gấp đi em, mau đi em, hoa ở tuổi em mới thật là hoa, để nâng niu hôn
hít, thêm dăm tuổi nữa hoa chỉ trồng cho đẹp nhà. Gấp đi em, mau đi em, gấp
đi trò truyện cùng tạo hoá, mau đi em vơ vẩn cho nhiều.” (Giã từ tuổi thơ).
Hay một giọng khao khát: “Tiếc cho những môi nhỏ xinh xinh tô màu
cánh sen, nói ra những tiếng uốn éo thanh tao, tiếc cho những môi xưa chết đi
mà chưa được dùng. Ta muốn có một đạo bùa phục sinh những đoá môi xưa,
sống lại đây với mầu môi sắc ướt vẻ ngọt, mùi thơm, cho con trai đời xúm lại
mà hôn, rồi bây giờ cũng tan tành, như thế cho khỏi ân hận.” (Trong vườn
mơn trớn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
Trong nhiều trang văn của mình, Xuân Diệu lại hiện ra như một con
người vừa say mê bồng bột vừa tinh tế kín đáo. Ông tâm sự với người đọc về
nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong những truyện ngắn trữ tình của mình,
ông viết về chuyện đời, chuyện văn chương không bằng những lời chua chát,
đao to búa lớn mà bằng lời tâm tình thủ thỉ của một người trẻ tuổi mà đã từng
chiêm nghiệm, suy nghĩ để thấu hiểu cuộc đời.
ở truyện ngắn Phấn thông vàng, nơi gửi gắm những quan niệm sống
và văn chương kể chuyện một chàng hoạ sĩ , vô duyên trong tình yêu đến nỗi
phát sợ đành tắt lửa lòng, nhà văn không mỉa mai, giễu cợt, mà thể hiện thái
độ đồng cảm xót xa Chính giọng điệu kể đầy chia sẻ cảm thông của nhà văn
như đã đem tình yêu thiên nhiên bù đắp, sưởi ấm tấm lòng đã nguội lạnh vì
yêu cho chàng, giúp chàng lấy lại vẻ yêu đời, hồn nhiên để tiếp tục đi tìm tình
yêu mới. Những câu hỏi dồn dập, thúc bách và tha thiết cùng với sự lặp từ và
tăng cấp tạo một hơi văn dồn dập, đầy thuyết phục chia sẻ: “Chàng thất bại ba
lần, lần thứ tư sao lại chẳng là một lần thẳng cuộc? Sao chàng không thử
mười lần, một trăm lần nữa? Mười phen yêu ít nữa cũng hai phen gặp, một
trăm phen yêu đã cho ta hai mươi phen gặp rồi và vẫn còn đủ một trăm tình
yêu”.
Trong văn phê bình tiểu luận bộc lộ những quan niệm về văn chương
và quốc văn, nơi mà cách trình bày khách quan những quan điểm của mình
thường dễ tạo giọng điệu lạnh lùng, trung tính thì Xuân Diệu vẫn chọn một
chất giọng cho riêng ông. Với giọng tâm tình, chia sẻ, ông như mở một cuộc
trò chuyện giữa những nhà văn, những người tuổi trẻ, một cuộc đối thoại với
chính văn chương. Ông mong mỏi làm phong phú thêm tiếng Việt, và ông
chia sẻ cái mong muốn ấy bằng giọng tâm tình: "Ta phải nhận rằng xưa kia
các cụ có mấy khi chịu dùng tiếng An nam! Chúng ta phải tạo thêm, phải bày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
đặt những cách dùng mới mà xưa kia các cụ không chịu tìm, và lại chúng ta ở
thế kỷ hai mươi, chúng ta có cái phức tạp mà các cụ không có". Nói về một
thứ thơ hướng về con người, giọng ông trữ tình thấm thía: "Ai có thấy cô gái
quê kia, mình mặc áo nâu, vai mang gánh nặng, thế mà khi dừng chân dưới
bóng cây, uống bát nước chè, cô không quên liếc mắt vào trong nước để tự
ngó hình dung. Loài người ưa soi gương; hãy cho lòng người đến soi gương ở
suối lòng của người, hỡi người thi sĩ!".
Giọng tâm tình chia sẻ này dương như là giọng chủ đạo của những bài
như Công danh với sự nghiệp, Cái học quẩn quanh, và nhất là bài Sinh viên
với quốc văn. Nhà thơ kể về mình những năm đi học, nhà thơ nói về hiện
trạng học hành như ông đã quan sát như một cuộc trò chuyện thân tình để
cuối cùng, lôi cuốn người nghe, người đọc vào một mục đích cao cả là xây
dựng quốc văn: "Làm sao cho cái lâu đài văn học Việt Nam có xây lên, thì
anh em cũng là những kẻ đã góp phần. Chứ một ngày kia, lâu đài ấy có rạng
rỡ, chẳng lẽ anh em tưởng rằng nó tự trên trời rơi xuống hay sao? Anh em sẽ
giận mình biết bao, nếu trong khi người ta lo khuân gạch, vác cây, mà anh em
cũng chẳng có tiếng "hò khoan", gọi là góp câu thúc giục".
3.3.2.Giọng điệu nồng nàn, tha thiết.
Nồng nàn, bộc lộ cho hết lòng yêu của mình với cuộc sống, con người
và văn chương là cái "tạng" riêng của Xuân Diệu. Ông phải nói lên điều đó
như người yêu phải thể hiện hết mình trong bài Phải nói: "Yêu tha thiết thế
vẫn còn chưa đủ - Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần". Chính cái nhiệt tình
sôi nổi trong sự bộc lộ đã tạo ra cho văn Xuân Diệu sự nồng nàn tha thiết đặc
biệt. Có những lúc sự nồng nàn ấy trở thành giọng hô hào, kêu gọi:
"Anh em ơi! Sống chết là ở lúc này; vứt ngay cái công danh đi, nghĩ
đến cái sự nghiệp. Anh em ơi! Thời bây giờ là thời ném bút! " (Công danh
với sự nghiệp).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
"Sinh viên với quốc văn! Sinh viên với quốc văn Việt Nam "! Biết
bao nhiêu điều các bạn có thể tự tình kể lể với cái hồn của nước ta đọng
trong quốc ngữ!" (Sinh viên với quốc văn).
Và cũng có những lúc, tình cảm nồng nàn tha thiết bộc lộ qua những
câu hỏi bức xúc, riết róng đối với đối tượng: " Nhưng ta tạm giả sử là tâm
hồn người An nam chỉ có thể thầm kín, vừa phải. Thế thì sao? Thế thì người
viết văn cứ vừa phải mà thôi ư? Thế thì ta cứ giam hãm trong sự mờ nhạt,
sự nhác lười ư? Ta cứ nói đi nói lại ngần ấy chuyện ư? (Thơ của ngườiT).
Nhiều khi, tình cảm nồng nàn tha thiết của nhà văn biến thành những
than đau đớn:
" Thế là ở giai đoạn ấy, tiếng Việt Nam bỗng dưng như một người mẹ
không đủ sữa để mà nuôi con. Thật là đớn đau, thật là tủi hổ cho lòng
mẹ!"( Sinh viên với quốc văn)
những niềm đau ứa lệ:
" Mảnh tình viết đến cuối bài, vẫn còn " cái cơn muốn khóc. "
Người đọc còn có thể gặp nhiều giọng điệu khác: giọng giễu cợt, giọng
mỉa mai bóng gió, giọng phẫn nộ bực tức... Xét đến cùng, vẫn là tấm lòng
nồng nàn của Xuân Diệu trước hiện trạng của văn chương và niềm khao khát
thay đổi nó, làm phong phú cho nó. Chẳng hạn: " Xưa kia, ta sẵn lòng nói đến
bến Tiền đường, đến tuyết, đến bức Tràng thành, đến những cảnh Tàu đặc. Ta
đã dùng điển tích một cách yên tâm quá, cho đến nỗi - than ôi!- ta đã dám viết
những câu nửa tàu nửa ta, đem cả cái cú pháp tàu trong văn ta: Phù con dại
cái mang hay là mặc thế gian chi mai mỉa..." hoặc: " Học mà khảo cứu thì
cũng được đi. Nhưng không! Học để bói bằng cỏ thi và mu rùa! Cỏ thi là cỏ
gì ta chẳng có biết! Thì ta cứ vơ một nắm đũa hay một bó tăm mà gọi là cỏ thi
cũng được!"
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Còn đây là giọng mỉa mai những nhà Tây học sùng bái văn Tây : "Và
thưa các bậc kỳ tài làm văn, làm thơ tây, nãy giờ tôi chưa nói mất lòng các
ngài, nhưng chắc các ngài cũng khá thông minh để hiểu rằng sở dĩ tôi cãi kịch
liệt về Tuy Lý Vương, là cốt ý cho các ngài cũng tự ngắm các ngài một chút".
Với những sắc thái giọng điệu khác nhau, Xuân Diệu đã tạo được dấu ấn cho
giọng điệu văn xuôi của mình. Đó là lời thúc giục nồng nàn của tuổi trẻ, khát
sống, thèm yêu. Đó cũng là lời thủ thỉ tâm tình đượm một nỗi buồn thương.
Đó là sự bày tỏ nồng nàn tha thiết những mong mỏi và khát vọng của ông về
người nghệ sĩ, về văn chương. Qua giọng văn của ông, ta hình dung một con
người đang từ tốn nói về mình, nói cho mình và cho người khác về những ấn
tượng, những trải nghiệm trong cuộc sống cũng như những tư tưởng hoặc đã
được nghiền ngẫm kỹ lưỡng, hoặc như bột phát phải lên tiếng trước những
vấn đề của văn chương. Bản chất của văn ông là chia sẻ, tha thiết, do vậy mà
văn Xuân Diệu luôn thấm thía, luôn thân mật tự nhiên, lôi cuốn và thuyết
phục người nghe. Mỗi chữ, mỗi câu văn của ông như một giọt của tâm hồn và
tư tưởng chắt lọc qua ngòi bút của một con người luôn khao khát giao cảm
với con người và tạo vật, vô cùng thiết tha với quốc văn, tiếng mẹ đẻ và văn
chương nước nhà.
3.4.Cách tổ chức ngôn ngữ trong diễn ngôn phê bình - tiểu luận của
Xuân Diệu.
3.4.1. Lối đặt tên bài, cách mở đầu tạo ấn tượng.
Đặt tên bài viết và cách mở đầu bài viết để tạo sự hấp dẫn "ngay từ cái
nhìn đầu tiên" - đó là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của văn báo chí và
văn chương nói chung.
Đọc tên bài " Tuy Lý Vương - thi sĩ Tàu ", có lẽ không ai không ngạc
nhiên để đọc tiếp nội dung bài báo với rất nhiều thắc mắc: Tại sao một nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
thơ hoàng tộc nổi tiếng, được vua Tự Đức rất khen ngợi lại là một thi sĩ Tàu?
Và toàn bộ lập luận của Xuân Diệu đã làm sáng tỏ cái tên bài 'giật gân' ấy.
Có khi Xuân Diệu đặt tên bài và kèm theo đó một mệnh đề - chúng nhiều
khi có ý nghĩa, vai trò như một luận đề cơ bản mà tác giả sẽ trình bày. Chẳng
hạn như hai bài viết về thơ tình và ái tình. Bài thứ nhất có tên"" Đàn bà hay
người yêu?- Aí tình và khuôn sáo" và bài thứ hai: "Thơ ái tình " với một
luận đề kèm theo : Nếu tình yêu chỉ là tình yêu thì tôi yêu làm gì? Toàn bộ
nội dung của bài viết sẽ lần lượt giải đáp những câu hỏi và những luận đề ấy.
Tên bài Công danh với sự nghiệp ghép song đôi hai cặp phạm trù đối lập
để tác giả lập luận phê phán công danh, đề cao sự nghiệp. Và bài viết cũng
mở đầu bằng một câu ấn tượng:" Nước Việt Nam ta lụn bại vì công danh".
Mở đầu bài Đàn bà hay người yêu? Aí tình và khuôn sáo là một lời kêu
gọi, một hình tượng đẹp của tuổi trẻ: "Hỡi chàng trai trẻ đi trên đường kia,
đẹp như một cây thông và mạnh như một chiếc tàu, ngừng lại đây và cho tôi
dặn..."
Còn đây là cách mở đầu bài Thơ của người: "Thoát ra ngoài cuộc đời, ồ!
Mộng tưởng cao quý; nhưng cứ ở trong cuộc đời, sự cao quý lại càng cao
hơn!".
Đặt tên bài và câu mở đầu bài viết của Xuân Diệu luôn tạo ấn tượng bởi
tính sắc sảo và tính trực tiếp của vấn đề - chúng đủ sức tạo không khí tiếp
nhận và cuốn người đọc vào những dòng văn.
3.4.2. Lối hành văn, diễn đạt mới mẻ.
Xuân Diệu sử dụng nhiều câu mệnh lệnh thức, nhiều thán từ, câu hỏi
nghi vấn. Có thể khẳng định không một cây bút phê bình tiểu luận nào đương
thời sử dụng nhiều câu văn với nhiều dấu hỏi (?)và vấu chấm than (!)như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
một dấu hiệu phong cách như Xuân Diệu. Chúng xuất hiện liên tục với một
tần suất dầy đặcn, tạo ra không khí một cuộc đối thoại, tranh luận sôi nổi:
" Thì ra cái lối nhắm mắt mặc chuyện đời của Lý Bạch vốn ăn sâu
trong máu của ta rồi! Đời bây giờ mà ta lại hát khúc Cổ Bồn của Trang Tử!
Đốt! Đốt hết! Đập! Đập cả! Hãy nghêu ngao trong cái thú "hy di"! Thật là cái
khẩu khí của bọn anh hùng rơm!"
"Nhưng khi thiên hạ tọc mạch nhìn xem thì , hỡi ôi! Những vật liệu họ
dùng đều trong cuộc đời cả".
Những câu mệnh lệnh thức cũng thường được dùng để kêu gọi, nhắc
nhở:
"Hãy thổi ngọn gió thơ của ta qua những sinh vật đáng yêu đáng
thương kia, để thơ ta đẫm vị nước mắt, vị mồ hôi".
"Hãy nói giùm những điều thiên hạ cảm thấy mà không nói được; hãy
đem đến những bầy người khổ sở, cau có những bông hoa thơm mát của sự
hiền lành. Hãy làm trái tim của anh bằng đường, và hãy tưởng trái tim
của anh là một chiếc bánh mênh mông".
Còn đây là lối đặt câu lạ, mới về ngữ pháp - đôi khi gây không ít sự ngỡ
ngàng cho người đọc nhưng không thể không thấy nó đã gây một ấn tượng và
hiệu quả thẩm mỹ nhất định:
"Cầm ngọn giáo mà đâm chém giữa không trung, người anh hùng ấy
chỉ có không khí sợ "
"Anh nên xét cho kỹ để chỉ nghe sự thành thực quả nhiên là thành
thực của lòng anh".
" Thơ đâu phải là sự buông thõng hai tay, xuôi theo dòng nước mơ
màng "...
Văn của Xuân Diệu ào ạt, biến hóa các kiểu diễn đạt. Tổ chức diễn ngôn của
Xuân Diệu vừa chặt chẽ, vừa đa dạng. Nhà thơ luôn sử dụng các hình thức so
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
sánh, ví von - một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ, nhiều khi rất độc
đáo. Ông nói về hồn thơ Huy Cận:
"Tâm hồn ông là một cô gái xưa rón rén, ung dung, trông nết na dè
dặt, kì thực hay liếc trộm và rất ưa viết thư tình”
Ông so sánh ví von để tự hình tượng nói về các loại thơ- thứ thơ mặn
mòi của cuộc sống: " Cũng như cơn gió mặn thấm muối của biển nước, thơ
ta hãy thấm muối của biển người" và cả thứ thơ tình dễ dãi, sẽ chỉ như những
lời bướm ong dễ dàng bay đi với thời gian: “Thơ ấy cũng sẽ như bao nhiêu
lời bướm ong mà trai gái hát qua hàng rào, và hết mùa gió nồm là câu ca
cũng mất”.
Người ta còn có thể nhiều kiểu cấu trúc câu, sử dụng từ độc đáo khác -
cấu trúc câu với các vế đối lập : "nhưng cô đơn ở giữa rừng người, còn ấm
áp hơn ở trên núi biếc "; "cảnh chờn vờn một cách nặng nề"; và cả kiểu câu
văn với các ý đối chọi được sắp xếp sao cho gây ấn tượng nhất : " miệng cười
như khóc, méo một cái méo hãi hùng"...
3.4.3. Cách lặp từ vừa tạo những điểm nhấn cho tư tưởng , vừa tạo nhạc
điệu cho văn.
Lối lặp từ ngữ, lặp cấu trúc câu là một cách tổ chức diễn ngôn trong
văn xuôi Xuân Diệu. Nó tạo ra một tiết tấu riêng, những nốt nhấn để dẫn đến
sự lôi cuốn đặc biệt: mỗi đoạn văn là một dòng chảy mạnh mẽ, ồ ạt của chữ
nghĩa và ý tưởng.
Xin dẫn ra đây một số trong rất nhiều câu văn lặp từ ngữ, lặp cấu trúc câu
trong văn Xuân Diệu:
"Mà Thê lương của sự chết cũng chỉ là một phần của Thê lương lớn,
của Thê lương chung..."
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
" Chúng tôi cũng bơ vơ; mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời
là một khung bơ vơ; chúng ta đồng một bơ vơ với nhau, vậy thì người cũng
bớt bơ vơ một chút ".
" Và nghe thơ Huy Cận, lòng ta lây cái cảm thương không cùng của
thi sĩ và trước nhất, ta cảm thương người thi sĩ rất nhiều cảm thương "
" Anh em có thể làm ngay chiều nay hay sáng mai được. Anh em giở
ngay sách quốc văn ra mà đọc. Sách hay, anh em đọc, sách dở, anh em
cũng cứ đọc".
"Và trong khi ca tụng đàn bà, người ta lại vu oan cho họ quá đáng. Đàn
bà, lòng dạ đổi thay! Đàn bà, ân tình trơ tráo!".
" Chỉ có tình yêu, chỉ có người yêu!... Chỉ có lòng ta, chỉ có lòng ta
thôi!"
"Đây là cái điên tươi thắm của một bà mẹ, cái điên cần phải có trong
mọi công việc cao xa"
"Mà đi bằng cách nào. Và đi vào đâu. Lên cung tiên. Vào thiên
đường. Xuống địa phủ. Những người bảo thế chỉ nói chơi đấy thôi. Họ đùa
đấy".
"Thơ là hoa, là mộng. Thơ cũng là cơm ".
"Tôi qua trong sự mơ màng nó chẳng mơ màng. Tôi nghĩ cảnh, tôi nghĩ
tôi, tôi nghĩ tất cả"
Có thể thấy rõ hiệu quả của lối cấu trúc lặp này của câu văn Xuân Diệu
. Nó đập mạnh vào tư tưởng, nó gây ấn tượng về một cuộc trò chuyện sinh
động và biến hóa của những ý tưởng. Và người ta cũng cảm nghe trong đó cái
nhạc tính của câu văn.
3.4.4. Mới mẻ và táo bạo trong sử dụng từ ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Xét riêng ở phương diện sử dụng từ ngữ trong văn xuôi, người ta đã có
thể nhận ra rất nhiều cái mới trong văn Xuân Diệu. Và có lẽ đây cũng tạo một
ấn tượng là văn Xuân Diệu "Tây quá". Những cách tân mạnh bạo của nhà thơ
trong việc sử dụng từ ngữ nằm chung trong quan niệm làm phong phú quốc
văn và tiếng Việt. Những đổi mới ấy không phải tùy hứng, tự phát. Nó nằm
trong một tư tưởng bao quát về mở rộng văn chương, làm giàu thêm Tính
cách An nam trong văn chương bằng cách tạo cho nó những khả năng mới.
Nhà thơ ý thức sâu sắc rằng tiếng Việt từ xưa ít được sử dụng trong văn
chương và " một thứ tiếng để lâu quá, ít dùng quá thì cố nhiên ít được khéo
léo". Bởi vậy, phải tạo thêm, phải bày đặt ra những cách dùng mới mà xưa kia
các cụ không chịu làm" (Tính cách An nam trong văn chương). Xuân Diệu
còn nói cụ thể hơn: "Thỉnh thoảng chúng ta cũng phải dùng những chữ bởi,
của, trong...- những tiếng đưa đẩy mà trước đây các cụ rất ít dùng; và ta lại
dùng theo những cách có hơi lạ". Và quả thật, Xuân Diệu đã sử dụng từ ngữ,
và sáng tạo từ ngữ nữa, theo cách của ông.
Trước hết, có thể thấy ngay rằng trong văn Xuân Diệu, luôn gặp những
từ lạ, những từ ghép mới mẻ. Người đọc có thể vừa ngạc nhiên vừa thú vị với
lối tạo từ này:
"Một bầu say sưa, một trời tưởng nhớ "
"Ta dàn trải làm gì"? Ta hãy đọng lại nơi vài dòng châu sáng "
"Tiếng ảo não, hơi phồng, như trong ấy có sự gắng sức, tiếng rậm, và
nhiều, và thê lương như sự chết..."
"Những linh hồn mộc mạc, buồn xa mà không biết mình buồn "
Và không thiếu những từ ngữ còn lạ hơn nữa: "cái điên tươi
thắm","chụm nhà lụp xụp"...
Vẫn trong xu hướng mạnh dạn sáng tạo, "dùng theo những cách có hơi
lạ, Xuân Diệu đã có lối dùng từ, chơi chữ táo bạo, có khi đến "táo tợn".Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
ghép tên thi bá với một hình tượng tầm thường nhất: Tuy Lý Vương - thi sĩ
"củ khoai".
Ông có thể diễn đạt ý bằng những từ ngữ mạnh và bạo đến mức có thể
làm ngỡ ngàng người đọc của hôm nay: " Và bàn tay đã đàn trên phím thịt
cũng là bàn tay nâng lấy trán ưu tư".
Xuân Diệu cũng có cách chơi chữ hóm hỉnh, đầy giễu cợt khi ông nói
về các sĩ tử theo đuổi công danh thời xưa "khéo nấu nướng những món văn
sách, kinh nghĩa, nấu giả Đường, giả Tống cũng như người ta nấu giả cầy và
dọn lên cho các quan trường thưởng thức”, cũng như khi nói về bầu không
khí của thơ tình đương thời: "Người ta đã nhả vào trong ấy không biết bao
nhiêu là lười biếng, nhầm lẫn, a dua...".
Từ ngữ quen dùng với ý nghĩa thông thường, qua cách diễn đạt và sử
dụng của ông bỗng có khi mang một sắc thái khác , một hàm nghĩa khác :
"Dường như văn thơ của chúng ta đã ngủ một giấc thật ngon lành. Vì lòng
của chúng ta đã ngủ".
Có thể dẫn ra rất nhiều những dẫn chứng tương tự về cách tạo từ và sử
dụng từ của Xuân Diệu:
"hãy thổi ngọn gió thơ của ta qua những sinh vật đáng thương"
"cô đơn ở giữa rừng người"
"những lâu đài vu vơ bằng mù sương"
"cái cơn muốn khóc"
"cái cảm giác trỗi nhất"
"thiên văn đài của linh hồn"
"linh hồn chàng giãn nở"
Xuân Diệu là người sử dụng khá nhiều những giới từ nối liền câu văn
và từ ngữ, những chữ của, bởi... - kiểu câu của văn Pháp. Nhà phê bình Hoài
Thanh đã từng lên tiếng phê bình lối đặt câu quá Tây này. Nhưng Xuân Diệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
đã có lời "nói lại" với nhà phê bình và trình bày rõ ý định đặt câu theo lối đó :
"Tôi xin lỗi ông Hoài Thanh vì tôi đã nói: "đại dương của thương nhớ, sa mạc
của cô đơn". Tôi nhận rằng chữ "của" ngô nghê thực. Song le nếu nói: "nỗi
thương nhớ mênh mông như đại dương. Câu dưới là một sự so sánh (une
comparaison, câu trên có chữ của là một sự chung hợp, một sự lẫn lộn (une
métaphore). Ý tôi là phải dùng métaphore mới tả được; thì tôi phải dùng chữ
"của" dầu cái ấy nghe không quen tai".
Một ý thức rõ rệt và những cách thể nghiệm có ý thức trong câu văn và
lối dùng từ của Xuân Diệu. Hoài Thanh nói về sự ngô nghê như người mới
học nói tiếng ta, nhưng cũng lại cho đấy là chỗ hơn người của Xuân Diệu.
Với Xuân Diệu, ông không quan tâm đến thắng thua trong tranh luận, bởi như
ông nói, trong mọi đổi mới ngôn ngữ trong văn chương, "chỉ một điều mà ta
nên nghĩ, dầu ta phải hay trái, là tiếng Việt Nam mà ta yêu...".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
Kết luận
1.Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Xuân Diệu xuất hiện trong
phong trào Thơ Mới “như một ngôi sao sáng chói” (Tế Hanh). Ta biết đến
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, nhưng Xuân Diệu cũng là một cây bút văn
xuôi đặc sắc. Ông đã có những truyện ngắn, bút ký giàu ý vị và đầy chất thơ
(in trong hai tập Phấn thông vàng và Trường ca), góp phần xây dựng và
khơi mở dòng văn xuôi trữ tình trước 1945.
Bên cạnh đó, ông còn viết nhiều bài phê bình - tiểu luận có giá trị chung
quanh nhiều vấn đề của văn học đương thời, đặc biệt là về yêu cầu xây dựng
nền quốc văn, cùng những vấn đề chung quanh công việc sáng tác thi ca như
Thơ của người, Tính cách An nam trong văn chương, Công của thi sĩ Tản Đà,
Công danh và sự nghiệp, Thơ ngắn,, Thơ khó, Thơ ái tình... Đó là những tác
phẩm độc đáo mang giá trị nội dung và những đặc điểm nghệ thuật riêng của
Xuân Diệu, góp phần làm nên một nét đa dạng, phong phú của văn chương
Việt Nam đương thời. Những bài phê bình tiểu luận đã thể hiện được những
tư tưởng đặc sắc của ông về văn chương và quốc văn. Đó cũng là những khao
khát của Thơ Mới, của văn chương đương thời và nó cũng là một cách bộc
bạch con người Xuân Diệu trong cuộc đối thoại với chính mình, với văn
chương và thời đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
2. Xuân Diệu là một nhà thơ mẫn cảm với những vấn đề văn chương của
thời đại mình. Là một cá tính sáng tạo bộc bạch, sôi nổi, lại đang ở tuổi hai
mươi đầy nhiệt huyết và khát khao sáng tạo, Xuân Diệu đã nhập mình vào
dòng chảy văn chương đương thời, cảm nhận tinh tế những vấn đề đang đặt ra
cho sự phát triển của nó.
Những tư tưởng của ông về công việc xây dựng nền quốc văn mới là một
đóng góp thực sự trong việc góp phần đẩy lùi những ảnh hưởng nô lệ của văn
Tàu cũng như văn Tây để thực sự xây dựng nên một nền quốc văn mang đậm
bản sắc Việt. Câu hỏi " Làm thế nào để xây dựng một nền quốc văn" được đặt
ra và được phân tích với nhiều ý kiến cụ thểN: sự trân trọng tiếng Việt mẹ đẻ,
chống lại sự học đòi nước ngoài và nỗ lực sáng tạo bằng tất cả khả năng của
mình, chống cách khảo cứu dễ dãi và giả dối...Nhiệm vụ gây dựng quốc học
trước hết đặt lên vai những trí thức trẻ, bởi họ chính là tương lai, là những
người thợ thông minh và cần mẫn xây đắp ngôi nhà quốc văn. Xây dựng một
nền quốc văn đậm đà bản sắc Việt Nam - yêu cầu chính đáng và đúng đắn đó
cũng cần đi liền với một cái nhìn cởi mở và một tầm nghĩ rộng rãi để có thể
mở rộng văn chương, đưa văn chương nước nhà hòa đồng cùng văn chương
nhân loại.
Bên cạnh những ý tưởng mới mẻ và một quan điềm khách quan, khoa học,
người ta đọc thấy trên mỗi trang văn phê bình tiểu luận của Xuân Diệu về chủ
đề này một tấm lòng tha thiết yêu mến tiếng Việt và nền văn chương nước
nhà.
3. Là một nhà thơ có vị trí hàng đầu trong nền Thơ mới đương thời, cộng
với một tinh thần mẫn cảm thường trực với cái mới cùng mối quan tâm đến sự
phát triển của Thơ, Xuân Diệu đã lên tiếng về nhiều vấn đề của văn chương
và thơ ca. Trong nhiều bài phê bình tiểu luận, nhà thơ trẻ như tự giãi bày
những suy nghĩ của mình, những quan niệm dẫn dắt mình trong sáng tác. Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
cũng đề cập đến nhiều khía cạnh của việc sáng tác thơ ca trong mong muốn
Thơ mới ngày càng phong phú và giàu có hơn: thơ cần phải hướng về con
người chứ không thể thoát ly vào thế giới khác, dù đó là thế giới Bồng lai; thơ
cần tinh chất mà không dàn trải; thơ cần thám hiểm cõi không cùng, bí ẩn của
tâm hồn con người...
Aí tình và thơ tình là một chủ điểm độc đáo trong những phát ngôn của
nhà thơ tình tiêu biểu của Thơ mới. Một cái nhìn thành thật và táo bạo về Aí
tình, một cảm quan mang đậm tính thời đại trong quan niệm về Aí tình đã
được nhà văn phơi trải. Qua đó, người đọc có thể hiểu hơn về cõi tình rộng
lớn của nhà thơ, và chính nó cũng góp phần làm cho thơ tình yêu trong Thơ
mới thêm đậm đà, phong phú và giàu chất nhân văn.
4. Là một nhà thơ trẻ có một trái tim sôi nổi, đồng thời cũng là một cây bút
phê bình tiểu luận có phong cách riêng và rõ nét, văn trữ tình cũng như văn
phê bình của Xuân Diệu tạo một dấu ấn khá đặc sắc cho văn phong phê bình
đương thời. Có một sự đan cài, giao hòa giữa văn xuôi và thơ- ngay trong
nhiều bài tiểu luận, người đọc cũng thấp thoáng đọc ra chất thơ trong đó. Văn
phê bình Xuân Diệu tràn đầy những hình tượng sinh động và quyến rũ, nó
làm nên một vẻ duyên dáng và có sức lay động tình cảm con người, nhất là
khi nó được cất lên thông qua một giọng điệu riêng của nhà thơ: luôn tràn đầy
sự sôi nổi, nhiệt tình, sẻ chia cùng người đọc.
Người ta cũng có thể nhận ra các sắc thái giọng điệu luân chuyển nhau, khi
tha thiết kêu gọi, khi luận chiến sắc sảo, khi mỉa mai giễu cợt trong văn Xuân
Diệu. Đồng thời, đó cũng là thứ văn phong đầy cá tính xét trong tương quan
với ngôn ngữ phê bình đương thời, nhất là khả năng tổ chức ngôn ngữ uyển
chuyển và lối dùng từ ngữ luôn mới mẻ, táo bạo - thứ ngôn ngữ mà nhiều nhà
phê bình thời đó nhận xét là "Tây quá", và đi kèm với nhận xét này là một
khẳng định: đấy là chỗ "hơn người" của Xuân Diệu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Những đặc sắc trong ý tưởng cũng như văn phong làm nên giá trị của văn
phê bình tiểu luận Xuân Diệu, càng tôn cao thêm những quan niệm về văn
chương mà tác giả đã gửi gắm trên trang viết. Dù không phải tất cả, thì vẫn có
thể nói nhiều quan niệm văn chương của người thi sĩ trẻ cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị.
Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước năm 1945 là một đề tài rộng.
Việc đánh giá một cách toàn diện những vấn đề về tư tưởng và quan niệm văn
chương của một nghệ sĩ lớn và giải quyết thấu đáo, trọn vẹn đề tài này thực sự
vẫn còn là một yêu cầu cao đối với năng lực và điều kiện thời gian eo hẹp của
một luận văn Cao học. Đây là một mảng đề tài thú vị và dù đã có nhiều cố
gắng cùng với sự say mê đề tài đã lựa chọn, người viết còn nhận thấy đề tài
này cần có sự tiếp tục đi sâu.
Với đề tài Vuan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945, luận án sẽ
góp một phần nhỏ bé vào công việc nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Xuân
Diệu nói chung, đồng thời qua sự tiếp cận sẽ phần nào giúp người đọc hiểu rõ
hơn ý tưởng và quan niệm nghệ thuật của Xuân Diệu . Chúng tôi hy vọng sẽ
có điều kiện để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa những suy nghĩ
bước đầu đã trình bày trong luận văn này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh –Văn học Việt Nam hiện đại – Nhận thức và thẩm
định. NXB Khoa học – Xã hội, Hà Nội 2001.
2. Huy Cận – “Phấn thông vàng” – Tập truyện ngắn trữ tình độc đáo
của Xuân Diệu - Tuyển tập Huy Cận (Tập 2) NXB Văn học Hà Nội
1986.
3. Xuân Diệu–Toàn tập T (Tập 2) NXB Văn học Hà Nội 1987.
4. Xuân Diệu - Phấn thông vàng, NXB Thanh niên, Hà Nội 1989.
5. Xuân Diệu –Những bước đường tư tưởng của tôi. NXB Văn học,
Hà Nội 1958.
6. Xuân Diệu - Dao có mài mới sắc. NXB Văn học 1963.
7. Phan Cự Đệ –Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Tập I, II) NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, 1978.
8. Phan Cự Đệ – Hà Minh Đức–Nhà văn Việt Nam N (2 tập). NXB
Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội 1983.
9. Hà Minh Đức “Những chặng đường thơ Xuân Diệu”. Xuân Diệu
về tác gia và tác phẩm. NXB Giáo dục tái bản năm 2001.
10. Hà Minh Đức –Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt Nam hiện đại .
NXB Hà Nội 1998.
11. Lê Quang Hưng –Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Luận án Phó tiến sĩ khoa học
Ngữ văn ĐHQG Hà Nội 1996.
12. Lê Quang Hưng –Cảm xúc thời gian trong thơ Xuân Diệu . Tạp
chí Văn học số 1 – 1997.
13. Lê Quang Hưng –Cái Tôi độc đáo, tích cực của Xuân Diệu trong
phong trào Thơ Mới . Tạp chí Văn học số 5-1990.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) Từ điển
Thuật ngữ Văn học. NXB ĐHQG Hà Nội 1998.
15. Nguyễn Hoành Khung “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Xuân Diệu con người và tác phẩm. NXB Tác phẩm mới Hà Nội
1987.
16. Lê Đình Kỵ – Thơ Mới –Những bước thăng trầm . NXB TP HCM
tái bản 1993.
17. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn. NXB Giáo dục 1991.
18. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách. NXB Tác
phẩm Hà Nội mới 1991.
19. Nguyễn Đăng Mạnh “Vài cảm nghĩ về văn xuôi Xuân Diệu . Xuân
Diệu về Tácm gia và Tác phẩm. NXB Giáo dục tái bản 2001.
20. Nguyễn Đăng Mạnh “ Những bài giảng về tác giả văn học trong
tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, Tập 2. NXB ĐHQG Hà Nội
1999.
21. Lê Hữu Nguyên–Xuân Diệu thơ và đờiX NXB Văn học Hà Nội
1998.
22. Vương Trí Nhàn - Sổ tay truyện ngắn. NXB Tác phẩm mới, Hà nội
1980.
23. Xuân Diệu –Từ điển văn học (viết chung). NXB Khoa học xã hội
1984.
24. Nguyễn Văn Long –Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXB
Giáo dục 2002.
25. Thế Lữ- Tựa tập Thơ Thơ. Xuân Diệu về Tác gia và Tác phẩm.
NXB Giáo dục, tái bản 2001.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
26. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà - Phong cách học Tiếng Việt.
NXB GD 1995.
27. Mã Giang Lân - Sự đa dạng của Xuân Diệu, Xuân Diệu tác gia và
Tác phẩm. NXB GD tái bản 2001.
28. Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại (2 tập). NXB KH Hà Nội 1989.
29. Vũ Đức Phúc - “Sự phát triển của chủ nghĩa lãng mạn tư sản
ởViệt Nam và phong trào Thơ Mới” Tạp chí văn học số 5-1969.
30. Trần Đình Sử (Tuyển chọn)- Giảng văn chọn lọc văn học Việt
Nam. NXB HN 1999.
31. Trần Đình Sử - Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. BGD & ĐT -
Vụ giáo viên HN 1998.
32. Hoài Thanh - Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học HN,
tái bản 2000.
33. Lưu Khánh Thơ- Xuân Diệu về Tác gia và Tác phẩm. NXB GD tái
bản 2001.
34. Lưu Khánh Thơ- Xuân Diệu một tài năng đa dạng” Xuân Diệu về
Tác gia vàTác phẩm . NXB GD tái bản 2001.
35. Phan Ngọc Thu - Xuân Diệu nhà nghiên cứu phê bình văn học.
NXB Giáo dục 2003.
36. Phan Trọng Thưởng - “Cuối thế kỉ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh
giá văn chương Tự lực văn đoàn. Tạp chí văn học số 2 năm 2000.
37. M. KHRAPCHENCÔ- Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển văn học. NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978.
38. M. KHRAPCHENC¤- S¸ng t¹o nghÖ thuËt hiÖn thùc, con ng•êi
(2 tËp). NXB KHXH Hµ Néi 1984.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9452.pdf