Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THỊ THANH TÂM QUAN NIỆM NHÂN SINH TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS-TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong thời kỳ cực thịnh của triều Hậu Lê nhưng lại trưởng thành ở thời kỳ rối ren nhất của lịch sử nước nhà. Những trang lịch sử nửa sau thế kỷ XV-XV

pdf107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3934 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I đã ghi lại nhiều biến động về chính trị, nhiều bất công trong xã hội và kéo theo đó là những suy đồi về đạo đức. Hầu như những nguyên tắc đạo lý của Khổng giáo bị sa sút trầm trọng, thói đời đen bạc được phơi bày làm cho những ai có tâm huyết với đời, có kỳ vọng trung hưng về một xã hội phong kiến càng thêm ngao ngán chán chường. Toàn bộ bức tranh hiện thực xã hội thời ấy đã tác động sâu sắc lên những trang đời và trang thơ của nhà thơ, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng, đặc biệt là thái độ xuất xử của ông trước thời cuộc. Ông nhập thế là để giúp nước cứu đời. Ông lui về ở ẩn là để giữ vững khí tiết, thực hiện thú nhàn tản. Thế nhưng, thái độ ẩn dật của tác giả không trầm tư, mặc tưởng như những nhà Nho thời Lý-Trần mà chứa đựng một “nỗi đau tình đời, vận nước”(Năm trăm năm Nguyễn Bỉnh Khiêm một nỗi đau tình đời, vận nước-Nguyễn Phan Quang)[78, tr.148], thái độ “nhàn” của ông là thể hiện cái dũng khí “dĩ bất biến ứng vạn biến” của những bậc chân Nho.Vì thế, các nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện không chỉ là một cây đại thụ của nền thơ ca mà còn là cây đời tỏa bóng đạo đức. Ông sống giữa cuộc đời đảo điên nhưng lại là tấm gương sáng về nhân nghĩa. Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ một quan niệm nhân sinh với những triết lý vô cùng sắc sảo, thâm sâu vượt thời gian của tác giả. Bình về những triết lý này là điều mà bao năm qua các nhà nghiên cứu, phê bình đã làm và ngày nay là điều mà chúng tôi mong muốn đóng góp một chút gì đó vào việc tìm hiểu thêm về nhà hiền triết. 1.2. Ngày nay, đất nước Việt Nam đang vận động trong thế kỷ XXI, tuy không có những phong ba về mặt chính trị nhưng mấy ai dám khẳng định trong cuộc sống hiện tại không có cảnh con người chạy theo vật chất mà quên đi nét đẹp tâm hồn. Cuộc sống tinh thần, đạo lý thánh hiền, truyền thống dân tộc có bị lung lay hay không giữa một xã hội đang hội nhập về mọi mặt ? Khi công cuộc toàn cầu hóa văn hóa đang diễn ra rất phức tạp, khi cơn bão táp của nền kinh tế thị trường đang làm cho không ít người chỉ biết lấy vật chất làm thước đo giá trị con người thì lúc ấy mấy ai quan tâm đến đạo lý làm người. Khi thế lực đồng tiền và văn hóa thực dụng lên ngôi, thì mấy ai sẽ còn nhớ đến những tinh hoa dân tộc ẩn dưới lớp bụi thời gian. Vì vậy,“ trong thời buổi xô bồ, náo loạn, quay quắt, bề bộn”(Một danh nhân văn hóa lớn thế kỷ XVI-Lê Quốc Sử)[78, tr.164], việc đi vào tìm hiểu quan niệm nhân sinh trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Bởi cái nhìn triết lý về cuộc đời của ông ngày xưa vẫn còn ảnh hưởng đến hậu thế, vẫn có tác dụng hữu hiệu cho sự phân định những điều thật-giả; tốt-xấu; thiện-ác; đúng-sai đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả những vấn đề trên đều là những vấn đề lí thú cần nghiên cứu để hiểu sâu hơn về nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm, để bày tỏ tinh thần trân trọng di sản văn hóa quá khứ, trân trọng một tấm gương cao quí xưa. Đó chính là những lý do mà chúng tôi chọn làm đề tài nghiên cứu trong luận văn này. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời xưng tụng là “cây đại thụ tỏa bóng gần suốt cả thế kỷ XVI”. Cuộc đời và thơ văn của ông là đề tài khá hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu. Cho nên, tính đến thời điểm ngày hôm nay, ngoài một số bài viết lẻ tẻ trên Tạp chí Văn học, còn có nhiều công trình nghiên cứu về thời kỳ lịch sử phức tạp và cuộc đời có nhiều mâu thuẫn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm-Trần Thị Băng Thanh-Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu. Gồm 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng phương diện: Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỷ XVI đầy biến động; Triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm-Tư tưởng và nhân cách ; Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nhà thơ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức thế nhân xưa và nay. Những bài viết này thể hiện nhiều phát hiện khoa học lý thú và những lời bình sắc sảo của các học giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc–Viện khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, đóng góp 28 bài viết có chiều sâu, với nhiều tư liệu có giá trị về Nguyễn Bỉnh Khiêm: Thân thế và hoàn cảnh lịch sử ; Tư tưởng và Thơ văn; Một số vấn đề khác có liên quan đến Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập-Nguyễn Khuê. Đây là một công trình nghiên cứu và phiên dịch có giá trị mới mẻ. Công trình bao gồm bốn phần. Phần thứ nhất, tác giả đã trình bày những nét đại cương về hoàn cảnh lịch sử, về cuộc đời, về những tác phẩm chữ Hán, tác phẩm chữ Nôm, Sấm ký. Phần thứ hai, tác giả đi vào khai thác tình cảm, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phần thứ ba là những nhận xét về hình thức nghệ thuật và giá trị nội dung của Bạch Vân am thi tập, đồng thời đã khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử văn hóa dân tộc, trong lòng dân tộc Việt Nam. Phần thứ tư là 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập đã được tuyển dịch khá công phu. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm- Đinh Gia Khánh (chủ biên), tập trung trích 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ văn Việt Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tập sách có lời giới thiệu của tác giả với những lời nhận xét chung khá thuyết phục về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triết lý nhàn dật và tự tại trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm-danh nhân văn hóa-Trần Đình Hượu. Tập trung bàn khá thú vị về lối sống nhàn, tự tại của nhà hiền triết. Tập kỷ yếu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được thực hiện nhân lễ kỷ niệm 500 năm năm sinh của ông. Bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh những vấn đề “luôn luôn có một ý nghĩa thời sự, là những vấn đề còn để ngỏ chứ chưa khép lại”(Lời nói đầu-Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm). Những bài viết đề cập đến nhiều vấn đề về Nguyễn Bỉnh Khiêm và được sắp xếp theo một hệ thống chủ đề gồm bốn phần: phần thứ nhất nói về thời đại và quê hương Vĩnh Bảo; phần hai là những bài bình thú vị về con người và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập sự nghiệp văn chương của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những lời bình sâu sắc về nội dung và nghệ thuật thơ. Cuối cùng là những ý kiến trân trọng về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay. Bạch Vân Quốc ngữ thi tập- Sống Mới của Nguyễn Quân thì chỉ làm rõ thêm một số vấn đề về thân thế và sự nghiệp tác giả; nêu thêm mấy nghi vấn về Thái ất thần kinh, Thái Huyền, kinh Dịch, sấm ký Trạng Trình; những ý kiến sơ lược của tác giả về xã hội thời Nguyễn Bỉnh Khiêm và những lời bình ngắn lướt qua về nội dung-nghệ thuật một vài bài thơ. Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu có giá trị khác viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Cao Chương, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ Tiến Phúc, Trần Lê Sáng, Vân Trình… Mỗi một tác giả nhìn nhận về Nguyễn Bỉnh Khiêm ở góc độ khác nhau, mỗi một lời bình khá lí thú và hấp dẫn đã mở ra rất nhiều vấn đề mới. Dù những bài viết đó có mang tính chủ quan hay khách quan hoặc chưa đi sâu vào một khía cạnh nhưng đều tập trung vào vấn đề chính: tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính những nhận định khá sắc sảo của các nhà nghiên cứu đi trước và được nêu sau đây sẽ làm nền vững chắc để cho luận văn này ra đời : Mai Quốc Liên khẳng định: “ ….Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem như Giang, Hán trong các sông, như ánh mặt trời thu, cây đại thụ của đạo đức, văn chương thế kỷ XVII”. (Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc) Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh cho rằng : “Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cái vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của Nho gia, đã được điều chỉnh bởi quan niệm của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự vật Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh Khiêm-Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, giản phác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn, rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” (Sức sống của thơ ca và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm) Riêng Lê Trọng Khánh-Lê Anh Trà có những ý tưởng trân trọng khi phát hiện quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “…tính chất nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn hưởng lạc…tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích cực, phù hợp với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một lối phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy giờ, phản ứng bằng hình thức tiêu cực, nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu tranh bằng phương pháp theo lẽ tự nhiên.”(Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nhà thơ triết lý) Còn Nguyễn Khuê nhận định : “Thơ ông là tiếng nói rất chân thực rất nhân bản của một nhà hiền triết trước cảnh ngộ, nhân sinh, thiên nhiên vũ trụ; là một nỗ lực hướng tới chân, thiện, mỹ. Vì thế, tiếng nói ấy mãi mãi vang vọng trong tâm hồn dân tộc”(Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập) Trong Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nhà thơ lớn thế kỷ XVI, Nguyễn Phương Chi có lời bình khá thuyết phục về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thơ văn ông là khát vọng hòa bình, là nỗi lo lắng về tương lai của đất nước, là nỗi hoài nghi trật tự phong kiến, một trật tự mà đến thế kỷ XVI đã bị xáo trộn”. Và khi bàn về Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Quân cũng có khẳng định: “Lại nữa, cụ có chủ trương là chủ trương vô sự, nghĩa là không để có sự gì rắc rối, chớ đâu phải là chủ trương vô vi nghĩa là không làm gì hết, cứ việc phó mặc cho con tạo xoay vần …..Có thể nói sự lánh đời, nhưng còn khuyên đời, còn mong ước đời và vẫn không quên ơn vua chúa, không phụ tình nước non.” 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trong tiến trình khảo sát, ngoài việc tiếp thu thành quả của những công trình đi trước, chúng tôi tiếp tục đi vào nghiên cứu sâu hơn quan niệm nhân sinh trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hướng tới một số vấn đề sau: 1. Đi vào nghiên cứu thời đại và tiểu sử của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tìm hiểu cơ sở khách quan, chủ quan của việc hình thành quan niệm nhân sinh. 2. Khảo sát thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tìm hiểu quan niệm nhân sinh của ông thể hiện như thế nào? Tìm hiểu quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong sự đối sánh với tư tưởng các nhà thơ khác. 3. Nhận xét ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp lịch sử-xã hội Phương pháp Mác-xít khẳng định mối quan hệ giữa văn học và xã hội, giữa văn học và thời đại, giữa cá nhân và thời đại. Vì vậy, người viết đặt tác giả vào bối cảnh lịch sử-xã hội thế kỷ XV-XVI để nghiên cứu. Tham khảo những tài liệu có độ chính xác cao, có sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình qua quá trình tiếp nhận. Nhưng xin mạn phép là không tham dự vào cuộc tranh luận để phân định ai đúng ai sai mà chỉ đưa ra ý kiến cá nhân để chia sẻ cách hiểu riêng về một tác gia. 4.2. Phương pháp hệ thống Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan đối với vấn đề đang nghiên cứu. ở đây, quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được biểu hiện cụ thể qua cuộc đời, tư tưởng, cách sống và tình cảm trước hiện thực khách quan. Người viết sẽ sưu tầm những tài liệu có liên quan và sắp xếp có hệ thống khoa học. Phân loại thơ theo từng đề tài nhằm thể hiện cụ thể quan niệm nhân sinh của tác giả. 4.3. Phương pháp đối chiếu so sánh Sử dụng phương pháp này để khẳng định rằng thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự tiếp nối và phát triển truyền thống văn học Việt Nam. So sánh đối chiếu những điểm tương đồng và dị biệt với thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Phùng Khắc Khoan….nhằm phân tích sâu hơn tư tưởng của nhà thơ. 4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp Trong quá trình khảo sát, sẽ đi tìm những yếu tố lặp đi lặp lại, xác định những yếu tố nổi bật làm nên quan niệm nhân sinh. Phân tích từng câu thơ, bài thơ nhằm làm bật lên tư tưởng, tình cảm của tác giả. 5. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5.1. Đối tượng nghiên cứu Từ trước đến nay, có thể nói chưa có tác gia nào chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thời cuộc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho nên muốn hiểu rõ quan niệm của ông, trước hết phải khảo sát thời đại ông đang sống. Quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong 100 bài thơ chữ Hán và 161 bài thơ chữ Nôm. Bên cạnh đó, người viết cũng lưu ý tới điểm gặp gỡ về quan niệm nhân sinh của tác giả với các nhà thơ trước và sau ông.Trong quá trình nghiên cứu người viết sẽ tham khảo những công trình nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm từ trước tới nay, tham khảo thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Phùng Khắc Khoan….… 5.2. Giới hạn đề tài Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hướng đi cụ thể là từ xa đến gần từ cái chung đến cái riêng.Vấn đề nghiên cứu được khảo sát từ hoàn cảnh lịch sử-xã hội, từ tư tưởng Nho, Phật, Đạo, từ truyền thống văn hóa dân tộc, từ cuộc đời - sự nghiệp đến quan niệm nhân sinh của nhà thơ và sau đó là so sánh với các nhà thơ khác. Từ đó người viết sẽ đưa ra cách hiểu về ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cuối cùng, vì khả năng có hạn, luận án chưa có điều kiện đề cập tới những giai thoại, toàn bộ Lý học trong Thái ất Thần kinh, sấm Trạng Trình. Tài liệu nghiên cứu chủ yếu dựa vào tập Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Đinh Gia Khánh biên soạn và Tuyển dịch Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Khuê. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Từ hệ qui chiếu lấy những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc làm chuẩn, chúng tôi soi vào những tác phẩm thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tìm hiểu sâu hơn quan niệm nhân sinh của ông như một giá trị văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đóng góp thêm một số ý kiến về ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Luận văn chia làm 3 phần : 7.1. Mở đầu 7.2. Nội dung : có 2 chương. Bao gồm: Chương 1: Những tiền đề của quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chương 2: Các khía cạnh của quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. 7.3. Kết luận CHƯƠNG MỘT NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA QUAN NIỆM NHÂN SINH TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 1.1. Hoàn cảnh lịch sử thế kỷ XVI Xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XV và thế kỷ XVI xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng trầm trọng về mọi phương diện. Chính những biến động về chính trị, về xã hội cũng như về kinh tế đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm, đến tư tưởng và thái độ xuất xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 1.1.1. Về chính trị Ngay từ thuở ấu thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được sống trong cảnh thái bình thịnh trị của nhà Hậu Lê. Đó là thời Lê Thánh Tông (húy Tư Thành, niên hiệu Hồng Đức 1470- 1497). Đến khi Lê Hiến Tông (húy Tăng, niên hiệu Cảnh Thống 1497-1504) qua đời, mầm mống suy vong của một triều đại bắt đầu xuất hiện. Lê Hiến Tông truyền ngôi cho con thứ ba là Thuần tức vua Lê Túc Tông (niên hiệu Thái Trinh 1504). Nhưng Lê Túc Tông chỉ làm vua được sáu tháng đã qua đời, thời kỳ hoàng kim của nhà Lê chấm dứt. Triều đình tôn người anh thứ hai của Túc Tông là Tuấn lên ngôi tự là Lê Uy Mục (niên hiệu Đoan Khánh 1505-1509). Kế vị chưa bao lâu, Uy Mục đã làm nhiều điều bạo ngược, tin dùng bọn hoạn quan và ngoại thích giết hại hoàng thân, ăn chơi hoan lạc. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã viết: “Nhà vua đam mê tửu sắc, ưa việc tàn sát”[Quyển VI, 7, tr.43]. Phó sứ nhà Minh là Hứa Thiên Tích sang nước ta, chứng kiến cảnh bạo ngược, đã làm thơ: An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giáng quỷ vương?[7, tr.44] Cuối năm 1509, Giản Tu công Lê Oanh trốn khỏi ngục, cùng với Nghĩa quốc công Nguyễn Văn Lang khởi quân ở Thanh Hóa, đánh vào Đông Đô bắt giết Uy Mục rồi lên làm vua, xưng Tương Dực đế (niên hiệu Hồng Nhuận 1510-1516). Nhưng Tương Dực cũng bạo ngược, hoang dâm, tư thông với các cung nhân triều trước, sống xa hoa phung phí (sai Vũ Như Tô xây ngôi điện một trăm nóc và Cửu trùng đài trong nhiều năm liền). Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cũng viết: “…nhà vua…ăn chơi vô độ, xây cất nhiều cung điện, khiến cho dân oán, giặc dã nổi khắp nơi, gây nên thảm họa nguy vong…”[7, tr.45]. Sứ thần nhà Minh là Phạm Hy Tàng gọi là Trư vương, loạn vong không lâu nữa sẽ tới. Ứng với lời tiên đoán đó, giặc giã nổi lên khắp nơi, chia bè kết phái đóng ở từng vùng: năm 1511, tại Kinh Bắc có Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng khởi binh ở huyện Đông Ngạn, Gia Lâm; vùng Sơn Tây có Trần Tuân dấy binh chiếm cứ Hưng Hóa; năm 1512 Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triết nổi quân ở Nghệ An; năm 1515 nổi lên ở Tam Đảo có Phùng Chương, Đặng Hân, Đặng Ngật ở Ngọc Sơn; năm 1516 Trần Công Minh nổi dậy ở huyện Yên Lãng; Trịnh Ân và Lê ất ở Thanh Hóa…. Đặc biệt đội quân của Trần Cảo rất hùng mạnh. Trần Cảo tự xưng là Đế Thích giáng sinh tiến chiếm Hải Dương, Đông Triều, Bồ Đề. Quân triều đình nhiều lần đi đánh mà vẫn không diệt được. Năm 1516, Trịnh Duy Sản cùng với Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm mượn cớ đi đánh Trần Cảo, kéo quân vào cung bắt giết Lê Tương Dực, cùng với triều đình lập con Mục ý Vương là Quang Trị mới 8 tuổi lên ngôi. Nhưng Quang Trị làm vua mới được 3 ngày lại bị Trịnh Duy Đại giết ở Tây Kinh. Sau đó, Trịnh Duy Sản lập con Cẩm Giang vương là ỷ lên làm vua, tức là Lê Chiêu Tông (niên hiệu Quang Thiệu 1516-1522) rồi rước vua vào Tây Kinh. Lợi dụng sự rối loạn trong triều, Trần Cảo đem quân về chiếm Đông Đô, tự lên ngôi hoàng đế niên hiệu Thiên ứng. Triều đình cử Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy và Trần Chân tiến đánh Đông Đô. Trần Cảo yếu thế bỏ chạy lên Lạng Nguyên. Trịnh Duy Sản kéo quân truy đánh và bị giặc giết. Do thế lực yếu, Trần Cảo chạy lên đóng quân ở Lạng Sơn rồi sau đó ở Bồ Đề. Theo Trần Xuân Sinh trong Việt Sử kỷ yếu thì Trần Cảo “Thấy sự nghiệp không thành, giao binh quyền cho con là Trần Thăng (có sách chép là Trần Cung) rồi cắt tóc đi tu”[48, tr.290]. Nghĩa quân dần dần tan rã. Trong thời gian này, chẳng những chiếc ngai vàng đã bao lần thay ngôi đổi chủ mà mâu thuẫn trong nội bộ phong kiến diễn ra càng lúc càng gay gắt: Trịnh Duy Đại và Trần Chân mưu phản, âm mưu bại lộ bị giết; Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy chia bè kết phái, đem quân đánh lẫn nhau. Năm 1518, bộ tướng của Trần Chân là bọn Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Ang đem quân đánh phá kinh thành. Chiêu Tông cho vời Nguyễn Hoằng Dụ ra dẹp loạn nhưng Hoằng Dụ không ra. Trước tình thế đó, Chiêu Tông phải giao binh quyền cho Vũ Xuyên hầu Mạc Đăng Dung. Như vậy, rõ ràng mầm họa của triều Hậu Lê bắt đầu xuất hiện từ năm 1518. Mạc Đăng Dung tiến thân từ thời vua Uy Mục, được phong tước Vũ Xuyên bá từ thời vua Tương Dực và nhanh chóng được Chiêu Tông thăng làm Vũ Xuyên hầu, cử đi trấn thủ Hải Dương. Sau khi tảo thanh được bọn loạn thần, Mạc Đăng Dung nắm hầu hết binh quyền từ trong triều đến ngoài quận. Từ đấy, Đăng Dung chuyên quyền, tìm mọi cách lần lượt giết chết những người tâm phúc của vua như Đô ngự sử Đỗ Nhạc và phó Đô ngự sử Nguyễn Dự….Năm 1519, khi Nguyễn Sư làm phản, lập Lê Do làm vua đóng ở Từ Liêm. Nguyễn Hoằng Dụ cùng với Mạc Đăng Dung đem quân chinh phạt, bắt được Lê Do; chiêu dụ tướng Nguyễn Kính, Nguyễn Ang, Hoàng Duy Nhạc; dẹp cuộc nội loạn của Vũ Nghiêm Uy ở Tuyên Quang (1520); phá tan đoàn quân của Trần Cung ở vùng Kinh Bắc, Thái Nguyên (1521) và Lê Bá Hiến, Lê Khắc Cương ở Đông Ngàn. Từ thời điểm này, có thể nói rằng Mạc Đăng Dung đã trở thành một nhân vật quan trọng trong triều đình nhà Lê và Đăng Dung đã tìm mọi cách để mở rộng thế lực dòng họ Mạc. Chính vì vậy, Chiêu Tông càng lúc càng cô thế, bí mật bàn với Nguyễn Hiến, Phạm Thứ rời kinh thành trốn lên Sơn Tây, hiệu triệu anh hùng hào kiệt bốn phương đánh giặc. Lòng người lúc bấy giờ còn hướng về họ Lê nên theo về rất đông. Chiêu Tông lệnh cho Trịnh Tuy khởi quân đánh họ Mạc. Đăng Dung hội các đại thần trong triều lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng (niên hiệu Thống Nguyên 1522-1527). Cuối năm 1525, Mạc Đăng Dung kéo quân vào Thanh Hóa đánh bại Trịnh Tuy. Vì nội bộ không đoàn kết, không biết trọng dụng nhân tài, lòng người bất phục, cuối cùng Lê Chiêu Tông bị bắt. Sau đó Mạc Đăng Dung sai Bùi Khê bá Phạm Kim Bảng giết chết. Dòng họ nhà Lê tưởng chừng đứt đoạn từ đây. Mãi đến năm 1533, cơ nghiệp triều Lê Trung hưng nhờ công thần Nguyễn Kim. Nguyễn Kim cùng Lý quốc công Trịnh Duy Thoan, Phúc Hưng hầu Trịnh Duy Duyệt…đưa con trai Lê Chiêu Tông từ Ai Lao về tên là Duy Ninh lên ngôi tức Lê Trang Tông (niên hiệu Nguyên Hòa 1533-1548), đóng ở Sầm Châu. Anh hùng hào kiệt khắp nơi tìm đến quy phục rất đông, thanh thế càng ngày càng lớn, tạo thế đối đầu với nhà Mạc. Lê Trung Tông kế vị (tên Huyên, niên hiệu Thuận Bình 1549-1556). Dưới sự phò tá đắc lực của Lương quốc công Trịnh Kiểm, đất đai nhà Lê càng lúc càng được mở rộng, nhiều danh sĩ ra giúp sức như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh….Lê Trung Tông qua đời, Thái quốc công Trịnh Kiểm nghinh lập cháu huyền tôn của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ) là Lê Duy Bang lên ngôi tức Lê Anh Tông (niên hiệu Thiên Hựu, Chánh Trị, Hồng Phúc). Vì là cháu họ xa với các vua Lê tiền triều, lại không nắm được binh quyền cho nên nhà Lê chỉ có hư vị. Nhìn lại lịch sử triều Lê, có thể nhận thấy triều đại nhà Lê bắt đầu khởi nghiệp từ vị anh hùng Lê Lợi tức Lê Thái Tổ và kết thúc bằng sự sụp đổ ngai vàng của Lê Cung Hoàng (tuy sau đó cơ nghiệp triều Lê có trung hưng nhưng thực quyền không có). Nhà Lê trị vì thiên hạ được gần 100 năm (1428-1527), truyền được 10 đời vua. Trong vòng 100 năm, đất nước Đại Việt trải qua biết bao thăng trầm. Lê Thái Tổ đã từng dấy binh đánh đuổi quân Minh, khôi phục xã tắc giang sơn, khiến: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi). Lê Thái Tông thì được xưng tụng là một vị lương chúa, biết trọng dụng nhân tài. Lê Nhân Tông thì yêu thương dân, trọng người hiền. Lê Thánh Tông là một đấng minh quân, văn tài võ lược. Đời Hồng Đức là thời kỳ cực thịnh của triều Lê, là thời kỳ mà bờ cõi đất nước được mở rộng. Còn vua Lê Hiến Tông thì rất thông minh, ham chuộng văn học, quan tâm đến cuộc sống nhân dân. Cảnh thái bình thịnh trị, vua hiền tôi trung chấm dứt khi xuất hiện vua Quỷ, vua Lợn. Vua hoang dâm, vô đạo; quan tranh giành quyền lực chém giết lẫn nhau. Đạo đức suy đồi. Dân chúng khổ ải, lòng người ly tán. Chiêu Tông chẳng những không biết trọng nhân tài mà còn giết hại người ngay nên không giữ vững được cơ đồ. Trong tình hình bi đát như vậy, những ai thật sự có tâm huyết với đời cũng không muốn ra giúp đời vì không đủ lực xoay chuyển càn khôn, những ai có tấm lòng trung hiếu cũng không muốn ra bảo vệ ngai vàng cho những vị vua bất tài vô đức. Mặt khác, từ năm 1509 cho đến 1527, hàng loạt cuộc biến loạn tranh giành quyền lực nổ ra như sấm sét cho thấy sự suy sụp tất yếu của triều đình nhà Lê. Nhà Lê không còn giữ vững vai trò quan trọng của giai cấp phong kiến. Chính vì vậy, nếu không có một Mạc Đăng Dung này đứng ra thay đổi thời cuộc, kiên quyết trấn dẹp các cuộc nội loạn, viết nên trang sử triều Mạc thì cũng sẽ có một người khác muốn lật đổ một vương triều thối nát. Sử Trung Hoa cũng đã ghi lại chuyện xưa nhà Thương diệt nhà Hạ, nhà Chu lật đổ nhà Thương là không trái với đạo nghĩa. Về sau, triều Lê được trung hưng, tuy Lê Trang Tông rồi đến Lê Trung Tông có tài lược của bậc đế vương, chăm dân lo nước nhưng binh quyền phần lớn lần lượt lại nằm trong tay của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng. Cho nên, nhà Lê chỉ còn hư vị. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lấy niên hiệu Minh Đức(1527-1529) mở đầu cho triều đại nhà Mạc. Mạc Đăng Dung giết Cung Hoàng và Thái hậu. Đến năm 1529, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh (niên hiệu Đại Chính 1530-1540) và lên làm Thái thượng hoàng. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú có viết: “Đăng Doanh là con của Đăng Dung, tính khoan nhân, giản dị, hay giữ gìn pháp độ, ngăn cấm những việc hà khắc, bạo ngược, giảm nhẹ sưu dịch thuế khóa. Thuở ấy được mùa, mọi nhà đều sung túc, nhân dân no đủ, trong nước gọi thời ấy là thời trị bình”[7, tr.68]. Năm 1537, vua nhà Minh mượn cớ khôi phục nhà Lê đem quân sang đóng gần ải Nam Quan. Nguyễn Văn Thái được Mạc Đăng Dung cử đi sứ sang Trung Quốc xin thần phục. Và đến năm 1540, Mạc Đăng Dung đầu hàng quân Minh khi chúng tiến đánh. Mạc Phúc Hải lên kế vị (niên hiệu Quảng Hòa 1541-1546) Đăng Doanh mất. Phúc Hải “chỉ thích du hí, lúc ở nhà thì đam mê con hát, đi ra thì tìm thú chọi gà”(Lịch triều hiến chương loại chí-Phan Huy Chú)[7, tr.68]. Năm 1532, một cựu thần nhà Lê là An Thanh hầu Nguyễn Kim lập Duy Ninh con Chiêu Tông lên ngôi, tức Trang Tông, rồi khởi quân về Nghệ An đánh chiếm Tây Đô năm 1543. Đất nước bấy giờ chia làm hai: Nam và Bắc triều từ Thanh Hóa trở vào thuộc nhà Lê gọi là Nam triều; từ Sơn Nam trở ra gọi là Bắc triều thuộc nhà Mạc. Hai phe đánh nhau triền miên nhiều năm liền. Đến triều Mạc Phúc Nguyên (niên hiệu Vĩnh Định 1546), lợi dụng chúa còn nhỏ tuổi, bọn quyền thần trong triều thao túng, mọi quyền hành rơi vào tay là Khiêm vương Kính Điển. Vì vậy, Thái tể Lê Bá Ly đem một vạn tư quân phối hợp cùng với Thượng thư Đô Ngự sử Nguyễn Thiếp đầu hàng tập đoàn Lê-Trịnh, khiến Phúc Nguyên phải rời bỏ kinh thành, sau đó bị bệnh chết. Năm 1592, Trịnh Tùng chiếm thành Thăng Long, bắt giết Mạc Mậu Hợp (niên hiệu Thuần Phúc), rước vua Lê về Đông Đô. Cuộc nội chiến chấm dứt chưa được bao lâu thì lại xảy ra sự phân tranh Trịnh- Nguyễn. Một lần nữa, đất nước bị chia cắt thành hai miền Đàng Ngoài- Đàng Trong . Từ khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê (1527) cho đến khi Mạc Mậu Hợp bị giết là gần 66 năm. Khách quan mà nói trong thời điểm này triều Mạc có xây dựng được một trật tự xã hội ổn định, có kỷ cương và pháp luật nghiêm minh. Và chính Mạc Đăng Dung là người đã có công trong việc thiết lập một triều đại mới khi triều đại cũ đã suy vong và liên tục củng cố lực lượng để bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rằng nhà Mạc có đưa ra nhiều chính sách có ý nghĩa tiến bộ nhằm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, tranh thủ sự ủng hộ của các cựu thần nhà Lê và nhân dân như khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp (hình thành chế độ cấp phát ruộng đất hợp lý, đúc tiền đồng, tiền sắt; nghệ thuật điêu khắc, đồ gốm; mở rộng buôn bán với Nhật Bản, Triều Tiên…), quan tâm đến giáo dục và việc trọng dụng, đào tạo nhân tài cho đất nước (xây trường, tổ chức các kỳ thi…), nhiều nhân vật kiệt xuất có tâm huyết với đời lần lượt xuất hiện như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện, Giáp Hải…. Tuy nhiên, theo quan niệm chính thống và không chính thống về một triều đại, Mạc Đăng Dung vẫn bị một số thần tử trung thành với nhà Lê chống đối mạnh mẽ. Trong Việt Sử kỷ yếu, Trần Xuân Sinh có viết: “Thượng thư bộ lễ Lê Tuấn Mậu bị cưỡng ép vào chầu, dấu hòn đá trong tay áo, ném vào đầu Đăng Dung, rồi đành chịu giết chết. Đô ngự sử Vũ Duệ, Tham chính sứ Nguyễn Huy Tưởng, Quan sát sứ Nguyễn Tự Cường….đều không chịu khuất, chửi vào mặt Đăng Dung, rồi nhảy xuống sông mà chết, hoặc hướng về Lam Sơn lạy rồi tự tử” [48, tr.294]. Các nhà sử gia cũng bày tỏ quan điểm gay gắt với nhà Mạc, Lê Quý Đôn xếp các vua Mạc vào loại “nghịch thần”. Và sự kiện cắt đất đầu hàng nhà Minh vào năm 1540 của Mạc Đăng Dung cũng tạo ra nhiều luồng ý kiến. Trong Lịch sử triều Mạc, Đinh Khắc Thuần có trích lời phê phán kịch liệt của Trần Trọng Kim về Mạc Đăng Dung: “Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người, là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục”.[64, Quyển II. tr.35]. Còn trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả Đinh Gia Khánh bày tỏ thái độ phê phán mạnh mẽ hơn: “….việc Mạc Đăng Dung đã cắt đất, thần phục một cách nhục nhã và hơn nữa đối với nhà Minh thì về danh nghĩa không dám xưng là quốc vương đủ cho thấy giai cấp phong kiến đã đốn mạt như thế nào rồi”[22,tr.7] Nhưng từ sau năm 1985, nhân kỉ niệm 400 năm ngày mất và 500 năm ngày sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều cuộc Hội thảo khoa học đã diễn ra tại quê hương Hải Phòng của nhà thơ nhằm mục đích đánh giá lại nhà Mạc và Mạc Đăng Dung. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều ý kiến sâu sắc về thái độ ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhà Mạc. Trong bài viết Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhà Mạc,Trần Khuê nhận định: Việc giành lấy ngôi vua từ tay một triều đại, một dòng họ đã suy tàn là hợp qui luật, việc trá hàng nhẫn nhục để giữ yên cõi bờ và bảo toàn chủ quyền là khôn khéo. Còn tội “cắt đất” dâng cho kẻ thù rõ ràng là không có chứng cứ chính xác. Chờ đến khi có nhà nghiên cứu nào đưa ra được chứng cứ lịch sử khác, tôi có thể khẳng định rằng: Nhà Mạc không mắc tội phản quốc.[78, tr.44] Trong bài Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn hóa thế kỉ XVI, tác giả Trần Quốc Vượng có lời bình sắc sảo và thú vị: “Tất cả những ứng xử của nhà Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ với Hoa lớn “thần phục giả vờ, độc lập thật sự”.[59, tr.78] Chính nhờ việc nhìn nhận lại mặt tích cực của triều Mạc của các nhà nghiên cứu mà người viết mới có cơ sở để phân tích quan niệm xuất xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là một người cẩn thận, suy xét sâu sắc thế sự, cho nên không thể là người hời hợt đi phụng sự cho một triều đại mang tiếng cướp ngôi. 1.1.2. Về xã hội Do chiến tranh xảy ra liên miên trong vòng một thế kỷ giữa các tập đoàn phong kiến đã ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi tầng lớp trong xã hội. Bọn quan lại và địa chủ địa phương ra sức nhũng nhiễu bóc lột dân lành. Còn nhân dân thì sống trong cảnh lầm than, khốn khổ chẳng những vì chiến loạn mà còn vì nạn đê vỡ, hạn hán hàng năm, trộm cướp, phiến loạn, thuế má tăng cao. Tuy thời Mạc Đăng Dung, xã hội có bình ổn một thời._. gian, có kỷ cương và pháp luật nhưng dấu tích chiến tranh vẫn ám ảnh trong lòng người thời đó. Đến khi hai thế lực Nam triều-Bắc triều được hình thành thì cuộc chiến tranh bùng nổ trên một vùng đất đai rộng lớn từ Thăng Long đến Quảng Bình. Chết chóc, chia lìa, đau thương, đói kém hiện diện trong đời sống nhân dân trong khoảng thời gian khá dài, khiến lòng người lo lắng khôn nguôi. 1.1.3 Về kinh tế Nông nghiệp càng lúc càng suy kém vì đất đai bị tàn phá trong chiến tranh, vả lại do chế độ quân điền đời các vua Lê quá khe khắt nên ngành nông nghiệp không phát triển, tạo điều kiện cho bọn quan lại cường hào thời đó cướp đoạt ruộng đất của dân. Về công nghiệp (nghề tơ lụa, thêu thùa, vàng ngọc, đồ đồng, đồ gốm, nghề khai mỏ..) cũng phát triển nhưng chỉ có tính cách gia đình không có tác dụng gì đối với ngành công nghiệp khác mà chỉ phục vụ cho đời sống xa hoa của vua quan. Thương nghiệp không phát triển vì các thứ thuế, việc buôn bán trong nước thì trì trệ, còn với các nước phương Tây thì bị hạn chế do bị chính sách bế quan tỏa cảng. Chỉ khi nhà Mạc có một số thay đổi về chính sách thì bộ mặt kinh tế thời đó mới khởi sắc. Về ruộng đất, năm 1543, triều Mạc có quy định mới về chế độ quân điền thể hiện sự tôn trọng truyền thống cộng đồng làng xã hơn và đem lại quyền lợi riêng cho nông dân, ruộng quan và ruộng chùa của các làng xã, ngoài những ruộng đất cấp cho binh sĩ, “còn bao nhiêu ruộng sẽ theo số người trong xã mà chia đồng đều”(Lê Quí Đôn –Toàn tập, tập III, tr 280). Về công thương nghiệp, triều Mạc không áp dụng đường lối ức thương quá nặng nề của triều Lê. Thương nhân được phép đi lại buôn bán trao đổi hàng hóa thuận lợi hơn. Nghề gốm sứ, các thợ thủ công đã được chạm khắc cả tên họ của mình vào sản phẩm. Nói chung, chính những tiền đề về chính trị, về xã hội và kinh tế trên đã ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và một phần nào đó trả lời nguyên nhân vì sao một nho sĩ tài danh như Nguyễn Bỉnh Khiêm “xuất” cũng muộn mà “xử” lại càng muộn hơn. 1.2. Cuộc đời, sự nghiệp văn chương và tư tưởng chính trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm 1.2.1. Tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) năm Hồng Đức thứ 22 triều Lê Thánh Tông, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương (nay là huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) . Ông húy là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Xuất thân trong gia đình có truyền thống văn hóa, tổ phụ là Văn Tĩnh được ấm phong Thiếu bảo Tư quận công. Tổ mẫu là Phạm Thị Trinh Huệ được ấm phong Chinh phu nhân. Ông ngoại là Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Phụ thân là Văn Định, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, học rộng đức cao, được phong Thái bảo Nghiêm quận công, được sung chức Thái học sinh. Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân. Bà thông kinh sử, giỏi văn chương, tinh thông thuật số. Chính dòng dõi gia đình và sự giáo dục của người mẹ đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển toàn diện trong nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bỉnh Khiêm sinh ra thông minh, từ nhỏ được mẹ dạy chính văn trong kinh truyện, thơ quốc âm. Trong bài tựa tập thơ chữ Hán Bạch Vân Am thi tập, tác giả đã khẳng định cuộc đời của ông chịu ảnh hưởng về sự giáo dục rất lớn của gia đình, ông cho biết: “Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật….”. Lớn lên, theo học Bảng nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng-một học giả uyên bác và khí tiết thanh cao. Vào năm 7 tuổi, Bỉnh Khiêm đã phải sống với cha vì mẹ bỏ ra đi do bất đồng trong việc dạy dỗ con cái. Từ trước đến nay, có thể nói, chưa có một tác giả nào bị lịch sử tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, quan niệm như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho nên, dựa vào các cột mốc lịch sử và những hoạt động, có thể chia cuộc đời của nhà thơ làm ba chặng: Chặng thứ nhất tính từ thời niên thiếu đến năm 1534. Ngay từ tuổi ấu thơ, Bỉnh Khiêm được mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận về cả thể lực và trí lực. Đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với quan hưu trí Hộ bộ Thượng thư Dương Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Sau đó, Bỉnh Khiêm “nghe tiếng cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bằng là bậc văn chương cái thế, bèn lặn lội tìm đến học”(Phả kí). Đây là khoảng thời gian mà từ trong triều đến ngoài xã hội có nhiều biến động, “Nội chiến phi nghĩa làm cho hao người, tốn của, sưu cao, thuế nặng; rồi cướp bóc, chém giết,….v.v….” (Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến đầu thế kỷ XVIII - Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương).[21, tr.358] Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều Lê Tương Dực có mở khoa thi nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích, không ra ứng thí. Còn theo bài Phả kí về Bạch Vân Am Cư sĩ Nguyễn Văn Đạt (Bỉnh Khiêm), Vũ Phương Đề có nói: “Nhưng Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn lạc, ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng,.” [10, tr.398]. Khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã hội và nhằm thúc đẩy đất nước phát triển về mọi mặt. Do đó, uy tín nhà Mạc chẳng những được củng cố dần dần mà còn được một số các quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Và, tuy nhà Mạc có tổ chức các khoa thi Hội(1529), thi Hương để kén chọn nhân tài, các sĩ tử hưởng ứng rất đông nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cư, dạy học. “Người bốn mươi tuổi khỏe triều quan Ta tuổi bốn mươi đã được nhàn.” (Thơ Nôm, bài 135) Năm Mạc Đăng Doanh mới lên ngôi vua (1530), nhà thơ tự nhận mình chưa bằng Khổng Tử, chưa thấu suốt được lẽ đương nhiên của tạo vật, còn băn khoăn chưa xác định được hướng đi, còn trăn trở là có nên ứng thí để đem đạo học ra giúp nước cứu đời hay không, vì con đường trước mặt còn tối đen như mực: “Thánh, bốn mươi tuổi chẳng còn ngờ Ta, tuổi bốn mươi vẫn líu lo.” (Thơ Nôm, bài 100) Chặng thứ hai tính từ lúc ra đi thi và làm quan (1535-1542). Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hương và đỗ Giải nguyên khoa Giáp ngọ dưới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535, dự thi Hội bốn kì đều đạt nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Theo Vũ Khâm Lân, khi nghiên cứu Bia ký quán Trung Tân, ông cho rằng sau khi thi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm lần lượt được bổ chức Đông Các Hiệu Thư. Trạng nguyên có làm hai bài thơ “Xuân thiên ngự tửu” đều đạt hạng ưu. Sau đó được sung chức Hữu Thị Lang Bộ Hình, rồi Tả Thị Lang bộ Lại kiêm chức Đông Các Đại học sĩ. Như vậy, con đường khoa hoạn của tác giả không có gì trắc trở thậm chí còn quá thuận lợi. Làm quan được 8 năm, ông từng dâng sớ chém đầu 18 nịnh thần nhưng vua Mạc không thuận. Tiếp đó, lấy cớ con rể Phạm Dao cậy thế cậy quyền làm nhiều điều bất nghĩa, ông thác bệnh xin về trí sĩ vào thời Mạc Phúc Hải (1543). Trong bài Trung Tân quán bi ký, ông cũng có viết: “Mùa thu năm Nhâm dần, ta bỏ quan chức về nghỉ ở quê nhà, mời các cụ già đi dạo chơi ở bến giữa (Trung Tân)”. Chặng thứ ba tính từ năm 1543 đến 1585. Trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, tu bổ chùa chiền, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, được học trò xưng tôn là Tuyết Giang phu tử. Ông có dựng bia cạnh quán và soạn bài văn khắc vào bia đá để khuyên nhủ người đời nên làm điều thiện. Dựa theo bài Phả ký, trong Công dư tiệp ký, Vũ Phương Đề cho rằng tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn cư dạy học nhưng với tài đức cao vời vợi của Trạng Trình, vua Mạc vẫn lấy “sư lễ” đãi ông. Những khi nhà nước có việc gì quan trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh “thung dung trù liệu kế hoạch, rồi lại trở về am, chứ không ở lại”. Bên cạnh đó, cả những người phù Lê cũng luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau 2 năm, Mạc Phúc Hải gia phong cho ông tước Trình Tuyền hầu (Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình). Người đời thường gọi ông là Trạng Trình. Với một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn luôn mong muốn đất nước được thịnh vượng, thái bình. Với sự uyên thâm vốn có, ông nhận thấy vận mệnh của đất nước trong hoàn cảnh bi đát này không thể trao vào tay bất kỳ một lực lượng chính trị nào. Bởi vì, lúc bấy giờ các tập đoàn phong kiến huyết chiến với nhau chỉ vì muốn tranh giành quyền lực. Vì vậy, tương truyền, để tránh những cuộc binh đao khói lửa lan tràn đến cuộc sống của nhân dân, ông đều bày cho các phe phái những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Chẳng hạn, năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hãm hại, sợ mầm họa sẽ xảy ra cho bản thân, đã ngầm cho thân cận đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế an thân. Được ông mách bảo: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”(ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài), Nguyễn Hoàng liền xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào) và sống bình yên trong nhiều năm. Thời ấy, tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê, làm nhiều điều bạo ngược kể cả có ý định muốn phế bỏ vua Lê. Khi chúa Trịnh cho người đến hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời mà lẳng lặng dẫn sứ giả của triều đình ra thăm chùa và nói nói với nhà sư trong chùa: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”(ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành sẽ nắm trong tay, nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến chiến tranh). Riêng đối với nhà Mạc, sau nhiều trận đánh diễn ra liên miên, nhà Mạc phải bỏ chạy lên Cao Bằng. Vua Mạc có cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể”(Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Sở dĩ, nhân dân đưa ra những truyền thuyết trên là vì muốn chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Ngoài ra còn rất nhiều truyền thuyết nữa về Trạng Trình trong tập Trình quốc công sấm ký. Thực-hư, có hay không có, khẳng định hay phủ định sự việc còn là vấn đề mà các học giả Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ để trả lại vị trí xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng dân tộc và cả trên lĩnh vực văn học. Một điều chắc chắn là đối với nhân dân Việt Nam Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”. Và trong thời gian trí sĩ ở điền viên, ông chính là một người thầy mẫu mực, cao minh đã đào tạo biết bao danh sĩ tài năng cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện…….. Tuy nhiên, Nguyễn Khuê nghiên cứu Bạch Vân am thi tập cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm còn hai lần ra làm quan, trực tiếp tham gia những cuộc “ chinh phạt” của triều Mạc ở phía Tây nữa rồi mới “ quy lão” năm 73 tuổi (1563): “Đếm tuổi mình đã bảy mươi ba, Treo xe hơi muộn, cũng nên thẹn. Vốn tự hẹn đua bay với người ta, than ôi không đủ sức Không cần sang hèn đâu phải là tham….” (Về hưu gửi cho quan Thượng thư Bộ lại Kế Khê Bá) Dựa vào bài thơ Quá Hữu Giang (bài 3), tác giả Vũ Đức Phúc cho rằng có thể Nguyễn Bỉnh Khiêm về hưu năm 1541, nhưng sau đó lại ra làm quan và đến khi Phạm Dao cậy quyền càn quấy, ông chán nản xin về trí sĩ. Nhưng sau đó lại “tòng nhung” hai lần dẹp loạn: “ Tuổi ngoài sáu chục gắng gượng theo quân, Hai dịp qua đây, đóng lại ở núi này.” Còn hơn hai chục bài thơ nói về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm hộ giá nhà vua đi dẹp loạn. Trong bài Qua sông Hữu (bài một, bài hai, bài bốn, bài sáu), ông đã thừa nhận tạm rời cái thú điền viên để bước lại con đường quan trường tham gia chiến trận giúp vua cứu nước thoát cảnh binh đao: “Nho quan tạm khước ủng du chàng Lưỡng độ trùng lai quá thử giang.” (Quá Hữu giang-nhất) Đôi lúc nâng chén ruợu nhàn nhìn bóng trời chiều, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhớ lại những ngày tòng chinh đi Qua sông Hữu “trợ sức cho quân nhà vua” (bài 2), cùng lo với nỗi lo “tìm một vị tướng nhân đức” của vua Mạc (bài 4), cùng bày mưu tính kế và vui với nỗi vui mừng chiến thắng của chư tướng (bài 6). Trong buổi loạn ly gửi Nguyễn Cảo Xuyên (Nguyễn Thiến, trọng thần nhà Mạc, cha của Nguyễn Quyện), người bạn cùng chung chí hướng đã từng cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm hộ giá vua Mạc đánh Tuyên Quang, ông có tâm sự: “Xét mình giúp vua trẻ còn giữ được nghĩa, Biết ông tuy khởi biến vẫn không đành lòng.” Vì tấm lòng chung thủy với dân, với nước cho nên: “Ta tuổi già và tật bệnh mà gặp mãi cảnh loạn ly này, Phải gắng đi theo để tham dự vào việc quân cơ.” Hàng loạt bài Theo đánh miền Tây (bài một, bài hai) nói về Nguyễn Bỉnh Khiêm đi theo quân Mạc chinh phạt miền Tây-sáng tác trong khoảng niên hiệu Quang Bảo (niên hiệu của Mạc Phúc Nguyên) từ 1554 đến 1561. Ông đi theo quân Mạc đánh anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật ở vùng Hưng Hóa, Tuyên Quang: “Thẹn già yếu vụng đường thao lược, Gượng dấu mình dự cuộc viễn chinh. Nắng soi rạng rợp cờ tinh, Thác vang gió chuyển rập rình trống quân.” Và khi trở lại doanh trại thăm lại bạn cố tri, Nguyễn Bỉnh Khiêm có để lại một bài thơ thể hiện thái độ tích cực của ông khi giúp nhà Mạc tiểu trừ “yêu nghiệt”: “Khí yêu nghiệt ở ải phía tây chưa quét sạch Lại lần nữa vâng mệnh vua đến nơi hành doanh.” (Ngày mùa đông đến doanh trại, nhớ một vài bạn tri kỷ) Ngoài ra, Văn Đạt Bá là tướng nhà Mạc. Đạt Bá thường xướng họa và trù tính kế hoạch diệt bọn “hung tàn” với Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc cùng đi tòng chinh: “ Chuyến đi này bày sẵn kế sách vỗ yên bờ cõi, Hẹn ngày bắt bọn hung tàn kia trả đất lấn lại.” (Vâng mệnh đi theo quân, thuật hoài lúc xuất phát -họa theo vần của Văn Đạt Bá) Khánh Khê hầu là một trọng thần nhà Mạc cũng đã từng cùng đi tòng chinh và bàn kế sách với Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Chuyến đi này hãy bày kế sách vỗ yên bờ cõi, Đừng nói rằng nhiều năm ôm chiếc lọng hoa.” (Vâng mệnh đi theo quân qua sông Thao -họa theo vần của Khánh Khê hầu) Bên cạnh đó, còn một vài bài thơ chứng tỏ việc tham gia chiến trận của Nguyễn Bỉnh Khiêm như : Qua nơi đóng doanh trại ở Qui Hóa; Đóng doanh trại ở Liệt Khê, Qua Châu Văn Bàn thuộc trấn Hưng Hóa: “Sườn núi vòng vèo, đường đi mấy dặm Vâng mệnh đi dẹp yên bọn giặc hãy coi trọng chuyến đi này.” Cuối cùng, điểm dừng thật sự của cuộc hành trình giúp triều đình nhà Mạc là: “Tuổi đời đã quá bảy mươi tư Mừng được về nhàn, thăm chốn xưa.” (Đầu năm cảm xúc làm thơ) Đến ngày 28 tháng 11 năm Diên Thành thứ 8 (1585) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất hưởng thọ 95 tuổi. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Kính Điển đến dự tế, truy phong Thượng thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và tặng mấy chữ trước cửa đền thờ : “ Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ” 1.2.2. Sự nghiệp văn chương Tuy Tuyết Giang phu tử có nói: “…rất làvụng về trong nghề thơ. Tuy nhiên, cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy, mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thay thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả một nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là tập thơ Am Bạch Vân”(Bài tựa tập thơ Am Bạch Vân) nhưng khi nghiên cứu thơ văn của ông, người viết nhận thấy sự nghiệp văn chương của Trạng Trình chính là tấm gương sáng về quá trình lao động sáng tạo không ngừng. Tác giả để lại cho đời một núi thơ vĩ đại chứa đựng nhiều tư tưởng thâm sâu, nhiều bài học giáo hóa rất thiết thực cho đời. Tác phẩm chữ Hán là Bạch Vân am thi tập gồm 1000 bài (theo Đinh Gia Khánh hiện nay không còn đủ một nghìn bài).Tác phẩm chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi Trình quốc công Bạch Vân thi tập) gồm hơn 160 bài làm theo thể thơ Đường luật và thất ngôn xen lẫn lục ngôn, không có đề mục cụ thể, chỉ ghi số thứ tự. 1.2.3. Tư tưởng chính trị Trong thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường hướng về đề tài ngôn chí. Nhưng, có thể nói, dù sáng tác theo hướng đề tài nào thì tình yêu nước, thương dân, ghét bạo tàn vẫn là nét bản chất trong tư tưởng và tình cảm của nhà thơ. Khi bàn về Tư tưởng yêu nước, thương dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vũ Đình Toàn cho rằng: “Nguyễn Bỉnh Khiêm không đưa ra một quan niệm về Nước như Nguyễn Trãi ở Cáo Bình Ngô mà ở Nguyễn Bỉnh Khiêm Nước đã có từ ấy. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nước thường gắn với “thời” với “đời” thì yêu nước là “ưu quốc”, “vị quốc”(lo nước, vì nước)”. [79, tr.286]. Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một tấm lòng vô vi hay vô sự trước cảnh bon chen của cuộc đời mà còn là tấm lòng “ưu ái”. Niềm ưu ái đó bao giờ cũng “Trong sạch không tì vết trong và ngoài đều thông”(Mắt tấm giại), trong sáng vằng vặc như vầng trăng in đáy nước: “Ái ưu vằng vặc: trăng in nước, Danh lợi lâng lâng: gió thổi hoa” (Thơ Nôm, bài 1) Ra đời sau Nguyễn Trãi 100 năm nhưng điểm gặp gỡ trong tư tưởng chính trị của Ức Trai và Bạch Vân cư sĩ là tư tưởng nhân nghĩa và ý chí hòa bình. Trong đó bao gồm cả lòng yêu nước, thương dân, ghét bạo tàn. Điều đặc biệt là tư tưởng này tuy nằm trong phần tích cực của đạo Nho nhưng đã được cả hai nhà yêu nước tạo cho nó một màu sắc Việt Nam. Nếu lòng ưu ái của Nguyễn Trãi dào dạt mãnh liệt suốt đêm ngày như nước thủy triều: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” (Tự thuật-5) thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng trải tấm lòng son với khói mây, với nhật nguyệt: “Lồng cửa động, vân yên cách, Giải lòng đan, nhật nguyệt thâu.” (Thơ Nôm, bài 54) Mấy ai hiểu được tấm lòng sáng trong, cao vời như trăng, như núi của nhà thơ: “ Có ai biết được lòng tri kỷ? Vòi vọi non cao, nguyệt một vừng.” (Thơ Nôm, bài 6) Đồng cảm với lòng yêu nước, yêu dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi đọc Thơ Nôm, bài 1 của ông, Thomas Engelbert có lời nhận định: “…Đó là nỗi lo đau đáu chân thành vì Tổ Quốc, lo cho sự gìn giữ đạo lý, giống nòi trong một thời kỳ các cuộc chiến tranh phong kiến xảy ra triền miên cùng với những biến động xã hội lớn lao”(Giúp nước giúp dân)[60, tr.657]. Thomas Engelbert cảm nhận một cách rất giản dị cái tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với dân, với nước: “Thông cảm với người dân, yêu thương đất nước, Trong trắng như ánh trăng lung linh soi trên mặt hồ, Niềm vinh quang và danh dự: lâng lâng như đóa hoa, phất phơ trong gió” Vì tấm lòng son với nước với dân mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lên đường ứng thí đầu quân nhà Mạc dù “Chẳng quản ai chê, chẳng quản khen”(Thơ Nôm, bài 128). Ông tự an ủi: “Vốn học vấn chưa đủ thỏa lòng tin mong của kẻ sĩ. Chỉ có cái hư danh, chuốc lấy sự cười chê của người đời”(Lý cư giản chư đồng chí). Và có thể nói chính niềm ưu quốc ưu thời là thứ tâm bệnh nan y khiến ông chẳng những hao gầy về thể xác mà còn thương tổn về tinh thần: “…Tuổi đời của ta nay đã sáu mươi, Già đến, lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau. Tiếc xuân, gượng khuyên mời vài chén rượu Lo nước, đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ.” . (Tỏ nỗi lòng trong dịp Nguyên đán) Nếu tấm lòng: “Ưu ái lòng phiền nửa đêm”(Tự thuật 4) của Nguyễn Trãi dạt dào như ngọn thủy triều; trong trắng, cứng rắn như viên ngọc thạch; nếu suốt đời Nguyễn Trãi luôn: “Bình sinh chỉ tâm niệm việc lo trước thiên hạ,” đến nỗi : “Đêm lạnh quàng chăn ngủ chẳng yên”(Hải khẩu dạ bạc Hữu cảm 2) thì cũng đã biết bao đêm ròng Nguyễn Bỉnh Khiêm lo lắng, ngậm ngùi cho vận mệnh ngả nghiêng của nước nhà. Nếu hình ảnh nước nhà và “đám dân xanh đầu” luôn thường trực trong trí của Nguyễn Trãi đến nỗi: “ Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch, Quân thân tại niệm thốn tâm đan.” (Hải khẩu tại niệm thốn tâm đan) Và cảnh nhân dân đau khổ vì nạn can qua là niềm trăn trở lo lắng khôn nguôi của Phùng Khắc Khoan: “Can qua loạn lạc khổ lưu ly Trường sử anh hùng mạn tự tư” (Thương loạn) thì cảnh chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lợi, cảnh nhân dân ly tán trong chiến tranh, cảnh đạo đức suy đồi cũng làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm “mấn thành ty”(mái tóc trở nên bạc như tơ), biết bao nhiêu lần trái tim ông nhắc nhở “Niềm xưa trung ái, thề chẳng phụ”(Thơ Nôm, bài 11): “Bần tiện trùng phùng thử loạn ly, Khu khu ưu quốc mấn thành ti” (Trung Tân quán ngụ hứng, thập) Khi đọc đến hai câu thơ tràn đầy tình yêu nước thương dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huỳnh Hữu Bát có cảm nhận: “Điềm đạm mà sâu lắng. Ưu tư mà như có lửa đốt ở trong lòng. Ngậm ngùi mà lại có chất men của trí tuệ. Lo việc nước mà trước hết là lo việc đời, việc dân.…Dồn lại đến cùng, vẫn là tấm lòng lo cho dân khỏi cảnh điêu linh khốn khổ, có được cuộc sống sung túc, yên vui.”(Sự an lạc của nhân dân, điểm hội tụ của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm).[79, tr.284]. Dân và nước đã truyền sức mạnh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm, giúp ông có đủ dũng khí để dâng sớ chém đầu bọn loạn thần mà không sợ nguy hại đến bản thân. Và khi từ bỏ công danh lợi lộc, vui với cảnh quê nhà, trí sĩ vẫn không thể nào quên hai chữ “ưu ái”. Đó chính là tấc lòng, là tâm huyết suốt đời của ông: “Ưu ái chẳng quên niềm trước Thị phi biếng nói sự nay.” (Thơ Nôm, bài 70) Chính vì vậy, dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, chốn an nhàn hay chốn xôn xao, đeo đai vàng, đội mũ nho hay sống tự tại. Dù đang ở vào vị trí “xuất” hay “xử”, tấm lòng “trung cần” của nhà thơ cũng không bao giờ phai lạt: “Chẳng hết “trung cần” hai chữ ấy Nhờ ơn đất rộng, cậy trời cao.” (Thơ Nôm, bài 83) Tấm lòng “trung cần” hay “trung hiếu” là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Nó thấm nhuần trong tư tưởng, tình cảm của các nho sĩ và trụ lại trong tâm như một bức tường thành vững chắc. Tác giả Huỳnh Hữu Bát cho rằng trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm “có sự đồng nhất giữa vua với nước, giữa chế độ phong kiến với lịch sử dân tộc”. Điều này là lẽ đương nhiên trong một xã hội còn tồn tại cái nghĩa quân thần. Nói đến nước là nói đến vua, nói đến sự hưng thịnh hay suy vong của một triều đại là gắn với vận mệnh của một dân tộc. Rõ ràng, tư tưởng yêu nước, thương dân của ông vẫn không thể thoát khỏi ý thức hệ phong kiến. Trong ông, học thuyết Khổng Mạnh vẫn tồn tại mạnh mẽ: “No lòng ấm cật, ơn nhà chúa Tiết ngọc gan vàng, giữ phận tôi” (Thơ Nôm, bài 97) Cho dù có nhiều bài thơ, câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét giống thơ Nguyễn Trãi nhưng điều chủ yếu mà người viết muốn trình bày là cả hai nhà thơ lớn của dân tộc đều có chung một tấm lòng “ưu ái”. Tấm lòng đó hay đi về dưới ngòi bút tràn đầy tình cảm chân thật, giản dị của hai nhà yêu nước. “Bui có một lòng trung mấy hiếu”(Thơ Nôm, bài 128), câu thơ đẹp cả ý lẫn tình. “Bui có” là tiếng cổ, nghĩa là chỉ có, một cách nói đầy tự hào sang trọng về tấm lòng của chính Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chẳng những thế, nhà thơ còn đưa ra lời thề sắt son, trong sáng với vua với dân, cái tình đối với vua và cái tình đối với dân quả là một. Câu thơ lục ngôn với hai vế tiểu đối: “Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen” đã thể hiện thái độ cương quyết của nhà thơ: tấm lòng trung hiếu dù có mài đi cũng chẳng khuyết, dù có nhuộm đi cũng chẳng bao giờ đen. Đó chính là đạo làm người mà kẻ sĩ tôn thờ, cũng là tôn chỉ của Nho giáo. Nếu Nguyễn Trãi dõng dạc tuyên bố rằng: “Chữ học ngày xưa quên hết dạng. Chẳng quên có một chữ : cương thường” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng khẳng định: “ Từng xem sách cũ một hai pho, Mến đạo, thề chăng phụ nghiệp nho.” (Thơ Nôm, bài 27) Vì vậy, trong lòng nhà thơ lúc nào cũng mong muốn: “Cơm áo khôn đền Nghiêu, Thuấn trị”, cũng nuôi một ước vọng : “Thái bình thiên tử, thái bình dân”. Có vua hiền, bề tôi mới tận trung: “Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh”. Có đất nước thanh bình, người nho sĩ mới thanh thản sống nhàn trọn vẹn, làm bạn cùng với phong nguyệt: “Non Phú Xuân cao, nước Vị thanh, Mây quyến khách, nguyệt vô tình. Đất thiên tử dưỡng tôi thiên tử, Đời thái bình ca khúc thái bình…” (Thơ Nôm, bài 140) Vua hiền, tôi thảo là mơ ước của biết bao người. “Giúp đỡ dân và yêu thương kẻ có đức”(Thương cảnh loạn ly) là tiêu chí của những người có chủ trương “nhập thế hành đạo”. “Lấy lòng nhân mà đánh kẻ bất nhân”(Thương cảnh loạn ly) là mục đích chiến đấu vì đại nghĩa của những đấng trượng phu. Tiêu chí đó cũng là phương châm sống của Nguyễn Trãi: “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược; Có nhân, có trí, có anh hùng”. Cho nên, cuộc chiến nào mang tính chất chính nghĩa, đội quân nào vì dân mà tiểu trừ bạo tặc thì tất sẽ chiến thắng, vị vua nào biết chăm lo đời sống của dân thì sẽ giữ vững được triều đại. Bởi “Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân!”(Cảm hứng), bởi “Xưa nay nhân giả là vô địch”(Hữu cảm): “Quân nhà vua biết là tất thắng, Cứu cho dân điêu đứng bệnh hoạn này Thì là bước lên cõi nhân cõi thọ.” (Thương cảnh loạn ly) Cũng chính vì có một “Tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi”(Tự thuật), cho nên, tuy là nhà Nho, trung thành với thuyết “Tam cương ngũ thường” nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không cố chấp, câu nệ trong quan niệm xuất xử. Ông nghĩ rằng người quân tử sống trên đời phải biết chọn lựa cho mình một lối đi riêng. Trên con đường lập sự nghiệp công danh, người quân tử sẽ đứng trước hai con đường “xuất” và “xử”. Con đường nào cũng quan trọng đối với người có lý tưởng nhưng chỉ được chọn một mà thôi. Khi lao mình vào chốn quan trường thì phải cố giữ mình, giữ đạo đức, phải dốc lòng vì vua, vì nước, vì dân. Khi đã quyết chí lui về ở ẩn thì không nên ghen ghét, quan tâm gì đến những người còn ở lại chốn đua chen: “Quân tử gẫm hay nơi xuất xử, Ắt là khôn hết cả hòa hai.” (Thơ Nôm, bài 39) Khảo sát chặng đường hoạt động từ thời niên thiếu đến năm 1534, ta thấy đây là khoảng thời gian Nguyễn Bỉnh Khiêm không tham gia vào thời cuộc nhưng vẫn không đứng ở vị thế khách quan. Ông vẫn ẩn nhẫn nghiền ngẫm thế sự và đau lòng chứng kiến triều đình nhà Lê dần dần đi vào chỗ suy tàn. Vẫn tâm niệm trong lòng một chữ “trung”, nhưng không phải là một thứ “ngu trung” của Nho giáo, theo ông: “Quân nào thần ấy đã bày Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn.” Ông không thể giữ vẹn chữ “trung” đối với những tên vua hoang dâm, bạo tàn. Ông càng không thể ra phụng sự một triều đình thối nát, nhan nhản trước mắt với những chuyện thương luân bại lý. Ông từ chối bước vào chốn quan trường vì nơi đó đầy rẫy cảnh đau lòng. Bọn vua quan ăn chơi xa xỉ, trác táng vô độ. Nếu ông có xuất hiện trong các buổi “tiệc vàng” thì chỉ là một vị khách lẻ loi: “…Rau không đắng giốt là rau mát, Cá có tanh tao ấy cá bùi. Yến, thuở thôi đai nào kẻ cấm, Hội, đêm thu mũ có ai đôi. Tiệc vàng đã biết duyên chăng có, Sơn dã thì làm khách lẻ loi.” (Thơ Nôm, bài 101) Rõ ràng, Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một người vội vã trong quan niệm “xuất xử”. Ông quan sát, chiêm nghiệm, phân tích tình hình thế sự xưa-nay và lựa chọn thời điểm thích hợp để thực hiện con đường ông đã chọn. Ông nghĩ rằng: “Lâu chóng xem ra tùy cảnh ngộ”(Gửi bạn). Ông khiêm tốn tự nhận là “học ít” lại thêm “bất tài”, nên hai con đường “xuất” và “xử” chỉ có thể chọn một, chỉ có thể hết lòng thờ một triều: “Học ít hòa thêm lại bất tài, Già mà luống phụ chí con trai. Quân thân thề hết lòng thờ một, Xuất xử cầu chưa đạo được hai.” (Thơ Nôm, bài 12) Tuy nhiên, con đường xuất xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy nhất quán về tình cảm yêu nước, thương dân nhưng đầy phức tạp do hoàn cảnh chính trị xã hội đương thời. Thử nghĩ, khi nhà Lê còn tại vị nhưng bạc nhược thì liệu một con người có tâm huyết với đời, luôn giương cao ngọn cờ nhân nghĩa như Tuyết Giang phu tử có nên “xuất” để giúp vua Lê giữ vững cơ đồ hay không? Vả lại, vua hôn muội, quanh vua toàn là kẻ xu nịnh thì kẻ bầy tôi dù có tài đến đâu, dù có đức đến mấy cũng không thể giữ được nước. Những bài học về “Quân minh thần lương” trong Tam Quốc chí còn đó. Gia Cát Lượng Khổng Minh tuy có tài quán thông vũ trụ, am tường binh pháp, dụng binh như thần, người đời nể phục, kẻ thù kiêng sợ nhưng vị quốc sư nhà Hán đành bất lực vì gặp phải tên vua bạc nhược, hôn muội Lưu Thiện. Vị hiền tài nhắm mắt lìa trần mà lòng luôn trăn trở, những “Mong sao Vận Hán dần xoay chuyển” để đất nước mãi mãi thanh bình. Luận về chuyện xứ người, nghĩ lại chuyện xứ ta, khi Mạc Đăng Dung thay đổi lịch sử, thay đổi luôn cả những chính sách giúp an dân, lợi nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn ẩn nhẫn chờ thời. Có lẽ ông nghĩ rằng người thực sự có tài chẳng khác nào như vàng mười, cần chi vội vã, cần chi cầu danh. Vả chăng, trong quan niệm “xuất” của ông là mong muốn tìm một vị vua anh minh. “Quân minh thần lương” là ước vọng không chỉ của riêng ông mà còn là niềm mơ ước của bao nhiêu người, trong đó có Nguyễn Trãi : “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền” (Tự thán, 4). Như vậy, “tiệc ngọc, mâm son” bày ra trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đang trông ngóng hiền tài. “Gươm trời, búa nguyệt” chờ đó để trao vào tay người có chí. Cách nói của nhà thơ vừa cụ thể mà cũng vừa ẩn ý: “…Tiệc ngọc còn chờ người quý giá, Mâm son hãy đợi khách cao tài. Gươm trời nỡ để tay phàm tuốt, Búa nguyệt chi cho đứa độc mài. Ơn nghiêm liệt soi thăm thẳm, Vàng mười đúng giá lọ rao ai?” (Thơ Nôm, bài 79) Khi thấy nhà Mạc đã ở thế vững vàng và có nhiều chính sánh mới, Nguyễn Bỉnh Khiêm như con chim phượng hoàng vỗ cánh mạnh mẽ bay cao để thực hiện hoài bão. Ông khẳng định cái chí và cái trung khi ra phụng sự triều Mạc: “Bình cũ, song bình vẫn dấu hương, Con công thần lỡ gọi rằng ương.” (Thơ Nôm, bài 98) Cách hành xử “cũng tùy theo cảnh ngộ” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng khác nào như cách hành xử của Khổng Tử khi đến giúp đại phu nước Lỗ-Công Sơn Phất Nhiễu, như Khương Tử Nha “ném cần câu” ra giúp Chu Văn Vương, như Y Doãn buông cày giúp Thành Thang diệt nhà Hạ lập nhà Thương: “Mang tráp sách, cùng theo thầy học đạo ở Hà Phần, Tài năng và sự nghiệp, hẹn nhau sẽ có bước đi xa xôi rộng lớn. Đời suy mạt bỏ tài năng, dẫu tạm thời chịu khuất, Nhưng sẽ là bậc ._. góp rất lớn cho nền giáo dục đạo đức nước nhà. Đồng thời, những bài thơ lên án triệt để chiến tranh của nhà thơ không chỉ phù hợp với yêu cầu phát triển của lịch sử mà còn phù hợp với lòng dân, ý dân. Vì thế, trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú có nói: “Lòng trạng không một lúc nào quên đời. Lo thời thương tục đều phát lộ ra thơ”. Đặc biệt một quan niệm có ý nghĩa tích cực, một bài học đạo đức có giá trị sâu sắc mà người thầy Tuyết Giang để lại cho đời chính là quan niệm phụ tử, phu phụ với các đức nhân nghĩa, lễ, trí, tín của đạo Nho pha lẫn với các tính từ thiện, bác ái của đạo Phật và kết hợp nhẹ nhàng với tư tưởng vô vi, vô sự, vô tranh của Lão Trang. Một phần nào đó, tư tưởng Nho-Phật-Đạo trong thơ Tuyết Giang phu tử đã hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ. Ngày nay, tuy đất nước và con người Việt Nam đang sống trong thời hiện đại, đang phát triển về mọi mặt nhưng những quan niệm nhân sinh của ông vẫn là hành trang đẹp cho mọi thế hệ và cũng chính là truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt. Ngoài ra, quan niệm “xuất xử” của Bạch Vân sĩ bộc lộ một thái độ triết lý, bắt nguồn từ sự hiểu biết quy luật của thời thế, quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội. Chính vì nắm bắt những quy luật này mà ông chẳng những không câu chấp trong quan niệm xuất xử mà còn hăng hái trên con đường lập sự nghiệp công danh và nhẹ nhàng, thanh thản khi quay về làm bạn với thiên nhiên lánh xa cuộc sống ô trọc, xấu xa. Điều thú vị là khi tìm ra các quy luật, ông biến nó thành quan niệm nhân sinh cho riêng ông và vận dụng nó một cách linh hoạt trong cuộc đời. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn biểu hiện truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc Việt. Trong thơ ông, ta bắt gặp đạo lý cao đẹp của dân tộc, lý tưởng thẩm mỹ dân tộc, cách ăn, mặc, ở, những kinh nghiệm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân, cách ứng xử tinh tế, năng động, linh hoạt trong tư duy đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm nhân sinh của nhà thơ…. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đem đến ích nước lợi dân, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có một số mặt hạn chế cần suy nghĩ. Hạn chế đầu tiên dễ nhận thấy trong quan niệm nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép duy vật biện chứng, sự vận động của các quy luật nhưng trong tư tưởng của ông vẫn còn nặng về duy tâm, vẫn còn có những mâu thuẫn chưa dứt khoát. Không tìm ra biện pháp để giải quyết được những xung đột xã hội đương thời; không lý giải được các vấn đề sống-chết, may- rủi, phúc-họa….ông lấy tư tưởng Phật giáo làm chỗ dựa tinh thần. Mặt khác ông cho rằng sự tồn tại hay không tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng và ngay cả chiếc ngai vàng dành cho ai cũng đều do “Trời” quyết định. Vì: “Phép tắc của trời phải thuận theo mà không thể biết. Ngôi vua đã lập nên thì không thể đổ”(Cảm hứng-ba trăm câu): “Bởi lẽ trời ư ? hay bởi việc người ư ? Là lý đấy mà cũng lại là số đấy.” (Cảm hứng-ba trăm câu) Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín: “Sinh ra, diệt đi, hết rồi lại bắt đầu”(Cảm hứng- ba trăm câu). Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu Dịch cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo Đức kinh. ảnh hưởng quan niệm này không chỉ có ở Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn ở rất nhiều Nho sĩ khác. Trong Sức sống của thơ ca và Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Thị Băng Thanh và Vũ Thanh cũng cho rằng: “Mặc dù đã có cách nhìn biện chứng, vũ trụ quan nhất nguyên, đã thấy được quy luật chuyển hóa giữa các mặt đối lập của sự vật và giữa các sự vật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vẫn bị quan niệm tuần hoàn níu kéo, đồng thời khi ứng dụng trong cách giải quyết mọi quan hệ xã hội ông vẫn trở về với các quan niệm của trung hiếu, tín nghĩa, thuận hòa và lợi cho Nho gia. Đó là chỗ hạn chế của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà cũng là hạn chế của lịch sử, của thời đại.”[60, tr.24] Rõ ràng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phát hiện ra sự phát triển của vạn vật, đã nắm bắt được các quy luật cuộc sống và đã nâng lên thành cả một hệ luận biện chứng. Nhưng trong quan niệm của ông thì tự nhiên phát triển trong một cái thế tuần hoàn bế tắc, xã hội vận động trong vòng tròn luẩn quẩn của chế độ phong kiến. Ông không nhận thức được tác dụng mạnh mẽ của hoạt động con người, không nhận ra vai trò to lớn của con người, nét đẹp lao động chân chính của con người có thể tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện hữu. Ông không nhận thấy tác dụng ngược lại của hành động con người trong việc cải tạo thiên nhiên và cải tạo xã hội. Vì đồng nhất quy luật tự nhiên với quy luật xã hội, ông không thấy được sự phát triển ngày càng cao của xã hội, không nhận thấy yêu cầu của lịch sử của thời đại, không quan niệm một trật tự khác thay cho trật tự xã hội phong kiến đương thời. Chính vì vậy, ông không tán thành thậm chí còn phê phán đường lối đấu tranh của các cuộc khỡi nghĩa nông dân, không chấp nhận sự trỗi dậy của một thế lực mới đang cần thay thế cho một thế lực cũ đã hết vai trò lịch sử. Thực ra, ông không nắm được xu thế của thời đại, không hiểu rõ kẻ thù chính của nhân dân là ai? Tuy là nhà yêu nước chân chính nhưng ông không chỉ ra được con đường hữu hiệu để cứu nước, cứu dân. Vì được đào tạo trong môi trường cửa Khổng sân Trình nên khi truyền bá tư tưởng cho đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn thay đổi nguyên lý chính trị và đạo đức Nho giáo với lý thuyết Tam cương, Ngũ thường. Bằng chứng là tuy không câu nệ, cố chấp trong quan niệm xuất xử nhưng ông vẫn chịu sự ràng buộc bởi chữ “Trung” với nhà Mạc, tức là không thoát khỏi cái vòng kềm tỏa của ý thức hệ phong kiến. Về trí sĩ nhưng khi vua cần ông vẫn “Tạm từ bỏ mũ nhà nho mà cầm cái lọng quang dầu”(Qua sông Hữu-bài một), vẫn “Xông pha tuyết giá, đâu nề hà nghìn dặm xa”(Thư gửi đồng sai là Nghĩa Trai bá và Hoành Trung hầu), kiên quyết “Định kỳ hạn thề khôi phục giang san cũ” cho nhà Mạc. Vì ông nghĩ: “Ngôi vua đã lập nên thì không thể đổ”(Cảm hứng-ba trăm câu) Bên cạnh đó, quan niệm sống nhàn xa lánh thế sự với thái độ: “Dửng dưng mọi sự gác bên ngoài. Dầu được, dầu thua ai mặc ai”(Thơ Nôm-bài 40); bàng quan, thờ ơ để “thế sự ngoài tai, biếng nói năng”(Thơ Nôm-bài16); thậm chí không can thiệp vào lẽ phải, điều trái của con người “Thị phi biếng nói sự nay”(Thơ Nôm-bài 70); Và tư tưởng “nhân dĩ hòa vi quý”, sống theo kiểu “yên phận thì lành”, luôn giữ thái độ “biếng đua tranh” của Nguyễn Bỉnh Khiêm ít nhiều mang ý nghĩa tiêu cực. Thứ nhất dựa vào ý nghĩa câu tục ngữ :“Rút dây, lại sợ động rừng”, tác giả đã bày tỏ thái độ dè dặt, e ngại trước một sự việc cần phê bình mà sợ va chạm : “Vuốt mặt còn chừa qua mũi nọ, Rút dây lại nệ động rừng chăng? Dầu ai nghị luận điều lành dữ, Chữ “vị” là vì biếng nói năng.” (Thơ Nôm-bài 89) Thái độ đó có thể sẽ thủ tiêu tư tưởng đấu tranh giành quyền sống của nhân dân. Trước những sự việc sai trái con người sẽ không thể hiện tinh thần tranh đấu cho lẽ phải, cho công lý; không thể hiện trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội. Đồng thời, còn đẩy họ vào rơi vào cách nghĩ “an phận thủ thường”, không có tinh thần cầu tiến, cúi đầu chấp nhận sự an bài của số phận mà không đấu tranh để thay đổi số phận nghèo khó. Điều này Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Phùng Khắc Khoan. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan dõng dạc bày tỏ hùng tâm tráng khí: “Vinh hiển do trời an định sẵn, Nhà tranh có chí vẫn thành danh. (Tâm sự lúc ốm-Phùng Khắc Khoan) Ngoài ra, nhiều bài thơ có tính chất triết lý về thói đời, về thế thái nhân tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm ít nhiều khiến người đọc(đặc biệt đối với những người đã và đang thất bại trên đường đời) rơi vào trạng thái hoang mang, dao động, có khi mất cả niềm tin về một xã hội tốt đẹp, văn minh; về bản chất “chân, thiện, mỹ” trong mỗi con người: “Trong nhàn, ngẫm lẽ xưa nay Không gì hiểm bằng đường đời, Không cắt đi thì toàn là gai góc, Không gì nguy bằng lòng người Buông lỏng ra thì đều là quỉ quái “ (Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân) KẾT LUẬN Trong Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập, Nguyễn Khuê có nhận định: “Nguyễn Bỉnh Khiêm không những đã có những đóng góp quan trọng cho văn hóa, văn học của dân tộc bằng một sự nghiệp văn học to lớn chứa đựng những tư tưởng cao thâm, những tình cảm sáng ngời, đánh dấu một bước tiến của thơ văn bằng tiếng mẹ đẻ, mà còn cống hiến cho dân tộc bằng chính lòng yêu nước thương đời sâu sắc, bằng thái độ xuất xử hành tàng độc đáo của một nhà trí thức kiệt xuất, bằng chính phẩm cách thanh cao của một bậc hiền triết.”[24,tr.7). 1. Có thể nói, chính những phong ba về mặt chính trị-xã hội đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có thể nói, chưa có giai đoạn lịch sử nào có nhiều biến động dữ dội như giai đoạn thế kỷ XV-XVI. Chỉ trong vòng một thế kỷ, đã có hai triều đại (Lê-Mạc) ghi tên trên trang lịch sử Việt Nam. Chỉ trong vòng gần 100 năm, đất nước đã hai lần bị chia cắt bởi hai phe Nam và Bắc triều, bởi sự phân tranh quyền lực của Trịnh-Nguyễn. Trong thời gian này, ngoài xã hội, biết bao cuộc nội chiến đẫm máu đã nổ ra, giặc giã nổi lên khắp nơi, chia bè kết phái đóng ở từng vùng; trong triều đình, diễn ra bao cảnh thay ngôi đổi vị. Sự việc đó đã đẩy triều đại nhà Lê từ hưng thịnh đi đến suy vong; đưa nhà Mạc lên ngai vị cao sang rồi lại rơi vào cảnh mạt vận như là một qui luật tuần hoàn của trời đất. Mầm mống suy vong của triều Lê bắt đầu xuất hiện từ thời vua Quỷ, vua Lợn và tưởng chừng đứt đoạn khi Lê Chiêu Tông khởi binh thất bại, khi Lê Cung Hoàng bị Mạc Đăng Dung giết. Rõ ràng, sau này, nhà Lê suy nhược, bất tài kém đức, không đảm bảo vai trò lịch sử đối với đất nước nên ngôi vị rơi vào tay Mạc Đăng Dung là một lẽ đương nhiên. Còn triều Mạc không còn nhận được sự đồng tình ủng hộ của các bậc sĩ phu từ lúc Mạc Đăng Dung đầu hàng quân Minh và dấu hiệu suy tàn của triều đại này xuất hiện từ đời Mạc Phúc Hải, tạm thời chấm dứt từ đời Mạc Mậu Hợp. Hiện trạng suy tàn của các triều đại đã làm cho chiến tranh xảy ra liên miên, tàn khốc. Nhân dân sống trong cảnh lầm than, khốn khổ. Kỷ cương xã hội lỏng lẻo, đạo đức suy đồi, chính sự đảo điên, lòng người bất ổn. 2. Trong di sản thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho chúng ta, so với các nhà thơ thuộc dòng văn học trung đại, thơ ông chiếm một vị trí rất quan trọng về số lượng lẫn chiều sâu trong tư tưởng và chiều cao về nghệ thuật. Đây chính là những bài thơ tập trung những nét đặc trưng nhất về lý tưởng thẩm mỹ dân tộc, về truyền thống văn hóa dân tộc và còn thể hiện vẻ đẹp kì diệu của một tâm hồn thanh cao, trong sáng, một tài năng nghệ thuật xuất sắc của một nhà yêu nước. Đi vào thế giới thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tức là người đọc sẽ đi vào khám phá thế giới tâm hồn bất tận, bắt gặp những cung bậc tình cảm, những tư tưởng mang tính triết lý thâm sâu của nhà thơ. Từ thơ, người đọc cảm nhận sâu sắc ở con người Tuyết Giang phu tử tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết. Tấm lòng ưu ái của nhà thơ trải dài bàng bạc trong từng câu thơ, trong sáng như vầng trăng, cao rộng như núi sông. Do đặc điểm lịch sử thế kỷ XV-XVI có nhiều biến động nên “Tư tưởng yêu nước, thương dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy vẫn tiếp nối truyền thống yêu nước thương dân ở các thế kỷ trước nhưng nó vẫn có những nội dung mới mang đặc sắc của thời đại ông”(Tư tưởng yêu nước, thương dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm-Vũ Đình Toàn)[79, tr.286]. 2.1 Vì yêu nước thương dân nên Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn lo lắng, ngậm ngùi, đau xót cho vận mệnh ngả nghiêng của nước nhà. Niềm ưu dân ái quốc chính là nguyên nhân chủ yếu khiến ông lên đường ứng thí đầu quân nhà Mạc, là nguồn sức mạnh tinh thần giúp cho ông có đủ dũng khí dâng sớ chém đầu bọn nịnh thần mà không sợ nguy hại đến bản thân và cũng là nguồn động viên giúp nhà thơ sẵn sàng xả thân tham gia chiến trận “đánh dẹp quân tàn bạo”. 2.2 Quan niệm xuất xử hành tàng độc đáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân. Ông không câu chấp trong quan niệm xuất xử. Ông chủ động chọn con đường công danh để thỏa chí đem tài năng ra giúp nước, cứu đời và chủ động xa lánh công danh cũng vì không thực hiện được hoài bão. Người hiền sĩ rất phóng khoáng, tự do trong quan niệm công danh và kiên định trong hành động. Không có bất cứ một thế lực phong kiến nào trong xã hội lúc bấy giờ có thể khuất phục được ông. Không có bất kỳ lợi lộc, danh vọng nào có thể lung lay được ý chí của người thầy Tuyết Giang. 2.3 Trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai chữ “ái quốc” không thể tách rời hai chữ “trung quân”, lo lắng cho vận mệnh nước nhà cũng là băn khoăn cho vận mệnh triều Mạc. Cho nên, ra phò tá nhà Mạc, ông tuyên bố rất tự tin rằng “muốn thi thố sức phò nguy” mà “cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua”(Con ngao lớn đội núi). Cho nên, giữ chữ “trung” với nhà Mạc, cũng chính là muốn thực hiện cái chí của một người luôn vì dân, vì nước. Mặt khác, không chỉ riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm phục vụ tận tụy triều Mạc mà cả gia đình ông đều một lòng vị quốc đương triều. 3. Nền văn học Việt Nam có một lịch sử ra đời và phát triển lâu dài gắn bó với vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc. Nền văn học ấy chính là tấm gương phản chiếu trung thực lịch sử tinh thần vô cùng phong phú, đa dạng và tinh tế của dân tộc ta. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một hiện tượng đặc sắc của nền thơ ca dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn thế kỷ XV-XVI, giữa không khí sôi động của những biến động về mặt chính trị-xã hội, giữa những cuộc chém giết nhau để tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến, giữa một xã hội cương thường lỏng lẻo, thì sự xuất hiện những bài thơ của Tuyết Giang phu tử là sự tái sinh những ánh hào quang đạo đức của một thời thơ cổ điển Việt Nam. Người thầy Tuyết Giang đã tiếp nối và phát huy quan niệm nhân nghĩa của ông cha ta và ngày nay cũng là quan niệm mang tính nhân văn của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nhân nghĩa trong việc phơi bày hiện thực xã hội nhiễu nhương, đầy máu lửa vì chiến tranh xảy ra liên miên, tàn khốc; trong việc tố cáo tội ác dã man của bọn tham chiến. Nhân nghĩa trong việc yêu dân, thông cảm với những nỗi bất hạnh, điêu linh của nhân dân và mong ước một đất nước thái bình thịnh trị cho dân lành sống yên bình, hạnh phúc. Nhân nghĩa trong việc dùng thơ văn chuyên chở đạo lý Thánh hiền và chuyên chở những bài học đạo đức cho đời. Bởi vì xã hội thời ấy là một xã hội suy đồi về đạo đức, biết bao cảnh chém giết lẫn nhau để tranh danh đoạt lợi, biết bao thủ đoạn lừa lọc bất nhân, phản trắc diễn ra rất đau lòng; thế lực đồng tiền chi phối cuộc sống và những mối quan hệ gia đình-xã hội. Do vậy, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng những có giá trị hiện thực mà còn có giá trị nhân đạo cao quí. 4. Nhà thơ sử dụng điêu luyện, linh hoạt những khuôn mẫu của tư tưởng Nho- Phật - Đạo và có những sáng tạo độc đáo làm nên một quan niệm nhân sinh cho riêng ông và cũng là nét chung của dân tộc Việt Nam. Điều đó thể hiện một phong cách sáng tác riêng và việc tiếp nhận văn hóa nói chung ở Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính vì vậy, những giá trị truyền thống trong thơ ông luôn sống trong tinh thần của thời đại, sống mãi với thời gian. Với tinh thần khoan dung văn hóa, nhà thơ tiếp thu tư tưởng “trung quân” của Nho giáo Trung Hoa trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có và biến cái trung quân đó thành tình cảm thẩm mỹ Việt Nam: ái quốc. Ông biến quan niệm “tam cương, ngũ thường” kết hợp với chữ “hiếu”, chữ “nhân” hài hòa với thuyết tính thiện của đạo Nho thành phẩm chất, đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam. Ngoài ra, tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử chỉ là cách nói, là chỗ dựa tinh thần để ông vừa vạch cho mình hướng đi phù hợp trong cuộc đời, vừa tự an ủi bản thân không rơi vào trạng thái bi quan chán nản, vừa cảnh báo răn đe người đời. Sang đời Lê, tuy Phật giáo dần dần suy thoái vì nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo nhưng lúc bấy giờ đạo Phật đã trở nên thân thiết trong đời sống tâm linh người Việt. Vả lại, sống trong xã hội bất ổn, Tuyết Giang phu tử muốn dùng triết lý Phật giáo để vừa cảnh tỉnh vừa phê phán vừa khuyên nhủ người đời những bài học đạo đức ở đời, để lý giải qui luật xã hội, qui luật cuộc sống. Tinh thần Lão-Trang với triết lý vô vi, vô sự, vô tranh không chỉ là con đường rút lui của Bạch Vân cư sĩ khi không thực hiện được hoài bão an dân trị nước mà còn là cái chí thích nhàn dật của ông. 5. Nghiên cứu quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chất phần nào chúng tôi đã thật sự tiếp cận được với bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt được thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa Việt được Nguyễn Bỉnh Khiêm kế thừa, khai thác và phát huy tạo nên sự tiếp nối của lịch sử văn hóa Việt Nam. Những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng Việt Nam được biểu hiện cụ thể trong thơ. Đó là lòng yêu nước sâu sắc, ý chí đấu tranh vì độc lập dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ Quốc; lòng nhân ái khoan dung bao la, thái độ trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử hòa thuận; tính giản dị, thanh bạch trong lối sống; những kinh nghiệm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của nhân dân Việt Nam; cách tư duy tổng hợp với sản phẩm điển hình là triết lý âm dương quân bình… Cho nên, “Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi vào lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam như một mẫu hình độc đáo góp phần làm phong phú thêm giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.”(Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nhà văn hóa lớn-Phạm Xuân Nam)[34,Tạp chí văn học số 6-1991] 6. Tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” hoặc tùy “thời” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt để biểu hiện quan niệm về công danh và quan niệm sống nhàn. Trong 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán, Bạch Vân cư sĩ sử dụng khoảng 53 từ “nhàn” và 32 từ “danh”. Điều độc đáo ở chỗ, tư tưởng nhàn được diễn tả bằng những ý tứ vô vi bằng các từ “tự tại, thong thả, đủng đỉnh, ẩn dật…”. Vì chán ngán thói đời đen bạc, chán ngán cảnh tranh danh đoạt lợi mà ông nhàn muốn quay về trí sĩ. Quay về cảnh cũ điền viên, đối với ông cũng là một cách sống nhằm phủ nhận công danh để bảo toàn danh tiết. Lối sống nhàn của cư sĩ không phải là lối sống yếm thế, bi quan mà là cách ứng xử tinh tế, linh hoạt trong một xã hội đầy biến động. Lối sống nhàn còn biểu hiện tính giản dị, trong sạch, thanh cao của bậc ẩn sĩ. Và lối sống nhàn còn tạo ra tư tưởng bất tranh, an phận thì lành, thái độ dĩ hòa vi quí nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm. 7. Theo lẽ biến dịch của vũ trụ, tất cả mọi sự vật hiện tượng không thể ở một điểm cố định mà luôn luôn dịch chuyển, xoay vần. Ảnh hưởng tư tưởng thâm sâu của Kinh Dịch, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận dụng nguyên lý Dịch để diễn tả qui luật tự nhiên, giải thích qui luật xã hội rồi lý giải về quan niệm hành tàng của con người. Xuyên suốt trong từng bài thơ, nhà thơ sử dụng các cặp từ đối lập nhằm phê phán thói đời đen bạc, phơi bày nhân tình thế thái, xét đoán sự thăng trầm của thế sự và giáo dục đạo đức cho người đời. 8. Quan niệm nhân sinh trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa mang ý nghĩa tích cực vừa có một số hạn chế cần suy nghĩ. Những tư tưởng triết lý, những bài học giáo dục đạo đức, những tình cảm chân thành…chính là hành trang cần thiết cho thế hệ sau bước vững vàng trên đường đời đầy phức tạp. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh lịch sử-xã hội tác động mạnh mẽ đến tư tưởng cho nên trong quan niệm của người thầy Tuyết Giang không tránh khỏi những hạn chế. Điều đáng nói là thế hệ chúng ta sẽ tiếp nhận và vận dụng sáng tạo như thế nào để những vần thơ tuyệt tác của nhà hiền triết không rơi vào quên lãng. Khi nghiên cứu quan niệm nhân sinh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi mong muốn đóng góp một chút gì nhỏ bé để hiểu sâu hơn về nhà hiền triết này. Song với tầm vóc của một bậc thầy về đạo đức, người viết luận án này kiến thức còn nông cạn, chưa hiểu hết ý tứ và tâm niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn chuyển tải cho hậu thế, chưa có điều kiện để nghiên cứu chữ Hán, chữ Nôm nên trong khi viết chắc chắn không tránh khỏi nhiều điều thiếu sót. Kính mong các bậc thức giả đóng góp và chỉ bảo thêm. Ngoài ra, tuy vào tháng Mười Hai năm 1985, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã long trọng tổ chức lễ Kỷ niệm 400 năm ngày mất Nguyễn Bỉnh Khiêm (28 tháng XI năm Ất dậu), tu bổ lại đền thờ Bạch Vân Cư sĩ và có hơn 50 bản tham luận của các nhà nghiên cứu viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Hội nghị khoa học toàn quốc nhưng trên thực tế “gia tài văn hóa nhiều mặt” (Kỷ yếu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) chưa được bạn đọc tiếp nhận. Tùy theo từng trình độ học sinh các cấp, các nhà soạn sách giáo khoa có thể đưa vào chương trình những bài thơ tả cảnh thiên nhiên vừa giản dị vừa thể hiện cuộc sống thanh bạch của nhà thơ hoặc những bài thơ có tính giáo dục đạo đức nhẹ nhàng….đó chính là điều mong muốn của người thực hiện luận án này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Văn hóa Thông tin và thể thao – Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm danh nhân văn hóa (Nguyễn Huệ Chi chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Đổng Chi (1993), Việt Nam cổ văn học sử, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Huệ Chi (1986), “Nguyễn Bỉnh Khiêm-nhìn từ một nhân cách lịch sử đến dòng thơ tư duy thế sự”, Tạp chí văn học,(số 3), tr.87. 5. Hà Như Chi (1951), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb Tân Việt, Hà Nội. 6. Lâm Hòa Chiếm-Lý Thị Xuân Các-Xuân Huy (1997), Từ điển Việt-Hán thông dụng, Nxb Trẻ. 7. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí-Tập 1-Dư địa chí-Nhân vật chí- Quan chức chí, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Nguyễn Nghĩa Dân (1982), Thơ quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong Giảng văn, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 9. Lê Trí Dũng (2001), Tính chất Việt Nam trong thơ Nôm Đường luật, Nxb Văn hóa. 10. Vũ Phương Đề, Công dư Tiệp Ký, tr 397-415. 11. Lê Quí Đôn, Đại Việt thông sử, Cổ học viện tàng bản, bản chép tay VS.15 của Thư viện Khoa học Xã hội Thành Phố Hồ Chí Minh. 12. Thomas Engelbert, “Giúp nước thương dân”, tuần báo Chủ Nhật của Hội Văn hóa Cộng hòa dân chủ Đức,(số ra ngày 5-1-1986) 13. Dương Quảng Hàm (1925), Quốc văn trích diễm, Nghiêm Hàm xuất bản, H., 14. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Nha học chính Đông Pháp xuất bản, H., Tóm tắt tiểu sử. Giới thiệu tập Bạch Vân quốc ngữ thi. 15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 16. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1998), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Giáo Dục Hà Nội, Tập III: Trước tác phần 3, tr 122-123. 17. Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Toản (1951), Thi văn Việt Nam (từ đời Trần đến cuối đời Mạc), Nxb Sông Nhị, Hà Nội. 18. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong…(tuyển chọn)(1997), Lê Thánh Tông-Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 19. Trần Đình Hượu (1992), Triết lý nhàn dật và tự tại trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm-danh nhân văn hóa, Nxb Bộ văn hóa thông tin và thể thao, Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội. 20. Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San, Ngô Lập Chi, Nguyễn Sĩ Lâm (1962), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập II, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 21. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979),Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 22. Đinh Gia Khánh, Hồ Như Sơn, Bùi Duy Tân (1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Văn học, Hà Nội. 23. Lê Trọng Khánh, Lê Anh Trà (1957), Nguyễn Bỉnh Khiêm-nhà thơ triết lý, Nxb Văn hóa-Cục xuất bản BộVăn hoá, Hà Nội. 24. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập, Nxb Tp Hồ Chí Minh. 25. Trần Trọng Kim (1955), Nho giáo, 2 qu, in lần thứ 3, Nxb Tân Việt, SàiGòn. 26. Nguyễn Hiến Lê (1998), Lão Tử-Đạo Đức kinh, Nxb Văn hóa TT, Hà Nội. 27. Đặng Thanh Lê (1986), “Từ một phạm trù triết học về một quan niệm đạo đức của Nho gia đến cảm hứng nghệ thuật “thế sự” trong thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học,(số 4), tr 395-405. 28. Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và tranh luận văn học, Nxb Văn học,Hà Nội. 29. Nguyễn Đăng Long(Tuệ Quang)(1964), Phật giáo, Nxb Trường Sơn, SàiGòn. 30. Nguyễn Lộc (1985), “Nguyễn Bỉnh Khiêm-con người và văn chương”, Báo Đại đoàn kết, (số 26). 31. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 32. Nguyễn Đăng Mạnh (1977), “Những vần thơ Bác”, H, Báo Nhân Dân, (số 19) 33. Hồ Chí Minh (2000), Thơ toàn tập, Nxb Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Quốc học. 34. Phạm Xuân Nam (1991), “Nguyễn Bỉnh Khiêm-Nhà văn hóa lớn”, Tạp chí văn học, (số 6) 35. Bùi Văn Nguyên (1986), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng. 36. Bùi Văn Nguyên (1988), Văn chương Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng. 37. Bùi Văn Nguyên (1989), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 38. NICULIN.N.I. Văn học Việt Nam từ thời trung cổ đến hiện đại (thế kỉ X-XIX), Nguyễn Mạnh Cường (dịch), Phòng Khoa học công nghệ và sau Đại học, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 39. Ngô Văn Phú (2003), Danh nhân Việt Nam qua các đời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 40.Vũ Tiến Phúc (1974),Việt Nam văn học giảng minh, Nxb Alpha, Sàigòn, tr. 332-365. 41. Nguyễn Quân (1974), Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Sống mới, Sàigòn. 42. Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T.IV, Bản dịch của Cao Huy Giu, Nxb Khoa học xã hội, H, 1967. 43.Vũ Tiến Quỳnh (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Mạnh Trinh, Phan Bội Châu, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa. 44. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lê Thánh Tông Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb TP.Hồ Chí Minh. 45. Trương Hữu Quýnh-Đào Tố Uyên-Phạm Văn Hùng, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, chương IV-Việt Nam trong các thế kỷ XVI-nửa đầu XVIII. 46. Trần Lê Sáng (1990), Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Trần Lê Sáng (2005), Phùng Khắc Khoan-Cuộc đời và thơ văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 48. Trần Xuân Sinh-hiệu chính Nguyễn Hào Hùng, Việt sử kỷ yếu, Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam á-Việt Nam, Nxb Hải Phòng. 49. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về cảm quan Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi”, Tạp chí Văn học, (số 6) 50. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Anh hưởng Đạo gia trong thơ Nguyễn Trãi”, Tạp chí Văn Học, (số 6) . 51. Hà Thiên Sơn (2001), Lịch sử Triết học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 52. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 53. Bùi Duy Tân (1964), Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong Văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 54. Bùi Duy Tân (1983), Bạch Vân am thi tập, trong Từ điển văn học, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 50-51. 55. Bùi Duy Tân (1983), Bạch Vân quốc ngữ thi, trong Từ điển văn học, Tập I (Thư mục, số 38), tr 51. 56. Bùi Duy Tân (1984), Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong Từ điển văn học, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 49-51. 57. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia-tác phẩm Văn học Trung đại Việt Nam,Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Văn Tân (1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển II, Nxb-Văn sử địa, Hà Nội, tr.322. 59. Trần Thị Băng Thanh (2001), “Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thơ ngôn chí”, Tạp chí văn học, (số 6), 60. Trần Thị Băng Thanh-Vũ Thanh (2001)(tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 61. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục. 62. Chu Thiên (1945), Tuyết Giang phu tử, Nxb Đại La Hà Nội, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh. 63. Huệ Thiên (1991), “Đời làm quan và nghĩa quần thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ quốc âm của ông”, Kiến thức ngày nay, Kỷ niệm 500 năm ngày sinh danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1991) 64. Đinh Khắc Thuần, Lịch sử triều Mạc-Qua thư tịch và văn bia, Nxb Khoa học xã hội, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia Viện nghiên cứu Hán Nôm. 65. Nguyễn Tài Thư (1986), “Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tư tưởng tiêu biểu của thế kỷ XVI”, Tạp chí Triết học,(số 1), tr.50. 66. Nghiêm Toản (1949), Việt Nam văn học sử trích yếu, Nxb Vĩnh Bảo, Sàigòn. 67. Nghiêm Toản (Hạo Nhiên)(1973), Lão Tử Đạo đức kinh (quốc văn giải thích), in lần thứ 1, Nxb Bộ QGGD, SàiGòn (1959); qu.2, Nxb Khai Trí, SàiGòn. 68. Đào Thái Tôn (1997), “Tìm cách hiểu một câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tạp chí Văn học,(số 7), tr 47-50. 69. Vân Trình (1976), “Tìm hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tạp chí văn học,(số 3), tr.81. 70. Viện sử học, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam(1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 71. Đoàn Thị Thu Vân(1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ thứ XIV, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học. 72. Trần Trung Viên, Hư Chu (hiệu chính)(1968), Văn đàn bảo giám, Nxb Nam Kỳ, H, 1932; Nxb Mặc Lâm tái bản, SàiGòn. 73. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 74.Trần Ngọc Vương (2001), “Nguyễn Bỉnh Khiêm-hư và thực”, Tạp chí văn học, (số 6), 75.Trần Ngọc Vương (1990), Văn hóa Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Đại học quốc gia Hà Nội. 76. WILL DURANT, Nguyễn Hiến Lê (dịch), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa- Thông tin. 77. Lê Thu Yến-Đoàn Thị Thu Vân-Lê Văn Lực-Phạm Văn Nhu (2000), Văn học Việt Nam- Văn học trung đại-Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục. 78. Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm(1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb TP Hồ Chí Minh. 79. Viện văn học và Hội đồng lịch sử Hải Phòng (1991), Kỷ yếu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Hải Phòng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7290.pdf
Tài liệu liên quan