Quản lý tiền gửi ở các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta dần được cải thiện, Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực, cùng với đó là các chính sách của Nhà nước về khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nên ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập và mở rộng kinh doanh, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đã tăng lên. Hiện nay ở nước ta, thị trường tài chính chưa phải là kênh phân bổ vốn một cách có hiệu quả, do đó vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất ki

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý tiền gửi ở các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với vai trò là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại (NHTM) đã trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Vậy NHTM dựa trên cơ sở nào để cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đó chính là Tiền Gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng (NH). Xuất phát từ vai trò quan trọng của Tiền gửi đối với mỗi NH nói riêng, cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, nên em chọn đề tài “Quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam” để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NH là rất đa dạng và phong phú. Do còn thiếu kinh nghiệm nghiên cứu nên đề án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của cô. Em xin chân thành cảm ơn cô. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TIỀN GỬI Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1.1: Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại 1.1.1: Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các Ngân Hàng Thương Mại 1.1.1.1: Khái niệm Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu của nghiệp vụ tiền gửi là việc nhờ bảo quản những đồng tiền vàng. Người chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được chuyển giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhân bảo quản đó, và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi tiền. Dần dần xã hội phát triển để tạo điều kiện mà người gửi tiền không yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng dựa vào vốn tự có, thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời phải chú ý tới những điều kiện gửi tiền. Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn nghĩa + Đối với người gửi tiền, ý nghĩa của tiền gửi phụ thuộc vào mục đích sử dụng của người gửi tiền, có thể tập hợp vào hai trường hợp: - Khách hàng gửi tiền xin mở tài khoản để hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng cung cấp cho họ. Tiền gửi ở đây là số tiền được gửi vào để sử dụng cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc do các nghiệp vụ phát sinh từ trước còn lại. - Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn. + Đối với Ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp cho các nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau, nhưng nó chú trọng nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu: Tiền gửi của doanh nhân & Tiền gửi của dân cư. Như vậy ta có thể hiểu: “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền” Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NH. Như vậy, về phương diện pháp lý, người gửi tiền có quyền lựa chọn các loại tiền gửi theo yêu cầu và được hưởng các dịch vụ ngân quỹ do ngân hàng cung ứng hoặc được hưởng lãi suất, đồng thời có nghĩa vụ để ngân hàng tuỳ nghi sử dụng các số tiền gửi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào thời điểm mà người gửi yêu cầu (đối với loại tiền gửi không kỳ hạn) hoặc vào ngày đáo hạn đối với loại tiền gửi có kỳ hạn 1.1.1.2: Đặc điểm Tiền gửi phải được thanh toán khi có sự yêu cầu của khách hàng, ngay cả khi đó là tiền gửi có ki hạn chưa đến hạn.Giao dịch nhận tiền gửi của NH được hiểu là cam kết song phương giữa NHTM với khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng tài khoản tiền gửi.Giai đoạn đầu, nó chỉ đơn thuần là một hợp đồng dịch vụ gửi giữ tài sản,theo đó NH đóng vai trò là bên nhận gửi giữ để được nhận thù lao. Về sau,do nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế, giữa NH và khách hàng cóthêm thoả thuận NH có thể sử dụng chính số tiền này để đầu tư nhằm mục đích sinh lợi, với điều kiện là phải hoàn trả cho người sử dụng toàn bộ số vốn đã sử dụng kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ thuộc vào thời gian mà NH giữ khoản tiền đó. Việc NH giữ các khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một nghiệp vụ giữ hộ tài sản hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay của NHTM từ nền kinh tế. Do đó khi người gửi tiền yêu cầu thanh toán thì NH buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng. Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. “Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn trả lãi cho tiền gửi. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay. 1.1.2: Vai trò của tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại Các khách hàng thông qua việc mở tài khoản để được ngân hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh chóng và an toàn. Những nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm trách sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian. Về phía ngân hàng, qua nghiệp vụ này, cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài khoản và một lệ phí nhất định. Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để thuận tiện chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài chính có sinh lời Đối với các NHTM, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính cho các khoản cho vay của NHTM, là nguồn gốc xâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khả năng huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn thu được một khoản lệ phí nhất định. 1.2: Quản lý nguồn tiền gửi 1.2.1: Quản lý lãi suất 1.2.1.1: Định nghĩa Quản lý lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của NH 1.2.1.2: Nguyên nhân phải quản lý lãi suất Hiện nay, hầu hết các NH ở Việt Nam cũng như trên thế giới đang phải đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về phía mình trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi, một loại nguồn vốn chủ yếu của NH. Một mặt, NH phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút và phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao bởi điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của NH. NH thường phải lựa chọn giữa 2 mục tiêu tăng trưởng và khả năng sinh lời. Trả lãi quá cao cho các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác giúp cho NH tăng trưởng nhanh, nhưng chiến lược cạnh tranh này khiến cho lợi nhuận của NH suy giảm nghiêm trọng. Do đó phải quản lý lãi suất và đưa ra được mức lãi suất phù hợp. NH không thể tự xác định mức lãi suất hoặc dự đoán chắc chắn về xu hướng vận động của lãi suất Một lãi suất hợp lý (cao hoặc thấp) đều có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của DN. Khi lãi suất quá cao, các DN sẽ không dám vay vốn của NH, nhiều dự án có hiệu quả cao sẽ không được thực thi, nhiều cơ hội kinh doanh của DN sẽ bị mai một mất. Khi đó nguồn vốn NH sẽ ứ đọng, dẫn đến giảm sút lợi nhuận, thậm chí là thua lỗ. Ngược lại, nếu lãi suất quy định quá thấp, các DN sẽ dễ dàng vay được vốn, thậm chí vay vốn không sử dụng đúng mục đích, dẫn đến sử dụng vốn lãng phí, không hiệu quả. Sự rủi ro của DN sẽ kéo theo sự rủi ro của NH và ảnh hưởng không ít đến cả sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, NH cần phải có sự quản lý lãi suất. Với một lãi suất hợp lý cho phép các DN tính toán được lợi nhuận thu về từ các dự án khả thi vì vậy sẽ chiếm lĩnh được cơ hội kinh doanh. Đồng thời với một lãi suất hợp lý, DN sẽ có lợi nhuận sau khi trừ chi phí lãi tiền vay, kích thích các DN mở rộng danh mục đầu tư, thực hiện tái sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động của DN. 1.2.1.3: Mục tiêu quản lý Mục tiêu quản lý lãi suất là nhằm hạn chế tối đa tổn thất về thu nhập do sự thay đổi của lãi suất thị trường, hay nói cách khác khi lãi suất thị trường thay đổi sẽ không ảnh hưởng đến mức chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi và giá trị vốn chủ sở hữu. 1.2.1.4: Các cách quản lý lãi suất * Cố định lãi suất: Đây là cách làm cổ điển nhất. NH đưa ra thang lãi suất đã lập sẵn để thông báo cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từ NH hoặc gửi tiền cho NH. - Ưu điểm: + Ngân hàng ước tính được khá chính xác lợi nhuận từ mỗi khoản cho vay + Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gửi và các loại tài sản nợ khác - Nhược điểm: + Việc làm này, ngân hàng đã tự hạn chế mình về khả năng cho vay và đầu tư -> xảy ra tình trạng thừa vốn mà không thể hoặc không dám đầu tư. + Làm mất khả năng thương lượng vốn giữa người vay và người muốn cho vay (NH) + Ngân hàng phải chạy theo khách hàng + Khả năng rủi ro trong cho vay lớn hơn + Khó đầu tư vào chứng khoán và lãi suất chứng khoán do cung cầu quyết định * Thả nổi lãi suất: Khi NH thực hiện thả nổi lãi suất, NH quản lý được tài sản và lợi nhuận theo hướng thương lượng giữa NH và khách hàng. Sẽ có nhiều khách hàng tìm đến với NH hơn và NH sẽ có nhiều cơ hội tạo lợi nhuận hơn. * Kết hợp cả 2 phương pháp quản lý trên => Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của các NHTM. Việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi nhuận của NH. Do vậy, quản lý lãi suất tiền gửi và các chính sách có liên quan phù hợp sẽ tạo điều kiện cho NH tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội với chi phí thấp nhất. Lãi suất NH luôn đổi mới theo hướng đa dạng hoá, linh hoạt nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tối thiểu hoá chi phí đầu vào, hạ thấp chi phí đầu ra, góp phần tối đa hoá lợi nhuận. Không nên có bảng lãi suất cố định cho tất cả mọi khách hàng. Điều đó sẽ không thu hút được các khách hàng làm ăn tốt và thông thường, khách hàng làm ăn tốt sẽ mang lại nhiều khoản lợi tức ngoài lợi tức cho vay. 1.2.2: Quản lý quy mô và cơ cấu Quản lý quy mô và cơ cấu nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng quy mô và thay đổi cơ cấu một cách có hiệu quả nhất. Gia tăng nguồn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của NH, là điều kiện để NH mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nợ ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của NH. 1.2.2.1: Nội dung quản lý * Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay vòng của mỗi loại. Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lý nghiên cứu mối liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính của thị trường nguồn của NH. Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của NH có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các NH lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các NH nhỏ. Những NH ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với NH ở xa. * Phân tích kỹ các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng). Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để NH đưa ra quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền. Vào gần dịp Tết, quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối, hoặc nếu NH phục vụ chủ yếu cho các DN xây dựng, tiền gửi của họ tăng giảm nhiều phụ thuộc vào mùa xây dựng. Từ thực tế đó, các nhà quản lý NH cần chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các khách hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng phục vụ kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ thể. Các nhà quản lý cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các NH khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ. * Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng. Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các DN và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị… 1.2.3: Quản lý kỳ hạn 1.2.3.1: Định nghĩa Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn. 1.2.3.2: Nội dung quản lý * Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng Ví dụ: Trong tiền gửi tiết kiệm có: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, tiền gửi kỳ hạn 6 tháng. Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất định, theo xu hướng, nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong trường hợp bình thường (tức không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số người gửi rút tiền ra trước hạn, song nhìn chung mọi người gửi đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa để được hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. => Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho NH * Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng - Định nghĩa: Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị ngân hàng - Ví dụ: Nhiều người gửi tiết kiệm tại một NH với kỳ hạn danh nghĩa 6 tháng, song khoản tiền gửi có thể được duy tr. nhiều lần 6 tháng (các kỳ hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi NH) và trên thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn. * Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn. Một nguồn tiền nào đó trong NH được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản huy động và đi vay. Một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để NH quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn. => Quản lý kỳ hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan tới không chỉ tăng quy mô của nguồn mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các NH, tính ổn định trong từng NH. Lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm, chi phí, vừa lại tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lý nguồn vốn của NH. 1.2.4: Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, NH thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán. Sự ổn định của hệ thống NH liên quan chặt chẽ tới khả năng cung cấp thanh khoản của nó. 1.2.4.1: Tính thanh khoản của nguồn vốn * Nhu cầu thanh khoản từ phía nguồn vốn - Nhu cầu rút tiền của người gửi: các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác… - Các khoản tiền vay đến hạn trả - Lãi cho các khoản tiền gửi. * Cung thanh khoản từ phía nguồn vốn: Khả năng huy động mới nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng * Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản: - Nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền: bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính. - Nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng: tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng. - Nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động… - Nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân NH: cán bộ, công nghệ, thị phần… * Rủi ro thanh khoản: Là tổn thất xảy ra cho NH khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến. Trong điều kiện bình thường, các NH vẫn có thể gặp phải một số vấn đề về thanh khoản trong quá trình đáp ứng các nhu cầu rút tiền của người gửi. Tuy nhiên, những khó khăn lớn về thanh khoản thường xuất hiện khi nhu cầu chi trả tiền gửi có biến động lớn so với mức bình thường mà ngân hàng không thể dự đoán trước được. Bất kỳ một sự tăng lên đột ngột nào của làn sóng rút tiền gửi của khách hàng, đều có thể làm tăng thêm những khó khăn về thanh khoản cho NH. Kết quả cuối cùng có thể đẩy NH vào tình trạng mất khả năng thanh toán. * Quản lý rủi ro thanh khoản nguồn vốn. Một NH dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi NH còn phải dựa vào danh tiếng của NH trên thị trường, chất lượng thị trường tiền tệ và trạng thái thanh khoản chung của hệ thống tài chính để quản lý thanh khoản. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý NH phải kết hợp lựa chọn thích hợp giữa phương pháp sử dụng các tài sản có lỏng dự trữ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với giải pháp tìm kiếm các nguồn thanh khoản trên thị trường. Có nhiều loại chiến lược mà các nhà quản lý NH thực hiện để quản lý danh mục tài sản nợ của họ. Mỗi chiến lược đều phải cân đối giữa mức độ rủi ro với thu nhập. Mục tiêu chung của những chiến lược này là tăng thu nhập, giảm chi phí, đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện của thị trường. + Chiến lược phát triển một cơ sở nguồn vốn vững chắc từ các thị trường bán lẻ. Một chiến lược cơ bản thường được sử dụng trong hầu hết các NH là mở rộng và khai thác các nguồn vốn cá nhân (bán lẻ). Tiền gửi cá nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu nhất của chiến lược huy động vốn của các NH, bởi vì đặc điểm ổn định của nguồn vốn này cũng như chi phí tương đối thấp so với nguồn vốn khác trên thị trường Để có được nguồn vốn này, NH phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với chi phí khá cao. Đồng thời, để giành được khách hàng, các NH phải có sự chuẩn bị để đầu tư nâng cấp hệ thống mạng lưới chi nhánh, mở ra các kênh phân phối bằng điện tử, giúp họ thu hút thêm những người gửi tiền cá nhân. Các NH cũng phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh về lãi suất trong huy động tiền gửi. Trong tiến trình khai thác và duy trì vững chắc nguồn vốn tiền gửi cá nhân, một vấn đề cần quan tâm đó là kết hợp giữa mạng lưới chi nhánh bán lẻ với các kênh phân phối bằng điện tử như: máy rút tiền tự động ATM hay các ngân hàng bằng điện thoại. Tuy chi phí dịch vụ của các chi nhánh khácao nhưng nó vẫn cần được tiếp tục duy trì để phát triển chiến lược quản lý tài sản nợ Trong quản lý tài sản nợ, các NH cần phải nhận thức rõ và giám sát toàn diện các khoản chi phí huy động vốn từ các khu vực cá thể trong mọi điều kiện của thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường cao, các tài khoản tiền gửi thanh toán được trả lãi suất thấp tương xứng với giá trị cơ hội mà NH thu được. Khi lãi suất thị trường thấp thì các NH có thể phải chịu những chi phí cơ hội cao đối với các nguồn vốn này, bao gồm các chi phí mở tài khoản tiền gửi khách hàng kèm theo các khoản mục chi phí liên quan: cấp sổ séc, gửi thông báo cho khách hàng + Chiến lược đa dạng hoá các nguồn vốn Đa dạng hoá các nguồn vốn để giảm thấp mức độ ảnh hưởng của thị trường. Tuy nhiên, khi đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, NH sẽ mở rộng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nó, đồng thời cũng làm tăng thêm chi phí huy động vốn dưới các điều kiện của thị trường. Do đa dạng hoá các nguồn vốn đã làm cho các NH ngày càng phải dựa vào các tổ chức tài chính chuyên nghiệp nhiều hơn để mở rộng quy mô hoạt động của mình. Hơn nữa, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm tiền gửi mới so với các loại tiền gửi NH truyền thống trước đây và được cung cấp bởi nhiều tổ chức tài chính phi NH. Như vậy, các NH đã mất đi đáng kể các nguồn vốn rẻ nhất của họ. Sự thay đổi này làm tăng lên đáng kể chi phí huy động vốn của NH. + Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn, lãi suất cố định Danh mục tài sản nợ của hầu hết các NH có xu hướng nghiêng về các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định. Đó là kết quả đương nhiên của quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của bộ phận các nhà đầu tư sang các nguồn vốn dài hạn, dẫn đến một hiện tượng phổ biến là các NH sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho các tài sản có dài hạn. Điều này đã tạo ra rủi ro thanh khoản và làm tăng thêm các khó khăn cho ngân hàng khi thay thế các nguồn vốn đã đến hạn thanh toán Trên thị trường tài chính chuyên nghiệp, mỗi NH còn có thể tăng các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định bằng cách phát hành thêm các loại trái phiếu hoặc các loại chứng chỉ tiền gửi. Tuy các công cụ nợ này có mức chi phí huy động khác cao, nhưng lại cung cấp cho NH một nguồn vốn dài hạn và ổn định. Ngoài ra có thể chuyển nhượng, mua bán trên thị trường thứ cấp nên hầu như không có rủi ro rút vốn đối với công cụ này. Nó đảm bảo cho NH một nguồn vốn ổn định đến tận khi các công cụ nợ đến hạn Để tăng vốn bằng cách sử dụng các công cụ đó, mỗi NH cần phải có uy tín, có mối quan hệ quen biết rộng rãi trên các thị trường. Ngoài ra, để đi đến quyết định chọn lựa các công cụ tăng vốn dài hạn nào, mỗi nhà quản lý NH phải xem xét phối hợp thời gian tăng quỹ sao cho phù hợp, đồng thời phải tính toán và so sánh giữa tổng số chi phí cần thiết để dự trữ thanh khoản với tổng số tăng thêm và chi phí trả lãi suất cao nếu như cần thiết phải tăng thêm nguồn vốn. Như vậy, vấn đề quản lý thanh khoản và quản lý tài sản nợ trong mỗi NH có quan hệ mật thiết với nhau. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1: Thực trạng quản lý tiền gửi tại các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Chắc chắn rằng không phải người gửi tiền nào cũng hành xử giống hệt nhau. Một số người chọn gửi tiền vào những ngân hàng có lãi suất huy động cao, nhưng bù lại thì họ sẽ phải lo lắng nhiều hơn về những thông tin thất thiệt hay nguy cơ đổ bể thật sự của ngân hàng mình chọn. Ngược lại, có những người muốn ít phải lo lắng hơn về những vấn đề trên thì lại chọn những ngân hàng có uy tín cao hơn để gửi tiền. Hiện nay, gửi tiền tại các ngân hàng là vẫn là phương thức được ưa thích nhất của đại đa số nhân dân. Việc lựa chọn ngân hàng tùy thuộc vào thái độ của mỗi người đối với hai yếu tố rủi ro và lãi suất. Hai yếu tố này phụ thuộc nhiều vào mô hình quản lý tiền gửi của NHTM. Trong việc quản lý tiền gửi, chi phí và quy mô là hai vấn đề mà các nhà quản lý ngân hàng luôn phải tìm cách giải quyết. Đúng ra việc quản lý này về cơ bản phải theo những quy luật của cung-cầu vốn và chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Nhưng hiện nay một số ngân hàng Việt Nam lại đang phải quản lý tiền gửi theo sức ép của sự cạnh tranh và đảm bảo khả năng thanh khoản. Hậu quả của tình hình này là lợi nhuận ngân hàng sẽ giảm, thậm chí có ngân hàng sẽ lỗ hoặc các ngân hàng phải tăng mạnh lãi suất cho vay để bù đắp chi phí tiền gửi quá lớn. Cả hai điều này đều bất lợi cho bản thân các ngân hàng và nền kinh tế. 2.1.1: Quản lý lãi suất Công tác điều hành lãi suất trong thời gian gần đây có những động thái tích cực đó là, ngay từ ngày 26-2, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư số 07, chính thức quy định về việc cho phép các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay VND theo lãi suất thỏa thuận. Điểm mới của Thông tư này là, từ nay, các Ngân hàng thương mại (NHTM) có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần và nới rộng thời gian cho vay, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân, hộ gia đình của khách hàng vay Không ồ ạt tăng lãi suất huy động trong ngày đầu áp dụng mức lãi suất cơ bản 8%, hầu hết các ngân hàng thương mại đều tỏ ra thận trọng để đảm bảo bài toán lợi nhuận. Thực tế cho thấy các ngân hàng thương mại vẫn đang xem xét động thái của nhau để quyết định các mức lãi suất huy động Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động đồng Việt Nam áp dụng từ ngày 26/11 với mức tăng khoảng 0,5-1,2% một năm so với tuần trước và mức cao nhất 10,5% một năm đối với kỳ hạn trên 12 tháng. Hiện, lãi suất huy động bình quân từng kỳ hạn của các tổ chức tín dụng tăng 0,1-0,6% một năm (tuần từ 23 đến 27/11) so với tuần trước Tại nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước, mức lãi suất huy động VND bình quân ở kỳ hạn 12 tháng là 9,3-10,5% một năm so với mức 9,6-10% tại nhóm ngân hàng thương mại cổ phần. Đến ngày 1/12, nhiều ngân hàng thương mại điều chỉnh tăng lãi suất huy động khoảng 0,3-1,2% một năm so với cuối tháng 11. Lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam tại ngân hàng Việt Á áp dụng cho các kỳ hạn 3- 4 - 5 - 6 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ thậm chí đã tiến tới mức 10,47% một năm. Song song với nâng lãi suất đồng Việt Nam, một số ngân hàng cũng điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi USD trong ngày 1/12, trung bình 0,2-0,5% một năm.Cùng với nâng lãi suất tiền gửi và tiết kiệm đồng Việt Nam, các ngân hàng cũng rục rịch điều chỉnh biểu lãi suất cho vay bắt đầu từ 1/12, mức lãi suất cho vay được đưa lên sát mức 12% một năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay USD tăng khoảng 0,1 - 0,6% một năm (tuần từ 23-27/11). Dưới sự điều hành chung của NHNN, các thành viên khác trong Hiệp hội ngân hàng cùng cam kết ấn định và niêm yết LSHĐ, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam theo hướng ổn định, hài hòa lợi ích giữa người gửi tiền - ngân hàng và khách hàng vay, phù hợp với quy định của pháp luật và chỉ đạo của Chính phủ. Hơn nữa, các NHTM tăng lãi suất để thu hút nguồn vốn trong dân cư, nhưng sẽ cố gắng không tăng quá cao mức lãi suất cho vay và khách hàng có thể thỏa thuận với ngân hàng khi vay vốn. Có nhiều cơ sở để tin rằng, cùng với thời gian, yêu cầu giảm dần mặt bằng lãi suất ngân hàng đang ngày càng được triển khai cụ thể hoá và có hiệu quả trên thực tế. 2.1.2: Quản lý quy mô và cơ cấu Mỗi Ngân hàng đều có quy mô và cơ cấu nguồn vốn riêng. Những NHTM lớn có quy mô vốn lớn sẽ có quy mô và tốc độ tăng trưởng khác với các NHTM nhỏ tiềm lức yếu hơn. Từ đó mỗi NHTM sẽ có mục tiêu phát triển khác nhau. Kinh tế Việt Nam vẫn được coi là nền kinh tế tăng trưởng dựa nhiều vào vốn; chỉ số ICOR tăng cao trong nhiều năm qua cho thấy rõ đặc điểm này. Tính chất này cũng được phản ánh vào sự tăng trưởng tín dụng cao ở khu vực ngân hàng trong nhiều năm qua. Tăng  trưởng tín dụng bình quân mấy năm qua của Việt Nam đạt gần 30%/năm, trong khi các nghiên cứu chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng gấp khoảng 3 lần tăng tưởng kinh tế (GDP) hàng năm là phù hợp. Cuối quý III năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 28%, và như vậy cả năm 2009 có thể trên 30% (trong khi dự báo tăng trưởng kinh tế là 5,2%). Thống kê cho thấy, những năm 1990, tín dụng cho nền kinh tế bằng khoảng 18% GDP, tuy nhiên đến nay (năm 2009) quy mô tín dụng đã đạt gần 100% GDP. Tốc độ tiền tệ hóa nền kinh tế (M2/GDP) đến nay ước khoảng 110%, trong khi tỷ lệ này vào năm 1990 chỉ khoảng 19% GDP. Sự tăng trưởng quy mô của từng ngân hàng và toàn thị trường như vậy là khá nhanh. Thế nhưng trình độ quản trị, cơ sở hạ tầng, thể chế thị trường lại chưa thực sự theo kịp. Các NHTM vẫn hoạt động theo mô hình cũ từ những năm 1990, Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng đã bộc lộ những điểm lạc hậu cần sửa đổi. Năm 2008 là năm thách thức về năng lực quản lý thanh khoản của các NHTM. Một số ngân hàng đã rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm 2008, và các NHTM đã từng đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới mức 45%/năm. Sự tăng trưởng tín dụng như trên cùng với khả năng quản lý thanh khoản hạn chế đã tạo ra mất cân đối về kỳ hạn và làm cho hệ thống rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc. Các ước tính cho thấy, cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng có tới 80% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm; chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1 năm (trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Trong khi đó cơ cấu cho vay phổ biến tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là gần 60% tổng dư nợ cho vay với thời hạn cho vay trên 1 năm.       Đến nay, nhìn chung các ngân hàng này vẫn hoạt động theo mô hình quản trị công ty đã cũ (nhất là các NHTM cổ phần nông thôn vừa được nâng cấp). Các NHTM quốc doanh vừa mới cổ phần hóa và niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán nhưng mô hình quản trị vẫn giữ nguyên như ngân hàng thương mại quốc doanh ngày xưa do mức độ cổ phần hóa quá ít (Vietcombank chỉ bán cổ phần ra ngoài tương đương 9,28% vốn điều lệ; con số này ở Vietinbank là 4%). 2.1.3: Quản lý kỳ hạn Khác hẳn với thông l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26852.doc
Tài liệu liên quan