Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các sở, ban, ngành của thành phố Hà Nội

Mục lục Danh mục chữ viết tắt BV: Bệnh viện CLB: Câu lạc bộ CT: Công trình CXC: Chống xuống cấp DT: Dự toán ĐV: Đơn vị HCSN: Hành chính sự nghiệp KBNN: Kho bạc Nhà nước HSSV: Học sinh sinh viên LĐTBXH: Lao động thương binh xã hội NSNN: Ngân sách Nhà nước NVH: Nhà văn hoá PTTH: Phổ thông trung học QT: Quyết toán SC: Sửa chữa STT: Số thứ tự TCĐLCL: Tiêu chuẩn đo lường chất lượng TSCĐ: Tài sản cố định TT: Trung tâm UBND: Uỷ ban nhân dân XDCB: Xây dựng

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các sở, ban, ngành của thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ bản Lời nói đầu Trong thời gian gần đây, đề tài về vốn đầu tư xây dựng cơ bản và thực trạng quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành. Điều này rất dễ hiểu do tầm quan trọng của loại vốn này đối với sự phát trển kinh tế- xã hội, do tỷ trọng lớn của vốn trong tổng chi ngân sách Nhà nước cũng như do những hạn chế lớn còn tồn tại trong việc quản lý vốn. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu phân công, phân cấp quản lý, chi ngân sách Nhà nước của Việt Nam còn có một loại vốn cũng mang tính chất đầu tư xây dựng cơ bản nhưng lại được quản lý như một loại vốn riêng. Đó là vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản. Hiện vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn trong chi hành chính sự nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc duy trì và tăng cường hiệu qủa công việc của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp . Công tác quản lý, sử dụng vốn trong thời gian qua cũng đã đạt được những hiệu quả nhất định. Tuy vậy, thực tế triển khai công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản theo chính sách chế độ của Nhà nước hiện nay vẫn tồn tại những khó khăn, hạn chế, đòi hỏi phải có những nghiên cứu về cả lý thuyết và thực tiễn nhằm đưa ra các biện pháp sửa đổi, hoàn thiện công tác quản lý để gia tăng hiệu quả quản lý và sử dụng vốn . Thông qua nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn, luận văn “ Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội ” thực hiện hai mục tiêu chính: Thứ nhất, xác định vị trí của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản trong chi ngân sách Nhà nước, so sánh tương quan với vốn đầu tư xây dựng cơ bản và các khoản chi khác thuộc chi ngân sách. Thứ hai, đánh giá những điều đã làm được và những hạn chế còn tồn tại trong việc quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các Sở, Ban, Ngành thuộc thành phố trong những năm gần đây nhằm đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để khắc phục hạn chế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý. Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương I : Khái quát chung về công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Chương II: Thực trạng công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản. Trong quá trình thực hiện luận văn này, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn thực tập- tiến sỹ Nguyễn Văn Định và các cô chú, anh chị của Phòng Tài chính Hành chính - Sự nghiệp cùng các phòng ban khác của Sở Tài chính Vật giá Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn! Nội Dung Chương 1. Khái quát chung về quản lý vốn sự nghiệp có tính đầu tư xây dựng cơ bản 1.1. Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản trong ngân sách Nhà nước 1.1.1. Một số khái niệm và nội dung về chi ngân sách Nhà nước Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một khái niệm thuộc phạm vi chi NSNN. Để có được hình dung rõ ràng về vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, trước hết ta cần tìm hiểu một số khái niệm và nội dung của NSNN. Theo Luật Ngân sách Nhà nước, NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong đự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN có hai nội dung lớn là thu NSNN và chi NSNN. Nhà nước thông qua thu để tạo lập quỹ tài chính - tiền tệ của mình. Nguồn thu chủ yếu của NSNN là thuế. Chi NSNN được hiểu là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo những nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước. Nội dung chi NSNN rất phong phú và có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu nghiên cứu và quản lý. Theo tính chất phát sinh của các khoản chi, chi NSNN bao gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên. Theo mục đích sử dụng cuối cùng, chi NSNN bao gồm chi tích luỹ và chi tiêu dùng. Theo phương thức chi tiêu, chi NSNN được bao gồm chi thanh toán và chi chuyển giao. Luật Ngân sách Nhà nước Việt Nam quy định, chi NSNN Việt Nam bao gồm các khoản chi sau đây: 1- Chi đầu tư phát triển: là khoản chi ngân sách phát sinh không thường xuyên và có tính định hướng cao nhằm mục tiêu : xây dựng cơ sở hạ tầng, ổn định và phát triển kinh tế. - Chi đầu tư XDCB: là khoản chi xây dựng những cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội mang tính then chốt và không có khả năng thu hồi vốn. - Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, chi góp vốn liên doanh và góp vốn cổ phần. - Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. - Dự trữ Nhà nước. - Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển. 2- Chi thường xuyên : là khoản chi phát sinh thường xuyên, liên tục, định kỳ hàng năm nhằm duy trì hoạt động của các cơ quan, đơn vị HCSN; đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. - Chi sự nghiệp kinh tế - Chi sự nghiệp giáo đục- đào tạo và nghiên cứu khoa học: -Chi các hoạt động sự nghiệp y tế, văn hoá, xã hội, thông tin, thể thao và các sự nghiệp khác do Nhà nước quản lý: - Chi quản lý hành chính Nhà nước: - Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. 3- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 4- Chi trả nợ gốc do Chính phủ vay. 5- Chi bổ sung cho Ngân sách cấp dưới. Trong hoạt động của các cơ quan HCSN, có hai khoản mục lớn là thu và chi NSNN tại các đơn vị và nội dung chi tiết các khoản thu chi được ghi theo mục lục ngân sách . Chi của các đơn vị bao gồm: - Chi hoạt động thường xuyên ( Chi cho người lao động, Chi quản lý hành chính, Chi hoạt động nghiệp vụ, Chi tổ chức thu phí, lệ phí, Chi sản xuất cung ứng dịch vụ, Chi mua sắm sửa chữa tài sản cố định, Chi hoạt động thường xuyên khác ). - Chi hoạt động không thường xuyên ( Chi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, Chi thực hiện nhiệm vụ Nhà nước đặt hàng, Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, Chi thực hiện tinh giảm biên chế, Chi đầu tư XDCB , mua sắm thiết bị, Chi khác ). Các khoản chi trên được lấy từ hai nguồn chính là kinh phí Nhà nước cấp và nguồn thu để lại. Kinh phí Nhà nước cấp cho các đơn vị được ghi vào chi NSNN. Số thu đơn vị nộp ngân sách được ghi vào thu NSNN. Để phù hợp với các yêu cầu quản lý khác nhau, kinh phí cho việc sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất ( chi đầu tư XDCB ), bên cạnh việc được quản lý trong thu chi ngân sách của đơn vị còn được tập trung quản lý thành một loại vốn gọi là vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Như vậy, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một phần của chi HCSN trong chi thường xuyên NSNN. Nó được dùng để chi cho một loại chi hoạt động không thường xuyên của các đơn vị HCSN. 1.1.2. Khái niệm về vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB 1.1.2.1. Khái niệm Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là vốn từ nguồn NSNN cấp cho các đơn vị HCSN để chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có nhằm phục hồi hoặc tăng giá trị tài sản cố định (bao gồm cả việc xây dựng mới các hạng mục công trình trong các cơ sở đã có của các cơ quan, đơn vị HCSN). Ta cần phân biệt các khái niệm: Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, vốn đầu tư XDCB là các loại vốn. Chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất, chi đầu tư XDCB là các loại chi. Kinh phí Nhà nước cấp cho các đơn vị để thực hiện các khoản chi ngân sách được quản lý qua quỹ vốn NSNN. Như vậy, đối với Nhà nước thì quỹ vốn là một khoản chi; còn đối với đơn vị thì quỹ vốn là nguồn chi. Chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất có nguồn chi từ vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Chi đầu tư XDCB có nguồn chi từ vốn đầu tư XDCB. Chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một loại chi “lưỡng tính”, vừa mang tính chất thường xuyên vừa mang tính không thường xuyên. Mang tính không thường xuyên vì chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất của các đơn vị HCSN không phải là khoản chi ổn định, đều đặn hàng năm như chi cho con người, chi quản lý hành chính. Tuy nhiên, vì nó là khoản chi phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước và hoạt động sự nghiệp, không phải là khoản chi xây dựng những cơ sở hạ tầng then chốt như chi đầu tư XDCB nên trong tổng hợp chi NSNN, nó được xếp vào chi thường xuyên. Một loại chi ngân sách có thể có nhiều nguồn chi khác nhau. Nhưng một loại vốn ngân sách chỉ được dùng cho loại chi đã xác định của nó. Theo quy định hiện nay, chỉ những dự án sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp có giá trị từ 20 triệu trở lên mới được bố trí danh mục riêng để ghi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB . Với các dự án dưới 20 triệu đơn vị phải tự sắp xếp nhiệm vụ chi hoặc phải chi bằng nguồn khác. Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB có bản chất là vốn đầu tư, do dùng để chi cho loại chi thường xuyên của các đơn vị HCSN nên được gọi là vốn sự nghiệp. Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB không phải là một khái niệm cơ bản trong lý thuyết về tài chính công mà là một khái niệm được đặt ra xuất phát từ yêu cầu quản lý và phân cấp quản lý ngân sách. Tại cơ quan tài chính luôn có bộ phận chuyên quản quản lý cấp phát các khoản chi HCSN. Bộ phận này nắm chắc tình hình chi ngân sách thực tế của đơn vị. Khoản chi sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất của các cơ quan, đơn vị HCSN được bố trí nguồn từ vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB và quản lý cấp phát chung với các khoản chi thường xuyên khác, vì vậy, cơ quan cơ quan quản lý dễ theo dõi tình hình chi ngân sách của các đơn vị đồng thời bố trí kế hoạch chi phù hợp với thực tế và yêu cầu nhiệm vụ được giao của đơn vị. 1.1.2.2. Đối tượng sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Đối tượng sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là các cơ quan, đơn vị HCSN, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Cơ quan hành chính Nhà nước là các cơ quan thuộc bộ máy hành pháp, có chức năng quản lý Nhà nước đối với việc chấp hành luật pháp và chỉ đạo thực hiện các chủ trương kế hoạch của Nhà nước . Các cơ quan này được NSNN đảm bảo 100% kinh phí hoạt động. Các đơn vị sự nghiệp Nhà nước là các đơn vị do Nhà nước thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp ( cung cấp các dịch vụ theo chuyên môn của mình ) như sự nghiệp y tế, giáo dục - đào tạo, văn hoá, v.v... Các đơn vị sự nghiệp Nhà nước hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận và được Nhà nước đảm bảo toàn bộ hoặc một phần kinh phí. Ngân sách Nhà nước cũng đảm bảo cân đối chi phí hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kinh phí hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm và có thể được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí. Như vậy, thực ra các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp không phải là các cơ quan, đơn vị HCSN nhưng vì chúng đều có sử dụng NSNN và có các nội dung chi tương tự như các đơn vị HCSN nên trong quản lý NSNN, các khoản chi ngân sách của các đơn vị HCSN, các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được quản lý chung và được gọi chung là chi HCSN. Và trong luận văn này, khi đề cập đến các đơn vị HCSN là bao gồm toàn bộ các cơ quan, đơn vị, tổ chức nêu trên. Xét về mặt quản lý hành chính Nhà nước, dựa trên việc phân công trách nhiệm theo ngành, lĩnh vực, các đơn vị HCSN cấp thành phố bao gồm các Sở, Ban, Ngành, Đoàn thể, Hiệp hội, v.v... gọi tắt là các Sở, Ban, Ngành. Trong phân cấp quản lý ngân sách, các đơn vị HCSN cấp thành phố là các đơn vị dự toán cấp một và các đơn vị dự toán cấp hai trực thuộc. 1.1.2.3. So sánh vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản và vốn đầu tư xây dựng cơ bản - Về vị trí trong chi NSNN: + Chi vốn đầu tư XDCB thuộc chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN. + Chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB nằm trong phần chi HCSN thuộc chi thường xuyên trong tổng chi NSNN. - Về mục đích sử dụng vốn: + “ Vốn đầu tư XDCB tập trung ” được dùng cho chi đầu tư XDCB.. Chi đầu tư XDCB là khoản chi chủ yếu nhằm vào xây dựng các công trình kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt không có khả năng thu hồi vốn nhằm làm thay đổi cơ cấu, tốc độ tăng trưởng kinh tế; trong đó bao gồm hạ tầng kỹ thuật, giao thông đô thị, cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo, y tế và phúc lợi công cộng. Vì vậy, vốn đầu tư XDCB chủ yếu là để phục vụ xây mới các công trình. Các công trình, dự án được sử dụng vốn này thường nằm trong quy hoạch phát triển của trung ương hoặc tỉnh, thành phố. + “ Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB ” được dùng để chi cho việc sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất sẵn có của các đơn vị HCSN, nhằm duy trì hoặc tăng cường chức năng hoạt động của các cơ sở vật chất này. Không được dùng nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB để đầu tư xây dựng mới, trừ việc xây dựng mới các hạng mục công trình trong các cơ sở đã có của các cơ quan, đơn vị HCSN. Các dự án xây mới phải xin kinh phí từ nguồn vốn đầu tư XDCB. - Về quy mô: + Vốn đầu tư XDCB có thể nói là không giới hạn về mức vốn. Nó bao gồm các dự án thuộc cả nhóm A, nhóm B, nhóm C. Đồng thời, nó cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN. + Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB thường có quy mô nhỏ, chỉ bao gồm các dự án nhóm B, C và cũng chỉ giới hạn mức vốn từ 20 triệu lên đến mức vốn hợp lý dành cho sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp. Bản thân chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một bộ phận của chi thường xuyên mà chi thường xuyên lại là một bộ phận của tổng chi NSNN. Tỷ trọng chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB trong chi thường xuyên HCSN cũng không cao. Vì vậy, trong tổng chi NSNN, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB chiếm tỷ trọng không đáng kể. - Về phân cấp quản lý: + Để đảm bảo quy hoạch phát triển, tập trung vốn cho những dự án trọng điểm nên hiện nay nguồn vốn đầu tư XDCB được tập trung ở cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố. Đảm bảo quy hoạch, tập trung vốn cũng là lý do mà các dự án xây mới dù có số vốn thấp cũng phải xin kinh phí từ nguồn vốn đầu tư XDCB . + Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB được phân cấp quản lý về đến cấp huyện, tức là, ngân sách quận, huyện được ngân sách tỉnh, thành phố bố trí cho một khoản vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB và UBND quận, huyện được UBND tỉnh, thành phố phân cấp quyết định đầu tư đối với các dự án thuộc phạm vi này. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau song xét về tính chất chi và nội dung chi thì vốn đầu tư XDCB và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là hoàn toàn tương đồng nên việc quản lý hai loại vốn này có các yêu cầu và trình tự như nhau, ngoại trừ việc quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đơn giản hơn một chút. 1.1.3. Vai trò của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB Như đã nêu trong khái niệm, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB dùng để sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp các cơ sở vật chất hiện có của các cơ quan, đơn vị HCSN nhằm phục hồi hoặc tăng giá trị tài sản cố định. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động và nâng cao hiệu quả công việc của các đơn vị HCSN bởi vì các cơ sở vật chất là yếu tố không thể thiếu được đối với hoạt động của mọi cơ quan đơn vị và trạng thái, chất lượng của các cơ sở vật chất là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác của các đơn vị. Về bản chất, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một nội dung của vốn đầu tư XDCB. Nó góp phần tạo nên cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, y tế, văn hoá, xã hội, thông tin, thể thao và các sự nghiệp khác do Nhà nước quản lý. Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, hoạt động sự nghiệp của Nhà nước rất quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam, phần lớn hoạt động sự nghiệp đều do các đơn vị của Nhà nước thực hiện mà chưa có sự tham gia nhiều của các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, nhiều trụ sở, tài sản và cơ sở vật chất khác của các đơn vị HCSN đã được xây dựng, mua sắm cách đây nhiều năm, bị xuống cấp nghiêm trọng. Ngay đối với những cơ sở vật chất mới được tạo lập thì trong quá trình hoạt động cũng dần bị hao mòn, xuống cấp. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, yêu cầu về khối lượng, chất lượng, tính phức tạp, tốc độ thực hiện đối với công việc của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp ngày càng tăng. Vì vậy, luôn luôn có nhu cầu về xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất của những đơn vị HCSN. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời do yêu cầu về tính hiệu quả và tiết kiệm trong sử dụng vốn NSNN, cải tạo, sửa chữa, mở rộng, nâng cấp là giải pháp chính hiện nay ( thay cho xây mới toàn bộ ). Điều này thể hiện rất rõ đối với ngành giáo dục và y tế. Đây là hai ngành có vai trò xã hội quan trọng, yêu cầu tăng cường cơ sở vật chất càng ngày càng nhiều theo sự gia tăng của dân số và mức sống. Đây cũng là hai ngành nhận dược sự bao cấp rất lớn của Nhà nước. 1.2. Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.1. Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Quản lý nói chung là một hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung Về nội dung, thuật ngữ “ quản lý ” có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là việc chủ thể ( thường là Nhà nước hoặc người đứng đầu tổ chức ) sử dụng các công cụ hành chính, kinh tế, pháp luật v..v.. nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. Như vậy, bản thân khái niệm quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cũng có thể hiểu theo hai nghĩa. Nó có thể là hoạt động quản lý của Nhà nước, cũng có thể là hoạt động quản lý của đơn vị sử dụng vốn. Trong phạm vi luận văn này, quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB được hiểu là một nội dung quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính công. Với cách hiểu này, ta có định nghĩa sau: Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là sự tác động liên tục, có hướng đích của chủ thể quản lý ( Nhà nước ) lên đối tượng ( các đơn vị HCSN ) và khách thể quản lý ( vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB )nhằm thực hiện mục tiêu chung . - Chủ thể quản lý: Các cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền, trách nhiệm quản lý vốn đầu tư nói chung và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB nói riêng. + Đối với cấp Trung ương: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, các bộ, ngành có liên quan. + Đối với cấp tỉnh: UBND tỉnh, thành phố, các Sở chức năng giúp việc. + Đối với cấp huyện: UBND quận, huyện và các Phòng chức năng giúp việc. - Đối tượng quản lý: Các đối tượng sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Đó là các cơ quan, đơn vị HCSN. - Khách thể quản lý: Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Mục tiêu quản lý là quản lý và sử dụng vốn đúng pháp luật, đúng mục đích, có hiệu quả, tiết kiệm. 1.2.2. Sự cần thiết của quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản - Xuất phát từ sự cần thiết phải quản lý NSNN nói chung: Quỹ NSNN là một quỹ tiền tệ tập trung rất lớn, có nguồn chủ yếu từ sự đóng góp ( thông qua cơ chế thu ngân sách ) của các thành phần kinh tế. Nhà nước sử dụng quỹ này để chi cho các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của mình. Có 3 lý do chính đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ NSNN : + Quỹ NSNN là một quỹ công được Nhà nước giao quyền quản lý và sử dụng cho một số đối tượng nhất định nên khó tránh khỏi thất thoát, lãng phí, tham ô. Quản lý chặt chẽ để làm hạn chế hiện tượng này, giảm bớt thiệt hại cho Nhà nước và xã hội . + Chi NSNN thường là các khoản chi rất lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế- xã hội nên nếu không quản lý chặt chẽ, để xảy ra sai lầm, thất thoát, lãng phí thì hậu quả cũng rất nghiêm trọng. + Ngân sách nước ta còn hạn hẹp trong khi nhiệm vụ chi lại rất nhiều vì vậy đặt ra yêu cầu phải quản lý NSNN để cân đối giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi, giữa các nội dung chi, chống thất thoát lãng phí nhằm mục tiêu sử dụng ngân sách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. - Xuất phát từ tính chất của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB: Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cũng là một bộ phận của chi NSNN. Nó được chi cho mục đích đầu tư và xây dựng, một loại chi phức tạp và hiện nay đang tồn tại nhiều vấn đề trong quản lý. Vì vậy dù có quy mô không lớn nhưng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cần được quản lý chặt chẽ để bảo đảm vốn được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả đồng thời phải bảo đảm kế hoạch ngân sách, cân đối thu chi ngân sách, chống thất thoát, lãng phí, tham ô. - Xuất phát từ đặc trưng của các đơn vị HCSN: Đối tượng sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là các đơn vị HCSN. Đặc trưng cơ bản của các đơn vị HCSN là được trang trải các chi phí hoạt động và thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao bằng nguồn kinh phí từ ngân quỹ Nhà nước hoặc từ công quỹ theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp. Điều đó đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ chi HCSN, trong đó có chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB để kinh phí cấp phát cho các đơn vị HCSN được sử dụng đúng mục đích, đúng dự toán đã phê duyệt theo nguồn kinh phí, theo nội dung chi tiêu, đúng tiêu chuẩn, định mức. 1.2.3. Nội dung quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là một trong rất nhiều nội dung của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài chính công mà cụ thể là quản lý một loại vốn thuộc ngân sách nhà nước. Vì vậy ta phải xem xét trên hai góc độ: Xét trên góc độ quản lí hành chính Nhà nước, nội dung quản lý bao gồm: - Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật, chính sách , chế độ, quy định, quyết định để quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. - Tổ chức thực hiện theo hệ thống văn bản quản lý nêu trên. - Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành, thực hiện của các cơ quan, đơn vị. Các văn bản quản lý chia làm nhiều loại phân theo các tiêu thức khác nhau. - Theo cơ quan ra văn bản, có: văn bản do Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ban hành, văn bản của UBND, của các Sở v.v... - Theo hình thức văn bản, có: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Chỉ thị, Công văn, ... - Theo nội dung văn bản, có văn bản quản lý chung, văn bản quản lý cụ thể từng lĩnh vực, các văn bản hỗ trợ. Xét trên góc độ quản lý tài chính Nhà nước , nội dung quản lý bao gồm: - Quản lý việc lập kế hoạch và thông báo kế hoạch vốn đầu tư ( thuộc nội dung lập và phân bổ dự toán ngân sách trong quản lý ngân sách Nhà nước ). - Quản lý việc thanh toán vốn ( thuộc nội dung chấp hành dự toán ngân sách ) . - Quản lý việc quyết toán vốn ( thuộc nội dung quyết toán ngân sách ). Đồng thời, quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là nội dung quản lý tài chính các dự án, công trình xây dựng sử dụng loại vốn này. Vì vậy, nó được thực hiện đồng bộ với các nội dung khác như quản lý thiết kế xây dựng, kỹ thuật, chất lượng công trình, v.v... của quản lý đầu tư và xây dựng nói chung và được tiến hành theo đúng trình tự đầu tư và xây dựng gồm 3 giai đoạn: - Chuẩn bị đầu tư. - Thực hiện đầu tư. - Kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác sử dụng. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo mục tiêu quản lý là sử dụng vốn ngân sách tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định, các dự án do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư phải chịu sự giám định đầu tư. Giám định đầu tư là việc kiểm tra, giám sát, phân tích, đánh giá từng giai đoạn hoặc toàn bộ quá trình đầu tư và xây dựng. Công tác giám định đầu tư được thực hiện ở cả cấp Thủ tướng Chính phủ, cấp ngành và cấp địa phương. 1.2.3.1. Quản lý việc lập kế hoạch và thông báo kế hoạch vốn đầu tư Theo nội dung lập và phân bổ dự toán NSNN, kế hoạch bao gồm danh mục dự án và vốn cho từng dự án. Theo trình tự đầu tư và xây dựng, kế hoạch bao gồm vốn cho chuẩn bị đầu tư, vốn cho chuẩn bị thực hiện đầu tư, vốn cho thực hiện đầu tư. Hàng năm, theo kế hoạch vốn chuẩn bị đầu tư đã bố trí, chủ đầu tư tiến hành lập dự án đầu tư dưới hình thức báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo cáo đầu tư. (Các cơ quan HCSN là chủ đầu tư các dự án xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chính mình).Đối với các đự án sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB có mức vốn từ 1 tỷ đồng trở lên, chủ đầu tư lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Các dự án có mức vốn dưới 1 tỷ đồng thì không phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi cho từng dự án mà chỉ lập báo cáo đầu tư. Chủ đầu tư có trách nhiệm trình báo cáo nghiên cứu khả thi tới người có thẩm quyền quyết định đầu tư và đồng gửi cơ quan có chức năng thẩm định. Các dự án được lập báo cáo đầu tư thì không phải thẩm định. Bộ Kế hoạch- Đầu tư chủ trì thẩm định các dự án cấp trung ương quản lý Sở Kế hoạch - Đầu tư chủ trì thẩm định các dự án cấp tỉnh quản lý. Kết quả của việc thẩm định dự án là cho ra quyết định đầu tư hoặc quyết định không đầu tư dự án. Nếu dự án đầu tư có quyết định đầu tư, nó sẽ được bố trí kế hoạch vốn cho chuẩn bị thực hiện đầu tư và thực hiện đầu tư. Kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư bao gồm vốn để thực hiện công tác khảo sát, thiết kế kỹ thuật, các công tác chuẩn bị xây dựng và các chi phí khác có liên quan. Kế hoạch thực hiện đầu tư bao gồm vốn đầu tư để thực hiện việc mua sắm vật tư thiết bị, xây dựng và các chi phí khác có liên quan đến đấu thầu và đưa dự án vào khai thác sử dụng. Nó bao gồm kế hoạch năm và kế hoạch quý. Điều kiện để dự án được ghi vào kế hoạch vốn thực hiện đầu tư năm là phải có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán (được lập trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện đầu tư) được duyệt. Căn cứ vào nhu cầu vốn theo tiến độ công trình và cân đối vốn của tất cả các dự án đầu tư, cơ quan tài chính sẽ phân bổ dự toán vốn hàng năm để thực hiện đầu tư cho các dự án. Công tác lập và phân bổ dự toán chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB tuân theo các trình tự, thủ tục được quy định trong Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ và Bộ Tài chính. Việc lập và phân bổ dự toán NSNN ở Việt Nam hiện nay đi theo trình tự lập từ dưới lên, phân bổ từ trên xuống . Khi lập và phân bổ kế hoạch vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, cùng lúc phải chú ý tới hai việc: - Cân đối giữa chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB với các khoản chi thường xuyên khác của các đơn vị HCSN - Cân đối vốn đầu tư của địa phương và của cả nước. Vì vậy, trong việc quản lý các loại vốn đầu tư ( bao gồm cả vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB ) có sự phối hợp của Sở Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Sở Tài chính- Vật giá, Bộ Tài chính 1.2.3.2. Quản lý thanh toán vốn đầu tư Việc thanh toán vốn đầu tư được thực hiện trong cả ba giai đoạn của trình tự đầu tư và xây dựng. Các khoản chi phí cần thanh toán vốn là: - Chi phí xây lắp - Chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị - Chi phí tư vấn - Chi phí khác (chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, chi phí quản lý dự án, thuế, lệ phí phải nộp, v.v... ) Đối với các dự án sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, việc cấp phát vốn được thực hiện dưới hình thức cấp bằng hạn mức kinh phí và được thanh toán qua KBNN. Căn cứ chính để KBNN tiến hành thanh toán cho đơn vị sử dụng vốn ngân sách là: - Được thủ trưởng đơn vị hoặc người được thủ trưởng đơn vị uỷ quyền ra lệnh chuẩn chi. - Khoản chi không vượt quá dự toán NSNN được duyệt. - Có đầy đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán hợp lệ. Việc thanh toán vốn được thực hiện theo khối lượng công việc hoàn thành nghiệm thu trong từng thời kì. Như vậy, cơ quan quản lý vừa kiểm tra được tiến độ thực hiện dự án vừa kiểm soát được việc thanh toán vốn cho công trình. Đối với những dự án đầu tư hoặc khối lượng công việc thuộc dự án đầu tư được phép cấp tạm ứng thì KBNN sẽ cấp trước vốn tạm ứng cho đơn vị thụ hưởng và thu hồi vốn tạm ứng khi thanh toán khối lượng công việc hoàn thành. 1.2.3.3. Quản lý quyết toán vốn đầu tư Khi kết thúc năm kế hoạch, đơn vị phải quyết toán khối lượng XDCB dở dang chuyển sang năm sau, tổng hợp trong báo cáo quyết toán cùng với các khoản chi ngân sách trong năm của đơn vị. Đối với dự án có nhiều hạng mục công trình mà mỗi hạng mục ( hoặc nhóm hạng mục công trình ) khi hoàn thành nếu độc lập vận hành khai thác sử dụng và xét thấy cần thiết thì cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán có thể cho phép quyết toán hạng mục ( hoặc nhóm hạng mục ) bao gồm chi phí xây lắp, thiết bị và chi phí khác có liên quan trực tiếp của hạng mục (hoặc nhóm hạng mục công trình) nói trên. Sau khi toàn bộ dự án hoàn thành chủ đầu tư phải tổng quyết toàn bộ dự án và phân bổ chi phí khác cho từng hạng mục theo quy định. Khi kết thúc xây dựng, công trình phải được nghiệm thu, bàn giao, vận hành thử, bảo hành, bảo hiểm, v..v.. , phải tiến hành quyết toán vốn đầu tư, thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. “ Vốn đầu tư được quyết toán ” là toàn bộ chi phí hợp pháp đã thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã ký kết và thiết kế dự toán được phê duyệt, bảo đảm đúng quy chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính - kế toán và những quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan. Vốn đầu tư được quyết toán trong giới hạn tổng mức đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt và điêù chỉnh ( nếu có ). Quyết toán đầu tư phải xác định đầy đủ, chính xác tổng mức vốn đầu tư đã thực hiện; phân định rõ nguồn vốn đầu tư; vốn đầu tư chuyển thành tài sản cố định, tài sản lưu động, hoặc chi phí không thành tài sản của dự án. Qua quyết toán vốn đầu tư xác định số lượng, năng lực sản xuất, giá trị TSCĐ mới tăng do đầu tư mang lại để có kế hoạch huy động, sử dụng kịp thời và phát huy hiệu quả của dự án đầu tư đã hoàn thành. Trên cơ sở đó xác định trách nhiệm của chủ đầu tư, cơ quan quản lý ._.nhà nước về đầu tư và xây dựng trong quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Quyết toán vốn đầu tư phải đầy đủ, đúng nội dung, đảm bảo thời gian lập, thẩm tra và phê duyệt theo quy định . Chủ đầu tư chịu trách nhiệm quyết toán vốn đầu tư và gửi báo cáo quyết toán vốn đầu tư cho người có thẩm quyền phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Đối với các dự án sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời là người phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Trước khi duyệt quyết toán vốn đầu tư, tất cả các báo cáo quyết toán phải được tổ chức thẩm tra quyết toán. Tuỳ theo quyết định của người có thẩm quyền phê duyệt, hình thức tổ chức thẩm tra quyết toán có thể là do cơ quan chức năng trực thuộc cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán thực hiện hoặc thuê tổ chức kiểm toán . Chi phí thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư được tính trong tổng dự toán được duyệt. Công tác quyết toán vốn đầu tư không chỉ nhằm kiểm tra các khoản đã chi xem có đúng với mục đích, tiêu chuẩn định mức, chế độ chính sách, quy trình thủ tục của Nhà nước không mà còn để đánh giá kết quả quá trình đầu tư, rút kinh nghiệm nhằm tăng cường công tác quản lý đầu tư và xây dựng. 1.2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản 1.2.4.1. Năng lực, phẩm chất của cán bộ ( phản ánh yếu tố con người trong quản lý ) Con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả của mọi quá trình quản lý. Mọi nguồn lực vật chất đều do con người vận hành nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu chung của quản lý. Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB bao hàm nhiều nội dung phức tạp, có nhiều các yêu cầu quản lý về kế hoạch, quản lý về kỹ thuật, quản lý về tài chính trong đó mỗi nhiệm vụ đều yêu cầu nhiều bước công việc, phải vận dụng nhiều văn bản chính sách, chế độ quy định của Nhà nước, phải xử lý nhiều số liệu tài chính, kỹ thuật. Điều này đòi hỏi năng lực, trình độ của cán bộ quản lý phải cao thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Năng lực, trình độ cần thiết bao gồm: + Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ quản lý phải được đào tạo về những chuyên môn, nghiệp vụ nhất định như như kế toán, phân tích tài chính dự án đầu tư, v..v.. + Trình độ quản lý Nhà nước: Cán bộ quản lý phải nắm chắc và vận dụng được các quy định, chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào công tác quản lý. + Kỹ năng quản lý hành chính: nắm được kỹ thuật soạn thảo các văn bản quản lý , sử dụng hệ thống vi tính, nắm được các thủ tục hành chính v..v.. Yếu tố con người trong quản lý là bao hàm cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Vì vậy, bên cạnh trình độ của cán bộ quản lý, trình độ của cán bộ làm việc trong các cơ quan, đơn vị là đối tượng bị quản lý cũng cần được nâng cao để đáp ứng được các yêu cầu công việc do người quản lý đưa ra. 1.2.4.2. Chất lượng, hiệu quả của các công cụ, phương pháp, biện pháp quản lý: Ngành tài chính Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc đối với các quỹ tài chính Nhà nước. Để thực hiện hai chức năng này, trong quản lý tài chính Nhà nước cần phải sử dụng nhiều công cụ, phương pháp, biện pháp quản lý như: - Công cụ pháp lý - Công cụ tài chính - Biện pháp hành chính - Phương pháp thống kê - Phương pháp kế hoạch hoá Trong quá trình thực hiện hai chức năng phân phối và giám đốc đối với nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, để nâng cao hiệu quả quản lý cần cần chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả một số yếu tố sau: - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho công tác quản lý vốn. Bên cạnh các văn bản quản lý trực tiếp như Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, các thông tư của Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng còn có các văn bản quản lý chung như Luật NSNN , Pháp lệnh về Hợp đồng kinh tế, Luật Hành chính, v.v... Một hệ thống văn bản quản lý đầy đủ, thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, dễ hiểu, dễ vận dụng sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của đối tượng quản lý đồng thời là căn cứ cho hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý. - Nâng cao chất lượng khâu lập kế hoạch vì đây chính là khâu đầu tiên của quá trình phân phối và sử dụng vốn. Kế hoạch càng được lập đúng đắn, hợp lý, đầy đủ bao nhiêu thì càng tạo thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch về sau. Một kế hoạch vốn được lập tốt sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh lãng phí nguồn lực đồng thời tạo bước khởi đầu thuận lợi cho toàn bộ quá trình quản lý. - Sử dụng các công cụ kế toán, kiểm toán (thuộc các công cụ tài chính ) để giám sát, theo dõi việc phân phối và sử dụng vốn. Việc tuân thủ chế độ kế toán của Nhà nước là đặc biệt cần thiết trong quản lý các công trình đầu tư xây dựng, quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB ( nhất là chế độ về sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, chế độ quyết toán ). Công tác kế toán được thực hiện tốt cũng là cơ sở cho công tác kiểm toán và thanh tra các công trình. - Sử dụng biện pháp hành chính, tức là cơ quan quản lý sử dụng các mệnh lệnh hành chính và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết để đôn đốc, thúc đẩy tiến độ và giám sát các khâu lập kế hoạch, thanh quyết toán vốn. Hiệu quả của biện pháp hành chính phụ thuộc vào: thẩm quyền của cơ quan quản lý, hiệu lực, tính đúng đắn, kịp thời của các văn bản quản lý. Thẩm quyền, hiệu lực quản lý có được là do quy định của Nhà nước và sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan quản lý. Còn các văn bản muốn có được tính đúng đắn, kịp thời thì cơ quan quản lý phải nắm bắt được thông tin nhanh chóng, đầy đủ đồng thời dựa trên năng lực và kinh nghiệm quản lý các cơ quan, đơn vị. 1.2.4.3. Tổ chức hệ thống quản lý và thông tin trong quá trình quản lý Tổ chức bộ máy quản lý có thể kể đến các yếu tố sau: - Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước. - Tổ chức đội ngũ nhân sự của các cơ quan quản lý. - Tổ chức quy trình quản lý. - Sử dụng các nguồn lực vật chất, tài chính phục vụ quản lý. Vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB là loại vốn có mặt ở nhiều cấp ngân sách (trung ương, tỉnh, huyện ) và liên quan đến nhiều cơ quan quản lý ( tài chính, xây dựng, kiến trúc,... ) Vì vậy, để quản lý, Nhà nước thiết lập nên hệ thống bộ máy quản lý gồm các cơ quan, đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chát tương ứng. Để hệ thống này hoạt động có hiệu quả, tránh quản lý chồng chéo, lãng phí nhân lực, vật lực cần có sự phân công trách nhiệm và thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan và các cấp quản lý. Phân công, phân cấp trách nhiệm cũng là cách để tăng cường hiệu lực trong quyết định, mệnh lệnh của các cơ quan quản lý. Hiệu quả của quy trình quản lý phụ thuộc vào hai yếu tố: - Tính chặt chẽ, hợp lý của bản thân quy trình quản lý. Điều này phụ thuộc vào hệ thống quy định của Nhà nước và khả năng vận dụng của cán bộ quản lý. - Tốc độ và chất lượng của thông tin. Quản lý diễn ra nhờ các tín hiệu của mình, đó là thông tin. Quá trình quản lý là quá trình thông tin. Để quản lý có hiệu quả, nhà quản lý cần thu thập thông tin về đối tượng quản lý, phân tích, xử lý thông tin làm cơ sở để đưa ra thông tin điều khiển dưới hình thức các quyết định quản lý và phải thường xuyên nhận thông tin phản hồi từ đối tượng quản lý để theo dõi kết quả thực hiện các quyết định quản lý. Còn đối tượng quản lý muốn định hướng hoạt động của mình thì phải tiếp nhận các thông tin điều khiển của chủ thể cùng các bảo đảm vật chất khác để tính toán và điều chỉnh lấy mình nhằm thực thi mệnh lệnh của chủ thể. Bên cạnh đó, do có nhiều cơ quan, nhiều cấp quản lý nên cần phải có thông tin trao đổi nhiều chiều giữa các cơ quan, các cấp quản lý để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong công tác quản lý. Chương 2 . Thực trạng công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội 2.1. Một số quy định, chính sách chế độ hiện hành đang được thành phố Hà Nội vận dụng cho quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản Vài nét về thủ đô Hà Nội Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm chính trị , văn hoá, khoa học, kinh tế lớn của cả nước. Theo thống kê của cục Thống kê Hà Nội, đến 31/ 12/ 2000, tổng diện tích đất tự nhiên của Hà Nội là 920, 97 km2 (trong đó đất nội thành chiếm 84,30 km2 dân số Hà Nội năm 2000 vào khoảng 2,75 triệu người (trong đó nội thành khoảng 1,47 triệu người) và khoảng 4 triệu người nếu tính cả người ngoại tỉnh đến làm ăn sinh sống. Mật độ dân số trung bình là 2993 người /km2. Địa giới hành chính của Hà Nội được chia thành 7 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với tổng số 102 phường, 8 thị trấn và 118 xã . Cơ cấu kinh tế của Hà Nội là Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp và tiếp tục tăng trưởng theo hướng mở rộng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. GPP năm 2000 tăng 9,14% so với năm 1999 trong đó, tỷ trọng công nghiệp mở rộng từ 37,86% (năm 1999) lên 38,84% (năm 2000); tỷ trọng ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch) chiếm khoảng 58%. Tất cả các cơ quan đầu não của trung ương, các cơ quan đại diện ngoại giao, đại diện quốc tế đến đóng trên địa bàn Hà Nội. Đặc biệt Hà Nội là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp lớn của trung ương, nhiều trường đại học, viên nghiên cứu lớn của cả nước và mạng lưới các đơn vị sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, ... rộng khắp có chất lượng cao. Đây là một thuận lợi của Hà Nội để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội nhưng đồng thời cũng đặt ra yêu cầu lớn về vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản để làm đẹp bộ mặt Thủ đô và đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý hành chính Nhà nước và các đơn vị thuộc khối sự nghiệp. Về hệ thống các văn bản hiện hành Việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy, các chính sách chế độ, các quyết định, quy định là một nội dung rất quan trọng của quản lý Nhà nước. Hiện có rất nhiều văn bản quản lý quy định trực tiếp các vấn đề về quản lý ngân sách, quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, quản lý xây dựng và các văn bản có liên quan khác. Cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước, việc quản lý NSNN nói chung và quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB nói riêng của thành phố Hà Nội phải tuân theo chính sách chế độ chung của Nhà nước quy định trong một loạt các văn bản quản lý của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành có liên quan. Bộ Xây dựng ra các văn bản quản lý về mặt kỹ thuật thiết kế, xây dựng công trình, các tiêu chuẩn, định mức làm căn cứ cho việc lập và phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán cũng như cho việc quyết toán các công trình. Bộ Tài chính có những văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể để quản lý về tài chính đối với các công trình, dự án sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB . Trên cơ sở những quy định này, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, UBND Thành phố và các sở giúp việc sẽ ra các văn bản hướng dẫn cụ thể cho các Sở, Ban, Ngành, Quận, Huyện. Các văn bản dùng cho quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB do các cơ quan Trung ương ban hành có thể chia ra một số nhóm như sau: - Văn bản về quản lý NSNN nói chung. - Văn bản về quản lý đầu tư và xây dựng. - Văn bản về quản lý vốn đầu tư có nguồn từ NSNN. Các văn bản của thành phố chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: - Giải thích, làm rõ nội dung các văn bản quản lý chung, hướng dẫn vận dụng đối với các cơ quan đơn vị của thành phố; quy định cụ thể về yêu cầu, thời hạn thực hiện ở cấp thành phố. - Phân công, phân cấp trách nhiệm cụ thể cho các Sở, Ban, Ngành, Quận, Huyện thuộc thành phố. - Quy định các tiêu chuẩn, định mức, đơn giá của thành phố. Tuy nhiên, về cơ bản thành phố vẫn phải vận dụng những quy định chung cho quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, trong đó tiêu biểu là Thông tư số 96/ 2000/ TT-BTC và Thông tư số 70/ 2000/ TT- BTC. Sau đây ta sẽ tìm hiểu một số quy định trong hai Thông tư nói trên. 2.1.1. Quản lý việc lập kế hoạch và thông báo kế hoạch vốn đầu tư.. 2.1.1.1. Kế hoạch năm Bước 1: Lập kế hoạch Trong thời gian lập dự toán NSNN hàng năm, căn cứ vào nhu cầu cải tạo, sửa chữa, mở rộng, nâng cấp, chủ đầu tư lập kế hoạch chi đầu tư bằng nguồn vốn sự nghiệp tổng hợp trong dự toán NSNN gửi cơ quan cấp trên theo quy định của Luật NSNN. Đối với các dự án đang thực hiện, căn cứ vào tiến độ thực hiện dự án và số kiểm tra được thông báo, chủ đầu tư lập kế hoạch vốn đầu tư năm của dự án gửi cơ quan quản lý cấp trên để tổng hợp vào dự toán NSNN. Các Bộ và UBND các tỉnh tổng hợp, lập kế hoạch vốn đầu tư gửi Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bước 2: Phân bổ và điều chỉnh kế hoạch Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các cân đối chủ yếu của nền kinh tế, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bố kế hoạch vốn đầu tư cho từng Bộ, UBND tỉnh và các dự án quan trọng của Nhà nước. Sở Tài chính -Vật giá (Phòng tài chính huyện) tham gia với Sở Kế hoạch và Đầu tư (cơ quan chức năng của tỉnh, huyện) tham mưu cho UBND tỉnh (huyện) về chủ trương đầu tư phát triển trong từng thời kì và trong từng năm kế hoạch, phân bố vốn đầu tư cho từng dự án do tỉnh (huyện) quản lý. Sau khi được Chính phủ giao ngân sách, các Bộ và UBND các tỉnh phân bố vốn đầu tư cho từng dự án thuộc phạm vi quản lý và gửi kế hoạch vốn đầu tư cho Bộ Tài chính để kiểm tra. Căn cứ để phân bổ và kiểm tra là: - Việc đảm bảo các điều kiện của dự án được bố trí kế hoạch vốn đầu tư . - Sự khớp đúng với chỉ tiêu do Chính phủ giao về tổng mức đầu tư, cơ cấu vốn trong nước, vốn ngoài nước, cơ cấu ngành kinh tế, mức vốn các dự án quan trọng. - Sự tuân thủ các nguyên tắc bố trí kế hoạch; các dự án đầu tư phải có quyết định đầu tư vào thời điểm tháng 10 về trước của năm trước năm kế hoạch; các dự án nhóm B, nhóm C phải bố trí đủ vốn để thực hiện dự án theo quy định của Chính phủ. Sau khi kiểm tra, nếu kế hoạch đã triển khai chưa đảm bảo các yêu cầu trên đây thì Bộ Tài chính có văn bản đề nghị điều chỉnh lại. Trường hợp các Bộ và UBND các tỉnh không điều chỉnh lại hoặc đã điều chỉnh nhưng vẫn không đúng quy định , Bộ Tài chính có văn bản báo cáo Chính phủ quyết định, đồng thời cơ quan Tài chính chưa chuyển vốn sang Kho bạc nhà nước để thanh toán. Sở Tài chính-Vật giá ( hoặc Phòng Tài chính huyện ) rà soát danh mục dự án được bố trí trong kế hoạch đầu tư XDCB của địa phương theo các điểm quy định trên đây. Trường hợp kế hoạch đã triển khai chưa đảm bảo các quy định, Sở Tài chính -Vật giá (hoặc Phòng Tài chính huyện) phải có văn bản báo cáo UBND tỉnh ( hoặc huyện ) xem xét, điều chỉnh lại và chưa chuyển tiền sang Kho bạc nhà nước để thanh toán. Bước 3: Thông báo kế hoạch Trên cơ sở kế hoạch đã phân bổ hoặc sau khi điều chỉnh đã phù hợp với các quy định: Các Bộ và UBND các tỉnh, huyện giao chỉ tiêu kế hoạch cho các chủ đầu tư để thực hiện, đồng gửi cơ quan Kho bạc nhà nước đồng cấp để theo dõi, làm căn cứ kiểm soát, thanh toán vốn. Đối với các dự án do cấp nào quản lý, cơ quan tài chính cấp đó có trách nhiệm thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu tư cho Kho bạc nhà nước đồng cấp để làm căn cứ thanh toán vốn cho các dự án. Các Bộ và UBND các tỉnh tổng hợp vốn, lập kế hoạch vốn đầu tư gửi Bộ Tài chính. Căn cứ vào ngân sách Nhà nước đã được duyệt, cơ quan có thẩm quyền tiến hành giao dự toán năm, phân bổ vốn đầu tư cho các đơn vị , và phải báo cáo Bộ Tài chính để điều chỉnh nếu cần. - Trên cơ sở kế hoạch đã phân bổ, hoặc sau khi đã điều chỉnh, Sở Tài chính - Vật giá thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho Kho bạc Nhà nước tỉnh để làm căn cứ thanh toán vốn cho các dự án cấp tỉnh quản lý. 2.1.1.2. Kế hoạch quý Nội dung kế hoạch vốn đầu tư, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng hàng quý phải phản ánh được giá trị khối lượng đã thực hiện của quý trước và luỹ kế từ đầu năm đến cuối quý trước; vốn đã được tạm ứng, thu hồi tạm ứng và thanh toán của quý trước và luỹ kế từ đầu năm đến cuối quý trước; dự kiến giá trị thực hiện trong quý; nhu cầu vốn tạm ứng và vốn thanh toán trong quý. Việc quản lý theo kế hoạch quý đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB cũng áp dụng như đối với các khoản chi thường xuyên khác. Căn cứ vào dự toán NSNN năm được thông báo, chủ đầu tư lập kế hoạch chi hàng quý gửi Kho bạc nhà nước nơi chủ đầu tư trực tiếp giao dịch để làm căn cứ kiểm soát, thanh toán. Căn cứ vào kế hoạch vốn đầu tư năm và khả năng ngân sách, cơ quan Tài chính có trách nhiệm bố trí mức chi hàng quý và thông báo cho Kho bạc nhà nước; căn cứ vào nhu cầu vốn thanh toán, chuyển vốn kịp thời cho Kho bạc nhà nước để thanh toán cho các dự án. 2.1.2. Quản lý việc thanh toán vốn 2.1.2.1. Điều kiện để được thanh toán vốn sự nghiệp có tính chất xây dựng cơ bản: - Có báo cáo nghiên cứu khả thi (hoặc báo cáo đầu tư ) và quyết định đầu tư. - Có văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu (đối với gói thầu tổ chức đấu thầu) hoặc quyết định phê duyệt thiết kế dự toán ( đối với gói thầu chỉ định thầu ). - Có hợp đồng giao việc hoặc hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và người nhận thầu. - Được bố trí trong dự toán NSNN năm. 2.1.2.2. Tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng Đối tượng được tạm ứng vốn: - Dự án đầu tư tổ chức đấu thầu theo hợp đồng chìa khoá trao tay. - Các gói thầu xây lắp tổ chức đấu thầu. - Mua sắm thiết bị - Các hợp đồng tư vấn - Công việc đền bù giải phóng mặt bằng. - Một số công việc thuộc chi phí khác của dự án như chi phí bộ máy quản lý dự án, thuế đất hoặc thuế chuyển quyền sử dụng đất. Các dự án đầu tư hoặc khối lượng công việc thuộc dự án đầu tư ngoài đối tượng nêu trên chỉ được thanh toán vốn tạm ứng khi Thủ tướng Chính phủ cho phép. Đối với mỗi loại đối tượng được tạm ứng vốn nói trên một số điều kiện nhất định thì mới được KBNN tạm ứng vốn ( Ví dụ như, đối với các dự án đầu tư thực hiện đấu thầu theo hợp đồng chìa khoá trao tay, điều kiện được tạm ứng vốn là: phải có văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu của cấp có thẩm quyền, có hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và nhà thầu, có giấy bảo lãnh thực hiện hợp đồng của nhà thầu ). Đối với mỗi loại đối tượng được tạm ứng vốn, Bộ Tài chính quy định cụ thể mức vốn được tạm ứng bằng một tỷ lệ nhất định so với giá trị hợp đồng hoặc bằng số tiền cần thiết để thanh toán theo hợp đồng nhưng mức vốn tạm ứng không được vượt kế hoạch vốn cả năm được bố trí cho gói thầu hoặc phần công việc đó. Vốn tạm ứng được thu hồi một lần hoặc nhiều lần vào thời kì thanh toán khối lượng công việc hoàn thành công việc. -Vốn tạm ứng các hợp đồng xây lắp được thu hồi dần vào từng thời kì thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành. - Vốn tạm ứng mua sắm thiết bị được thu hồi vào từng lần thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành. - Vốn tạm ứng cho các hợp đồng tư vấn được thu hồi vào từng lần thanh toán cho khối lượng công việc tư vấn hoàn thành . - Vốn tạm ứng cho công việc đền bù giải phóng mặt bằng và các công việc thuộc thuộc chi phí khác của dự án được thu hồi một lần vào kì thanh toán khối lượng hoàn thành các công việc đó. Trường hợp hết niên độ kế hoạch mà vốn tạm ứng chưa thu hồi xong hết do gói thầu chưa được thanh toán đạt đến tỷ lệ quy định thì tiếp tục hu hồi trong kế hoạch năm sau và không trừ vào kế hoạch vốn của năm sau. Trường hợp vốn tạm ứng chưa thu hồi hết do gói thầu chưa được thanh toán đến tỷ lệ quy định nhưng dự án không được ghi tiếp kế hoạch hoặc bị đình chỉ thi công, chủ đầu tư phải giả trình với KBNN về tình hình sử dụng vốn tạm ứng chưa được thu hồi, đồng thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý. Trường hợp đã được thanh toán vốn tạm ứng mà gói thầu không triển khai thi công theo đúng thời hạn quy định trong hợp đồng, chủ đầu tư phải giải trình với KBNN và có trách nhiệm hoàn trả số vốn đã tạm ứng. Đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng: - Các dự án có quy mô vốn từ 1 tỷ đồng trở lên, việc tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng được thực hiện như trên ( giống với vốn đầu tư XDCB ). - Các dự án có quy mô dưới 1 tỷ đồng được tạm ứng 50% kế hoạch năm của dự án. Vốn tạm ứng được thu hồi dần vào từng kỳ thanh toán khối lượng hoàn thành và thu hồi hết trong năm kế hoạch. Số vốn tạm ứng thu hồi từng kì bằng số vốn thanh toán nhân với tỷ lệ tạm ứng. 2.1.2.3. Thanh toán khối lượng hoàn thành Khối lượng xây lắp hoàn hoàn thành theo hình thức chỉ định thầu được thanh toán là khối lượng thực hiện đã được nghiệm thu hàng tháng, theo hợp đồng, có trong kế hoạch đầu tư được giao, có thiết kế và dự toán chi tiết được duyệt theo đúng định mức, đơn giá của Nhà nước Khối lượng xây lắp hoàn thành theo hình thức đấu thầu được thanh toán là khối lượng thực hiện đã được nghiệm thu theo hợp đồng, có trong kế hoạch đầu tư được giao. Khối lượng thiết bị hoàn thành được thanh toán là khối lượng thiết bị đã nhập kho chủ đầu tư ( đối với thiết bị không cần lắp ), hoặc đã lắp đặt xong và nghiệm thu ( đối với thiết bị cần lắp đặt ). Khối lượng công tác tư vấn hoàn thành được thanh toán là khối lượng thực hiện được nghiệm thu phù hợp với hợp đồng kinhtế và có trong kế hoạch đầu tư được giao. Để được thanh toán khối lượng thiết bị hoàn thành, chủ đầu tư phải gửi đến KBNN đầy đủ hồ sơ thanh toán theo quy định của Bộ Tài chính. Đối với các loại công việc xây lắp, mua sắm thiết bị, tư vấn, tài liệu được yêu cầu thường bao gồm quyết định trúng thầu hoặc chỉ định thầu, hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và nhà thầu, biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành và bản tính giá trị khối lượng kèm theo, phiếu giá và các chứng từ thanh toán. Đối với các loại công việc thuộc chi phí khác của dự án, phải có đủ các căn cứ chứng minh công việc đã được thực hiện. Căn cứ đề nghị của chủ đầu tư và hồ sơ thanh toán do chủ đầu tư gửi đến, trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ, KBNN kiểm tra, thanh toán cho chủ đầu tư và các nhà thầu và thu hồi vốn tạm ứng theo đúng quy định. Số vốn thanh toán cho từng hạng mục công trình không được vượt qua dự toán hoặc giá trúng thầu; tổng số vốn thanh toán cho dự án không được vượt quá tổng dự toán và tổng mức đầu tư đã được phê duyệt. Số vốn thanh toán cho dự án trong năm (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) nhiều nhất không vượt qua kế hoạch vốn cả năm đã bó trí cho dự án. Đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB : - Các dự án có quy mô từ 1 tỷ đồng trở lên, việc thanh toán khối lượng hoàn thành thực hiện như trên ( theo chế độ quản lý vốn đầu tư hiện hành ). - Các dự án có quy mô dưới 1 tỷ đồng, khi có khối lượng hoàn thành được nghiệm thu, chủ đầu tư lập hồ sơ đề nghị thanh toán gửi KBNN bao gồm biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành, bảng tính chi tiết giá trị khối lượng thanh toán, phiếu giá hoặc bảng kê ( đối với các khoản chi phi khác không dùng phiếu giá ) và chứng từ thanh toán. Căn cứ vào hạn mức kinh phí do cơ quan Tài chính cấp, KBNN kiểm soát, thanh toán cho đơn vị thụ hưởng và thu hồi số vốn đã tạm ứng nếu có. Số cấp tạm ứng chỉ là một khoản ứng trước, không được ghi vào chi NSNN. Số thanh toán khối lượng hoàn thành mới là số cấp phát chính thức. Sơ đồ tổng thể Về quy trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư cho các dự án đầu tư do địa phương quản lý. 1 1 Chính phủ 2 Bộ Tài chính UBND tỉnh 3 Sở Tài chính -Vật giá 4 7 4a 6 5 Kho bạc Nhà nước cơ sở Chủ đầu tư 8 Chú thích: (1) Chính phủ giao kế hoạch đầu tư hàng năm (2) UBND tỉnh bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi Bộ Tài chính (3) Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định. (4) UBND tỉnh thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư. (4a) Sở Tài chính -Vật giá thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho Kho bạc Nhà nước tỉnh. (5) Chủ đầu tư mở tài khoản ( lần đầu ) lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quý. (6) Kho bạc Nhà nước lập kế hoạch chi hàng quý với Sở Tài chính - Vật giá (7) Sở Tài chính - Vật giá chuyển tiền theo mức chi quý đã duyệt. (8) Giao dịch thanh toán vốn đầu tư. 2.1.3. Quản lý việc quyết toán vốn 2.1.3.1. Lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư Hàng năm, khi kết thúc năm kế hoạch chủ đầu tư phải lập báo cáo thực hiện vốn đầu tư trong năm gửi cơ quan thanh toán, cơ quan quyết định đẩu tư theo biểu mẫu số 01/BC-THN quy định. Báo cáo thực hiên vốn đầu tư hàng năm gồm các nội dung sau: -Tình hình thực hiện đầu tư trong năm kế hoạch: Giá trị thực hiện trong năm và luỹ kế từ khởi công. Số vốn được thanh toán trong năm và luỹ kế từ khởi công. Giá trị khối lượng hoàn thành đủ điều kiện thanh toán vốn chưa được thanh toán. - Nguồn vốn đầu tư. - Công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành đưa vào sản xuất sử dụng trong năm. Báo cáo thực hiện vốn đầu tư hàng năm của dự án, chủ đầu tư phải phân tích đánh giá tình hình thực hiên kế hoạch, kết quả đầu tư trong năm, các vấn đề khó khăn tồn tạivà kiến nghị biện pháp giải quyết. Căn cứ vào báo cáo thực hiện vốn đầu tư hàng năm của các chủ đầu tư, UBND tỉnh, thành phố, các Bộ ngành chỉ đạo cơ quan chức năng tổng hợp báo cáo thực hiện vốn đầu tư hàng năm của đơn vị gửi Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê. Căn cứ thực hiện báo cáo vốn đầu tư hàng năm của các Bộ ngành, địa phương, Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê tổng hợp, báo cáo Chính phủ. Đối với dự án (hạng mục công trình hoặc nhóm hạng mục công trình) hoàn thành, chủ đầu tư phải lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư gửi cơ quan thanh toán, cơ quan cho vay vốn, cơ quan thẩm tra phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Báo cáo quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành phải thể hiện rõ các nội dung sau: - Tổng mức vốn đầu tư thực hiện dự án. - Các chi phí không tính vào giá trị tài sản của dự án. - Giá trị tài sản bàn giao cho sản xuất sử dụng. Hồ sơ quyết toán bao gồm báo cáo quyết toán và các tài liệu khác theo quy định. Chủ đầu tư gửi hồ sơ quyết toán đến nơi nhận và lưu hồ sơ để làm thủ tục thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. 2.1.3.2. Thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư Nội dung thẩm tra chính của công tác thẩm tra quyết toán vốn đầu tư: - Thẩm tra tính pháp lý của dự án. - Thẩm tra số vốn đầu tư thực hiện hàng năm. - Thẩm tra giá trị khối lượng công việc hoàn thành đề nghị quyết toán so với giá trúng thầu, dự toán được duyệt, các đơn giá, tiêu chuẩn, định mức quy định, giá trị khối lượng tăng giảm và nguyên nhân. - Thẩm tra các khoản chi phí khác bằng cách so sánh số vốn đề nghị quyết toán của từng loại chi phí đã thực hiện so với dự toán được duyệt và chính sách chế độ quy định về chi phí quản lý đầu tư và xây dựng. - Thẩm tra giá trị thiệt hại không tính vào tài sản. - Thẩm tra việc xác định giá trị tài sản bàn giao đưa vào sử dụng cho đơn vị khai thác sử dụng. - Thẩm tra tình hình công nợ, vật tư thiết bị tồn đọng. Trong quá trình thẩm tra quyết toán vốn đầu tư, nếu thấy cần thiết cơ quan thẩm tra được yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thêm các tài liệu khác có liên quan. Sở Tài chính - Vật giá tỉnh chủ trì thẩm tra các dự nhóm B, C do cấp tỉnh quản lý. Trong trường hợp thuê tổ chức kiểm toán độc lập thì cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán thực hiện kiểm tra kết quả kiểm toán vốn đầu tư của tổ chức kiểm toán độc lập. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời là người phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Riêng đối với những dự án do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương uỷ quyền cho Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư quyết định đầu tư thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố có thể uỷ quyền cho Giám đốc Sở Tài chính - Vật giá phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Thời gian quyết toán đối với các dự án nhóm B, C: Thời gian lập xong báo cáo quyết toán chậm nhất là 3 tháng sau khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng. Thời gian thẩm tra quyết toán vốn đầu tư không quá 2 tháng đối với dự án nhóm B và 1 tháng đối với dự án nhóm C sau khi nhận đủ hồ sơ báo cáo quyết toán vốn đầu tư hợp lệ. Thời gian phê duyệt quyết toán vốn đầu tư không quá 15 ngày sau khi nhận được báo cáo kết quả thẩm tra quyết toán vốn đầu tư do cơ quan ( đơn vị) chủ trì thẩm tra lập và trình phê duyệt. 2.1.4. Một số hạn chế trong việc xây dựng văn bản quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB và những khó khăn của thành phố Hà Nội khi tổ chức, hướng dẫn, chấp hành các văn bản hiện nay Tình trạng chung của các văn bản pháp quy ở nước ta hiện nay là văn bản của cơ quan quản lý cấp trên có hiệu lực cao hơn văn bản của cơ quan quản lý cấp dưới nhưng văn bản cấp trên chưa thể thực hiện được nếu cơ quan quản lý cấp dưới chưa ra văn bản hướng dẫn. Và trên thực tế, cán bộ quản lý và đối tượng bị quản lý thường phải tiến hành công việc căn cứ vào các văn bản quy định của cơ quan quản lý cấp trực tiếp nhất. ở cấp Trung ương, ngoài các văn bản của Chính phủ, Bộ quản lý ngành cũng ra các văn bản thuộc phạm vi chuyên môn quản lý của ngành mình. Đối với quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính là những Bộ quản lý ngành chủ yếu. ở cấp tỉnh, căn cứ vào văn bản của Chính phủ, các Bộ, UBND Thành phố sẽ ra quyết định, công văn chỉ đạo công tác quản lý của địa phương mình. Trên cơ sở đó, các Sở giúp việc chuyên môn của UBND Thành phố ( Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá, Sở Xây dựng ) ra những văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể cho các Sở, Ban, Ngành, Quận, Huyện. Việc xây dựng các văn bản quản lý theo nhiều cấp như thế này dẫn đến hiệu lực và hiệu quả quản lý không cao. Các văn bản của cơ quan quản lý cấp trên chỉ thực sự có hiệu lực khi có văn bản hướng dẫn thực hiện của cơ quan quản lý cấp dưới vì vậy bị chậm trễ trong triển khai thực hiện. Mặc dù trên lý thuyết, văn bản cấp trên có hiệu lực cao hơn văn bản cấp dưới nhưng vì các cơ quan, đơn vị đều phải chờ và thực hiện theo văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý trực tiếp nên trên thực tế văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp dưới lại có hiệu lực thi hành cao hơn. Trong quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB , có nhiều cấp, nhiều cơ quan cùng có trách nhiệm. Ví dụ Sở Kế hoạch - Đầu tư và Sở Tài chính - Vật giá cùng quản lý việc lập kế hoạch vốn đầu tư. Việc xét duyệt dự toán và phê duyệt quyết toán của Sở Tài chính- Vật giá lại căn cứ vào tiêu chuẩn, định mức của Sở Xây dựng. Việc lập và phân bổ kế hoạch vốn sự ngh._. đề xuất dựa trên những thông tin đã nắm được về tình hình thực tế và những nhu cầu phát triển của đơn vị , của ngành. Loại bỏ ngay những dự án không cần thiết hoặc chưa cần thiết, những dự án không phù hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị hoặc với yêu cầu phát triển ngành. - Đánh giá mức hợp lý của vốn chuẩn bị đầu tư của mỗi dự án nhất định để điều chỉnh. Như vậy, không những tiết kiệm được khoản chi cho lập dự án đầu tư mà còn hạn chế được sự lãng phí nếu như dự án được lập nhưng không được quyết định đầu tư. Khi dự án đã có quyết định đầu tư, cơ quan tài chính cần bố trí vốn cho việc lập tổng dự toán, thiết kế kỹ thuật để chuẩn bị thực hiện đầu tư. Vì dự án đã có quyết định đầu tư, công việc chuẩn bị thực hiện đầu tư càng mau chóng tiến hành thì công trình càng mau chóng được khởi công theo đúng tiến độ. Đối với các dự án đã dược phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, cơ quan tài chính sẽ lập và thông báo kế hoạch vốn thực hiện đầu tư dự án. Kế hoạch năm và kế hoạch quý cần giao sát với nhu cầu vốn theo tiến độ công trình , cần đánh giá khả năng giải ngân của công trình , qua đó bố trí vốn kịp thời, hợp lý tránh được ứ đọng nguồn. ở đây có hai ý cần thực hiện. Một mặt phải bố trí đủ vốn cho công trình để thi công theo đúng tiến độ, không để xảy ra tình trạng tạm ngừng thi công do chưa có vốn hoặc tình trạng đơn vị phải xin bổ sung vốn nhiều lần. Mặt khác, kế hoạch vốn cần được bố trí đủ, không qua thừa so với khả năng thực hiện của đơn vị, tránh việc bố trí nhiều vốn mà thực hiện được ít, phải chuyển sang quý sau hoặc phải thu hồi lại khi hết năm. Bố trí vốn hợp lý không chỉ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đối với mỗi công trình mà nó còn làm tăng khả năng cân đối vốn giữa các công trình và do đó làm tăng hiệu quả sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB nói chung. Để làm được điều này cần căn cứ vào: - Tổng dự toán và nhu cầu vốn theo tiến độ đã được duyệt. - Báo cáo tình hình thực hiện vốn đầu tư của đơn vị và của KBNN. - Tổng hợp dự toán và tình hình thực hiện dự toán của tất cả các dự án Những yếu tố này đòi hỏi một hệ thống thông tin báo cáo đầy đủ, chính xác kịp thời giữa cơ quan quản lý với đơn vị sử dụng vốn và giữa các cơ quan quản lý với nhau. Đồng thời, nó cũng đòi hỏi khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình của cán bộ quản lý. Trong việc lập và phân bổ kế hoạch ngân sách đối với cả 3 loại kế hoạch nêu trên đều phải lưu ý những điểm sau: - Bố trí danh mục vốn, kế hoạch vốn có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên cho các dự án thuộc các ngành y tế, giáo dục vì xét về ý nghĩa xã hội, số lượng của các công trình cần thực hiện và tính cấp thiết của các công trình, hai ngành này đều đứng đầu. Bố trí vốn có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải vốn, sửa chữa chắp vá chính là nhằm yếu tố hiệu quả tiết kiệm trong mục tiêu quản lý vốn, đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu phát triển của mỗi ngành. - Giao mức vốn hợp lý tức là trong đó các khoản mục chi và mức vốn phù hợp cho mỗi khoản mục chi cần được giao càng chính xác và đầy đủ càng tốt. Điều này mới nghe có vẻ mâu thuẫn với xu hướng tăng cường quyền tự chủ của các đơn vị nhưng thực ra không phải như vậy. Việc đưa ra mức vốn hợp lý phải căn cứ vào nhu cầu và tình hình thực tế của đơn vị, căn cứ vào dự toán của đơn vị và có sự trao đổi, điều chỉnh nếu có bất đồng. Đó là quyền tự chủ của đơn vị. Ngược lại, cơ quan tài chính giao chính xác và đầy đủ các khoản mục chi là nhằm đưa ra một công cụ giám sát, bắt các đơn vị phải tự giác chi vốn theo đúng mục đích ( đúng nội dung của mỗi khoản mục ), và đúng dự toán ( đúng số vốn được giao của mỗi khoản mục ). Đặc biệt, đối với những hoạt động đã được lập kế hoạch trước như việc thực hiện các dự án đầu tư, xây dựng thì việc bố trí vốn cụ thể theo các mục chi lại càng tỏ ra thích hợp. Thông thường mọi người hay nghĩ đến việc cơ quan tài chính cần tính giảm những khoản chi lớn quá mức cần thiết trong dự toán trình duyệt của đơn vị. Tuy nhiên, xét khía cạnh khác, cơ quan tài chính cần cố vấn cho đơn vị tính đầy đủ , tính đúng giá các khoản chi cần thiết để giao dự toán cho chính xác , hạn chế việc phải bổ sung dự toán sau này, tránh tình trạng bị động về vốn đối với các chủ đầu tư lẫn cơ quan quản lý cấp phát. 3.2.1.2. Khâu thanh toán vốn Thanh toán vốn chính là một khâu quan trọng để kiểm soát việc thực hiện chi vốn ngân sách. Chất lượng của khâu thanh toán vốn phụ thuộc vào : - Chất lượng khâu lập dự toán ban đầu - Tình hình thực hiện thi công và hoàn thành khối lượng công trình theo tiến độ của đơn vị. - Chất lượng hệ thống thanh toán vốn của cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước. Hạn chế lớn nhất của khâu thanh toán vốn hiện nay là việc giải ngân chậm, chi ngân sách bị dồn vào cuối năm. Để đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thành công trình của các đơn vị, Sở Tài chính- Vật giá cần phối hợp với đơn vị chủ quản và các cơ quan có thẩm quyền đôn đốc các đơn vị tiến hành thực hiện vốn đã được bố trí theo kế hoạch, khắc phục tình trạng kế hoạch vốn đã giao mà không được chi hoặc tỷ lệ thực hiện kế hoạch quá thấp , hoặc việc dồn các khoản chi vào cuối năm, ảnh hưởng đến tiến độ công trình và gây khó khăn cho công tác quyết toán của cơ quan tài chính. Về phần mình, cơ quan quản lý thanh toán ( Kho bạc ) cần kết hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý cấp phát ( Sở Tài chính - Vật giá ), thực hiện nhanh chóng việc chuyển vốn, thanh toán vốn cho các đơn vị có đầy đủ hồ sơ thanh toán, hướng dẫn cho các đơn vị còn thiếu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải ngân các công trình. Đồng thời, hai cơ quan này cần tăng cường chế độ thông tin báo cáo lẫn nhau để kiểm soát các khoản chi, giám sát tiến độ và khối lượng thanh toán vốn, từ đó kịp thời đốc thúc và phát hiện các sai sót. Hiện nay, theo quy định mới của Luật Ngân sách 2002, Nghị định số 10/ 2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, hạn mức kinh phí hoặc số kinh phí khoán của các cơ quan đơn vị nếu chi không hết (do tiết kiệm hoặc tăng thu) không bị thu hồi mà được chuyển sang năm sau. Vì vậy, sẽ hạn chế được tình trạng dồn chi cuối năm. Tuy nhiên, việc cho phép chuyển kinh phí thừa sang năm sau chỉ áp dụng đối với kinh phí chi quản lý hành chính ( đối với cơ quan hành chính ) và kinh phí chi hoạt động thường xuyên, khoản thu sự nghiệp ( đối với đơn vị sự nghiẹp có thu ). Chi đầu tư XDCB cơ bản không áp dụng quy định này. Đối với chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, quy định tương tự có thể có tác dụng. Tuy nhiên cần lưu ý điểm khác biệt. Hai quy định nêu trên là nhằm khuyến khích các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp tiết kiệm chi quản lý hành chính và tăng thu, vì vậy còn có quy định cho phép các cơ quan đơn vị này sử dụng một phần kinh phí dôi ra để tăng lương và đầu tư tăng cường cơ sở vật chất. Đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, chỉ được dùng vào mục đích duy nhất là chi cho công trình, dự án đang thực hiện và việc cho phép chuyển hạn mức thừa sang năm sau chỉ là giải pháp tình thế cho các đơn vị do điều kiện khách quan không thực hiện tốt kế hoạch vốn đã giao. Vì vậy để tránh bị lạm dụng cần phải kèm theo những quy định chặt chẽ hơn. Ví dụ phải có giải trình về nguyên nhân không thực hiện đúng kế hoạch, vốn chuyển sang năm sau phải được thực hiện xong trong một thời gian nhất định. 3.2.1.3. Khâu quyết toán Quyết toán là khâu kiểm tra cuối cùng đối với việc sử dụng vốn ngân sách. Nó là điểm chốt, phát hiện những sai sót mà các khâu quản lý khác đã bỏ qua. Vì vậy, yêu cầu đối với công tác quyết toán là phải chặt chẽ, chính xác, đúng chế độ, đúng pháp luật. Hạn chế lớn nhất trong khâu quyết toán hiện nay là việc các công trình chậm quyết toán và số quyết toán duyệt còn chênh lệch nhiều so với quyết toán đơn vị. Để giải quyết vấn đề này, cần thực hiện các biện pháp sau: Các công trình đã thi công xong cần nhanh chóng lập báo cáo quyết toán. Cơ quan tài chính cần có văn bản hướng dẫn cụ thể, tổ chức tập huấn về các trình tự , thủ tục, hồ sơ quyết toán vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản cho các cơ quan, đơn vị. Trong văn bản hướng dẫn nên có mục lưu ý các sai sót mà đơn vị hay mắc trong quá trình quyết toán như các hồ sơ thủ tục bị thiếu, quyết toán nhầm mục lục ngân sách, cách tính và điều chỉnh giá trị công trình theo đơn giá thành phố quy định , thời hạn nộp báo cáo quyết toán . Như vậy sẽ hạn chế được các sai sót của đơn vị, đẩy nhanh tốc độ quyết toán. Các đơn vị cần tự giác thực hiện nghiêm túc việc quyết toán thực hiện vốn đầu tư năm, quyết toán hạng mục công trình hoàn thành và quyết toán công trình hoàn thành. Nếu việc quyết toán thực hiện vốn đầu tư năm, quyết toán hạng mục công trình hoàn thành được thực hiện tốt thì việc quyết toán công trình hoàn thành sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn. Cơ quan tài chính cần thực hiện tốt các công việc: - Phối hợp với Kho bạc Nhà nước và cơ quan quản lý của chủ đầu tư kiểm tra , theo dõi tiến độ thanh quyết toán vốn theo kế hoạch , đôn đốc những đơn vị chậm trễ. - Tiến hành giải quyết thanh quyết toán nhanh cho các đơn vị đã đủ thủ tục, hướng dẫn bổ sung thủ tục cho các đơn vị còn thiếu. - Thẩm tra giá trị khối lượng công việc hoàn thành đề nghị quyết toán so với giá trúng thầu, dự toán được duyệt, các đơn giá, tiêu chuẩn, định mức quy định, giá trị khối lượng tăng giảm và nguyên nhân. - Thẩm tra các khoản chi phí khác bằng cách so sánh số vốn đề nghị quyết toán của từng loại chi phí đã thực hiện so với dự toán được duyệt và chính sách chế độ quy định về quản lý chi phí đầu tư và xây dựng. Công tác kiểm tra, thẩm tra nếu thực hiện tốt sẽ đạt được các mục đích: - Nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư - Phát hiện các sai phạm. - Có được bản quyết toán công trình chính xác, tránh được việc sử dụng lãng phí, thất thoát ngân sách. - Đánh giá được chất lượng công tác quản lý vốn, quản lý dự án. Điều kiện quan trọng để thực hiện tốt khâu quyết toán là phải có hệ thống kế toán, kiểm toán mạnh và trong sạch. Điều này phụ thuộc vào các quy định hiện hành của Nhà nước và chất lượng nguồn nhân lực. 3.2.1.4. Trên toàn bộ quá trình quản lý Trong quá trình quản lý, công tác hướng dẫn của cơ quan quản lý là rất quan trọng vì không phải đơn vị nào cũng nắm được hết các văn bản quản lý của Nhà nước đồng thời vận dụng được chúng vào thực tế phong phú sinh động. Công tác hướng dẫn thực hiện tốt sẽ giảm được những sai sót không đáng có, giảm được lãng phí về thời gian và công sức do việc phải làm lại các báo cáo, đẩy nhanh tiến độ và tăng cường hiệu quả công việc. Trên toàn bộ qua trình quản lý cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan thuộc hệ thống quản lý và việc thông tin, báo cáo giữa cơ quan quản lý với đơn vị sử dụng vốn và giữa đơn vị quản lý với nhau. Hai biện pháp khả thi hiện nay là: - Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thống nhất về quy trình, biểu mẫu. - ứng dụng công nghệ thông tin. Hiện nay, cả hai vấn đề nêu trên đều đang ở dạng đề án của Nhà nước và từng bước thực hiện ở một số cơ quan, đơn vị. Mục tiêu và yêu cầu của cải cách một bước thủ tục hành chính là phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và giải quyết công việc của dân và tổ chức. Cụ thể là: phải phát hiện và xoá bỏ những thủ tục thiếu đồng bộ, chồng chéo, rườm rà, phức tạp, đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa cơ quan Nhà nước với công dân; tổ chức xây dựng và thực hiện được các thủ tục giải quyết công việc đơn giản, rõ ràng thống nhất, đúng pháp luật và công khai; vừa tạo thuận tiện cho công dân và tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc, vừa có tác dụng ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu và tham nhũng trong công chức Nhà nước, đồng thời đảm bảo được trách nhiệm quản lý Nhà nước, giữ vững kỷ cương pháp luật. Để đạt được mục tiêu trên, kể từ khi có chủ trương cải cách thủ tục hành chính (từ năm 1994) đến nay, trong hệ thống hành chính Nhà nước đã và đang tiến hành các công việc: - Tinh giảm thủ tục hành chính, loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, tạo thuận lợi, ít tốn kém cho nhân dân và các tổ chức. - Lập lại trật tự trong việc ban hành các thủ tục hành chính, chỉ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được pháp luật quy định mới được ban hành thủ tục, các cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện thủ tục không được tuỳ tiện đặt thêm các thủ tục. - Tập trung cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đang có nhiều vướng mắc, nhiều hiện tượng tiêu cực như : cấp đất xây dựng và giấy phép xây dựng, phân bổ và cấp phát vốn đầu tư của Nhà nước, các lệ phí đi liền với thủ tục,... Để công cuộc cải cách hành chính đạt hiệu quả, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Cụ thể là: - Đổi mới đồng bộ cơ chế ban hành thủ tục hành chính, đảm bảo tính pháp lý thống nhất, năng động, hợp lý, khoa học của hệ thống thủ tục hành chính. Bỏ những thủ tục rườm rà, dễ lợi dụng. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực có sự kiểm soát của Nhà nước, theo hướng giảm sự kiểm soát phi hiệu quả và không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo được vai trò quản lý của Nhà nước. - Công khai hoá và quy định cụ thể các trình tự, thủ tục giải quyết công việc, tạo thuận lơi cho cá nhân và tổ chức liên hệ công tác nắm được và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ tài liệu theo đúng trình tự thủ tục ấy. - Xây dựng cơ chế có hiệu quả để kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc, xử lý cán bộ vi phạm, khem thưởng người có thành tích. Tuy nhiên, việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB gặp phải khó khăn sau: Mâu thuẫn giữa yêu cầu chặt chẽ, đầy đủ, chính xác của các thủ tục, giấy tờ về đầu tư xây dựng với đòi hỏi phải đơn giản hoá các thủ tục. Khối lượng văn bản quản lý , hồ sơ thủ tục hiện nay rất nhiều, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, việc rà soát lại và chỉnh sửa, thay đổi các văn bản này là một công việc hết sức khó khăn, cần nhiều thời gian, tiền bạc, sức lực và phải tiến hành một cách thận trọng và đồng bộ, tránh việc sửa đổi nhiều lần các văn bản gây khó khăn cho công tác triển khai thực hiện của các cơ quan, đơnvị. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin là xây dựng và triển khai thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực tin học hoá quản lý Nhà nước. Chúng ta đã bước đầu xây dựng được cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho việc ứng dụng Tin học trong quản lý Nhà nước và các hoạt động chuyên ngành. Trên cơ sở đó đã tổ chức triển khai từng bước xây dựng các hệ thống thông tin phục vụ cho các hoạt động quản lý kinh tế, xã hội. Một số dự án Thông tin đã và đang thực hiện là: - Dự án tin học hoá hệ thống thông tin Văn phòng Chính phủ. - Các dự án tin học hoá quản lý Nhà nước tại các địa phương và các bộ, ngành. - Các dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về Thống kê kinh tế - xã hội, Tài chính - ngân sách, Tài nguyên đất, Công chức viên chức và các đối tượng hưởng chính sách, Dân cư, Luật và các văn bản pháp quy. Đối với quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, việc thống nhất về quy trình, biểu mẫu trong báo cáo, kế toán, quyết toán cũng là để dễ dàng đưa công nghệ thông tin vào trong quản lý, dễ xử lý các số liệu trên máy. Việc áp dụng hệ thống máy tính nối mạng sẽ tăng cường việc thông tin báo cáo lẫn nhau giữa các cơ quan , đơn vị, giảm thời gian và chi phí đi lại, đẩy nhanh được tiến độ công việc và nâng cao hiệu quả giám sát. Tuy nhiên, việc tin học hoá công tác quản lý Nhà nước đòi hỏi sự tiến hành đồng bộ đồng thời ở mức độ cao, thậm chí rất cao thì mới có hiệu quả bởi vì sự liên kết thông tin giữa các nguồn số liệu phải dựa trên một nền tảng kỹ thuật thống nhất và tương đương về cấp độ. Tức là các cơ quan đơn vị đều phải được trang bị hệ thống cơ sở kỹ thuật về tin học tương đương nhau, áp dụng những chương trình quản lý như nhau hoặc chí ít cũng phải tương đồng về cơ bản. Muốn thực hiện được điều này cần có thời gian và chi phí không nhỏ. 3.2.2. Nâng cao trách nhiệm và tăng quyền tự chủ của của đơn vị sử dụng vốn. Như đã nói ở trên, về việc giao quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, hiện đã có Nghị định số 10/2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Mặc dù đây mới chỉ là quy định cho một số khoản chi thường xuyên nhưng trong tổ chức thực hiện đã tỏ rõ hiệu quả, tăng thu và tiết kiệm chi cho ngân sách. Trong thời gian tới, các cơ quan tài chính có thể xem xét đề nghị Chính phủ mở rộng quyền tự chủ của đơn vị đối với những khoản chi khác, trong đó có chi vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Bên cạnh đó, cần phải quy định rõ trách nhiệm của đơn vị và của cá nhân thủ trưởng đơn vị đối với việc sử dụng vốn ngân sách nói chung và vốn sự nghiệp đầu tư nói riêng. Tăng cường tự chủ để đơn vị chủ động bố trí các khoản chi phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị mình. Còn nâng cao trách nhiệm để thủ trưởng cơ quan thận trọng trong quyết định chi tiêu, và để ngăn ngừa việc tham ô, lãng phí. Nâng cao trách nhiệm và tăng cường tự chủ của đơn vị không chỉ là việc đơn vị được chủ động hơn trong sử dụng các khoản kinh phí ngân sách cấp mà nó còn kèm theo một ý nữa là đơn vị phải chủ động trong việc tìm kiếm nguồn cho các khoản chi của mình: nguồn ngân sách, nguồn tài trợ viện trợ, nguồn thu để lại. Nhất là đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, xu hướng là Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần kinh phí, phần còn lại đơn vị tự trang trải. Tăng cường tự chủ và nâng cao trách nhiệm của cơ quan, đơn vị có nghĩa là cơ quan tài chính phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn cho các đơn vị làm theo đúng chế độ chính sách. Việc kiểm tra định kỳ rất cần thiết vì nhờ đó cơ quan quản lý sẽ kịp thời phát hiện những sai sót để tiến hành xử lý. 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và chất lượng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan, đơn vị bị quản lý có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng công tác quản lý. Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay mặc dù đã được cải thiện nhiều nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu công việc. Trong Chương trình Cải cách hành chính hiện nay, muốn cải tổ bộ máy quản lý, tinh giảm biên chế thì phải thực hiện cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức theo hướng chuyên môn hoá và kiêm nhiệm. Một số việc cần thực hiện : - Ngay từ khâu đầu vào, tổ chức nghiêm túc việc thi công chức để tuyển dụng những cán bộ, công chức đủ trình độ chuyên môn và năng lực quản lý. - Trong quá trình sử dụng nhân sự, cần phân công công việc phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ. Định kì hoặc khi đột xuất có kế hoạch phân công công tác mới hoặc đề bạt cho cán bộ, cơ quan sử dụng nhân sự cần tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc gửi cán bộ đi học lớp, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao ở các Trung tâm đào tạo tập trung, các trường đại học, học viện. - Đối với cán bộ quản lý, đặc biệt là cán bộ quản lý cấp cao, bên cạnh việc nâng cao chuyên môn nghiệp vụ còn cần phải tham gia các lớp học chính trị và quản lý hành chính Nhà nước. - Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ và hướng dẫn triển khai các văn bản quản lý của Nhà nước. - Hàng năm, cơ quan sử dụng nhân lực cần chủ động bố trí một khoản chi cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đồng thời khuyến khích các cán bộ sử dụng nguồn lực cá nhân tự đi học nâng cao trình độ. Cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ cán bộ đi học về thời gian và phân công công tác. Cán bộ đi học có trách nhiệm vừa hoàn thành nhiệm vụ học tập vừa hoàn thành nhiệm vụ công tác được giao. Đối với chất lượng cán bộ công chức, bên cạnh yêu cầu về kĩ năng nghiệp vụ chuyên môn, còn cần có kĩ năng sử dụng vi tính, trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết xã hội để phù hợp với xu thế giao lưu, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. Để tăng cường sự tự giác của cán bộ trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn, hàng năm cơ quan sử dụng nhân sự có thể tổ chức thi kiểm tra nghiệp vụ định kì và có chế độ khen thưởng thích hợp . 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống chế độ chính sách hiện tại Hiện nay có rất nhiều văn bản sử dụng trong quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB. Tuy nhiên vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB được quy định chung trong các văn bản cùng với vốn đầu tư XDCB trong khi hai loại vốn này có những điểm khác nhau về quản lý. Vì vậy gây ra khó khăn trong việc phân tích xem công tác quản lý có phù hợp với quy định về quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB hay không hay là chỉ đúng với quy định về quản lý đầu tư và xây dựng nói chung. Đồng thời việc này cũng gây khó khăn cho việc vận dụng văn bản vào thực tế quản lý. Các văn bản dùng trong quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB hiện hành phần lớn mới được ban hành hoặc sửa đổi trong các năm 1999; 2000; 2002 nên tương đối đầy đủ, cụ thể và sát với thực tế. Tuy nhiên, cũng do mới ban hành nên nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm được. Vì vậy, cơ quan quản lý một mặt phải hướng dẫn chi tiết cách vận dụng quy định, đồng thời, trong quá trình quản lý phải nắm bắt thông tin phản hồi từ các cơ quan, đơn vị để tìm ra những điểm chưa phù hợp, chưa đầy đủ, từ đó sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị cơ quan cấp trên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế và yêu cầu quản lý. Để làm được điều này, điều kiện tiên quyết là các cán bộ quản lý phải nắm vững được các chế độ chính sách hiện hành. Các cơ quan quản lý phải thực hiện tốt việc thông tin lẫn nhau và với các cơ quan, đơn vị là đối tượng bị quản lý. Tuy nhiên , việc sửa đổi, bổ sung hệ thống chế độ chính sách không thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý cấp thành phố mà phụ thuộc vào bộ phận xây dựng chính sách của cấp bộ, cấp Chính phủ và Quốc hội. Cơ quan quản lý cấp dưới chỉ có thể làm tốt việc cố vấn và cung cấp thông tin cho bộ phận xây dựng chính sách này. 3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB Với Chính phủ, Bộ Tài chính: Cần có những quy định phân biệt rõ hơn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB và vốn đầu tư XDCB . Vì quản lý hai loại vốn này có nhiều điểm tương đồng nên để dễ tra cứu ( và tiết kiệm ) vẫn nên duy trì việc quy định chung cả hai loại vốn trong một văn bản. Tuy nhiên, trong các quy định cần nêu rõ khái niệm và phạm vi của các loại vốn này, xác định cụ thể quy mô dự án, nội dung dự án được phép sử dụng vốn, nêu rõ phương thức quản lý và thẩm quyền quản lý đối với hai loại vốn ( các văn bản hiện nay chưa có phần này hoặc mới chỉ đề cập hết sức sơ lược chung chung, nhất là đối với vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB ). Với Bộ Tài chính : - Đối với những dự án xây dựng mới có quy mô vốn nhỏ dưới 1 tỉ đồng và việc xây dựng mới này phù hợp với quy hoạch xây dựng của Thành phố thì cho phép sử dụng nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB để chủ động hơn trong việc bố trí vốn đầu tư . - Quy định về chế độ khen thưởng đối với đơn vị thực hiện tốt và trong mức độ những sai sót chưa nghiêm trọng, đưa ra những chế tài xử phạt về hành chính và tài chính đối với những đơn vị làm sai chế độ chính sách có dấu hiệu lợi dụng, tham ô. - Nhanh chóng xây dựng các thông tư hướng dẫn thực hiện các Luật, Nghị định mới của Chính phủ và Quốc hội. Khi ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản cần tiến hành đồng bộ, tránh tình trạng liên tục sửa đổi các văn bản gây khó khăn cho công tác thực hiện và tra tìm văn bản mới nhất ( có hiệu lực cao hơn văm bản cũ ). Việc xây dựng đồng bộ văn bản cũng giúp cho công tác quản lý được đồng bộ, có hiệu lực cao vì có hệ thống văn bản quản lý đủ mạnh, phù hợp với nhau và với thực tiễn. Đối với UBND Thành phố, Sở Kế hoạch- Đầu tư, Sở Xây dựng: cần đẩy nhanh tiến độ các khâu thẩm định và phê duyệt để Sở Tài chính kịp thời bố trí các khoản chi theo đúng thời hạn lập dự toán ngân sách. Đối với Sở Xây dựng: Khi thẩm định dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán cần phải thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết, phù hợp với nhu cầu thực tế của chủ đầu tư để hạn chế các trường hợp phải bổ sung, điều chỉnh dự án, dự toán. Đối với UBND Thành phố, các Sở, các cơ quan quản lý có liên quan: tích cực phối hợp với cơ quan tài chính kiểm tra, đôn đốc công tác lập dự toán, thực hiện dự toán và quyết toán công trình của các đơn vị thuộc quyền quản lý. Hỗ trợ cơ quan tài chính trong việc cung cấp thông tin, báo cáo và việc xây dựng các văn bản quản lý liên ngành. UBND Thành phố cần giữ vai trò chủ trì, là cơ quan quản lý cao nhất của thành phố, chỉ đạo công tác quản lý của tất cả các Sở, Ban, Ngành, tuy nhiên, cần tiếp tục tăng cường phân công, phân cấp quản lý cho các , Sở, Ban, Ngành để giảm thiểu thủ tục hành chính, gia tăng hiệu quả quản lý theo ngành chuyên quản. Kết luận Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tế quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội hiện nay ta rút ra được một số kết luận như sau: Các dự án, công trình sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB thường có quy mô vốn nhỏ. Mặc dù vậy, công tác quản lý đã tuân thủ chặt chẽ theo đúng những quy định của Nhà nước. Nhờ vậy vốn ngân sách đã được sử dụng hợp lí, hiệu quả. Công trình sửa chữa, cải tạo, mở rộng, nâng cấp đưa vào sử dụng đã góp phần đáp ứng được nhiệm vụ chính trị - xã hội được giao của cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số hạn chế đặc biệt về tiến độ giải ngân quyết toán các công trình. Bên cạnh đó, quá trình vận dụng các văn bản quản lý của Nhà nước đã nảy sinh một số điều bất cập . Nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB, trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì những cố gắng và kết quả hiện tại đồng thời khắc phục những hạn chế tồn tại, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý của Nhà nước và của thành phố. Để làm được điều này không những cần sự nỗ lực của các cơ quan quản lý mà còn cần sự nỗ lực và tinh thần hợp tác của các cơ quan , đơn vị sử dụng vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB . Cuối cùng , cần phải khẳng định lại một lần nữa, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB mặc dù có quy mô không lớn nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Vì vậy trong tổng chi ngân sách Nhà nước, loại vốn này sẽ tiếp tục giữ vị trí quan trọng và sẽ tăng lên về quy mô trong thời gian tới. Với đề tài “Quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản dối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố Hà Nội”, chuyên đề đã đạt được những kết quả bước đầu trong việc xác định vị trí của vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB trong tổng chi ngân sách Nhà nước, nêu được thực trạng quản lý vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư XDCB đối với các Sở, Ban, Ngành của thành phố trong thời gian vừa qua và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kinh nghiệm và thời gian nên luận văn này còn nhiều thiếu sót. Em kính mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các cán bộ hướng dẫn thực tập . Danh mục tài liệu tham khảo Học viện Hành chính Quốc gia: Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước Chương trình chuyên viên- Phần II: Hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính, Hà Nội, 2002. Học viện Hành chính Quốc gia: Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước Chương trình chuyên viên- Phần III: quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, Hà Nội, 2002. Nguyễn Ngọc Điệp: Tìm hiểu pháp luật- Hỏi đáp về Luật tài chánh Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Ts. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên): Kế toán công trong đơn vị Hành chính sự nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001. Công văn số 2934/ STCVG - ĐT của Tài chính- Vật giá ngày 27/ 9/ 2002 hướng dẫn quy trình thẩm tra quyết toán vốn đầu tư các dự án do UBND Thành phố quyết định đầu tư và do các Sở quyết định đầu tư theo uỷ quyền của UBND Thành phố Hà Nội. Công văn số 306/ KH &ĐT - TH ngày 15/ 10/ 2002 của Sở Kế hoạch - Đầu tư hướng dẫn triển khai thực hiện quyết định số số 116/ 2002/ QĐ - UB ngày 14/8/2002 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phân cấp, uỷ quyền quyết định đầu tư . Chương trình Tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010 ( Ban hành kèm theo Quyết định số 136/ 2001/ QĐ -TTg ngày 17/ 09/ 2001 của Thủ tướng Chính phủ ). Luật Ngân sách Nhà nước năm 1997. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002. Nghị định 88/ 1999/ NĐ - CP ngày 01/ 09/ 1999 của Chính phủ và Thông tư số 96/ 2000/ TT - BTC ngày 28/ 09/2000 của Bộ Tài chính Hướng dẫn việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Nghị định số 10/2002/ NĐ - CP ngày 16/ 01/ 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Nghị định số 52/ 1999/ NĐ - CP ngày 08/ 07/ 1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng. Nghị định số 12/ 2000/ NĐ - CP ngày 05/ 05/ 2000 của Chính phủ vể việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/ 1999/ NĐ - CP ngày 08/ 07/ 1999 của Chính phủ. Quyết định số 116/ 2002/ QĐ - UB ngày 14/ 08/ 2002 của UBND Thành phố Hà Nội về việc phân cấp cho các UBND Quận, Huyện quyết định đầu tư và phân công giám định đầu tư cho các Sở thuộc thành phố Hà Nội. Quyết định số 1242/ 1998/ QĐ - BXD về việc ban hành định mức dự toán công trình XDCB. Quyết định số 192/ 2001/ QĐ - TTg ngày 17/ 12/ 2001 về việc mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Thông tư 09TC/ NSNN ngày 18/ 03/ 1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Thông tư số 04/ 2002/TT - BXD ngày 27/ 06/ 2002 về việc hướng dẫn điều chỉnh dự toán công trình XDCB. Thông tư số 09/ 2000/ TT - BXD ngày 17/ 07/ 2000 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập và quản lý chi phí xây dựng thuộc các dự án đầu tư. Thông tư số 70/ 2000/ TT - BTC ngày 17/ 07/ 2000 của Bộ Tài chính Hướng dẫn quyết toán Vốn đầu tư ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37061.doc
Tài liệu liên quan