Quản lý vốn nhà nước tại Doanh nghiệp nhà nước - Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông

Mở đầu Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý vốn nhà nước tại Doanh nghiệp nhà nước - Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước càng cần được thực hiện tốt hơn. Trong thời gian thực tập tại Nhà máy len Hà Đông, em đã nghiên cứu tìm hiểu về công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy và thấy rằng bên cạnh những thành tựu Nhà máy gặt hái được trong những năm gần đây còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy (cả khi giao vốn và trong quá trình sử dụng vốn). Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy cần sớm được hoàn thiện. Em chọn đề tài: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)” với mục đích qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản lý đối với phần vốn tại Nhà máy len Hà Đông, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông. Nội dung đề tài gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông Chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông Nội dung Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về doanh nghiệp nhà nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó. ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp khác như: Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ. Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự chi phối và tác động của môi trường kinh tế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây: Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh. Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp... Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với tài sản kinh doanh của họ. Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng hoạt động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh (hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...) Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau: Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo; Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà nước được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước; Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà nước phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh có hiệu quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính phủ có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề ra. 1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ ngân sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ. Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận: Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp phát lần đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được cấp bổ sung trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại. Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố định, vật tư, hàng hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn viện trợ: viện trợ nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng theo qui định phải ghi tăng vốn ngân sách cấp; Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau thuế doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư. Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ thể như sau: Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghiệp nhà nước hay cho doanh nghiệp thuê đất, thực hiện những chính sách ưu đãi về đất đai đối với doanh nghiệp nhà nước; Hai là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn: - Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị đưa vào sản xuất; - Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước được giao thêm nhiệm vụ; Ba là, không thu khấu hao, miễn giảm thuế hay cấp tín dụng nhà nước ưu đãi... Những khoản đó được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để tái đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của Chính phủ. 1.1.2.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước vì: Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm cho những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước hành động không nhất quán với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi những người này không nắm quyền sở hữu vốn của doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước không bị xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng mục tiêu nhà nước đề ra. Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua công tác quản lý vốn, nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá đúng chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực hiện các mục tiêu xã hội. Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần lợi nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước. Do đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích nhà nước. Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình. Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh vừa thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động. Chính sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia. Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh, tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách nhà nước càng nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra. Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng: Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý vốn và tài sản; Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ... Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước giao. Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các nội dung quản lý sau: a, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, nhà nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy động trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở các nước là khác nhau. ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà nước quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh nghiệp khác thì nhà nước không cấp vốn. ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được nhà nước cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước mới thành lập ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền khi quyết định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có tại thời điểm thành lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi ngành nghề. Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của ngân sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước. Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau: + Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có). + Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên, sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước. Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là: Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy động vốn. Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp), được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát triển. Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ này. b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành; phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản. Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn bộ tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng, mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn, qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý. Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động, doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Doanh nghiệp không đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó. Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh của doanh nghiệp. Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ, nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý. Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về). Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp: Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập và đảm bảo nhiệm vụ thu nộp Ngân sách nhà nnớc; việc đầu tư phải tuân theo các quy định hiện hành của pháp luật.. Các hình thức đầu tư ra ngoài doanh nghiệp gồm: mua cổ phiếu, góp vốn liên doanh, góp cổ phần và các hình thức đầu tư khác ... Doanh nghiệp Nhà nước được phép đưa vốn và tài sản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật. Bảo toàn và phát triển vốn: Bảo toàn vốn và phát triển vốn là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của Nhà nước về vốn đã đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các biện pháp bảo toàn vốn thường được áp dụng là: Thứ nhất, thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản theo các qui định của Nhà nước; Thứ hai, thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Tiền mua bảo hiểm được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh; Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác một số khoản dự phòng theo quy định như: Dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng các khoản nợ thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính... Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp được dùng lãi năm sau (trước thuế hoặc sau thuế) để bù lỗ các năm trước, được hạch toán một số thiệt hại (thiên tai, dịch bệnh ...) vào chi phí hoặc kết qủa kinh doanh theo qui định của Nhà nước. 1.2.2. Phân cấp trong quản lý Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, mỗi nước đều tổ chức cho mình một bộ máy quản lý khác nhau với cách thức quản lý khác nhau. Bộ máy này bao gồm bản thân doanh nghiệp nhà nước (với tư cách là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn nhà nước giao) và các cơ quan quản lý cấp trên (giám sát việc thực hiện quản lý, sử dụng vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước và ra các quyết định quản lý). Mỗi cấp quản lý được phân rõ chức năng nhiệm vụ trong việc thực hiện hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. ở Pháp và Malaysia, nhà nước trực tiếp cử nhân viên của mình làm công tác kiểm tra tại doanh nghiệp, nhân viên đó thuộc biên chế Bộ tài chính; ngoài ra mỗi doanh nghiệp còn chịu sự điều tra của một nhân viên do toá án chỉ định, có chức năng kiểm tra tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp còn có Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng này là đại diện của nhà nước, đại diện cho doanh nghiệp và đại diện của công nhân. ở một số nước khác như Trung Quốc thì việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước lại do các Công ty đầu tư tài chính nhà nước đảm nhận. Hoạt động của Công ty tài chính là hoạt động kinh doanh, khác với việc cử đại diện của Bộ tài chính làm công việc kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức tài chính do Chính phủ thành lập giúp Chính phủ thành lập chức năng kinh doanh các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có những đặc điểm sau: Thứ nhất, chủ sở hữu công ty là Chính phủ Thứ hai, công ty đầu tư tài chính là một doanh nghiệp nhà nước, công ty được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, được Chính phủ giao vốn ban đầu và đầu tư bổ sung vốn trong quá trình hoạt động. Thứ tư, chức năng của công ty là kinh doanh vốn nhà nước. Điều này khẳng định mục đích đầu tư vốn vào các doanh nghiệp nhà nước là để đảm bảo đồng vốn chẳng những được bảo toàn mà còn được phát triển (gia tăng giá trị của chủ sở hữu). Thứ năm, đối tượng hoạt động của công ty là các doanh nghiệp, bao gồm: doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có phần vốn góp của nhà nước như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, tháng 10/1999, Chính phủ quyết định giải thể Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, thành lập Cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đại diện chủ sở hữu đối với số vốn nhà nước đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chức năng của Cục tài chính doanh nghiệp được cụ thể hoá như sau: Một là, thống nhất quản lý nhà nước về tài chính doanh nghiệp thuộc các thanh phần kinh tế trong cả nước, có thể tóm tắt các công việc cơ bản như sau: + Tổ chức nghiên cứu chiến lược và đề xuất các vấn đề cóm liên quan đến tài chính doanh nghiệp; dự báo khả năng động viên tài chính từ doanh nghiệp, qua đó xây dựng các chính sách, chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp, chế độ quản lý, bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp, chế độ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp và các chế độ khá._.c có liên quan đến quản lý tài chính doanh nghiệp theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài chính; + Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính; chế độ quản lý vốn nhà nước; chế độ kế toán, kiểm toán doanh nghiệp thống nhất trong cả nước; + Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời tổ chức thông tin tài chính doanh nghiệp nhằm cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và khách hàng những thông tin cập nhật, chính xác đầy đủ về tình hình tài chính doanh nghiệp; hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính doanh nghiệp; Thứ hai, quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp do Thủ tướng chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập hoặc góp vốn trong đó: + Hướng dẫn doanh nghiệp kiểm kê đánh giá tài sản, xác định số vốn nhà nước; tổ chức giao vốn cho các doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; + Tổ chức đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong các trường hợp giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi quyền sở hữu; giám sát việc xử lý vốn, tài sản nhà nước trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản và chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước; giám sát việc phân phối lợi nhuận sau thuế, việc sử dụng các quỹ tại doanh nghiệp; + Thẩm định nhu cầu hỗ trợ tài chính hàng năm và cấp phát các khoản chi hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tham gia ý kiến về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp trọng điểm, các tổng công ty nhà nước; tham gia xây dựng và thông báo chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của doanh nghiệp theo uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ tài chính; tham gia các phương án giá sản phẩm và dịch vụ do nhà nước quy định giá; tham gia việc xây dựng đơn giá, quỹ tiền lương và xếp hạng doanh nghiệp theo quy định của nhà nước; + Kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp; kiểm tra báo cáo tài chính, xác định khả năng hoàn trả nợ, mức độ bảo toàn và phát triển vốn hàng năm của doanh nghiệp; + Tổng hợp, phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn, việc bảo toàn và phát triển vốn thuộc sở hữu nhà nước tại các loại hình doanh nghiệp trong cả nước và theo ngành kinh tế; + Quản lý các quỹ tài chính hỗ trợ doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ tài chính uỷ quyền; + Hướng dẫn các Sở tài chính-vật giá thống nhất quản lý nhà nước về tài chính đối với doanh nghiệp do tỉnh thành phố thành lập hoặc góp vốn, tổng hợp phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trên địa bàn; + Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ tài chính giao. Dưới Cục tài chính doanh nghiệp, ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính vật giá. Cục tài chính doanh nghiệp quản lý trực tiêp các doanh nghiệp nhà nước trung ương. Các doanh nghiệp nhà nước địa phương chịu sự quản lý trực tiếp của các Chi cục tài chính doanh nghiệp thuộc Sở tài chính-vật giá tỉnh, thành phố. Hình thức phân công mới này có ưu điểm ở chỗ do doanh nghiệp nhà nước vẫn được tổ chức theo hai hình thức, đó là doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương, đồng thời việc tổ chức cán bộ ở địa phương do UBND tỉnh quyết định, ở trung ương do Bộ ngành quyết định. Mặt khác các doanh nghiệp trung ương lớn thường có các chi nhánh ở các địa phương khác nhau nên việc quản lý theo vùng sẽ hạn chế, đặc biệt là các Tổng công ty thường tập trung ở các địa bàn thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh... sẽ khiến cho việc quản lý ở các địa phương rất phức tạp. Sơ đồ quản lý như sau: Chi cục tài chính doanh nghiệp tỉnh, thành phố Cục tài chính doanh nghiệp Quản lý vốn các doanh nghiệp địa phương Bộ tài chính Quản lý vốn các doanh nghiệp trung ương Có thể nói rằng, sự ra đời và đi vào hoạt động theo hệ thống dọc từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố đã giải quyết được những vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, đó là thu gọn đầu mối, thực hiện nguyên tắc một đầu mối cho từng chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, từng bước xoá bỏ cơ chế chủ quản, sự phân biệt giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương. 1.2.3. Tổ chức thực hiện Dựa trên các căn cứ về quản lý vốn nhà nước đã được thiết lập (các văn bản pháp luật liên quan), các cơ quan quản lý (đã được phân cấp quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp) sẽ tổ chức thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo phạm vi chức năng của mỗi cấp đã được quy định. 1.2.3.1. Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước Một việc không dễ song không thể thiếu trong hoạt động quản lý là phải xác định được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá và xét duyệt các trường hợp để đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp một cách hợp lý. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thường xuyên biến động tuỳ thuộc vào xu hướng biến động của thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp khác nhau với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau. Do vậy, xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc làm cần thiết của các nhà quản lý. Các nhà quản lý thường dùng hai phương pháp sau: Thứ nhất, phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu, đây là phương pháp dự tính ngắn hạn, đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm với tài sản, vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây có thể là phương pháp ước tính nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong thời gian ngắn, vì cơ bản nó dựa trên giả thiết cho rằng tất cả các chi phí thành phẩm sẽ chiếm một tỷ lệ ổn định trong doanh thu bán hàng tương lai, không thay đổi so với tỷ lệ của chúng trong quá khứ. Tỷ lệ phần trăm trên doanh thu này là tỷ lệ chi phí trung bình trong hai năm gần đây và mỗi khoản mục của báo cáo nhu cầu vốn dự kiến được tính theo tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu. Khi tìm được tỷ lệ phần trăm trung bình của doanh thu thì việc xây dựng báo cáo nhu cầu sử dụng vốn cho năm kế tiếp theo phương pháp phần trăm trên doanh thu khá đơn giản. Thứ hai, phương pháp hồi quy, đây là phương pháp dự tính dài hạn, bản chất của phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học. Khi sử dụng phương pháp này, nhà quản lý vốn cũng cần xuất phát từ doanh thu tiêu thụ. Phương pháp hay được sử dụng để xem xét khả năng nguồn đối với các khoản có liên quan trực tiếp tới tăng giảm doanh thu. Sau khi đã xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đầu tư, giao vốn cho doanh nghiệp, công việc này được thực hiện căn cứ vào các quy định đã được nêu ra trong các văn bản pháp luật liên quan. ở nước ta, cấp vốn đã trở thành hình thức đắc lực nhất đối với doanh nghiệp nhà nước trong suốt thời kỳ bao cấp. Đến nay tuy đã giảm nhiều song các doanh nghiệp nhà nước vẫn được bao cấp nhiều qua giá và qua cấp vốn từ ngân sách nhà nước. Trước đây và hiện nay, Nhà nước cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp, thường là 30%. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được xác định theo công thức sau: Nhu cầu vốn lưu động = Tổng doanh thu Vòng quay vốn lưu động Nếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thiếu vốn, số vốn thiếu xin được cấp bổ sung. Nhu cầu vốn cấp bổ sung tính theo công thức: Số vốn thiếu xin được cấp bổ sung = Nhu cầu vốn lưu động - Số vốn lưu động hiện có tài doanh nghiệp Trong những năm qua, Chính phủ đã xét duyệt để cấp vốn bổ sung cho nhiều doanh nghiệp theo nhiều dự án. Trong 3 năm 1997-->1999, Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6428 tỷ đồng là để cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp. Có thể thấy việc quản lý nhu cầu, cấp phát vốn đã từng bước chặt chẽ hơn. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước một cách có trọng điểm hơn chứ không dàn trải như trước. Vốn được cấp cho doanh nghiệp nhà nước một cách hợp lý hơn. Các doanh nghiệp được nhà nước đầu tư vốn phải nằm trong chiến lược phát triển của Nhà nước và phải thoả mãn một số yêu cầu nhất định. Đồng thời, mức hỗ trợ tối đa cũng được quy định rõ. Ví dụ như trong đợt hỗ trợ vốn năm 1998 quy định rõ các đối tượng được xét đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, các doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đang hoạt động có sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, chế biến hàng nông hải thuỷ sản, xây dựng các công trình quan trọng của nhà nước với những điều kiện cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp về doanh thu lợi nhuận và mức nộp ngân sách. Nhờ có sự chọn lọc trong nhu cầu vốn bổ sung này mà đồng vốn của nhà nước trong những năm gần đây đã được sử dụng có hiệu quả hơn và đúng đối tượng hơn. Trong hai năm 1997 và 1998, Nhà nước đã đầu tư thêm vào một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thông qua việc cấp bổ sung một lượng vốn đáng kể (khoảng 3000 tỷ đồng) cho các doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao và có thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp đã biết kết hợp vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Số vốn tự bổ sung của một số ngành chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn chủ sở hữu và cũng tăng về số tuyệt đối liên tục qua các năm, ví dụ: ngành Hàng hải, Bưu điện, Hàng không. Kết quả thống kê của Cục tài chính doanh nghiệp cho biết: Quy mô vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua tăng. Tuy nhiên, việc cấp vốn của nhà nước vẫn còn những hạn chế. Hiện tượng thiếu vốn trầm trọng tại số đông các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là một minh chứng cho sự chưa hợp lý trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng chung của các doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay là tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn nhà nước không đủ mức tối thiểu cho sản xuất kinh doanh. Có tới 60% doanh nghiệp nhà nước không đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP. Trên 50% các doanh nghiệp nhà nước chưa đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt động kinh doanh. Tổng công ty nhà nước được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để phát triển song hiện vẫn có tới gần 80% số Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân của các Tổng công ty, trong đó 35% Tổng công ty có mức vốn nhà nước dưới 1000 tỷ đồng. Con số này chứng tỏ có tình trạng chênh lệch về vốn khá lớn giữa các Tổng công ty và số Tổng công ty thiếu vốn, ít vốn là chiếm đa số. Bên cạnh nguồn vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, nguồn vốn huy động được bằng việc sử dụng các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay cũng được quản lý khá chặt chẽ do nó ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. ở nước ta, các khoản nợ phải trả cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Theo kết quả kiểm kê nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2000, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước là 527.267 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 173.857 tỷ đồng (chiếm 32,9%), còn tổng vốn huy động qua các khoản nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng (chiếm tới 67% tổng nguồn vốn). Việc huy động vốn qua các khoản nợ cũng ngày một tăng. Nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng về quy mô cũng như về tỷ trọng trong cơ cấu vốn đối với một số doanh nghiệp nhà nước. Điều này phản ánh khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp có tăng lên. b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước Là một loại hình doanh nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm như các loại hình doanh nghiệp khác về tư cách pháp nhân, về điều kiện và mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ lợi ích của mình với tư cách là chủ sở hữu. Nhà nước cần thiết phải thực hiện hoạt động giám sát. Giám sát sử dụng vốn nhà nước là một nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính-một bộ phận của giám sát doanh nghiệp nhà nước, đó là việc theo dõi kiểm tra của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý nhằm hướng các hoạt động của khách thể quản lý theo đúng mục tiêu mà chủ thể quản lý đã lựa chọn, phủ hợp với quy chế pháp luật hiện hành. Giám sát sử dụng vốn nhà nước vừa là yêu cầu khách quan, vừa xuất phát từ chức năng quản lý nhà nước với doanh nghiệp, vừa do yêu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Các đơn vị quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện vai trò quản lý nhà nước thông qua giám sát. Việc giám sát nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả sự dụng vốn và khả năng thanh toán nợ đối với từng doanh nghiệp để xem xét quyết định việc tăng thêm hoặc giảm bớt số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, xếp loại doanh nghiệp và quyết định thưởng phạt đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc sắp xếp lại doanh nghiệp. Ngoài ra, giám sát doanh nghiệp còn để đánh giá việc chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ tài chính, chuẩn mực kế toán hiện hành và đánh giá tổng thể về tình hình hoạt động sản xuất kinh đoanh của doanh nghiệp để phục vụ cho việc ban hành, hoàn thiện các chính sách vĩ mô và chế độ đối với doanh nghiệp trong từng ngành, từng lĩnh vực, thực hiện sự hỗ trợ đối với trường hợp cần hỗ trợ của nhà nước nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời và phát triển doanh nghiệp. Các hình thức giám sát doanh nghiệp nhà nước bao gồm: Thứ nhất, giám sát từ bên trong: là giám sát nội bộ do các tổ chức của doanh nghiệp như kiểm toán nội bộ, ban kiểm soát, thanh tra nhân dân và do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện. Thứ hai, giám sát từ bên ngoài: là giám sát do cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức cá nhân bên ngoài doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc giám sát bên ngoài doanh nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức: Một là, giám sát gián tiếp: là theo dõi và kiểm tra từ xa thông qua báo cáo tài chính, thống kê và chế độ báo cáo khác do các cơ quan chức năng của nhà nước quy định, thông qua báo cáo công khai tình hình tài chính tại thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Hai là, giám sát trực tiếp: được thực hiện bằng các hoạt động kiểm tra, thanh tra, khảo sát nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có thể thông qua các công ty tư vấn (bao gồm công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, các công ty kiểm toán độc lập, công ty đánh giá tài sản...) để thực hiện các dịch vụ về giám sát doanh nghiệp. Có thể giám sát trước, trong quá trình thực hiện và sau khi thực hiện: + Giám sát trước khi thực hiện là việc kiểm tra tính khả thi của các dự án như kế hoạch ngắn hạn hoặc dài hạn; dự án đầu tư xây dựng hoặc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, dự án huy động vốn... + Giám sát trong quá trình thực hiện là theo dõi, kiểm tra hoặc thanh tra tính hiệu lực của các quy định pháp luật, nguyên tắc quản lý điều hành của doanh nghiệp và hiệu quả các hoạt động của doanh nghiệp. + Giám sát sau khi thực hiện là việc theo dõi, kiểm tra, thanh tra các kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo kết quả hoặc quyết toán định kỳ và giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật, quyết định của chủ sở hữu hoặc điều lệ doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau: Hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Tổng lợi nhuận Tổng doanh thu Chỉ tiêu này dùng để xem xét một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Tổng lợi nhuận Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này được dùng để xem xét một đồng vốn chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Mức độ bảo toàn vốn: Số vốn nhà nước bảo toàn cuối kỳ = Số vốn nhà nước đầu kỳ + Số vốn nhà nước đầu tư thêm hoặc rút về + Số vốn đầu tư thêm từ lợi nhuận sau thuế Khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán hiện thời = Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán nhanh = Tiền Nợ ngắn hạn Các chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ quá hạn của doanh nghiệp. Hiệu quả của việc quản lý sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước được thể hiện bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các doanh nghiệp nhà nước. Trong công tác kiểm tra giám sát quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cần: Thứ nhất, nắm được tình hình vốn, tài sản của doanh nghiệp trong cả nước và phân loại theo doanh nghiệp nhà nước trung ương, doanh nghiệp nhà nước địa phương một cách có hệ thống; Thứ hai, thiết lập cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về doanh nghiệp nhà nước ở các địa phương và trung ương dựa trên tiêu chí nhất định. Cơ sở dữ liệu sẽ phục vụ cho việc phân tích đánh giá về doanh nghiệp nhà nước không chỉ của cơ quan tài chính mà của nhiều ngành chức năng của trung ương, các chuyên gia trong nước và quốc tế; giúp phân biệt giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế. Chất lượng của cơ sở dữ liệu cần được nâng cao bằng việc xử lý, sắp xếp khoa học các dữ liệu. Khai thác, sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu sao cho có hiệu quả, không chỉ phục vụ cho việc đánh giá tổng quát tình hình doanh nghiệp cả nước mà còn được sử dụng đề phân tích đánh giá từng doanh nghiệp, từng ngành... Thứ ba, bên cạnh việc giám sát từ xa cần thực hiện việc giám sát tại chỗ. Hàng năm, tuỳ theo điều kiện cụ thể tình hình quản lý vốn của các doanh nghiệp, cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp tổ chức kiểm tra theo chuyên để hoặc kiểm tra toàn diện ở một số hoặc toàn bộ các doanh nghiệp trên địa bàn. Việc kiểm tra như vậy giúp cho doanh nghiệp nhà nước chấn chỉnh công tác quản lý vốn, hạch toán kế toán... Thêm vào đó, các cơ quan thanh tra tài chính, kiểm toán nhà nước cùng tiến hành thường xuyên việc thanh tra và kiểm toán tại doanh nghiệp nhà nước. Việc kiểm tra này sẽ giúp khắc phục được một số yếu kém còn tồn tại trong công tác quản lý vốn, đồng thời qua đó góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước. Việc giám sát, kể cả giám sát từ xa và giám sát tại chỗ cần tập trung vào đánh giá, phát hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó dự báo sớm tình hình mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp và đề xuất biện pháp để ngăn chặn tình trạng này. Công tác giám sát cần giúp cho việc đánh giá đúng thực trạng tình hình quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, như việc phát hiện doanh nghiệp bị thua lỗ, doanh nghiệp đầu tư lãng phí, công nghệ thiết bị lạc hậu, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá thành sản phẩm và khả năng thu hồi vốn không được tính toán kỹ... để có biện pháp ngăn chặn kịp thời; Thứ tư, kênh thông tin từ doanh nghiệp lên các cơ quan tài chính cũng như trong hệ thống cơ quan tài chính doanh nghiệp thường phải nhanh, đầy đủ. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.3.1. Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên, có ảnh hưởng quyết định tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì nhân tố này sẽ quyết định tổ chức bộ máy quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp như thế nào? Nội dung các văn bản pháp luật phục vụ cho công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp phải như thế nào? Trình độ của cán bộ quản lý? Chẳng hạn: Nếu một nhà nước quan niệm nên tạo sự chủ động cao cho doanh nghiệp thì việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý cũng được thực hiện theo hướng tạo sự chủ động cho doanh nghiệp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, chấm dứt sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp... 1.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý Hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tiếp đó phụ thuộc vào tổ chức bộ máy quản lý, vốn nhà nước sẽ không thể được quản lý tốt nếu tổ chức bộ máy quản lý không hợp lý. Hiện nay ở nhiều nước, cơ quan trực tiếp tiến hành công tác quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước nói riêng đối với doanh nghiệp cũng là cơ quan trực tiếp hoặc gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ quản lý vốn tại doanh nghiệp (thông qua việc dự thảo các chính sách trình cơ quan có thẩm quyền ký ban hành). Bộ máy quản lý gồm một cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Với mô hình này, việc giám sát doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức từ xa, định kỳ theo quy định, tiến hành từ cấp địa phương đến trung ương. Công tác giám sát từ xa nếu được thực hiện đầy đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho cơ quan quản lý có được cái nhìn tổng thể về toàn bộ hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản vốn nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan duy nhất, nó đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý khác như đơn vị chủ quản, cơ quan thuế...Các cơ quan này cũng thực hiện việc giám sát tại chỗ đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp rất nhạy cảm đối với hoạt động giám sát tại chỗ này. Việc giám sát tại chỗ có thực sự phát huy hiệu quả, nghĩa là thấy và phản ánh được kịp thời những khó khăn mà doanh nghệp đang gặp phải để tìm cách tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư doanh nghiệp đang thực hiện...Đồng thời các cơ quan quản lý phải tổ chức việc giám sát tại chỗ cho phù hợp, không gây cản trở đối với hoạt động của doanh nghiệp và không để cho một số cán bộ lợi dụng việc giám sát ngay tại doanh nghiệp để làm lợi cho riêng mình. ở nước ta, việc tổ chức phân cấp quản lý các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những vướng mắc. Cơ chế quản lý Bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản vẫn còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, Cục tài chính doanh nghiệp chịu trách nhiệm quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong cả nước, song thực sự thì Cục chỉ quản lý và trực tiếp giải quyết những vấn đề về vốn liên quan đến những doanh nghiệp nhà nước trung ương, những doanh nghiệp nhà nước địa phương thì do Sở tài chính vật giá tỉnh, thành phố quản lý. Việc phân cấp quản lý này tạo ra một sự phát triển không cân đối giữa các doanh nghiệp nhà nước trung ương và các doanh nghiệp nhà nước địa phương, đồng thời cũng chưa triệt để trong việc thực hiện mục đích hình thành Cục tài chính doanh nghiệp là quản lý thống nhất các doanh nghiệp nhà nước. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước trung ương lớn hơn các doanh nghiệp nhà nước địa phương, các doanh nghiệp nhà nước trung ương cũng mau đổi mới máy móc thiết bị hơn doanh nghiệp nhà nước địa phương do có nhiều nguồn vốn đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước trung ương làm ăn cũng hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước địa phương. Từ đây có thể thấy, việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước tuy đã tập trung gọn lại về một đầu mối là Cục tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế thì việc quản lý các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được tập rtung và đó là một trong các nguyên nhân gây ra sự phát triển không đồng đều giữa các doanh nghiệp nhà nước. Sở dĩ việc quản lý vẫn cần phải phân cấp như vậy vì hiện nay khối lượng công việc cho cán bộ quản lý tại Cục tài chính doanh nghiệp là quá lớn. Bởi vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới là một vấn đền không kém phần không kém phần quan trọng được đặt ra cùng với việc đổi mới công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. 1.3.3. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan Để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp có thể bất chấp những lợi ích chung của toàn xã hội. Để hạn chế mặt tiêu cực đó, bên cạnh “bàn tay vô hình”- các quy luật của thị trường còn có “bàn tay hữu hình”-sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước thể hiện qua những chính sách quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, qua hệ thống pháp luật...Các chính sách quản lý của nhà nước vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Sự tác động trực tiếp thể hiện qua những chính sách trực tiếp liên quan tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Đó là những chính sách quy định về nội dung quản lý vốn, phương pháp quản lý vốn, bộ máy quản lý vốn. Các chính sách này được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cũng như hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Một hệ thống chính sách quản lý đúng đắn, đầy đủ sẽ đem lại hiệu quả quản lý cao và ngược lại, một hệ thống chính sách quản lý chưa đầy đủ, không đồng bộ, còn thiếu sót sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý. Sự tác động gián tiếp của chính sách quản lý của nhà nước tới hoạt động quản lý vốn nhà nước thể hiện ở chỗ: các chính sách quản lý của nhà nước có tạo ra được một môi trường thuận lợi cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không, hay tạo khó khăn cho công tác quản lý? Ví dụ như: chính sách về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước có tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn nhà nước hay không?... ở nước ta, tác động của yếu tố này tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thể hiện rất rõ. Cùng với việc không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chính sách về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (căn cứ để quản lý), việc tổ chức thực hiện đã cho thấy những dấu hiệu tích cực rõ rệt. Tuy vậy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong hệ thống chính sách đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước tốt hơn. 1.3.4. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý trực tiếp tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bộ máy quản lý các doanh nghiệp nhà nước là cơ quan trực tiếp tiến hành hoạt động quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Không những thế ở nhiều nước đây còn là cơ quan trực tiếp hay gián tiếp ban hành các chính sách, chế độ về quản lý vốn tại các doanh nghiệp. Bởi vậy, sự am hiểu của cán bộ quản lý về ngành nghề lĩnh vực mình quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng nắm bắt tình hình của họ với lĩnh vực đó, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc cán bộ quản lý đó có phân tích và đưa ra được những kết luận đúng đắn hay không, có dự thảo ra được những chính sách quản lý đúng đắn hay không? Thêm vào đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý sẽ quyết định việc họ có thực hiện quản lý đúng theo lương tâm trách nhiệm hay không? 1.3.5. Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội Sự ổn định về kinh tế-chính trị-xã hội là nhân tố quan trọng, có tác động lớn tới hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp và do đó tác động tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Môi trường chính trị-xã hội ổn định, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, ít lạm phát và ít biến động sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư một tâm lý yên tâm trong quá trình huy động và sử dụng vốn, do đó vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước có điều kiện được bảo toàn và phát triển. Nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường-một cơ chế kinh tế luôn được quan niệm là năng động, bất ổn định, chứa đựng nhiều cơ hội và cả những khó khăn. Trong thời gian qua, do nhiều lý do như ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực, thiên tai khiến môi trường kinh tế nước ta chưa thực sự ổn định. Mặt khác, môi trường kinh tế hiện nay của nước ta còn đang thiếu nhiều yếu tố cần thiết để tạo điều kiện cũng như tạo động lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các nhân tố trên đây đều tác động lớn tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy việc nghiên cứu tác động của từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố tới hoạt động quản lý vốn nhà nước là hết sức cần thiết. Từ đó tìm ra được các nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý trong hoạt động quản lý vốn nhà nước, rồi đưa ra những đề xuất để hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len hà đông 2.1. Tổng quan Nhà máy len Hà Đông 2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển Nhà máy len Hà Đông là một doanh nghiệp nhà nước, được khởi công xây dựng vào tháng 4/1958. Năm 1959, chính thức đi vào hoạt động và có tên là Nhà máy nhuộm in hoa Hà Đông. Khi đó, Nhà máy chỉ là một cơ sở gia công nhuộm tẩy các mặt hàng vải lụa, sợi thuộc công ty Bông vải, sợi-Bộ nội thương. Ban đầu, công nghệ sản xuất chủ yếu là sản xuất thủ công tren chảo rang và hong khô ngoài trời. Tháng 1/1961, Nhà máy chính thức được chuyển sang cho bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và đổi tên thành Xí nghiệp in hoa Hà Đông. Nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp lúc đó là in hoa trên vải và khăn mặt bông, nhuộm vải sợi phục vụ tiêu dùng trong nước. Năm 1973, theo kế hoạch đầu tư mở rộng của Bộ Công nghiệp nhẹ, xí nghiệp được đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len phục vụ cho dệt thảm xuất khẩu. Nhờ đó, thiết bị sản xuất của xí nghiệp được cơ khí hoá dần dần. Đến năm 1977, xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy len nhuộm Hà Đông, thuộc Liên hiệp các xí nghiệp dệt Bộ công nghiệp. Từ năm 1990, thực hiên chương trình Đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Nhà máy đã tiến hành tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại lao động. Để giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dư thừa, Nhà máy đã xây dựng thêm một bộ phận dệt thảm len xuất khẩu, đồng thời phát triển thêm dây truyền in vải hoa (là nghề truyền thống của nhà máy). Cũng trong năm này, Nhà máy đổi tên thành Công ty len Hà Đông. Năm 1996, Nhà máy đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len Acrylic đan áo từ xơ hoá học với dây chuyền công nghệ và máy móc nhập khẩu từ Pháp. Năm 1999, Nhà máy chính thức sát nhập trở thành đơn vị trực thuộc Công ty len Việt Nam (thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam) và mang tên Nhà máy len Hà Đông. Hiện mặt hàng chủ yếu của Nhà máy là len thảm ._.dụng thương mại giúp Nhà máy duy trì được lượng hàng tiêu thụ, tổng số cho các khách hàng nợ mua hàng trả chậm của Nhà máy thực tế lên tới 1.995.640.628 đ chiếm 13,20% (thời điểm 01/01/2001) và 2.385.054.946 đ chiếm 13,55% (thời điểm 01/01/2002); 2.3.1.2. Từ phía các đơn vị quản lý cấp trên Thứ nhất, hoạt động giám sát (định kỳ và đột xuất) của các đơn vị quản lý cấp trên cũng thu được những kết quả nhất định như đã nêu trên, bên cạnh việc chỉ ra và điều chỉnh một số điểm bất hợp lý (qua đó phía Nhà máy có thể rút kinh nghiệm) còn đưa ra những đề xuất về cơ cấu vốn, về thủ tục lập dự án... nhằm giúp Nhà máy quản lý vốn được giao tốt hơn; Quyết định điều chuyển lại số vốn hơn 7,4 tỷ đồng của Công ty len Việt Nam cho Nhà máy điều chỉnh cơ cấu vốn của Nhà máy theo hướng tăng vốn chủ, một trong những kết quản thu được từ hoạt động giám sát, đã lành mạnh hoá báo cáo tài chính, góp phần tích cực vào việc đảm bảo khả năng thanh toán, giảm bớt chi phí lãi vay, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Nhà máy, góp phần đưa Nhà máy từ kinh doanh bị lỗ sang có lãi, nhân tố quan trọng giúp Nhà máy thực hiện nghĩa vụ bảo toàn và phát triển Vốn Nhà nước giao; Nhờ những nỗ lực quản lý từ cả hai phía mà trong những năm gần đây Nhà máy luôn làm ăn có lãi và lãi luôn tăng: Năm 2000 là khoảng 167 triệu đồng, năm 2001 là khoảng 316 triệu đồng và năm 2002 là hơn 800 triệu đồng; hệ số doanh lợi trên vốn chủ sở hữu cũng tăng (từ 0,2 năm 2001 lên 0,3 năm 2002). Theo số liệu tổng kết của Công ty len Việt Nam thì năm 2002 Nhà máy len Hà Đông là đơn vị đạt số lãi (trước thuế) cao nhất trong khi đơn vị đứng thứ hai là len Vĩnh Thịnh lãi chỉ đạt hơn 300 triệu đồng; như vậy, hiện Nhà máy đang là đơn vị đi đầu trong số các thành viên Công ty len Việt Nam. Bảng sau sẽ giúp ta hình dung rõ hơn về tình hình kinh doanh của Nhà máy trong hai năm gần đây: Bảng 6: Bảng các chỉ tiêu tài chính trung gian trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Nhà máy len Hà Đông đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2002/2001 Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng -Tổng doanh thu 15.113.944.199 - 17.599.392.710 - 2.485.448.511 - -Các khoản giảm trừ: +Giảm giá +Giá trị hàng bán bị trả lại 75.998.199 1.800.000 74.198.199 - 44.193.543 1.000.000 43.193.543 31.804.656 800.000 31.004.656 1.DT thuần 15.037.946.000 100,00% 17.555.199.167 100,00% 2.517.253.167 16,74% 2.GVHB 13.826.685.599 91,95% 15.490.307.465 88,24% 1.663.621.866 12,03% 3.LN gộp 1.211.260.401 8,05% 2.064.891.702 11,76% 853.631.301 70,47% 4.CPBH 164.888.088 1,10% 87.838.157 0,50% -77.049.931 -46,73% 5.CPQLDN 1.197.263.885 7,96% 1.621.209.277 9,23% 423.945.392 35,41% 6.LN ròng từ HĐKD -150.891.572 -1,00% 355.844.268 2,03% 506.735.840 335,83% 7.LN từ HĐTC 16.189.941 0,11% 25.492.805 0,15% 9.302.864 57,46% 8.LNBT 449.988.517 2,99% 419.273.620 2,39% -30.714.897 -6,83% 9.Tổng LNTT 315.286.886 2,10% 800.610.693 4,56% 485.323.807 153,93% 10.Lỗ luỹ kế -Đầu năm -Cuối năm -1.287.840.845 -972.553.959 -972.553.959 -171.943.266 Số liệu ở Bảng trên cho thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy có chiều hướng đi lên. Năm 2002 so với năm 2001, doanh thu thuần tăng 2.517.253.167đ (tăng16,74%) trong khi giá vốn hàng bán tăng chậm hơn 1.663.621.866 đ (tăng12,03%), tỷ trọng so với doanh thu thuần giảm (từ 91,95% năm 2001 xuống 88,24%) khiến lợi nhuận gộp tăng mạnh 853.631.301 đ (tức tăng 70,47%); chi phí bán hàng giảm gần một nửa nhờ giảm số nhân viên ở bộ phận này trong khi chi phí quản lí doanh nghiệp tăng đáng kể do Công ty len Việt Nam tăng mức thu phí quản lí từ 15.000.000 đ/tháng lên 25.000.000 đ/tháng. Tuy vậy tình trạng lỗ ròng từ hoạt động kinh doanh năm 2001 (-150.891.572 đ) đã được khắc phục bằng một khoản lãi 355.844.268 đ năm 2002. Tổng thu nhập từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường chỉ giảm nhẹ (khoảng 20.000.000 đ). Tổng lợi nhuận trước thuế năm 2002 nhờ đó tăng 485.323.807 đ (tăng 153,93%) giúp giảm mạnh số lỗ luỹ kế từ 972.553.959 đ xuống còn 171.943.266 đ. Thêm vào đó, giá trị hàng bán bị trả lại giảm hơn 30.000.000 đ trong khi lượng tiêu thụ tăng cho thấy việc đảm bảo chất lượng hàng giao cũng đã được chú trọng hơn. 2.3.2. Hạn chế 2.3.2.1. Từ phía Nhà máy: Thứ nhất, quỹ đất của Nhà máy chưa được tận dụng triệt để, ngoài 10000 m2 không sử dụng được với lí do đã nêu ở trên, còn những khoảng đất khác bị bỏ hoang rất lãng phí và hiện cũng chưa có kế hoạch khai thác sử dụng số đất này trong khi tiền thuê đất vẫn tính cho cả những mảnh đất đó; Thứ hai, công tác quản lý chi phí tuy có những tiến bộ nhất định song vẫn chưa đạt yêu cầu đặt ra. Cụ thể là: - Về nguyên vật liệu: + Do lượng hoá chất thuốc nhuộm dự trữ không thích hợp, có những loại hóa chất thuốc nhuộm được nhập từ năm 1997, đến nay chưa sử dụng hết. Trong điều kiện bảo quản không được tốt, tình trạng dự trữ như vậy làm cho mức hao hụt tự nhiên hiện nay rất lớn (5,1%). + Công tác thu hồi phế liệu của Nhà máy chưa được quan tâm: Bông xơ, len vụn được tập hợp lại sau mỗi ca sản xuất để đốt, còn lại các hoá chất thuốc nhuộm, nước nhuộm, sau khi sử dụng không được thu hồi mà bị thải ra sông, vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa lãng phí. + Trách nhiệm vật chất trong quản lý nguyên vật liệu chưa được quy định rõ ràng. - Về trang thiết bị, máy móc: + Tại phân xưởng 1, chỉ có máy sấy lông cừu được đầu tư từ năm 1986, còn lại là được đầu tư từ năm 1982. Trong quá trình vận hành, chúng đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Bộ phận làm nhiệt của máy sấy lông cừu không đủ yêu cầu quy dịnh nên thời gian sấy phải kéo dài, cho ra nguyên liệu không được bông, tơi như yêu cầu nên Nhà máy phải sử dụng thêm lao động để làm bông, tơi lông cừu bằng phương pháp thủ công, làm tốn thêm chi phí về lao động. Với thời gian sấy kéo dài, máy làm tiêu tốn điện năng. Nhiệt độ của máy nếu đạt yêu cầu thì một mẻ 300kg lông cừu phải sấy trong thời gian 5h. Hiện nay, vẫn với lượng lông cừu như vậy, Nhà máy phải sấy trong 8h. Còn máy xé săn của Nhà máy hiện nay có tỷ lệ hao hụt nguyên liệu là 3%, trong khi ở các Nhà máy hiện đại, tỷ lệ này chỉ có 0,5%. Hơn nữa, máy đã cũ nên đã tiêu tốn điện năng và công suất không cao. Ba máy nhuộm của Nhà máy đều đã quá cũ. Do được đầu tư từ năm 1982, sau một quá trình hoạt động quá dài, toàn bộ bộ phận điều khiển tự động của cả ba máy đều han. Sản phẩm sản xuất ra thường không đạt yêu cầu ngay, phải nhuộm đi nhuộm lại, dẫn đến màu sắc có thể bị sai lệch, gây khó khăn cho Nhà máy trong việc thực hiện đơn đặt hàng. Việc nhuộm đi nhuộm lại như vậy làm Nhà máy phải tiêu tốn thêm hoá chất thuốc nhuộm, lao động và điện năng. Hơn nữa, việc nhuộm lại như vậy cho ra thành phẩm không đảm bảo chất lượng, sau mỗi lần nhuộm lại, độ xốp của len đã giảm đáng kể. Mà đây là tình trạng diễn ra thường xuyên tại khâu nhuộm của Nhà máy. + Hệ thống động lực, truyền dẫn của nhà máy cũng quá cũ, vừa không đảm bảo an toàn cho người lao động, vừa làm thất thoát hơi phục vụ sản xuất. + Hệ số hao mòn tài sản cố định toàn Nhà máy là 73,54%. Hệ số hao mòn của máy sấy lông cừu là 94%, máy xé săn và ba máy nhuộm là 100%. Đặc biệt tại phân xưởng len 1, hệ số hao mòn máy móc, thiết bị là 85,6%. Trong đó máy móc, thiết bị đã khấu hao hết chiếm 23% số máy móc thiết bị đang hoạt động. Với tình trạng như vậy, tỷ lệ phế phẩm tại phân xưởng len 1 hiện nay là 5%- một tỷ lệ khá cao. Thứ ba, cơ cấu tài sản của Nhà máy chưa hợp lý: Bảng 7: Kết cấu tài sản của Nhà máy len Hà Đông Đơn vị: đồng Chỉ tiêu 31/12/2001 31/12/2002 2002/ 2001 Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng A.Tài sản 21.452.408.485 100,00% 21.959.137.838 100,00% 506.729.353 2,36% I.TSLĐ 14.327.212.716 66,79% 15.076.041.603 68,65% 748.828.887 5,23% 1.Tiền 2.153.516.935 10,04% 950.029.391 4,33% -1.203.487.544 -55,88% 2.Phải thu 5.576.793.336 26,00% 6.422.771.513 29,25% 845.978.177 15,17% 3.Tồn kho 6.536.958.897 30,47% 7.668.885.025 34,92% 1.131.926.128 17,32% 4.TSLĐ # 59.934.548 0,28% 34.355.674 0,16% -25.578.874 -42,68% II.TSCĐ 7.125.195.769 33,21% 6.883.096.235 31,35% -242.099.534 -3,40% Từ bảng trên, có thể thấy: Một là, xuất phát từ thực tế len của Trung Quốc giá rẻ hơn len của Nhà máy nhiều song nhìn chung chất lượng thấp, Nhà máy đã nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm len, nhắm tới những khách hàng có nhu cầu về sản phẩm len cao cấp hơn. Để làm được điều này không chỉ đòi hỏi nguyên vật liệu chất lượng cao hơn mà còn đòi hỏi công nghệ hiện đại và trình độ tay nghề của công nhân phải được nâng cao. Song hiện máy móc thiết bị của Nhà máy rất lạc hậu (như đã nói ở trên), Nhà máy mặc dù có điều kiện song chưa chú ý đến việc đổi mới công nghệ một cách đúng mức, điều đó được minh chứng bằng số liệu trong Bảng trên, năm 2002 so với năm 2001 giá trị tài sản cố định giảm cả về lượng và tỷ trọng. Hai là, với lượng vốn nhà nước giao chiếm hơn 84% vốn của Nhà máy, tài sản lưu động của Nhà máy được tài trợ hầu hết bằng vốn nhà nước (88,5%). Tuy có thế mạnh về vốn nhà nước như vậy nhưng Nhà máy đã tạo ra một cơ cấu tài sản không hợp lý, đó là nguyên nhân thế mạnh về vốn nhà nước của Nhà máy chưa được phát huy. Những phân tích sau đây của em sẽ cho thấy rõ điều này: đơn vị: đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 1.Phải thu 5.576.793.336 6.422.771.513 2.Tồn kho 6.536.958.897 7.668.885.025 3.TSLĐ # 59.934.548 34.355.674 4.Nợ ngắn hạn 10.224.406.825 1.735.023.732 Nhu cầu VLĐ thường xuyên 1.949.279.956 12.390.988.480 Theo số liệu tính toán trên, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương rất lớn cho thấy hàng tồn kho và các khoản phải thu là lớn, trong khi vòng quay vốn lưu động của Nhà máy tăng không đáng kể (từ 1,05 lên 1,16) còn vòng quay hàng tồn kho thì giảm (từ 2,12 xuống 2,02). Điều này chứng tỏ có một lượng lớn hàng tồn kho đang bị ứ đọng, vốn ứ lại ở đó không quay vòng được. 2.3.2.2. Từ phía các đơn vị quản lý cấp trên: Thứ nhất, trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999 quy định, trước khi giao vốn, doanh nghiệp phải xác định rõ những tồn tại về mặt tài chính (tài sản thừa, thiếu, mất mát, hư hỏng, kém mất phẩm chất, tài sản ứ đọng chậm luân chuyển, không cần dùng, chờ thanh lý, công nợ khó đòi, các khoản lỗ luỹ kế, các khoản chi phí chưa có nguồn bù đắp và các tổn thất tài sản khác), nguyên nhân và trách nhiệm của những người liên quan đến các tồn tại để xử lý theo chế độ hiện hành. Việc giao vốn lại cho Nhà máy vào 1/7/1999 tồn tại một vấn đề lớn là việc đánh giá lại giá trị vốn nhà nước tại Nhà máy đã không được Công ty len Việt Nam tiến hành một cách nghiêm túc, kết quả kiểm kê hàng tồn kho kém, mất phẩm chất (giảm giá hơn 2 tỷ như đã trình bày ở phần trên) do Nhà máy thực hiện và sau đó được chính Công ty len Việt Nam cũng đã kiểm tra xác nhận minh chứng cho điều này; Thứ hai. Nhà máy được giao đất theo Biên bản giao vốn cho Nhà máy năm 1999, nhưng chỉ là đất giao trên danh nghĩa vì trên Biên bản ghi giá trị mảnh đất (diện tích gần 4 ha ở vị trí khá đẹp) chỉ có 40.300 đồng, do đó sự hiện diện của đất (chính xác phải là quyền sử dụng đất) trong Biên bản giao vốn chỉ có ý nghĩa giúp quản lý diện tích đất Nhà máy len Hà Đông sử dụng mà thôi; ngoài ra, mảnh đất được giao nằm trong khu vực chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Nhà máy đã phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước như một đối tượng thuê đất (Nhà máy đóng tiền thuê đất hàng năm), Nhà máy không thể thế chấp quyền sử dụng mảnh đất được giao để vay vốn ngân hàng; Thứ ba, hàng tồn kho có một lượng lớn đang bị xuống cấp nghiêm trọng hiện không thể đưa vào sản xuất (hoặc do không đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật, hoặc do chúng phục vụ cho việc sản xuất những sản phẩm mà Nhà máy đã ngừng sản xuất thời gian trước); giá trị thực tế của chúng theo đánh giá lại chỉ bằng một nửa so với giá trị ghi trên sổ sách, song Công văn xin giảm vốn và biện pháp xử lý số hàng này (đã gửi Công ty len Việt Nam trình lên Tổng công ty dệt may Việt Nam từ lâu) đến nay vẫn chưa được duyệt; Nhà máy hiện không có điều kiện phân bổ phần giảm giá này vào chi phí kinh doanh do giá bán sản phẩm hiện tại của Nhà máy đã cao hơn hàng của Trung Quốc 2000 đ/cân (nếu tiếp tục tăng giá sẽ ảnh hưởng lớn đến lượng tiêu thụ) và Nhà máy vẫn còn số lỗ luỹ kế hơn 170 triệu đồng; Thứ tư, sự quản lý của Công ty len Việt Nam cũng như Tổng công ty dệt may Việt Nam còn những điểm bất cập như quyết định điều chuyển vốn khỏi Nhà máy hơn 7,4 tỷ đồng khiến cơ cấu vốn của Nhà máy không hợp lý (sau có kiến nghị của kiểm toán nhà nước mới điều chuyển lại số vốn này năm 2002); Bộ tài chính vẫn chưa duyệt phương án nhượng bán, thanh lý số hàng tồn này (chúng tiếp tục xuống giá nhanh chóng) và giải quyết cho Nhà máy được giảm vốn của số vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn kho đến 1/1/2000 là: 2.045.163.516 đ mặc dù Công văn đã được Nhà máy thảo và gửi đi từ lâu... 2.3.3. Nguyên nhân: Thứ nhất, từ phía các chính sách quản lý, nhiều khó khăn nảy sinh khi Nhà máy áp dụng các qui định hiện hành về quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp nhà nước và Quy chế tài chính của Công ty len Việt Nam. Các quy định trong Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam có nhiều điểm bất cập như: quy định về hạn mức tồn quỹ tiền mặt tại đơn vị thành viên là 50.000.000 đồng, số dư tiền gửi trên tài khoản của đơn vị không quá 100.000.000 đồng, phần vượt đơn vị nộp ngay về Công ty len Việt Nam; quy định tổng số cho các khách hàng nợ mua hàng trả chậm của Nhà máy không vượt quá 2% tổng doanh thu, số tiền nợ tối đa là 100.000.000 đ cho một khách hàng; quy định chuyên thu Công ty len Việt Nam thông báo tới ngân hàng quá hạn chế (chẳng hạn chưa đề cập tới trường hợp ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu của Nhà máy); quy định việc chi hoa hồng môi giới không vượt quá 3% doanh thu của số hàng hoá, dịch vụ môi giới (thực tế điều này phải căn cứ vào việc môi giới có đem lại hiệu quả hay không)...Việc quy định quá nhiều việc phải xin ý kiến của cơ quan cấp trên không những làm giảm tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, mà cấp trên do có quá nhiều việc phải giải quyết dẫn tới quá tải, chậm chễ, những yếu tố đó ảnh hưởng không tốt tới hoạt động quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy ; Thứ hai, từ tổ chức bộ máy quản lý, trực tiếp sử dụng tài sản nhà nước nhưng do là một đơn vị hạch toán phụ thuộc Công ty len Việt Nam, Nhà máy len Hà Đông không có quyền tự quyết nhiều vấn đề liên quan đến việc quản lý các tài sản đó, trách nhiệm cá nhân trong quản lý chưa được phân định rạch ròi cũng như việc hạn chế sự chủ động sáng tạo của Nhà máy, thêm vào đó, hiện đang là đơn vị đi đầu trong số các thành viên Công ty len Việt Nam, các nguồn lực của Nhà máy (được cấp và tự làm ra) bị Công ty len Việt Nam điều tiết để duy trì sự tồn tại của các thành viên ốm yếu, những điều đó đã làm giảm hiệu quả quản lý tài sản Nhà nước đầu tư vào Nhà máy. Việc phải thông qua quá nhiều cấp quản lý gây chậm chễ, đôi khi gây ra những thiệt hại không nhỏ với vốn nhà nước tại nhà máy (vụ việc hàng tồn kho kém, mất phẩm chất đã nêu trên là một ví dụ). Thứ ba, từ trình độ, năng lực của bộ máy quản lý, cán bộ quản lý mặc dù đã có sự am hiểu nhất định đối với lĩnh vực mình quản lý song vẫn mắc những sai sót như đã nêu ở trên (phía Nhà máy), đồng thời cũng chưa có kế hoạch để tận dụng triệt để diện tích đất được giao; cấp trên giao vốn đã không được tiến hành kiểm kê, đánh giá lại tài sản cẩn thận; Thứ tư, từ phía môi trường kinh tế, từ khi khối SNG tan rã Nhà máy đã mất đi một thị trường lớn; trong thời gian qua do nhiều lý do như ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực, thiên tai khiến môi trường kinh tế nước ta chưa thực sự ổn định, ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu của người tiêu dùng. Mặt khác, môi trường kinh tế hiện nay của nước ta còn đang thiếu nhiều yếu tố cần thiết để tạo điều kiện cũng như tạo động lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp: giá nhiều yếu tố đầu vào đắt (điện, nước...), nguyên vật liệu chính của Nhà máy trong nước không sản xuất được nên phải đi nhập chịu giá biến động thất thường... trong khi đó sản phẩm Nhà máy sản xuất ra lại phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc giá rẻ hơn, điều đó gây khó khăn rất lớn cho hoạt động quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy. chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại nhà máy len hà đông Qua nghiên cứu công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước và tình hình vận dụng trong công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông, em xin đưa ra những đề xuất sau: Một là, phải quản lý tốt chi phí để hạ giá thành sản phẩm, để làm được điều này cần: * Tăng cường quản lý để giảm chi phí nguyên vật liệu bằng các biện pháp: + Đối với hoá chất thuốc nhuộm, do Nhà máy có thể mua ngay trong nước nên cần tính toán khối lượng hoá chất thuốc nhuộm dự trữ thích hợp để tránh lãng phí do hao hụt tự nhiên. + Tăng cường công tác thu hồi phế liệu. Đối với bông xơ, len vụn, Nhà máy có thể gom lại bán cho các cơ sở sản xuất chăn, gối ở làng La Phù cách đó không xa. Đối với hoá chất thuốc nhuộm, nước nhuộm Nhà máy không còn sử dụng được nữa do yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm của mình, Nhà máy có thể bán cho các cơ sở nhuộm có yêu cầu kỹ thuật thấp hơn. + Đề cao trách nhiệm vật chất trong việc quản lý và sử dụng vật tư; Nhà máy cần có những hình thức thưởng-phạt rõ ràng đối với những người làm tốt và không làm tốt công tác này. + Nhà máy cần kết hợp với Công ty len Việt Nam tiến hành công tác dự báo để có kế hoạch đối phó với biến động của thị trường. Do nguyên vật liệu chính của Nhà máy phải nhập từ nước ngoài về, giá cả biến động theo quan hệ cung-cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới nên nếu không có dự báo tốt sẽ rất dễ gây ra tổn thất cho Nhà máy, chẳng hạn trong những tháng đầu năm 2003 giá một loạt nguyên vật liệu tăng dẫn đến Nhà máy luôn bị lỗ (giá thành vượt quá giá bán trong điều kiện Nhà máy len Hà Đông không thể tăng giá vì len của Trung Quốc hiện đã rẻ hơn len của Nhà máy 2000 đ/kg, nếu tiếp tục tăng giá nữa thì sản phẩm sản xuất ra sẽ không thể tiêu thụ được). * Chú trọng đổi mới trang thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất. Việc đổi mới máy móc thiết bị là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, khi tiến hành đổi mới máy móc thiết bị, Nhà máy cần lưu ý: Thứ nhất, phải lựa chọn công nghệ tiên tiến, tránh tình trạng nhập công nghệ lạc hậu. Thứ hai, phải đào tạo bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ tay nghề của công nhân để phát huy được năng lực sản xuất của máy móc thiết bị mới được đầu tư. Để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, Nhà máy cần một lượng vốn nhất định. Vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị có thể được huy động nhiều nguồn; do điều kiện của Nhà máy hiện vẫn còn lỗ luỹ kế hơn 170 triệu đồng (chưa có lợi nhuận để lại để tái đầu tư), Nhà máy có thể sử dụng quỹ khấu hao TSCĐ để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, nếu quỹ này không đủ để đáp ứng nhu cầu vốn, Nhà máy có thể huy động từ bên ngoài. Hiện Nhà máy đã thanh toán các khoản nợ ngân hàng, nên có thể vay dài hạn của ngân hàng; ngoài ra, Nhà máy có thể đi thuê những tài sản cố định này. Cổ phần hoá Nhà máy cũng là một phương thức hay để tạo vốn. Việc đổi mới máy móc thiết bị giúp cho Nhà máy sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ, đã tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại, tạo điều kiện cho Nhà máy tiết kiệm chi phí cho sản phẩm hỏng, tiết kiệm nhân công, nâng cao năng suất lao động giúp cho Nhà máy thực hiện được mục tiêu hạ giá thành sản phẩm. * Cần nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho (nhất là tồn kho nguyên vật liệu và thành phẩm) và có biện pháp thu hồi các khoản phải thu (đặc biệt là phải thu khách hàng và phải thu nội bộ là những khoản chiếm tỷ trọng chủ yếu). Hai là, Nhà máy lập kế hoạch, xây dựng dự án khả thi khai thác sử dụng diện tích đất thừa, chẳng hạn: xây nhà xưởng, nhà kho để cho thuê... Ba là, Công ty len Việt Nam nên xác định lại giá trị phần vốn nhà nước tại Nhà máy, đây là việc làm có ý nghĩa quan trọng giúp xác định hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp (vì vốn nhà nước làm mẫu số trong nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhà nước giao của doanh nghiệp nhà nước), đồng thời giúp nhà quản lý tạo cho nhà máy một cơ cấu vốn (nợ-vốn chủ sở hữu) phù hợp. Bốn là, đơn giản hoá và đẩy nhanh việc xử lý những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, thua lỗ kéo dài, tập trung vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Công ty nên tập trung vốn cho các Nhà máy làm ăn có hiệu quả như Nhà máy len Hà Đông, không nên dùng các nguồn lực của Công ty để duy trì sự tồn tại của các Nhà máy làm ăn kém, sắp phá sản. Như vậy chẳng những không cứu được các nhà máy “què quặt” mà ngay những Nhà máy đang làm ăn tốt cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Năm là, chính sách, cơ chế quản lý vốn trong giai đoạn tới phải tạo dựng được môi trường tài chính bình đẳng, lành mạnh, thông thoáng, ổn định cho doanh nghiệp, thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển của doanh nghiệp ngang tầm doanh nghiệp các nước trong khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho nền tài chính quốc gia. Cơ chế tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp đánh giá đúng tình hình thực trạng tài chính của doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khắc phục những khó khăn về tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong quá trình vận dụng các chính sách, chế độ phát hiện những điểm bất cập, Nhà máy cần kiến nghị lên cấp trên điều chỉnh cho phù hợp, chẳng hạn như những quy định về giới hạn số dư tiền gửi, về mức tín dụng thương mại tối đa trong Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam như đã nêu trên... Phía Công ty len Việt Nam cần nghiên cứu để điều chỉnh lại một số quy định không hợp lý trong Quy chế tài chính Công ty. Các cơ quan quản lý cấp trên cũng cần hoàn thiện chế độ, chính sách quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo hướng mở rộng hơn nữa quyền tự chủ về quản lý vốn cho doanh nghiệp, giảm thiểu sự can thiệp của các đơn vị quản lý cấp trên vào hoạt động kinh doanh, công tác quản lý vốn tại doanh nghiệp. Đồng thời phải quy định đầy đủ rõ ràng trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp (mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp phải đi đôi với xác định cụ thể trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp), cần có chế tài nghiêm khắc đối với trường hợp người quản lý doanh nghiệp có quyết định đầu tư không hiệu quả, quản lý và sử dụng tài sản không đúng quy định gây thất thoát vốn. Bên cạnh đó, một số nội dung giữa các điều trong Luật và Nghị định, Nghị định và Thông tư hướng dẫn còn chưa nhất quán cũng cần được điều chỉnh: Luật Nghị định Cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán thiết bị, nhà xưởng quan trọng phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép (khoản 2-điều 6) Cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng bán, thanh lý toàn bộ dây chuyền sản xuất chính phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp (điều 17, 18, 19- Sửa đổi) Doanh nghiệp phải lập quỹ khấu hao cơ bản (khoản 1-điều 8) Không quy định việc lập quỹ khấu hao cơ bản Chia lợi nhuận theo cổ phần (khoản 1-điều 8) Không quy định chia lợi nhuận theo cổ phần Nghị định Thông tư Chỉ quy định: khi thanh lý các loại tài sản quan trọng phải có sự đồng ý của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và cơ quan tài chính Ngoài quy định có sự đồng ý của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và cơ quan tài chính còn quy định khi thanh lý phải có đại diện của hai cơ quan này Không quy định các khoản chi sai về tiền lương, hội họp, tiếp khách phải thu hồi nộp ngân sách Quy định phải thu hồi nộp ngân sách các khoản chi sai này. Nguồn chi sai phải bồi thường Sáu là, thực hiện cơ chế kiểm toán đối với các doanh nghiệp. Thực hiện triệt để cơ chế công khai hoá tài chính doanh nghiệp và vấn đề dân chủ hoá trong doanh nghiệp nhà nước. Qua đó xác định xem doanh nghiệp có nghiêm túc thực hiện các quy định quản lý hay không, kịp thời phát hiện sai phạm để có biện pháp xử lý. Bảy là, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý của cán bộ quản lý các cấp để họ có thêm điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tám là, nghiên cứu tổ chức hệ thống thông tin về hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm nắm bắt, phát hiện kịp thời những khó khăn về công tác quản lý vốn của doanh nghiệp, dự báo đúng đắn khả năng phát triển của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Đồng thời tăng cường biện pháp và công cụ kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh, tình hình quản lý vốn tại các doanh nghiệp nhằm hướng các doanh nghiệp phát triển đúng đắn, ngăn chặn các hoạt động tiêu cực. Chín là, nên thực hiện cổ phần hoá Nhà máy nhằm mục tiêu: + Tạo điều kiện cơ cấu lại Nhà máy len Hà Đông, nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của Nhà máy; + Bảo đảm việc làm cho người lao động; thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động; sử dụng có hiệu quả hơn số tài sản đã đầu tư, khai thác mọi tiềm năng để đầu tư phát tríển sản xuất - kinh doanh; + Giảm bớt chi phí và trách nhiệm điều hành kinh doanh của Nhà nước; đảm bảo lợi ích chung của cả Nhà nước và người lao động. Công ty len Việt Nam lúc đó có thể trở thành một cổ đông của Nhà máy và quản lý phần vốn nhà nước đầu tư vào Nhà máy với tư cách của một cổ đông. Điều này sẽ đảm bảo cho Nhà máy thực sự có quyền chủ động kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính trong cơ chế thị trường. kết luận Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng duy trì cho mình một hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Sự khác nhau giữa các nước chỉ là doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới hình thức nào và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế ra sao. ở Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, song trên thực tế các doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò của chúng. Một trong những biểu hiện minh chứng cho điều này là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung chưa cao (nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài), nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao chưa được thực hiện tốt ở nhiều doanh nghiệp. Xuất phát từ việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về vốn nhà nước và những nội dung chung nhất về công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, chuyên đề đã đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thời gian qua, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông tuy đã đạt được những thành quả nhất định song còn tồn tại không ít hạn chế cả từ phía Nhà máy và phía các cơ quan quản lý cấp trên. Kết quả nghiên cứu này cho thấy công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông cần phải được hoàn thiện. Để thực hiện thành công chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc củng cố lại hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là rất cần thiết. Những đề xuất được đưa ra trong chuyên đề có thể chưa phải là những đề xuất tối ưu và hữu dụng nhất, song việc thực hiện các đề xuất này sẽ góp phần hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông. Danh mục tài liệu tham khảo *** PGS.TS. Lưu Thị Hương (chủ biên), 2002, Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, NXB Giáo dục. PGS.TS.Hoàng Công Thi-Nguyễn Thị Thanh Thảo, 1999, Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc, NXB Tài chính. Tạp chí Tài chính 2/2002, Tạp chí Thông tin tài chính 12/2001, Thời báo kinh tế Việt Nam số 146 ngày 6/12/2000. Luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/04/1995.  Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999 hướng dẫn việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước. Chế độ quản lí, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Ban hành kèm theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính) Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty dệt may Việt Nam. Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam. Báo cáo tài chính của Nhà máy len Hà Đông các năm 2001 và 2002. Biên bản giao vốn cho Nhà máy len Hà Đông ngày 1/7/1999. Biên bản xác định chất lượng vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn kho đến 1/1/2000 của Nhà máy len Hà Đông. Biên bản xử lý công nợ khó đòi năm 2002 của Nhà máy len Hà Đông Mục lục Mở đầu Nội dung Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.2.2. Phân cấp trong quản lý 1.2.3. Tổ chức thực hiện Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 1.3.1. Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp 1.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý 1.3.3. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan 1.3.4. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý 1.3.5. Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len hà đông 2.1. Tổng quan Nhà máy len Hà Đông 2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển 2.1.2. Bộ máy quản lý 2.1.3. Đặc điểm tổ chức hệ thống sản xuất và tiêu thụ 2.2. Thực trạng quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông 2.2.1. Cơ sở thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông 2.2.2. Tổ chức thực hiện 2.3. Những đánh giá chung 2.3.1. Thành tựu 2.3.2. Hạn chế 2.3.3. Nguyên nhân chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại nhà máy len hà đông Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24107.doc