Mục lục
Lời mở đầu 4
Phần I Thuế và quản lý thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp 5
I. Khái niệm và đặc điểm của thuế 5
1. Khái niệm về thuế 5
2. Phân loại thuế 6
2.1 Phân loại theo đối tượng chịu thuế 6
2.1.1 Thuế thu nhập 6
2.1.2 Thuế tiêu dùng 6
2.1.3 Thuế tài sản 7
2.2 Phân loại theo phương thức đánh thuế 7
2.2.1 Thuế trực thu 7
2.2.2 Thuế gián thu 7
2.3 Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế 7
2.3.1 Thuế thực 7
2.3.2 Thuế cá nhân 7
2.4 Phân loại theo
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1993 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm vi thẩm quyền về thuế 7
2.4.1 Thuế trung ương 8
2.4.2 Thuế địa phương 8
3. Đặc điểm của thuế 8
3.1 Tính bắt buộc 8
3.2 Tính không hòan trả trực tiếp 8
3.3 Tính pháp lý cao 8
4. Chức năng của thuế 9
4.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước 9
4.2 Chức năng điều tiết kinh tế 9
5. Hệ thống thuế ở Việt Nam 10
II. Giới thiệu về quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp 11
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và dặc điểm 11
1.1. Khái niệm 11
1.2 Đặc điểm 11
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế 12
2.1 Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế. 12
2.2 Trình độ dân trí cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân tốt, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả thiết thực. 12
2.3 Các cơ quan hành pháp phải có năng lực cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản lý hành chính 12
2.4 Các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế…, phải đơn giản. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có hiệu quả và hiệu lực 13
2.5 Cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các hành vi, vi phạm 13
Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp 13
Tiết kiệm thời gian, công sức 13
Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế 14
Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế 14
Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan Thuế 14
4. Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp 15
4.1 Nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp quản lý thuế phù hợp 15
4.2 Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan Nhà nước 15
5. Đổi mới hoạt động thanh tra – dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ và hướng dẫn nhằm đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp……………………… 16
PHần II thực trạng thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở việt nam 18
Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp 18
Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh 19
1. Kết quả đạt được 19
Mở rộng mô hình tự khai, tự nộp tại Hà Nội ,Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai 21
III. Những khó khăn, thách thức khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp 22
“ Gánh nặng” từ dự toán thuế 22
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, quyền hạn của cơ quan Thuế chưa ngang tầm. Các thủ tục về kê khai thuế, chính sách thuế chưa đơn giản rõ ràng 23
Công nghệ quản lý thuế theo cơ chế mới còn hạn chế 23
Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế, công tác thanh, kiểm tra, công tác thu nợ, và cưỡng chế thuế đat hiệu quả chưa cao 24
Về công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế 24
Về công tác thanh tra, kiểm tra 25
Về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế 25
Tổ chức bộ máy ngành thuế chưa hợp lý 26
IV. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tự khai, tự nộp 26
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thuế 26
2. Đẩy mạnh công tác hưỡng dẫn, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp 27
3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra 28
4. Thông tin tuyên truyền tới các đối tượng nộp thuế về thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp 29
5. Hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành thuế 29
C. Kết luận .30
D. Tài liệu tham khảo 31
Lời mở đầu
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển, thu hút được nhiều nguồn đầu tư từ bên ngoài , mở rộng được thị trường, được đối xử bình đẳng trên trường quốc tế. Để quá trình hội nhập được nhanh chóng Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng thêm nhiều hệ thống luật mới , cải cách nền hành chính nhà nước… Cải cách hành chính thuế là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Trong những năm gần đây, đặc biệt trong năm 2004 và những tháng đầu năm 2005 vừa qua ngành thuế đã có những bước đi đột phá trong cải cách hành chính thuế với việc được tổ chức lại bộ máy cơ quan thuế các cấp, triển khai áp dụng thí điểm cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế theo QĐ 197/2003/QĐ - TTg và triển khai sâu rộng chương trình cải cách và hiện đại hóa ngành thuế.
Với mục đích muốn tìm hiểu sâu hơn về ngành thuế, những cái cách của ngành thuế trong việc quản lý thu thuế , một nghĩa vụ mà mọi công dân đều phải thực hiện. Nên em đã chọn đề tài: “Quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp ở Việt Nam" làm đề án môn học cho mình. Do trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn chắc rằng đề án của em chưa thể đầy đủ và còn nhiều sai sót. Em mong nhận được nhiều sự giúp đỡ , góp ý của thầy cô giáo và bạn đọc để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội ngày 24 tháng 11 năm 2005
Sinh viên : Trần Bình Minh
Phần I Thuế và quản lý thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp.
I. Khái niệm và đặc điểm của thuế.
1. Khái niệm về thuế.
Cho đến nay trong các sách báo kinh tế trên thế giới vẫn chưa có thông nhất tuyệt đối về khái niệm thuế. Đứng trên các góc độ khác nhau theo các quan điểm của các nhà kinh tế khác nhau thì có định nghĩa về thuế khác nhau.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đưa ra một định nghĩa tương đối cổ điển về thuế: “ Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà Nước.”.
Trên góc độ phân phối thu nhập: “ Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quý tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ người nộp thuế: “ Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng , nhiệm vụ của nhà nước.”
Trên góc độ kinh tế học :” Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước.”
Theo từ điển tiếng việt :” Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định.”
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra được một số đặc trưng chung của thuế là:
Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mỗi quan hệ tiền tệ phát sinh dưới nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mỗi quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ỹ nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước.
Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ các đặc trưng trên của thuế , ta có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế là: “ Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.”
2. Phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau, mỗi tiêu thức phân loại có nhiều loại thuế khác nhau:
2.1 Phân loại theo đối tượng chịu thuế.
Căn cứ vào đối tượng chịu thuế có thể chia hệ thống thuế thành ba loại sau:
2.1.1 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận được, thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần…
Do vậy thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau : Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doạnh nghiệp.
2.1.2 Thuế tiêu dùng.
Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập được mang tiêu dùng trong hiện tại. Bao gồm: Thuế doanh thu , thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng…
2.1.3 Thuế tài sản.
Thuế tài sản là các loại thuế có đối tuợng chịu thuế là giá trị tài sản.Bao gồm ,thuế bất động sảnlà thuế tài sản đánh trên giá trị của tài sản cố định,thuế động sản là thuế đánh trên tài sản chính .
2.2 Phân loại theo phương thức đánh thuế.
Theo phương thức đánh thuế thì hệ thống thuế gồm 2 loại sau:
2.2.1 Thuế trực thu.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế . ở thuế trực thu bao gồm: Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,thuế thu nhập doanh nghiệp ,thuế nhà đất….
2.2.2 Thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ .Bao gồm: Thuế giá trị gia tăng ,thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất khẩu và nhập khẩu.
2.3 Phân loại theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế.
Căn cứ vào khả năng nộp thuế có thể chia hệ thống thuế thành 2 loại:
2.3.1 Thuế thực.
Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của người nộp thuế .Thuế thực bao gồm : Thuế điền thổ,thuế nhà cửa,thuế tài sản.
2.3.2 Thuế cá nhân.
Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của người nộp thuế, là thuế đánh vào thu nhập của người nộp thuế và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc do khai báo. Các loại thuế cá nhân bao gồm: Thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức, thuế thu nhập công ty, thuế doanh nghiệp, thuế lợi nhuận siêu ngạch…
2.4 Phân loại theo phạm vi thẩm quyền về thuế
Theo tiêu thức phân loại nay thì hệ thống thuế có thể được chia thành hai loại:
2.4.1 Thuế trung ương.
Là các hình thức thuế do các cơ quan đại diện chính quyền nhà nước ở trung ương ban hành.
2.4.2 Thuế địa phương.
Là các hình thức thuế do chính quyền địa phương ban hành.
3. Đặc điểm của thuế.
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với các công cụ khác. Những đặc trưng đó là:
3.1 Tính bắt buộc.
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hê tiền tệ được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc động viên mang tính chất bắt buộc của nhà nước.Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước, theo đó một bộ phân thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
3.2 Tính không hòan trả trực tiếp.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng của nhà nước. Sự không hoàn hảo trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và sau thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
3.3 Tính pháp lý cao.
Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi quyền lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.
Chức năng của thuế.
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và nó có tính ổn định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển thuế luôn luôn thực hiện hai chức năng cơ bản sau.
4.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước.
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện đông viên nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của thuế. Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức năng này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
4.2 Chức năng điều tiết kinh tế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử dụng linh họat các ưu đãi và miễn giảm thuế.
Trên cơ sở đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế có mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra những điều kiện để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của thuế cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách thuế ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý đến mỗi quan hệ giữa chức năng điều tiết kinh tế và chức năng huy động nguồn tài chính của thuế.
5. Hệ thống thuế ở Việt Nam.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mỗi quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của nhà nước trong từng thời kỳ.
Hệ thống thuế
Thuế trực thu
Thuế gián thu
Thuế
thu
nhập
DN
Thuế
thu
nhập
cá nhân
Thuế
sự dụng đất nông nghiệp
Thuế
Giá trị gia tăng
Thuế
Xuất khẩu,
Nhập
khẩu
Thuế
nhà đất
Thuế
Tiêu thụ đặc biệt
Thuế
tài nguyên
Thuế
môn bài
II. Giới thiệu về quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
1. Khái niệm về cơ chế tự khai tự nộp và dặc điểm
Khái niệm
Cơ chế tự khai tư nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó các đối tượng nộp thuế tự giác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kì kê khai của mình và căn cứ vào những quy định của pháp luật tự xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai, nộp thuế vào ngân sách Nhà nước, và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai.
1.2 Đặc điểm.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là một phương thức quản lý thuế được xây dựng dựa trên nền tảng là sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế, quản lý thuế dựa trên kĩ thuật quản lý rủi ro.
Cơ chế tự khai tự nộp thuế đòi hỏi các tổ chức, cá nhân nộp thuế phải nâng cao trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhân nộp thuế tự lập trên cơ sở sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế. Tổ chức, cá nhân nộp thuế phải chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, kê khai thuế của mình trước pháp luật.
Theo cơ chế này cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai , nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thế như không nộp thuế, trốn thuế, gian lận về thuế …
áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế phải tăng cưòng công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ thủ tục về thuế mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai nộp thuế để đối tượng nộp thuế thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả, được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
2. Điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi các điều kiện sau:
2.1 Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàngtiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế.
Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải nắm chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính toán đúng số thuế phải nộp cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng quy định trong các luật thuế phải được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người dân muốn hiểu thế nào cũng được.
2.2 Trình độ dân trí cao, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật của người dân tốt, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả thiết thực.
Vì đối tượng nộp thuế là người trực tiếp tính toán số thuế mà mình phải nộp cho ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy định của luật thuế. Mặt khác , cơ chế tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế do vậy mà người dân cần phải có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. để đạt được điều kiện này thì cơ quan quản lý thuế phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế.
Các cơ quan hành pháp phải có năng lực cao và phối hợp tốt với cơ quan thuế trong công tác quản lý hành chính
Trong khi cơ chế tự khai, tư nộp thuế đòi hỏi đối tượng nộp thuế phải có sự tực giác tuân thủ cao thì có một bộ phận không nhỏ dân chúng có ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan hành pháp nói chung và cơ quan thuế nói riêng phải có trình độ quản lý cao để đảm bảo thực hiện đúng những quy định của pháp luật.
Các thủ tục như đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế…, phải đơn giản. Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có hiệu quả và hiệu lực.
Các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời cơ quan thuế phải luôn luôn thanh tra, kiểm tra viẹc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian lận, trốn lậu thuế là một căn bênh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế của Nhà nước.
Cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các hành vi
vi phạm.
Khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì các chế tài pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong bối cánh khả năng lợi dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với nước ta- một nước có trình độ phát triển chưa cao về mọi mặt.
Ưu điểm của cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đây là cơ chế hành thu tiên tiến đem lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thu thuế và tổ chức , cá nhân nộp thuế. Cơ chế này có những ưu điểm sau:
Tiết kiệm thời gian,công sức.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cán bộ quản lý thu thuế sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế, không phải mất thời gian đi gửi thông báo thuế cho đối tượng nộp thuế. Hơn nữa, trong cơ chế ‘’ Thông báo thuế” trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Với số lượng các đối tượng nộp thuế hiên lên đến gần 100 ngàn doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế hơn 1,4 triệu tổ chức hộ kinh doanh cá thể thì việc không phải tính toán lại số thuế phải nộp sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức cho cán bộ quản lý thu thuế.
Còn đối với các đối tượng nộp thuế thì với việc cơ chế tự khai, tự nộp sẽ làm giảm được các thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế của mình, do đó cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức.
Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế.
Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cơ quan Thuế không phải gửi hàng triệu thông báo thuế nên ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy mực, in ấn, cước phí bưu điện… đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu càng thấp thì hiệu quả công tác quản lý thuế càng được nâng cao.Ngoài ra, khi thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế được tổ chức theo chức năng nên bộ máy quản lý sẽ gọn nhẹ hơn bớt cồng kềnh ,do đó giảm được một phần lớn chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý vẫn cao.
Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế.
Với cơ chế ‘’ Thông báo thuế “ trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thúe đối với tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp không cao bởi vì số thuế họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ quan Thuế. Vì vậy, có thể có tình trạng các cơ sở kinh doanh tính toán số liệu một cách qua loa, đại khái và nếu cán bộ thuế kiểm tra không kỹ thì có thể dẫn đến sai số thuế phải nộp mà các cơ sở kinh doanh đó không hề có lỗi. Nhưng khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì đối tượng nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của viẹc tính toán số thuế phải nộp. Tức là, đối tượng nộp thuế được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự giác ,được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.Hơn nữa,còn thiết lập được niềm tin giữa cơ quan Thuế và người nộp thuế.
Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan Thuế .
Thực hiện áp dụng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế cơ quan Thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có ,công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa . Nhờ việc không mất thời gian tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và phát hành thông báo thuế mà cán bộ Thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc quản lý khác như: công tác phục vụ , hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với Ngân sách nhà nước, công tác thanh tra ,kiểm tra,công tác đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế…Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa công tác quản lý mà cụ thể là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu thuế.Đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Hạn chế của cơ chế tự khai, tự nộp.
Khi áp dụng một cơ chế chính sách mới bên cạnh những lợi ích to lớn thì cũng có nhiều điểm hạn chế. Do đó, việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế nếu không đáp úng đựợc những điều kiện nhất định thì sẽ có những hạn chế sau:
4.1 Nguy cơ trốn lậu thuế, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và không có biện pháp quản lý thuế phù hợp.
Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp, chẳng hạn công tác kiểm tra không kịp thời, việc phổ biến các luật thuế kém hiệu quả, công tác hướng dẫn các đối tượng nộp thuế không đầy đủ, chu đáo … Có thể dẫn đến các tình trạng đối tượng nộp thuế lợi dụng việc không kiểm tra tính toán lại số thu thường kì của cơ quan Thuế để cố tình kê khai sai nhằm trốn lậu thuế. Trong trường hợp do hiểu biết các luật thuế của đối tượng nộp thuế kém và công tác hướng dẫn của cơ quan Thuế không hiệu quả thì có thể có tình trạng kê khai sai số thuế phải nộp một cách vô ý. Vói trình độ dân trí của nước ta còn thấp ,ý thức tự giác và tuân thủ pháp luật của người dân chưa cao thì nguy cơ thất thoát thuế là rất lớn.
4.2 Đòi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan Nhà Nước
Để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp một cách hiệu quả đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể phục vụ nhanh chóng và chính xác. Do đó, cần phải có sự đầu tư ban đầu rất lớn trong khi ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Mặt khác, trình độ quản lý của các quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu không có sự chuẩn bị kĩ càng có thể xảy ra tình trạng buông lỏng công tác quản lý thuế.
5. Đổi mới hoạt động thanh tra – dịch vụ tuyên truyền, hỗ trợ và hướng dẫn nhằm đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự khai, tự nộp.
Để đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế đã tiến hành cải cách các quy trình quản lý thuế theo hướng hiện đại với sự hỗ trợ lớn của công nghệ thông tin. Các quy trình quản lý thuế được xây dựng phù hợp với bộ máy tổ chức theo mô hình chức năng và thể hiện nguyên tắc quản lý theo rủi ro .Đồng bộ với việc xây dựng các qui trình mới là các việc đẩy mạnh các nghiệp vụ quản lý theo từng chức năng quản lý:
Trong nghiệp vụ hỗ trợ cơ sở kinh doanh:cơ quan Thuế chủ động nắm bắt và tổ chức tuyên truyền ,hỗ trợ đối tượng nộp thuế sát với yêu cầu ,đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế với những hình thức phù hợp và chất lượng tốt .Cơ quan Thuế phải biết được nhu cầu của khách hàng của mình,đó là đối tượng nộp thuế và có trách nhiệm cung cấp được những dịch vụ hỗ trợ đúng với yêu cầu của khách hàng .
Trong nghiệp vụ xử lý tờ khai thuế: cơ quan Thuế theo dõi tờ khai thuế của cơ sở kinh doanh từ tờ khai đầu tiên, qua đó tờ khai điều chỉnh (nếu có) đến tờ khai cuối cùng, các lỗi cơ sở kinh doanh đã mắc. Qua đó, cơ quan Thuế có thể có biện pháp xử lý phù hợp như: hướng dẫn cơ sở kinh doanh để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc mắc lỗi là do chưa hiểu rõ;hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai chưa phù hợp; hoặc đó là dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường hợp thanh tra nếu việc mắc lỗi mang tính lặp đi, lặp lại một cách cố ý …
Trong nghiệp vụ đôn đốc và thu nợ thuế: cơ quan Thuế đẩy mạnh công tác đôn đốc và thu nợ thuế. Với sự hỗ trợ của các chương trình tin học, cơ quan Thuế theo dõi chặt chẽ các trường hợp chậm nộp tờ khai, chậm nộp thuế, phát hành các thông báo nhắc nhở, các thông báo phạt đối với các cơ sở kinh doanh không nộp tờ khai, nộp thuế. Cơ quan Thuế theo dõi được số nộp cho số thuế phát sinh và số nộp cho nợ tồn đọng của cơ sở kinh doanh theo từng loại thuế. Qua đó xác định được tính chất của nợ thuế, mức nợ, tuổi nợ của từng món nợ thuế để có biện pháp thu nợ phù hợp theo hướng nhằm giảm cá khoản nợ có mức nợ và tuổi nợ cao.
Trong nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra: cơ quan Thuế tiến hành thanh tra kiểm tra trên cơ sở thu nhập được đủ các thông tin cần thiết về cơ sở kinh doanh( từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, dự báo những vấn đề nghi ngờ có gian lận trốn thuế nhằm lựa chọn trường hợp, chuẩn bị nội dung, cách thức thanh tra phù hợp.
PHần II thực trạng thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở việt nam.
Tính tất yếu khách quan thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp.
Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại, dựa trên ý thức tuân thủ tự giác của người nộp thuế. Với việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì cơ quan Thuế sẽ không phải can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp mà tập trung nguồn lực cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng tăng cường các biện pháp theo dõi giám sát, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các hành vi phạm pháp luật thuế, tránh gây thất thu ngân sách nhà nước.
Việc chuyển sang thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp là phù hợp với xu thế cải cách quản lý hành chính của nhà nươc theo hướng dân chủ, tôn trọng và phát huy tính tự giác, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của người dân. Người nộp thuế được giảm bớt các thủ tục hành chính, được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đối với nhà nước. Còn về phía cơ quan Thuế, cơ chế mới sẽ tạo điều kiện để sắp xếp lại bộ máy quản lý chuyên sâu theo chức năng, chuyên môn hóa tới từng cán bộ. Khi áp dụng cơ chế này, cơ quan Thuế có thể đáp ứng yêu cầu quản lý khi số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, các giao dịch kinh tế diễn ra ngày một phức tạp và đảm bảo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển, luật doanh nghiệp mới có một số quyết định thông thoáng hơn nên số lượng các doanh nghiệp, đối tượng sản xuất kinh doanh ngày càng tăng lên nhiều. Trong khi đó số cán bộ thuế còn thiếu nhiều về cả số lượng và chất lượng. Do vậy cơ quan Thuế phải đổi mới phương thức quản lý thuế thì mới có thể theo kịp được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Như vậy thực hiện quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế thời đại, nhất là trong điều kiện hiện nay nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, trên thế giới có rất nhiều nước đã áp dụng cơ chế này và đã thu được kết quả rất cao trong việc thu thuế cho ngân sách nhà nước.
Kết quả đạt được thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở cục thuế Quảng Ninh và Thành Phố Hồ Chí Minh.
1. Kết quả đạt được.
Thực hiện quyết định số 197/2003/QD-TTg của Thủ tướng chính phủ và thông tư số 127/2003TT-BTC của Bộ tài chính, từ ngày 1 - 1 – 2004 cục thuế TPHCM và cục thuế Quảng Ninh đã tiến hành thực hiện thí điểm cơ chế doanh nghiệp tự kê khai tự tính thuế , tự nộp thuế vào Ngân sách nhà nước đối với hai loại thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp cho một số đối tượng.
Cục thuế TPHCM và Quảng Ninh đã ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8786.doc