Phần A: Lời nói đầu
B- Nội dung
I - Tính tất yếu khách quan của việc quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của nhà nước.
1.1.Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong lịch sử :
Trong lịch sử bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định. Tuy nhiên vai trò kinh tế của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử không giống nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, vai trò đó chủ yếu nhằm bảo vệ sở hữu nô lệ và phong kiến về tư liệu s
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước và mục tiêu, chức năng QLVM của NN. Các công cụ QLVM. Ý nghĩa và những đề xuất cá nhân.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất, thực hiện quyền sở hữu về mọi mặt kinh tế cho giai cấp thống trị.
Dưới chủ nghĩa tư bản với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, tính chất xã hội hoá sản xuất và tính năng động của nền kinh tế ngày càng cao làm cho vai trò kinh tế của Nhà nước tăng lên. Tuy nhiên, theo Ănghen "Nhà nước chỉ là kẻ canh gác tài sản cho giai cấp tư sản". Cùng với quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, Nhà nước tư bản thực hiện một chính sách tiền tệ nghiêm ngặt : buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước của họ, lập hàng rào thuế quan, đánh thuế nhập khẩu cao, xuất khẩu thấp, quy định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái... Nhờ đó giai cấp tư sản tích luỹ được lượng của cải, tiền tệ lớn.
1.2. Các học thuyết kinh tế và vai trò thị trường và Nhà nước trong nền kinh tế:
Thế kỷ XVII, với việc áp dụng kĩ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển nhanh, do sự cạnh tranh phát triển. Nhiều học thuyết kinh tế ra đời từ thời kỳ này.
Chủ nghĩa trọng thương ra đời trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản khi nền kinh tế hàng hoá và ngoại thương phát triển mạnh (thế kỷ XV-XVII), là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản. Các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa trọng thương đánh giá cao vai trò và các chính sách kinh tế của Nhà nước. Theo họ chỉ có thể dựa vào Nhà nước mới có thể phát triển kinh tế được. Nhà nước phải quan tâm tới các chính sách tiền tệ, thúc đẩy tích luỹ tiền tệ.
Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế nổi tiếng người Anh. Ông đưa ra thuyết "Bàn tay vô hình" và nguyên lý "Nhà nước không can thiệp " vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông sự phảttiển kinh tế cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế thị trường là do các quy luật khách quan tự ohát chi phối:Sự vận động thị trường là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị truờng quyết định,quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế, mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích của bản thân, song"Bàn tay vô hình" chi phối buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội, và để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường mà chỉ nên thực hiện một số nhhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như: làm đường, xây bến cảng, đào kênh lớn, đánh giặc...
Các nhà kinh tế học của trường phái cổ điển mới đã kế thừa và phát triển tư tưởng"Bàn tay vô hình" của Adam Smith. Leon Walras (1834-1910) đại biểu của trường phái thành Lausanne(Thuỵ Sĩ) đã đưa ra lý thuyết về cân bằng tổng quát:Trạng thái cân bằng của thị trường là do tự nó xác lập mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã chứng tỏ lý thuyết về "Bàn tay vô hình" của Adam Smith và lý thuyết "Cân bằng tổng quát " của Leon Walras tỏ ra kém hiệu nghiệm, thiếu tính xác đáng và không bảo đảm kinh tế phát triển lành mạnh.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thì việc đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế ngày càng tăng.Trường phái Keynes ra đời. Theo Keynes (1884-1946) muốn thoát khỏi khủng hoảng, nhất thiết Nhà nước phải điều tiết kinh tế :duy trì cầu đầu tư bằng cách kích thích đầu tư tư nhân tăng cường đưa tiền vào lưu thông, thực hiện lạm phát có mức độ, bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách in thêm tiền, xây dựng hệ thống thuế, công trái... Trong một thời gian dài, lý thuyết của Keynes được các Nhà nước tư bản phát triển vận dụng rộng rãi tuy nhiên nó cũng có hạn chế : trong những năm thực hiện lý thuyết của Keynes thì 4 năm một lần có chấn động kinh tế, thất nghiệp, lạm phát tăng nhanh.
Trong khi đó, Paul.A.Samuelson thuộc trường phái hiện đại, chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay cơ chế thị trường và nhà nước. Theo ông "Điều hành nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một tay". Để đối phó với những khuyết tật của cơ chế thị trường, kinh tế hiện đại phải phối hợp giữa "Bàn tay vô hình" với "Bàn tay hữu hình" của thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
2) Sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.1 Cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
Sau khi kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Với sự lỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác, mô hình kinh tế hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để phát triển và ổn định nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta tỏ ra phù hợp, nó tạo ra một bước chuyển biến về mặt kinh tế, xã hội, đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chến thắng vĩ đại của dân tộc bởi nó cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Tuy nhiên sau ngày giải phóng miền Nam do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều nên việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ làm xuất hiện nhiều tiêu cực, đó là:
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính, mang tính tổ chức hình thức. Nhiều nơi không nắm vững nguyên tắc động viên tự nguyện và làm đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất, coi nhẹ hiệu quả kinh tế xã hội.
Không xác định rõ và can thiệp không đúng vào quyền tự chủ về kinh tế-tài chính, quyền chủ động sáng tạo của cấp dưới, không gắn nghĩa vụ với quyền lợi, trách nhiệm với quyền hạn, lợi ích với kết quả cuối cùng.
Coi nhẹ và không vận dụng các quy luật kinh tế trong tổng thể hệ thống các quy luật khách quan, tồn tại trong nền kinh tế, có thời gian dài, nặng về kế hoạch hoá tập trung, không gắn kế hoạch sản xuất với thị trường, kìm hãm sản xuất và lưu thông, coi nhẹ các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan niệm còn đơn giản về CNXH, quản lý nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh, không đảm bảo quan hệ thích đáng giữa ba lợi ích: xã hội - tập thể - người lao động làm cho xã hội thiếu động lực phát triển hay phát triển không lành mạnh.
Các cấp, nghành thường ỷ vào ngân sách Nhà nước vào trung ương, cấp dưới ỷ vào cấp trên, vừa gây lãng phí vừa hạn chế sự lăng động của cơ sở.
Bộ máy quản lý Nhà nước cồng kềnh, chồng chéo, quan liêu. Đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước thiếu hiểu biết về Nhà nước, pháp luật, không sâu sát cơ sở, kém năng động. Bộ phận kém phẩm chất đẻ ra nạn tham nhũng buôn lậu.
Nghị quyết đại hội VI của Đảng khẳng định:"Xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc dân chủ, phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH".
Nghị quyết đại hội Đảng VII đã tiếp tục xác định và cụ thể hoá phương hướng, nhiệm vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ cơ chế cũ "phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước".
2.2 Cơ chế thị trường :
a. Khái niệm và các yếu tố của cơ chế thị trường :
* Khái niệm :
Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và quy luật chi phối sự vận động của thị trường .
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đố cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là : Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?(phân phối cho ai?).
Cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. Cơ chế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua giá cả thị trường.
* Các yếu tố của cơ chế thị trường :
+) Hàng hoá : gồm hàng tiêu dùng và dịch vụ các yếu tố sản xuất (lao động, tư bản) từ đó hình thành lên hai thị trường chủ yếu là thị trường hàng tiêu dùng và thị trường các yếu tố sản xuất.
+) Người bán và người mua : Hai loại người này trên thị trường luôn luôn tác động tới nhau để xác định hai yếu tố giá cả hàng hoá và số lượng hàng hoá bán trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường, có một hệ thống tự tạo ra sự cân đối giữa giá cả và sản xuất, giá cả là phương tiện phát tín hiệu của xã hội, giúp người sản xuất trả lời một cách chính xác ba câu hỏi trên của một tổ chức kinh tế. Trong cơ chế thị trường động lực hoạt động của các thành viên là lợi nhuận. Cơ chế thị trường dùng lỗ lãi để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản. Đặc trưng của cơ chế thị trường là sự tự vận động theo các quy luật vốn có của nó như quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... Các quy luật này có giá trị, vai trò độc lập nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra những nguyên tắc vận động của thị trường.
b. Ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường :
b.1. Cơ chế thị trường có tính ưu việt và có những vai trò to lớn:
Thứ nhất : Do có động cơ lợi nhuận nên cơ chế thị trường thúc đẩy mọi người tích cực, năng động hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm cách rút ngắn chu kì sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, áp dụng nhanh chóng công nghệ mới vào sản xuất, thay đổi mẫu mã, tìm thị trường mới, tìm cách đạt được lợi nhuận tối đa...
Thứ hai : Cơ chế thị trường bảo đảm cho các nhà sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng được tự do lựa chọn và quyết định việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng do đó thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất-tinh thần và sự phát triển toàn diện của xã hội.
Thứ ba : Cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết thị trường và quan hệ cung-cầu, sàng lọc tự nhiên đối với sản phẩm, doanh nghiệp và con người qua đó có thể tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng các nhà kinh doanh, nhà quản lý và người lao động, góp phần tăng trưởngkinh tế và tiến bộ xã hội.
b.2. Hạn chế :
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cơ chế thị trường vẫn còn có những mặt tích cực :
Cơ chế thị trường là sự điều tiết các quan hệ sản xuất mang tính tự phát và mù quáng. Tình tự phát triển của thị trường dẫn đến tập trung hoá cao, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh của nền kinh tế.
Nhà kinh doanh chỉ chạy theo mục tiêu lợi nhuận đơn thuần, chỉ chú ý giải quyết những vấn đề kinh tế mà ít chú ý đến vấn đề xã hội.
Sự tìm kiếm lợi nhuận với bất kì giá nào có thể dẫn đến không đi đúng hướng của kế hoạch nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường "Cá lớn nuốt cá bé" dẫn đến sự phân hoá giầu nghèo trong đời sống xã hội, là cơ sở của việc phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội, các thủ đoạn, mánh khoé bẩn thỉu như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... nhằm thu lợi bất chính.
Ngoài ra để thu lợi cho mình người ta sẵn sàng tàn phá, sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
Vì lợi nhuận, hàng hoá công cộng dù cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp nên không được sản xuất, yêu cầu về an ninh quốc phòng không được giải quyết thoả đáng.
3)Vai trò của Nhà nước ta hiện nay:
Do tính tự phát của kinh tế thị trường nên cơ chế thị trường chỉ dẫn đến sự năng động, tăng trưởng và tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng, xung đột xã hội. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước. Ngày nay, bất kỳ Nhà nước nào cũng phải can thiệp vào nền kinh tế thị trường, phải thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế ở những mức độ khác nhau. Nếu Nhà nước biết phát huy tối đa mặt tích cực và ưu điểm của cơ chế thị trường đồng thời hạn chế và ngăn chặn những mặt tiêu cực của nó thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, còn ngược lại sẽ kìm hãm hoặc làm cho kinh tế phát triển theo hướng trái với mục tiêu mong muốn.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn thấp, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, các ưu thế chưa được thể hiện đầy đủ, các khuyết tật có cơ hội nảy sinh, Nhà nước cần tăng cường điều chỉnh, quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách cương quyết, khôn khéo để đưa mọi hoạt động vào khuân khổ và tuân theo pháp lý. Nhà nước phải sử dụng có ý thức các quy luật kinh tế khách quan vào quản lý nền kinh tế thị trường để phát huy những ưu thế vốn có, hạn chế các khuyết tật của nó. Việc sử dụng "Bàn tay hữu hình" của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo ra hành lang và bước đi cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.
Đối với nước ta hiện nay, sự quản lý của Nhà nước không chỉ nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, sớm ra khỏi khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục tiêu : dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, mà còn phải đảm bảo định hướng XHCN tức là gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, xây dựng một xã hội văn minh.
II - Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.Mục tiêu :
Từ kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường có định hướng phải trải qua những bước cụ thể và phải có mục tiêu để hướng tới. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ mục tiêu của Đảng, nhà nước và nhân dân ta giai đoạn 1995-2000 là chuẩn bị và tạo điều kiện vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỉ 21.
1.1. Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9-10% nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đến năm 2000 GDP bình quân đầu người đạt 400-500 USD.
Tránh những cơn khủng hoảng thiếu hoặc thừa, những đợt suy thoái, những cơn lạm phát, giảm phát mạnh. Duy trì lạm phát ở một con số, chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/ năm.
Tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5%, tăng thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn trên 75%.
1.2. Đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế nhằm giải quyết bài toán mâu thuẫn giữa tài nguyên quốc gia có hạn trong khi nhu cầu của nền kinh tế gần như vô hạn. Khai thác thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành tạo ra sự phát triển hài hoà giữa các vùng lãnh thổ.
1.3. Bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội. Mang lại sự công bằng về quyền lợi, nhiệm vụ và giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành viên trong nền kinh tế nhằm tạo sự bình đẳng giữa các chủ kinh tế. Giảm bớt hiện tượng phân hoá xã hội tạo điều kiện phát triển ở cả nông thôn và thành thị, thu hẹp khoảng cách giầu nghèo, nâng cao dân trí cho mội người để họ có thể sống bình đẳng, tham gia phát triển đất nước.
1.4. Cải thiện cán cân xuất nhập khẩu. Tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến, hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước có thể sản xuất được. Tăng tích luỹ từ nội bộ kinh tế.
1.5. Ngăn chặn và làm giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp. Đẩy lùi tham nhũng, tệ nạn xã hội, văn hoá độc hại. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Mặt khác ở nước ta Nhà nước can thiệp vào kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo đúng hướng XHCN.
2.Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thực hiện thông qua 4 chức năng sau:
2.1.Thiết lập khuôn khổ pháp luật :
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. ở đây Nhà nước đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng, ban quản lý và các luật lệ để xác định môi trường kinh tế. Về nhiều mặt các quyết định nằm trong khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần.
2.2.Hiệu quả.(Chức năng sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả).
Chức năng này nhằm hạn chế ảnh hưởng của độc quyền, tình trạng vô chính phủ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp ô nhiễm môi trường...
a). Những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó không hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Lợi dụng ưu thế của mình các tổ chức độc quyền quy định giá cả để thu lợi nhuận do vậy phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hoàn hảo, Nhà nước phải can thiệp để hạn chế độc quyền đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường trong nền kinh tế .
b) Những tác động bên ngoài cũng dẫn đên tính không hiệu quả của hoạt động thị trường đòi hỏi Nhà nước can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp hoặc cho người khác mà các doanh nghiệp hoặc cho người khác mà các doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không nhận được lợi ích mà lẽ ra được hưởng.
Vì vậy Nhà nước sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như một phương pháp
c). Nhà nước phải đảm bảo nhiệm vụ sản xuất hàng hoá công cộng. ích lợi của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau. Nhìn chung lợi ích giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ vì vậy mà tư nhân không muốn sản xuất hàng hoá công cộng. Mặt khác có nhiều hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như quốc phòng, luật pháp nên không thể giao cho tư nhân được.
d) Thuế: Thực tế chi phí của chính phủ phải được trả bằng thuế. Tất cả mọi người đều bắt buộc chịu theo luật thuế: Phải nộp thuế và được hưởng theo phần hàng công cộng do chính phủ cấp.
2.3.Đảm bảo sự công bằng :
Mục đích của chức năng này là vừa để đảm bảo tính công bằng xã hội vừa không làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất, kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, Nhà nước cần tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngang nhau và được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và đóng góp của mình.
Hệ thống thị trường dù hiệu quả vẫn gây ra bất bình đẳng vì vậy chính phủ cần có chính sách phân phối thu nhập như thuế thu nhập, hệ thống hỗ trợ thu nhập cho người già, người tàn tật, trợ cấp tiêu dùng cho nhóm có thu nhập thấp...
2.4.ổn định kinh tế vĩ mô :
Việc sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính có thể làm ảnh hưởng tới sản lượng, việc làm và lạm phát. Quyền lực tài chính của Nhà nước là đánh thuế và chi tiêu. Quyền lực về tiền tệ bao gồm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng.
Bằng hai công cụ trung tâm này của chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước có thể ảnh hưởng đến sản lượng, công ăn việc làm, giá cả của nền kinh tế nhờ đó thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
III - Các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước .
Để thực hiện chức năng quản lý thị trường Nhà nước cần có các công cụ chủ yếu sau :
1.Hệ thống luật pháp
Luật pháp là một công cụ thúc đẩy các quan hệ kinh tế xã hội phát triển. Bất kỳ quan hệ kinh tế nào trong xã hội cũng được điều chỉnh bằng pháp luật như V.I.Lenin đã chỉ rõ "Luật pháp ghi nhận về mặt pháp lý chính sách kinh tế xã hội ở mức lớn hơn cho phép loại trừ những sai lệch của nó".
Khi chuyển sang cơ chế thị trường quản lý Nhà nước về kinh tế trước hết là quản lý bằng pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế trước hết phải được thể chế hoá bằng pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường, bãi bỏ và thay thế các điều luật và hệ thống dưới luật được ban hành trong thời kì tập trung quan liêu bao cấp, từng bước ban hành và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp phục vụ cho quản lý kinh tế.
Nhờ có pháp luật làm chuẩn mực cho hoạt động của các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước mà trật tự và kỷ cương trong nền kinh tế đã được xác lập.
Pháp luật kinh tế cần phải chứa đựng nội dung kinh tế, các quan hệ cũng như lợi ích kinh tế và phải phản ánh đúng quy luật khách quan, thể hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng cũng như quyền làm chủ của nhân dân lao động. Cùng với việc ban hành pháp luật nhất thiết phải tiến hành giáo dục phổ biến ý thức tôn trọng pháp luật, thi hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Nhìn chung hệ thống pháp luật ở nước ta còn chưa đầy đủ, đồng bộ và còn một số điểm chưa phù hợp với thực tế. Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm làm hạn chế việc thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Vì vậy đòi hỏi tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật cho phù hợp và đáp ứng với yêu cầu đổi mới trên một số lĩnh vực: luật và thuế, luật đầu tư, luật thương mại, ngân sách...
2. Sử dụng công tác kế hoạch hoá :
Trong cơ chế thị trường, kế hoạch hoá vẫn là một công cụ vô cùng quan trọng nhưng cũng cần luôn đổi mới, nâng cao chất lượng. Thị trường phải là đối tượng, căn cứ của kế hoạch. Kế hoạch vĩ mô của Nhà nước cần được đổi mới cơ bản theo các hướng. Nhà nước đảm bảo tính định hướng, hướng dẫn cho hoạt động kinh tế của các ngành, các cấp và các đơn vị kinh tế, xây dựng và thực hiện các mục tiêu chiến lược của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển ổn định và có hiệu quả của nền kinh tế, gắn việc xây dựng, thực hiện với các chính sách và đòn bẩy kinh tế, với việc hướng dẫn các thông tin kinh tế, khoa họcvà công nghệ.
ở nước ta, kế hoạch hoá trước hết là xây dựng kế hoạch thành những phương án cụ thể hoá đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Công tác kế hoạch hoá hiện nay đang chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kế hoạch hoá định hướng. Nhà nước với tư cách là cơ quan hành pháp phải đưa ra những sáng kiến, những định hướng về khả năng phát triển kinh tế bằng chiến lược, chính sách, pháp luật... đồng thời từ thông tin phản hồi của thị trường tiến hành điều chỉnh thay đổi các chính sách và công cụ kinh tế để đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy thị trường là đối tượng và căn cứ của kế hoạch hoá. Trong những năm tới cần nâng cao vai trò thông tin, dự báo, hướng dẫn của kế hoạch hoá, kế hoạch hoá tiến tới bao quát đầy đủ các đối tượng của kinh tế xã hội.
3. Sử dụng chính sách tiền tệ tài chính tín dụng:
Chính sách tài chính, tiền tệ là một trong những công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ, giữ vững giá trị đồng tiền, thu hút vốn trong nhân dân vào kinh doanh, phân phối thu nhập quốc dân hợp lý, nâng cao tỷ lệ tích luỹ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cân bằng thu và chi tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước.
Công cụ quan trọng nhất để Nhà nước kiểm soát, điều tiết sản xuất kinh doanh và điều tiết thu nhập dân cư.
ở Việt Nam, sau nhiều năm đổi mới lòng tin của nhân dân vào đồng tiền Việt Nam dần dần được khôi phục, tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài...
Tích luỹ đầu tư cả nước năm 1993 là 2 tỷ USD bằng 17,6% GDP (những năm trước là 11-12%).
Chặn đứng lạm phát phi mã (700-800%) vào những năm 1986-1987, từng bước đẩy lùi và kiềm chế lạm phát xuống còn 4,5% vào năm 1996 và 1,3% vào năm 1997. Tuy nhiên chính sách tài chính tiền tệ còn nhiều hạn chế cần khắc phục như : hệ thống thuế chưa hoàn chỉnh còn phức tạp, dàn trải, công cụ tiền tệ như tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc chưa được sử dụng tốt.
Ngoài ra, còn phải kể đến chính sách về thu nhập, về xuất khẩu:
Về thu nhập: Phân phối thu nhập công bằng hiệu quả sẽ tạo động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do vậy phải phân phối thu nhập đúng đắn theo quan điểm thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất, kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội.
Về xuất nhập khẩu : Ngoại thương làm tăng của cải và sức mạnh tổng hợp của đất nước. Điều tiết thiếu thừa bằng cách xuất khẩu những sản phẩm trong nước có ưu thế và thừa, nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước thiếu, không sản xuất được, nâng cao trình độ, kỹ thuật sản xuất trong nước.
4. Các công cụ khác :
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay lực lượng kinh tế quốc dân được coi là một công cụ điều tiết kinh tế vi mô của Nhà nước. Kinh tế quốc dân có tác dụng điều phối nền kinh tế, có khả năng làm chủ và điều phối thị trường. Nhà nước cần nắm lực lượng dự trữ quốc gia bao gồm: Ngân sách, vàng, ngoại tệ và các hàng hoá dự trữ chiến lược như xăng dầu, lương thực... để can thiệp vào thị trường khi cần thiết nhằm giảm nhẹ các cơn sốt và ổn định thị trường.
Doanh nghiệp Nhà nước là nơi nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước cần nắm và có cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước làm cho chúng thành những công cụ khác để quản lý nền kinh tế thị trường như hệ thống thông tin kinh tế, thống kê, kế toán, lực lượng kiểm tra, kiểm soát gồm: thuế quan, hải quan, công an, toà án... tất nhiên các công cụ này cần được đổi mới, kiện toàn và lành mạnh hoá để phát huy tác dụng tích cực trong nhiệm vụ quản lý Nhà nước với thị trường.
IV - ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu và những đề xuất cá nhân:
1. ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Trong nền kinh tế hiện đại và ở các mức độ khác nhau, cơ chế điều tiết kinh tế có hiệu quả là cơ chế thị trường có quản lý vĩ mô của Nhà nước hay là cơ chế kinh tế hỗn hợp.
Việc vận dụng cơ chế kinh tế hỗn hợp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nước, vào hệ tư tưởng và quan điểm phát triển được nghiên cứu của mỗi dân tộc. Về nguyên tắc, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường nhưng lại không có mô hình, công thức chung nào có thể áp dụng cho toàn thế giới. Vì vậy, phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mình mà mỗi nước phải tự tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền kinh tế hiện đại theo một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường. Tuy nhiên, cho dù Nhà nước có can thiệp thành công vào hoạt động của thị trường nhưng cũng có lúc nền kinh tế "co giật" bất ngờ, điềuđó đòi hỏi Nhà nước phải thường xuyên thay đổi phương thức và công cụ điều tiết, phản ứng linh hoạt trước sự biến đổi hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Hiện nay việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường XHCN đang là nhiệm vụ trung tâm của các nước XHCN trong lĩnh vực kinh tế. Đây là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi phải nghiên cứu để giải quyết sáng tạo hàng loạt vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên trong thời đại của thông tin và khoa học kỹ thuật tiên tiến mỗi nước có thể rút ngắn qúa trình thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kinh tế bằng cách học tập kinh nghiệm, cách làm của các nước khác để giải quyết từng bước vấn đề trong điều kiện cụ thể của nước mình, sáng tạo cách làm có hiệu quả nhất.
2. ý kiến cá nhân :
Việc xây dựng mô hình quản lý ở Việt Nam cho phù với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một vấn đề vô cùng quan trọng trong chiến lược đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đối với nước ta việc quản lý kinh tế trong giai đoạn này là mới mẻ, phức tạp và đây thử thách. Chính vì vậy, sinh viên trường Đại học Luật nên nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc để sau này tham gia quản lý kinh tế có hiệu quả, phục vụ cho công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Đối với các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng như những nhà quản lý kinh doanh thì vấn đề này cũng đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cưú sâu hơn để đề ra các biện pháp quản lý kinh tế sao cho có hiệu quả, kịp thời với những tình huống của nền kinh tế. Qua nghiên cứu vấn đề này, em thấy vai trò quản lý của Nhà nước là rất cần thiết, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh," Dân mới giầu, nước mới mạnh " như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường mới được hình thành ở nước ta, việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước là rất quan trọng. Muốn vậy chung ta phải thực hiện các biện pháp sau:
Phát triển một nền kinh tế đồng bộ, lành mạnh, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả, phát triển thị trường tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng khoán, đặc biệt quan tâm đến thị trường nông thôn, đảm bảo đầu vào, đầu ra cho sản xuất Nhà nước, tạo điều kiện tiêu thụ nông sản, hàng hoá, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế được tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, tránh độc quyền. Điều chỉnh khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, đảm nhiệm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường:
Quản lý Nhà nước về kinh tế phải tập trung chủ yếu vào quản lý vĩ mô, tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường, bảo đảm sự tăng trưởng của nền kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Ngoài ra chính quyền các cấp phải tăng cường quản lý đối với các loại hình kinh doanh, chủ thể kinh doanh mà không phân biệt các thành phần kinh tế.
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, đảm bảo tính nhạy bén, phù hợp với sự biến động của thị trường, nâng cao hiệu quả quản lý.
Trên cơ sở phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế, chức năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế phải được sắp xếp lại và kiện toàn theo hướng giảm bớt khâu trung gian, tinh giảm biên chế, đảm bảo chất lượng.
Đồng thời phải đổi mới chế độ làm việc, xây dựng quy chế công chức, đổi mới phong cách, phương pháp làm việc, ý thức trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, thoái hoá biến chất.
Tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ viên chức Nhà nước làm công tác quản lý kinh tế và đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải đổi mới chương trình phương pháp đào tạo, gắn lý luận với thực tiễn, có quá trình rèn luyện, thử thách đối với đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Đi đôi với nó cần phải có chính sách bố trí, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng thoả đáng để khuyến khích tính tự chủ, sáng tạo và ý thức tự giác của cán bộ quản lý kinh tế.
C - Kết luận
Nền kinh tế hỗn hợp là xu thế tất yếu của mọi nền kinh tế trên thế gi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29333.doc