Lời cảm ơn
Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp, đề tài:
“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay”.
Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý thuế đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua.
Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập tại Tổng Cục Thuế.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Lời nói đầu
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp.
Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị Mác- Lênin
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường.. Có thể phân chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành hai khu vực là khu vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc doanh.
Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD, mà hẹp hơn là đối với 2 thành phần kinh tế là tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp NQD và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Lý do em chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời 2 thành phần kinh tế này mới được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chính thức thừa nhận tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ.
Luận văn được kết cấu như sau:
Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốcdoanh ở nước ta hiện nay.
Chương I
khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh và Nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế
Ngoài quốc doanh
Đặc điểm của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh
Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ trải qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành phần kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà nước XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế XHCN ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH.
Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan tâm đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác trong đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD). Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng nhất giữa các ngành các vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang hết sức gay gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế NQD hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại của kinh tế NQD không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị xã hội mà chỉ để quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội thì không phải bằng con đường bóp nghẹt như đã làm trước đây, mà phải bằng cách xoá bỏ dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó kinh tế nông nghiệp là quan trọng nhất.
Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ đã được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội trước đây đối với khu vực kinh tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực, môi trường kinh doanh đã bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xoá bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng được hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển sản xuất, kinh doanh...
Vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan phải trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của kinh tế NQD và xu hướng nền kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH, công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay.
2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực kinh tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường...mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.
2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động là rất lớn. Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ cao đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn.
2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội
Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh tế, nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã hình thành và huy động một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng, song khai thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD càng phát triển thì nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng, đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy động vốn.
2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau
- Khu vực NQD phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng xã hội, giúp cho Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập trung đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy có khu vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh Nhà nước không cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn còn về cơ bản khu vực kinh tế NQD đã đảm đương các chức năng bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở địa bàn nông thôn và miền núi.
- Khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường, thúc đẩy kinh tế Nhà nước tăng cường hạch toán kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trước đây trong điều kiện chỉ có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, sản phẩm hàng hóa dù sản xuất ra với bất kỳ chất lượng nào, giá cả ra sao đều được tiêu thụ. Nhưng từ khi có kinh tế NQD với đặc điểm tư hữu cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách nhiệm rất cao trong sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu vực NQD thì buộc khu vực kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá sản xuất ra nếu không sẽ không được thị trường chấp nhận. Bên cạnh sự cạnh tranh đó thì nếu hai khu vực này không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng cao hơn. Vậy hợp tác và cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của hai khu vực kinh tế này.
- Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển còn tác động cả vào cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà nước, của người lao động.
Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp không còn thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh tế NQD phải sản xuất cái gì, phải bán theo giá quy định, mà cho quy luật giá trị, do thị trường do nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh tế NQD các cơ quan quản lý, công chức Nhà nước không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây chính là những tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Phát triển khu vực kinh tế NQD cũng có tác động và làm thay đổi ý thức, tác phong làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì khu vực kinh tế NQD toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở hữu tư nhân, họ có quyền quyết định phương án sản xuất kinh doanh và chỉ chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ công chức Nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh của họ. Quan hệ giữa đơn vị kinh tế NQD và công chức Nhà nước là quan hệ bình đẳng trước pháp luật.
Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh, câu hỏi đặt ra là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá chất lượng cao, giá thành hạ.
Quan hệ giữa người bán hàng dịch vụ và người mua hàng dịch vụ được thay đổi từ quan niệm “bán như cho” thời bao cấp bằng quan niệm coi “khách hàng là thượng đế” đã được hình thành.
Khu vực kinh tế NQD phát triển tác động cả vào các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính.
Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của khu vực kinh tế NQD đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản ánh đúng quy luật khách quan của thời kỳ qua độ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã đánh giá: “Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng va sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường”. Ngoài ra góp phần vào phát triển và tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh có sự tham giam tích cực của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính đồng thời Nhà nước đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và các Nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách kinh tế của Nhà nước
3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD
Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, các luận điểm của Mác - Ang ghen - Lênin về thời kỳ quá độ có thể vận dụng vào nước ta vì giai đoạn này là giai đoạn Nhà nước của giai cấp công nhân đang đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất, một nhiệm vụ đáng lẽ ra giai cấp tư bản phải làm. Mặt khác do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các ngành, các vùng, vì vậy tất yếu tồn tại kinh tế NQD.
Tuy nhiên để có được nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ không phải là dễ dàng, đã có thời kỳ ta chủ trương sớm xoá bỏ kinh tế NQD bằng làn sóng quốc doanh hóa, hợp tác hoá, tạo nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế XHCN và kinh tế NQD dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho tiềm lực kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất bị lãng phí, kinh tế bị kìm hãm không phát triển được, đời sống nhân dân gặp khó khăn.
Qua đánh giá quá trình cải tạo các thành phần kinh tế và vận dụng luận điểm của Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới CNXH một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán lại hình thức, và bước đi của quá trình cải tạo XHCN, làm sao để phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giầu mạnh và cái đích vẫn là CNXH. Từ những phê bình về những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo XHCN là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH với những bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cần phải “phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”.
Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần còn được tiếp tục xác định tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng CSVN lần IX khẳng định.
“Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức HTX tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển lớn hơn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi, trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế NQD phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước.”
Ngoài ra còn nêu rõ ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau:
+ Kinh tế tư bản Nhà nước.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân.
+ Kinh tế Nhà nước.
+ Kinh tế Hợp tác.
Thành phần kinh tế Nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm phần khống chế.
Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, được hình thành do Nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân.
Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm các dơn vị kinh tế do nhũng người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng. Những loại hình hợp tác xã trên được hình thành với quy mô và mức độ khác nhau phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sản xuất và đời sống. Xu hướng vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo hướng kinh thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không còn nguyên nghĩa như xã hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong quốc kế dân sinh, được Nhà nước khuyến khích, kiểm soát và hướng theo con đường kinh tế tư bản Nhà nước.
Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của tư nhân (cả trong và ngoài nước) đầu tư, hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh, hoặc công ty cổ phần được luật pháp quy định. Thành phần này có ưu điểm mạnh về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Nó có vai trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập kinh tế quốc dân, nâng cao đời sống.
Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất.
Đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế này là tư liệu sản xuất và sức lao động được kết hợp trực tiếp bởi cùng một chủ thể. Mặc dù người sản xuất được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn chịu tác động trực tiếp của các thành phần kinh tế khác và của thị trường. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt chặng đường đầu, thành phần kinh tế cá thể có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất dịch vụ, tư liệu sinh hoạt phục vụ đời sống và sản xuất. Kinh tế cá thể tồn tại độc lập, có thể liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế của các thành phần kinh tế khác bằng nhiều hình thức, hoặc tham gia hợp tác xã tự nguyện nếu người lao động thấy cần thiết.
Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: là thành phần kinh tế mà chủ thể của nó là tư bản Nhà nước cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh; gồm các đơn vị kinh tế ở các ngành, các lĩnh vực dưới các hình thức công ty hợp doanh, gia công, thuê tài sản...Có thể khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ, đây là hình thức kinh tế trung gian thích hợp nhất để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta.
Các thành phần kinh tế cơ bản trên tồn tại trên cơ sở ba loại sở hữu chủ yếu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Ngoài ra, còn có những hình thức tổ chức kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty, xí nghiệp cổ phần, liên doanh, liên kết hai bên và nhiều bên giữa các chủ thể, giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Trên giác độ nghiên cứu, có thể phân chia khu vực kinh tế trong nước thành hai khu vực nhỏ hơn: khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho phù hợp với những thuật ngữ đang được sử dụng phổ biến trong nhiều văn bản của Nhà nước và trong các cuộc hội thảo.
Điểm khác biệt căn bản giữa thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) và thành phần kinh tế NQD là tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu của Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh dựa trên sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân với tập thể hay giữa các tư nhân với nhau. Đảng và Nhà nước ta qua các kỳ Đại hội đã khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò mở đuờng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
3.2.Các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển kinh tế NQD
Quán triệt đường lối đổi mới kinh tế của Đảng nêu tại đại hội Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII và Nghị quyết các hội nghị Trung ương. Nhà nước đã nhanh chóng cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể và luật hoá để thực hiện. Trước hết cần phải được thể chế thành điều luật trong hiến pháp, điều 15 Hiến pháp năm 1992 đã qui định “ Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
Về kinh tế NQD, điều 21 Hiến pháp năm1992 qui định: “kinh tế ngoài quốc doanh được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách kinh tế của Nhà nước còn nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bằng các qui định của Hiến pháp, Nhà nước và xã hội đã chính thức thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, nếu chỉ công nhận khu vực kinh tế NQD tồn tại thôi thì chưa đủ mà cần phải định hướng cho khu vực kinh tế NQD phát triển theo đúng đường lối của Đảng, đúng mục đích đã định ra không để kinh tế NQD phát triển tự phát, chệch hướng. Vì vậy cần tiếp tục thể chế đường lối của Đảng, Hiến pháp thành những chính sách cụ thể. Trong những năm qua Nhà nước đã nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể tạo hành lang pháp lý cho kinh tế NQD phát triển, đồng thời liên tục chỉnh lý cho các chính sách thật phù hợp với đời sống thực tiễn, khơi dậy mọi tiềm năng của khu vực kinh tế này. Trong các chính sách đó đáng chú ý là:
- Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua năm 1990 và được thay thế bằng Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua ngày 16/6/1999 và thống nhất thực hiện từ 1/1/2000.
- Luật doanh nghiệp ra đời qui định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp. Từ Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân nay là Luật doanh nghiệp (Bao gồm các công ty Cổ phần, công ty TNHH, công ty Hợp doanh và Doanh ngiệp tư nhân) vừa thể hiện được tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, vừa thể hiện sự phát triển về nhận thức và hành động nhằm khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này. So với Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây, Luật doanh nghiệp mới có nhiều sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống, tạo môi trường thoáng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt động nên tuy mới chỉ sau một vài năm đã phát huy những tác dụng to lớn.
- Nghị định của Chính phủ về cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh công thương nghiệp dịch vụ: qui định về đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động của cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp. Theo Nghị định này mọi cá nhân, nhóm cá nhân có nguyện vọng sản xuất kinh doanh chỉ thực hiện thủ tục khai báo đơn giản, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm phải cấp đăng ký kinh doanh, nếu cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh những ngành nghề không thuộc loại cấm.
- Ban hành các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức - sau này thuế doanh thu thay thế bằng thuế gía trị gia tăng, thuế lợi tức thay bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, được áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế.
Việc ban hành các luật thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế là sự thể hiện rõ nét nhất tính chất bình đẳng của các thành phần kinh tế trong cạnh tranh. Trước năm 1990 nhằm phục vụ công cuộc cải tạo XHCN, Nhà nước ta áp dụng ba chính sách thu ngân sách cho ba khu vực khác nhau: Khu vực kinh tế Nhà nước áp dụng chính sách thu quốc doanh và phân phối lợi nhuận, khu vực công thương nghiệp và dịch vụ NQD áp dụng chính sách thu thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá, khu vực nông nghiệp áp dụng chính sách thu thuế nông nghiệp. Ngay khu vực ngoài quốc doanh công thương nghiệp và dịch vụ cũng có sự phân biệt giữa kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, theo khuynh hướng khuyến khích kinh tế tập thể bằng ưu đãi khi tính thuế, miễn giảm thuế...
Để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, cần phải có một chính sách thuế thống nhất để tạo điều kiện cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Do đó việc ban hành các luật thuế áp dụng chung cho mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là kịp thời và cần thiết. Về nguyên tắc chung, hệ thống chính sách thuế mới đã đảm bảo sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khuyến khích sản xuất phát triển, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
- Ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, thể hiện cụ thể về chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Trong luật khuyến khích đầu tư trong nước cũng ban hành luôn các danh mục ngành nghề, danh mục các địa bàn khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng ngành nghề và từng địa bàn. Trong đó đặc biệt là các chính sách ưu đãi miễn giảm thuế được các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế NQD quan tâm và hoan nghênh.
Ngoài ra các chính sách về tín dụng như áp dụng chung một mức lãi suất, chính sách về xuất nhập khẩu quy định mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu, chính sách về lao động quy định mọi công dân đến tuổi lao động ở mọi hình thức, mọi thành phần kinh tế đều có quyền lợi ngang nhau, chính sách về tiền lương cũng được ban hành mới và sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đồng thời Nhà nước cũng chỉ đạo mạnh mẽ việc cải tiến thủ tục hành chính tạo môi trường sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư lành mạnh, thông thoáng đã góp phần quyết định cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
4. Đặc điểm của khu vực kinh tế NQD tác động đến quản lý thu thuế
- Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế NQD dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân, toàn bộ vốn, tài sản... đều thuộc sở hữu tư nhân. Trong hầu hết trường hợp chủ sở hữu là người quản lý và ra quyết định kinh doanh và chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Mục tiêu lớn nhất của tất cả các doanh nghiệp NQD là lợi nhuận. Vì vậy các doanh nghiệp rất nhanh nhậy trong tìm hiểu đầu tư và đầu tư có thể sẵn sàng bằng bất cứ giá nhào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh doanh rất táo bạo và mạo hiểm. Đôi khi để đạt được mục đích họ có thể xem thường pháp luật kể cả trốn thuế... gây hậu quả cho x._.ã hội.
- Đối tượng kinh doanh lớn, kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực nhưng về mặt quy mô còn nhiều hạn chế, một số hoạt động ở lĩnh vực sản xuất do trình độ công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp... Đối tượng kinh doanh vừa lớn lại trải trên diện rộng ở khắp các địa phương trong cả nước làm cho việc quản lý đối tượng thêm phức tạp.
- Khu vực kinh tế NQD có số đông người lao động là trình độ văn hoá thấp dẫn đến trình độ quản lý, trình độ công nghệ thấp trong số những người lao động ở khu vực này có cả những người già, cán bộ công nhân viên nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc không có công việc làm phải kinh doanh để kiếm sống... Do đó việc tuyên truyền giải thích chính sách gặp nhiều vấn đề khó khăn, công tác quản lý có nhiều trở ngại do hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường... vì vậy khó ứng phó được với tác động thị trường bên ngoài.
- Khu vực kinh tế NQD có ý thức chấp hành pháp luật rất kém. Tình trạng kinh doanh không có giấy phép hay vi phạm điều lệ đăng ký kinh doanh tương đối phổ biến. Theo số liệu điều tra liên ngành thì năm 1997 có 65% số hộ kinh doanh là không đăng ký, 25% số doanh nghiệp kinh doanh vi phạm về đăng ký kinh doanh... Đa số doanh nghiệp có sử dụng lao động vi phạm chế độ sử dụng lao động như không đóng bảo hiểm xã hội...Cũng tương tự như trên có 1 bộ phận không nhỏ số hộ kinh doanh không xin cấp mã số thuế, không đăng ký nộp thuế đối với các doanh nghiệp NQD cũng có tình trạng tương tự, nhiều doanh nghiệp xin thành lập nhưng không hoạt động, còn tình trạng lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ không đúng thực tế nhằm mục đích trốn thuế diễn ra phổ biến.
- Khu vực kinh tế NQD có mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh gọn nhẹ, năng động và nhậy bén, là khu vực chiếm phần đông trong nền kinh tế song quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự tiến bộ không ngừng khoa học kỹ thuật, đồng thời trong các doanh nghiệp số lượng lao động ít và thường đảm nhận chức vụ theo kiểu đa năng giúp cho chi phí nhân công thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá và sản phẩm cung cấp cho thị trường trong nước nhưng do quy mô quá nhỏ bé dẫn đến khó cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các thành phần kinh tế NQD. Từ đó ta có thể thấy được những ưu, nhược điểm để tìm cách tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho khu vực kinh tế NQD góp phần vào quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước.
Nội dung quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD
Các sắc thuế áp dụng đối với khu vực kinh tế NQD
1.1. Thuế môn bài
Thuế môn bài thu một năm một lần nhằm mục đích hoàn thiện việc kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các cơ sở kinh doanh qua đó có căn cứ phân loại cơ sở kinh doanh theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ để có biện pháp quản lý thích hợp với từng đơn vị và động viên một phần đóng góp của cơ sở kinh doanh ngay từ đầu mỗi năm để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho ngân sách Nhà nước trong khi nhiều khoản thuế chưa phát sinh nguồn thu. Thuế môn bài hiện nay đang áp dụng theo Nghị định số 52/CP ngày 9/9/1996 quy định:
- Về đối tượng nộp thuế môn bài bao gồm:
+ Các cơ sở kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập (DNNN, công ty, DN tư nhân, xí nghiệp tư nhân, DN hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, tổ chức, các cá nhân người nước ngoài đang kinh doanh tại Việt nam, các tổ chức hành chính sự nghiệp, đoàn thể đăng ký hoạt động kinh tế) nộp thuế theo mức 850 nghìn đồng/năm.
+ Các cơ sở kinh doanh, cửa hàng, cửa hiệu hạch toán phụ thuộc hoặc báo sổ, Hợp tác xã, nộp thuế môn bài theo mức 550 nghìn đồng/ năm
+ ở các cơ sở kinh doanh trên có cửa hàng, điểm kinh doanh dịch vụ ở nhiều nơi khác nhau, thì cửa hàng đó phải nộp thuế môn bài theo mức 325 nghìn đồng/năm.
- Các đối tượng khác nộp thuế môn bài theo biểu sau.
Các đối tượng khác gồm:
+ Hộ sản xuất kinh doanh cá thể.
+ Cán bộ công nhân viên, xã viên hợp tác xã, người lao động trong các doanh nghiệp NQD nhận khoán tự trang trải mọi khoản chi phí, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Nhóm cán bộ công nhân viên, nhóm xã viên Hợp tác xã, nhóm người lao động nhận khoán nhưng từng cá nhân trong nhóm nhận khoán lại kinh doanh riêng rẽ, từng cá nhân trong nhóm còn phải nộp thuế môn bài riêng.
+ Các cơ sở kinh doanh trên danh nghĩa là các công ty Cổ phần, công ty TNHH...nhưng từng thành viên của công ty vẫn kinh doanh độc lập chỉ nộp một khoản tiền nhất định cho công ty để phục vụ yêu cầu quản lý chung thì thuế môn bài thu theo từng thành viên.
Bảng 1: Biểu thuế môn bài áp dụng cho đối tượng khác nộp thuế
Đơn vị tính: nghìn đồng
Bậc thuế
Thu nhập/ tháng
Mức thuế cả năm
1
Trên 1250
850
2
Trên 900 đến 1250
550
3
Trên 600 đến 900
325
4
Trên 350 đến 600
165
5
Trên 150 đến 350
60
6
Dưới 150
25
Nguồn: Thông tư số 69 TC/TCT - Bộ Tài chính ngày 5/11/1996
- Thời gian nộp thuế môn bài:
+ Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian của 6 tháng đầu năm thì nộp thuế môn bài cả năm.
+ Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian của 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm.
+ Cơ sở đang sản xuất kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng đầu của năm dương lịch
+ Cơ sở mới ra kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng bắt đầu kinh doanh.
- Nơi nộp thuế môn bài:Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế cấp nào thì nộp thuế môn bài tại cơ quan thuế cấp đó.
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT).
Luật thuế GTGT thay thế luật doanh thu được áp dụng thống nhất kể từ 1/1/1999. Thuế GTGT tính từ trên khoản GTGT thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng nên khắc phục được nhược điểm đánh thuế trùng lặp của thuế doanh thu. Thuế được hoàn đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ phát huy hết tác dụng khi xuất khẩu, tạo điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị truờng quốc tế. Thuế GTGT kết hợp với hàng nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, góp phần tích cực bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước tăng cường hạch toán kế toán kinh doanh, thúc đẩy việc mua bán hàng hóa thực hiện tốt chế độ hóa đơn để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ gía thành sản phẩm...
- Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở nước ta kể cả hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, hàng tiêu dùng nội bộ hay làm quà biếu, tặng, đem trao đổi trừ 26 mặt hàng được quy định trong luật thuế GTGT.
- Đối tượng nộp thuế là mọi tổ chức, cá nhân (không phân biệt thành phần kinh tế) có hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Đối tượng phải kê khai thuế GTGT từng tháng và nộp thuế theo hạn thời hạn ghi trong báo cáo nộp thuế của cơ quan thuế, chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo. Hết năm phải kê khai để quyết toán thuế.
- Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT. Khi bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ trên hoá đơn phải ghi rõ giá bán hàng chưa có thuế GTGT, tiền thuế GTGT phải nộp và giá bán gồm cả thuế GTGT.
- Về thuế suất: Có 4 mức thuế suất áp dụng đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ.
+ Mức 0% áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu.
+ Mức 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ cần khuyến khích sản xuất tiêu dùng cần thiết cho nhu cầu đời sống.
+ Mức 10% áp dụng đối với các hàng hoá và dịch vụ phổ thông.
+ Mức 20% áp dụng cho các loại hàng hoá, dịch vụ không khuyến khích cần điều tiết cao
- Về phương pháp có 2 phương pháp: Khấu trừ thuế và tính trực tiếp trên GTGT:
+ Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với mọi cơ sở kinh doanh phải thực hiện chế độ hoá đơn GTGT và sổ sách kinh doanh, có căn cứ xác định thuế đầu ra và thuế đầu vào để thực hiện chế độ khấu trừ thuế:
Thuế GTGT = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
+ Phương pháp trực tiếp được thực hiện đối với các cơ sở kinh doanh không có điều kiện thực hiên chế độ sổ sách hoá đơn GTGT, chủ yếu áp dụng đối với các hộ nhỏ, thuế tính theo tỷ lệ GTGT trên doanh thu khoán trong một thời gian 6 tháng đến một năm.
Thuế GTGT = GTGT x Thuế suất.
+ Về nguyên tắc: Thuế GTGT là thuế gián thu mà cơ sở kinh doanh đã thu hộ Nhà nước khi bán hàng nên không có chế độ miễn giảm thuế cho cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên trong bước đầu chuyển từ thuế doanh thu có 11 mức thuế sang thuế GTGT có 4 thuế suất, một số cơ sở kinh doanh phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu trong những năm đầu bị lỗ thì được xét giảm thuế GTGT trong từng năm dương lịch. Thời gian được xét giảm thuế tối đa từ 3 năm kể từ khi luật thuế GTGT tương ứng với số lỗ của năm xét giảm thuế, nhưng tối đa không quá 50% số thuế GTGT phải nộp trong năm và theo thêm quyền xét giảm thuế GTGT được quy định cho từng cấp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN thay thế Luật thuế lợi tức được thi hành từ 1/1/1999 nhằm bao quát và điều tiết tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ sở kinh doanh trong cơ chế thị trường, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tiết kiệm vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh qua các chế độ miễn giảm thuế từng bước thu hẹp sự khác biệt về chính sách thuế để đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, hệ thống hoá những quy định ưu đãi về thuế.
- Về giá tính thuế:
Điều 7 Nghị định 54 của Chính phủ ngày 28/8/1993 quy định. Giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập (bao gồm cả phí vận chuyển, phí bảo hiểm...) theo hợp đồng. Còn với hàng xuất nhập khẩu không đủ điều kiện xác định giá tính thuế theo hợp đồng hay giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua bán tối thiểu tại cửa khẩu và đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu theo phương thức khác không phải là mua, bán, không thanh toán qua ngân hàng) thì giá tính thuế là giá mua, bán tối thiểu tại cửa khẩu.
- Về chính sách miễn giảm thuế:
Ngoài các đối tượng được miễn giảm thuế sau khi đã làm thủ tục hải quan như: hàng Viện trợ không hoàn lại, hàng là tài sản di chuyển, hàng trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách nhập cảnh... Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành còn quy định những đối tượng sau được xét miễn giảm thuế: hàng chuyên dùng cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu giáo dục và đào tạo...
Quy định nói trên cho thấy chính sách miễn giảm thuế hiện nay còn khá rộng rãi so với các nước trong khu vực làm cho chính sách thuế thiếu tính minh bạch, giảm tính trung lập của thuế.
Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Như các luật thuế khác, luật thuế TTĐB quy định mọi tổ chức cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế có sản xuất kinh doanh hàng hoá và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB là đối tượng nộp thuế TTĐB. Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và thuế suất.
Các sắc thuế khác
Ngoài các sắc thuế nói trên, các cơ sở sản xuất kinh doanh còn phải nộp các khoản thuế khác như thuế nhà đất, thuế tài nguyên...Tuy nhiên vì các khoản này không phát sinh thường xuyên hay rất nhỏ nên không trình bày kỹ mục đích ý nghĩa, nội dung chính sách thu.
2- Nội dung quản lí thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
2.1 Qui trình quản lí thu thuế đối với các doanh nghiệp
2.1.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
1- Doanh nghiệp lập đăng ký thuế:
Doanh nghiệp mới ra kinh doanh phải đăng ký với Cục thuế. Sau đó doanh nghiệp gửi tờ khai đăng ký thuế tới cơ quan thuế.
2- Tiếp nhận đăng ký thuế:
Phòng Hành chính nhận tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp, từ các chi cục gửi lên sau đó phân loại tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp theo từng phòng quản lý thu sau đó chuyển cho Phòng quản lý thu và Phòng máy tính.
3- Kiểm tra tờ khai đăng ký thuế - Phòng quản lý thu thực hiện.
4- Nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế - phòng máy tính thực hiện:
5- Chuyển dữ liệu đăng ký thuế về tổng cục thuế: Phòng máy tính của Tổng cục thuế truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục Thuế để tránh sự trùng lập mã số thuế trên phạm vi toàn quốc.
6- Kiểm tra tại Tổng cục: Tổng cục kiểm tra dữ liệu đăng ký thuế các cục thuế trên phạm vi toàn quốc để tránh việc đăng ký trùng lắp đồng thời kiểm tra quan hệ doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc thông qua mã số thuế.
7- In giấy chứng nhận cấp mã thuế.
2.1.2 Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế
1- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lập tờ khai thuế: Phòng quản lý thu hướng dẫn các doanh nghiệp lập và khai thuế theo mẫu và gửi cơ quan thuế theo đúng hạn quy định của luật thuế.
2- Tiếp nhận tờ khai: Phòng Hành chính tiếp nhận tờ khai và chuyển đến phòng quản lý thu.
3- Kiểm tra tờ khai ban đầu: Phòng quản lý nhận tờ khai và phát hiện lỗi của đối tượng nộp sau đó gửi xuống phòng máy tính.
4- Nhập tờ khai: Phòng máy tính tiến hành xử lý kiểm tra sau đó thông báo cho phòng quản lý thu biết để báo cho ĐTNT về những sai sót trên tờ khai mà cơ quan thuế đã sửa.
5- Sửa lỗi kê khai: ĐTNT liên hệ với cơ quan thuế để sửa với thuế GTGT trước ngày 15 hàng tháng, với thuế TNDN trước ngày 28/2 của năm.
6- ấn định thuế: Phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT không nộp tờ khai hoặc quá hạn sửa lỗi thì thực hiện việc ấn định thuế.
7- In thông báo thuế:
+ Thông báo thuế lần 1: Phòng máy tính tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính nợ phải nộp kỳ này đưa vào danh sách ấn định thuế và in thông báo thuế thời gian đối với thuế GTTG là in trước ngày 18 hàng thàng và đối với thuế TNDN là ngày 15 của tháng thứ 3.
+Thông báo thuế lần 2: phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT chưa nộp thuế lần1. Phòng máy tính ra thông báo thuế lần 2 số tiền là: số tiền thuế chưa nộp + số tiền phạt của thuế.
8- Xử lý nộp phạt:
+ Tính phạt nộp chậm: Phòng KH - KT - TK(MT) tính phạt 0,1%/ ngày trên số tiền thuế nộp chậm đối với các đối tượng nộp thuế nộp chậm tiền thuế. Việc tính phạt nộp chậm căn cứ vào số ngày và số tiền thuế chậm.
+ Phạt hành chính: Phòng Quản lý thu hoặc phòng TT-XLTT xem xét, lựa chọn đối tượng nộp thuế cần phạt thuế theo quy định tại thông tư số 128/1998/TT-BTC về xử phạt hành chính để trình lãnh đạo Cục duyệt.
9- Lập lệnh thu: Phòng Quản lý thu theo dõi tình hình nợ đọng thuế, lựa chọn và lập danh sách các đối tượng nộp thuế.
10- Nộp thuế: Đối tượng nộp thuế căn cứ vào tờ khai tính thuế của mình để nộp thuế vào Kho bạc, phòng Quản lý thu có trách nhiệm theo dõi đối tượng nộp thuế theo đúng hạn định.
11- Thu thuế tại Kho bạc:
12- Nhận giấy nộp tiền:
13- Lập kế hoạch kiểm tra đối tượng nộp thuế về kê khai thuế:
Phòng Thông tin - Xử lý thông tin và các phòng Quản lý thu khai thác danh sách đối tượng nộp thuế có nghi vấn về kê khai thuế trên máy tính.
14- Xử lý danh sách đối tượng nộp thuế nghi vấn:
15- Kiểm tra trực tiếp đối tượng nộp thuế: Phòng TT – XLTT phối hợp với phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra trực tiếp theo quy trình quy định.
16- Nhập kết quả sau kiểm tra:
17- Lập sổ thuế, báo cáo kế toán:
2.1.3 Xử lý hoàn thuế:
1- Lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế: Đối tượng hoàn thuế lập hồ sơ theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp thu.
2- Tiếp nhận hồ sơ:
3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn: Phòng Quản lý thu kiểm tra các thủ tục hoàn thuế của đối tượng nộp thuế. Sau khi kiểm tra hồ sơ đề nghị hoàn thuế phòng Quản lý thu thông báo cho đối tượng nộp thuế để bổ sung chỉnh sửa kịp thời.
4- Lãnh đạo duyệt.
5- Gửi và lưu các Quyết định hoàn thuế.
6- Lập danh sách ĐTNT được hoàn thuế.
Phòng Quản lý thu căn cứ vào quyết định hoàn thuế để lập danh sách kết quả hoàn thuế, lãnh đạo Phòng Quản lý thu ký xác nhận danh sách.
7- Kho bạc hoàn thuế.
8- Nhập chứng từ hoàn thuế: Có hai cách là:
+ Nhập số thuế được hoàn theo Quyết định.
+ Nhập số đã hoàn theo chứng từ kho bạc.
2.1.4 Xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế:
1- Lập, gửi hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm, tạm giảm thuế:
ĐTNT thuộc diện được miễn, giảm thuế theo Luật thuế phải lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế theo qui định để gửi tới cơ quan thuế.
2- Tiếp nhận hồ sơ.
3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế miễn hoặc giảm, tạm giảm thuế.
Phòng Quản lý thu nhận hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế của ĐTNT, tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số thuế được miễn, giảm, tạm giảm.
4- Duyệt hồ sơ, ký quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế.
5- Gửi quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế .
6- Lập danh sách miễn, giảm, tạm giảm thuế.
7- Điều chỉnh số thuế phải nộp.
Phòng KH-KT-TK(MT) nhận danh sách kết quả quyết định miễn thuế, nhập số thuế được miễn, tạm giảm hoặc giảm để điều chỉnh số thuế phải nộp từng kỳ của ĐTNT.
8- Lưu hồ sơ.
2.1.5 Xử lý quyết toán thuế:
1- ĐTNT lập và gửi quyết toán.
2- Nhận quyết toán thuế.
3- Kiểm tra số liệu quyết toán thuế.
Kiểm tra ban đầu: Phòng Quản lý thu nhận quyết toán thuế, kiểm tra phát hiện các chỉ tiêu kê khai sai trong quyết toán thuế.
Kiểm tra xác minh số liệu quyết toán thuế:
Đối với các bản quyết toán thuế kê khai rõ ràng, đầy đủ chứng từ chứng minh số liệu, Phòng Quản lý thu kiểm tra tính chính xác của các số liệu kê khai trên quyết toán.
4- Xác định kết quả quyết toán thuế:
5- Điều chỉnh thuế phải nộp: Phòng KH-KT-TK (MT) điều chỉnh số thuế phải nộp vào tháng hoặc quý hiện tại.
6- Lưu hồ sơ quyết toán: Phòng Quản lý thu lưu vào hồ sơ doanh nghiệp
2.1.6 Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế:
Phòng Quản lý thu: Có nhiệm vụ tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một cặp hồ sơ riêng lưu trữ các tài liệu như:
1- Đăng ký thuế.
2- Thông báo thuế.
3- Các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm thuế.
4- Quyết toán thuế.
5- Các biên bản kiểm tra, quyết định xử lý kiểm tra.
6- Các quyết định phạt hành chính thuế.
7- Lệnh thu.
8- Các tài liệu, giấy tờ có liên quan đến doanh nghiệp
2.2. Qui trình quản lý thu thuế: (đối với hộ cá thể kinh doanh công thương nghiệp)
2.2.1 Đăng ký thuế
1- Quản lý địa bàn: Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền phường, xã nắm số hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
2- ĐTNT kê khai đăng ký thuế: Có hai trường hợp:
- Cá nhân (hộ) ra kinh doanh lần đầu phải tiến hành kê khai đăng ký thuế để được cấp mã số thuế.
- Cá nhân (hộ) trước đó đã được cấp mã số thuế, nhưng nghỉ kinh doanh dài hạn, sau đó lại kinh doanh lại vẫn phải thực hiện đăng ký nộp thuế lại cơ quan thuế, nhưng cấp mã số thuế mới (ĐTNT sử dụng mã số thuế đã có).
3- Nhận tờ khai đăng ký thuế: Đội thuế nhận tờ đăng ký thuế của các ĐTNT. Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai và trực tiếp liên hệ với ĐTNT chỉnh sửa tờ khai đăng ký thuế nếu có lỗi .
4- Nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế:
5- Gửi giấy chứng nhận đăng ký thuế (ĐKT) cho ĐTNT: Các đội thuế nhận giấy chứng nhận đăng ký thuế và lập sổ theo dõi việc phát giấy chứng nhận ĐKT theo mẫu số 02/NQD .
2.2.2 Điều tra doanh số ấn định:
Giao chỉ tiêu phấn đấu
2- Phân loại ĐTNT
Hướng dẫn ĐTNT kê khai thuế
4- Điều tra xác định doanh số của ĐTNT: Trực tiếp điều tra hoặc phối hợp với hội đồng tư vấn thuế phường, xã tổ chức điều tra xác định doanh số điển hình theo mẫu số 03/NQD để làm căn cứ tham khảo khi xác định doanh số chung của các hộ.
5 -Thực hiện công khai hoá doanh số dự kiến.
6 -Tham khảo ý kiến của hội đồng tư vấn thuế.
7- Duyệt mức doanh số ấn định: Sau khi hội đồng tư vấn thuế xem xét và tham gia ý kiến về mức doanh số dự kiến ấn định cho các hộ mới phát sinh và hết hạn ổn định thuế, tổ KH-NV tập hợp, kiểm tra lại kết quả của ấn định.
2.2.3 Xét miễn giảm thuế:
1- ĐTNT nộp đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Các hộ kinh doanh trong diện được miễn thuế và các hộ tạm nghỉ kinh doanh trên 15 ngày phải viết đơn đề nghị cơ qua thuế xét miễn, giảm thuế.
2 -Kiểm tra, giải quyết đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Tổ kiểm tra Chi cục phối hợp với các đội thuế tổ chức tiến hành kiểm tra các hộ có đơn nghỉ kinh doanh.
2.2.4 Tính thuế, lập sổ bộ thuế (đối với hộ ấn định thuế):
1- Tập hợp các căn cứ tính thuế: Tổ Kế hoạch - Nghiệp vụ (KH- NV) thu nhập danh sách dự kiến doanh số ấn định của các hộ mới ra kinh doanh và các hộ dự kiến điêù chỉnh doanh số ấn định để làm căn cứ tính thuế cho kỳ thuế tới.
2- Tính thuế, tính nợ và phạt (nếu có) và lập sổ bộ thuế:
- Đối với các hộ còn trong thời hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV thực hiện chuyển sổ, giữ nguyên mức doanh số, thuế và tính tiền nợ, tiền phạt ngay từ đầu tháng, sau đó thực hiện in thông báo ngay.
- Đối với các hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV căn cứ vào bảng dự kiến doanh số ấn định của từng hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế, dựa vào bảng tỷ lệ giá trị gia tăng... để tính thuế cho từng hộ này. Đồng thời tính nợ thuế và phạt nộp chậm đối với các hộ hết hạn ổn định thuế.
- Tính phạt: Tổ KH-NV và tổ kiểm tra Chi cục qua theo dõi việc nộp thuế của các hộ, đề xuất danh sách các hộ phạt hành chính thuế về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
3- Tổ chức duyệt sổ bộ thuế:
4- Công khai thuế:
Các đội thuế thực hiện niêm yết công khai hoá mức thuế của các hộ này tại trụ sở UBND phường, xã, các tổ ngành hàng để các ĐTNT được biết.
5- Thông báo thuế
Thông báo thuế ghi đầy đủ mã số ĐTNT (do Cục thuế cấp), số thuế nợ tháng trước chuyển qua, số thuế phải nộp tháng này, địa điểm nộp thuế và các chỉ tiêu khác.
6- Công tác kiểm tra: Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp, giám sát quá trình tính thuế, lập bộ để kịp thời phát hiện các trường hợp có hiện tượng trốn, lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra lại cơ sở.
2.2.5. Xử lý tờ khai:
1. ĐTNT lập tờ khai thuế: Hộ kinh doanh phải lập các tờ khai thuế theo mẫu quy định và gửi cơ quan thuế.
2. Nhận và kiểm tra tờ khai: Đội thuế nhận tờ khai thuế từ các hộ kinh doanh. Ghi sổ theo dõi việc nhận tờ khai. Sau đó tiến hành kiểm tra tờ khai để phát hiện các lỗi như:
+ Ghi sai tên ĐTNT.
+ Không ghi mã số thuế.
+ Khai thiếu chỉ tiêu hoặc sai mẫu tờ khai.
+ áp thuế suất sai, tính toán sai.
+ Các chỉ tiêu tiền bằng ngoại tệ chưa quy đổi ra tiền việt.
ấn định thuế: Tổ KH - NV lập danh sách ấn định thuế cho kỳ thuế trước ngày 15 của tháng để trình lãnh đạo duyệt.
4. Tính thuế, tính nợ, tính phạt và lập sổ bộ thuế:
Tổ KH - NV căn cứ vào tờ khai thuế, danh sách ấn định thuế, các kết quả kiểm tra, quyết định phạt hành chính,... để tiến hành tính thuế, tính nợ kỳ trước chuyển qua và tính phạt nộp chậm tiền thuế. Sau đó lập sổ bộ thuế.
5. Thông báo thuế:
- Thông báo thuế lần 1:
Tổ KH - NV tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp tháng này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế, tính phạt và in thông báo thuế.
- Thông báo thuế lần 2: Qua theo dõi thu nộp của ĐTNT, tổ KH - NV lựa chọn ĐTNT cần phát hành thông báo thuế lần 2. Số tiền trong báo lần 2 gồm: số tiền chưa nộp và số tiền phạt của số thuế nộp chậm.
6. Phạt hành chính thuế:
Trong quá trình quản lý thu, nếu phát hiện ĐTNT vi phạm quy định về phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực thuế, các đội thuế hoặc tổ kiểm tra Chi cục để xuất và dự thảo quyết định phạt hành chính thuế trình lãnh đạo Chi cục duyệt.
7. Lập lệnh thu:
Tổ KH - NV phối hợp với đội thuế và tổ kiểm tra Chi cục lập danh sách ĐTNT nợ thuế lớn, kéo dài đề nghị lập lệnh thu trình lãnh đạo duyệt.
8. Công tác kiểm tra:
Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp để lựa chọn các đối tượng nộp thuế trong diện kê khai cần kiểm tra tại cơ sở. Lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo duyệt và tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh.
9. Quyết toán thuế:
Hộ kê khai lập quyết toán thuế và nộp cho cơ quan thuế. Đội thuế nhận quyết toán và chuyển quyết toán cho tổ KH - NV để xác định số thuế phải nộp để tổ KH - NV điều chỉnh số thuế trong kỳ thuế hiện tại.
2.2.6. Xử lý giấy nộp tiền, lập báo cáo KT - TK thuế:
1. Nộp thuế: ĐTNT căn cứ vào thông báo thuế để nộp thuế.
2. Thu thuế tại Kho bạc:
3. Theo dõi tình hình nộp thuế (chấm bộ thuế):
Tổ KH - NV hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ Kho bạc. Căn cứ vào số liệu trên giấy nộp tiền để chấm sổ bộ thuế, theo dõi tình hình nộp thuế và nợ đọng thuế của các ĐTNT.
4. Kiểm tra các ĐTNT nợ đọng thuế:
Qua việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, tổ kiểm tra phối hợp với các đội thuế lựa chọn các ĐTNT nợ đọng thuế lớn, nợ kéo dài hoặc có hiện tượng nghi ngờ về trốn lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo Chi cục duyệt, sau đó, tiến hành kiểm tra ĐTNT theo kế hoạch.
5. Chuyển chứng từ nộp thuế của ĐTNT theo phương pháp khấu trừ về Cục thuế.
6. Thẩm hạch biên lai
7. Lập báo cáo kế toán, thống kê
Theo kỳ hạn quy định, tổ KH - NV lập các báo cáo kế toán, thống kê theo chế độ để gửi lãnh đạo Chi cục và cấp trên để phục vụ cho công tác chỉ đạo thu.
Chương II
Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
I. Khái quát về bộ máy quản lý thu thuế
1. Giới thiệu chung về bộ máy quản lý thu thuế
Lịch sử ngành thuế Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển để thành lập nên ngành thuế Nhà nước thống nhất vào ngày 7/7/1990. Nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đổi mới của hệ thống chính sách thuế. Hội đồng Chính phủ đã ban hành nghị định số 281-HĐBT về việc thành lập ngành thuế Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) được hợp nhất từ ba hệ thống tổ chức: Thu Quốc doanh, Thu Công thương nghiệp, thuế Nông nghiệp thành một hệ thống thuế thống nhất từ TW đến địa phương, kiện toàn bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảm bảo các mục tiêu cải cách của hệ thống thuế mới với hiệu quả cao nhất. Ngành thuế Nhà nước được tổ chức qua 3 cấp từ Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế; được xác đinh rõ quyền hạn, trách nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế với ngành dọc cấp trên và chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, chế độ thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc song trung lãnh đạo
Hệ thống bộ máy tổ chức ngành thuế được xây dựng theo nguyên tắc sau.
- Hệ thống thu thuế Nhà nước được thống nhất thành hệ thống dọc từ Trung ương đến quận, huyện, thị xã:
+ ở Trung ương: Có Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính là bộ máy quản lý thu thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế Nhà nước, có nhiệm vụ giúp Bộ Tài chính soạn thảo các Luật, Pháp lệnh, các văn bản pháp quy liên quan đến chính sách, chế độ thuế đông thời hướng dẫn chỉ đạo việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý thu thuế và thu khác trong cả nước.
+ ở cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: Cục thuế.
Nhiệm vụ chính là hướng dẫn tổ chức việc chỉ đạo, thực hiện thống nhất các chính sách, chế độ, nguyên tắc về quản lý thu thuế trên địa bàn theo đúng pháp luật, pháp lệnh, các quy định của hội đồng Nhà nước, hội đồng Bộ trưởng và hướng dẫn Bộ Tài chính và cơ quan thuế cấp trên: Tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách thuế cho các đối tượng nộp thuế, các ngành, các cấp và toàn dân chấp hành.
+ ở các quận, huyện và các cấp hành chính tương đương: Có chi cục thuế. Nhiệm vụ là tổ chức việc triển khai thực hiện chính sách, chế độ thuế trên địa bàn (như tổ chức các biện pháp thu thuế, tính thuế. đến từng đối tượng nộp thuế, tổ chức công tác, kiểm tra chống khai man, lậu thuế..., tổ chức công tác thống kê, kế toán, thông tin).
2. Bộ máy quản lý thu thuế khu vực kinh tế NQD
- ở cấp TW: Có phòng thuế NQD của Tổng cục Thuế.
Phòng nghiệp vụ thuế khu vực kinh tế NQD có chức năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế hướng dẫn chỉ đạo cơ quan thuế địa phương tổ chức thực hiện công tác quản lý và thu thuế khu vực kinh tế NQD.
Nhiệm vụ cụ thể:
+ Phối hợp, tham gia với phòng chính sách và các phòng nghiệp vụ có liên quan nghiên cứu, xây dựng, hướng dẫn các chính sách, chế độ về thuế đối với khu vực kinh tế NQD bao gồm mọi loại hình doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể, các HTX để trình bày các cấp có thẩm quyền để ban hành.
+ Nghiên cứu, xây dựng các quy trình, quy chế và các biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với khu vực này đảm bảo thực hiện chính sách chế độ thuế, chống thất thu có hiệu quả, chống buôn lậu trốn thuế.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra cơ quan thuế các cấp trong việc thực hiện chính sách, quy chế, quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với khu vực NQD (như quy trình tách 3 bộ phận, tổ chức thu thuế qua Kho bạc, triển khai kế toán tư nhân, tổ chức duyệt sổ bộ thuế tổng hợp, quy trình điều chỉnh thuế v.v...).
+ Xem xét, giải quyết những vướng mắc của cơ sở kinh tế NQD trong quá trình thi hành pháp luật, pháp lệnh thuế; xem xét đề nghị và kiểm tra việc giảm thuế, miễn thuế của cơ quan thuế các cấp địa phương trong khu vực kinh tế NQD.
+ Phối hợp với các phòng có liên quan trong Tổng cục Thuế để xây dựng kế hoạch thu, tổng hợp đánh giá, phân tích tình hình kết quả thu, đề xuất với Tổng cục, Bộ có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo thích hợp trong lĩnh vực thuế khu vực kinh tế NQD nhằm tăng thu cho ngân sách.
+ Phối hợp với phòng ấn chỉ nghiên cứu biểu mẫu, biên lai chỉ thuế phù hợp với đối tượng quản lý cũng như kiểm tra quá trình quản lý, sử dụng các loại biên lai, ấn chỉ thuế tại các địa phương.
+ Tham gia với các ngành, các cấp về chủ trương, biên pháp khuyến khích phát triển kinh doanh sản xuất NQD, mở rộng giao lưu hàng hoá, chống buôn lậu kinh doanh hàng hoá trái phép v.v...
+ Tham gia biên soạn các tài liệu, giáo án cũng như giảng dạy cho các lớp đào tạo, bồi dưỡng của ngành.
+ Tổ chức công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ các văn bản pháp quy của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lýcủa phòng theo đúng quy định của ngành; quản lý và điều hành cán bộ, nhân viên trong phòng thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước và làm tốt nhiệm vụ được giao.
- ở cấp Tỉnh, Thành phố: Có phòng NQD, phòng nghiệp vụ, phòng thanh tra của Cục Thuế: Các phòng này đều có những nhiệm vụ riêng trong việc thực hiện, chấp hành các chế độ chính sách của Tổng cục Thuế, BTC đưa ra đối với khu vực kinh tế NQD.
- ở cấp quận, huyện: Có các tổ nghiệp vụ, tổ thanh tra, các đội thuế chủ yếu là quản lý các hộ kinh doanh trên địa bàn.
II. Thực trạng công tác quản lí thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Kết quả công tác thu thuế
Về số lượng
1.1.1.Đối với các doanh nghiệp:
- Trước khi có Luật Doanh nghiệp:
Từ năm 1990 ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, đồng thời một số chỉ thị quyết định, chính sách khác đã được triển khai. Nhờ đó số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là các ._.cơ quan kiểm tra lại có kết luận khác nhau, cơ sở kinh doanh không biết đâu là kết luận đúng.
Yêu cầu cải cách hành chính thuế đang là vấn đề nổi cộm. Không phủ nhận thời gian qua các thủ tục hành chính thuế có nhiều cải tiến nhưng vãn còn gây phiền hà cho doanh nghiệp. Hướng cải cách hành chính thuế đề nghị tập trung vào vấn các vấn đề trọng tâm sau đây:
- Tiếp tục cải cách thủ tục về đăng ký và cấp mã số thuế theo hướng gắn việc cấp đăng ký kinh doanh với việc cấp mã số thuế để doanh nghiệp bớt các thủ tục khai báo và thời gian chờ đợi.
Tiếp tục cải cách lại thủ tục hoàn thuế, miễn giảm thuế:
Theo hướng đơn giản về mặt thủ tục và nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, khắc phục và chấm dứt tình trạnhg “xin cho” trong việc miễn giảm thuế, hoàn thuế. Theo hướng này đề nghị cần hướng dẫn rõ các thủ tục, hồ sơ về miễn giảm thuế, về hoàn thuế để doanh nghiệp nắm được và thực hiên. Cơ quan thuế căn cứ vào hồ sơ của doanh nghiệp phải hoàn thuế trong thời gian quy định mà không cần phải ra quyết định. Các trường hợo hồ sơ không đầy đủ thì phải thông báo cho doanh nghiệp biết.
Đối với các dự án đầu tư đã có quyết định ưu đãi đầu tư của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thì không cần làm thủ tục miễn giảm thuế nữa vì khi xét cấp quyết định, doanh nghiệp đã phải lập hồ sơ và đã được uỷ ban nhân dân xem xét trước khi ra quyết định.
- Cải tiến các thủ tục về kê khai thuế theo hướng đơn giản cả về nội dung kê khai, và các biểu mẫu kèm theo. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thay thế việc kê khai nộp thuế hàng tháng thành kê khai nộp thuế theo quý
Theo quy định hiện nay, việc kê khai thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải lập bảng kê hoá đơn đầu vào, hoá đơn đầu ra kèm theo. Đối với những cơ sở kinh doanh có số lượng hoá đơn đầu vào đầu ra lớn việc kê khai và lập bảng kê sẽ mất nhiều thời gian vì nội dung bảng kê tương đối phức tạp, chưa nói đến việc chi phí về giấy tờ, in ấn...
- Trong quản lý và sử dụng hoá đơn cũng cần cải tiến theo hướng tìm giải pháp khuyến khích mạnh hơn nữa doanh nghiệp tự in hoá đơn để sử dụng. Theo quyết định hiện nay việc doanh nghiệp muốn tự in hoá đơn để sử dụng phải xin - lại xin - và được chấp nhận của Tổng cục Thuế và phải in ở nhà in do Tổng cục Thuế chỉ định. Các doanh nghiệp NQD thường quy mô kinh doanh không lớn muốn tự in hoá đơn để sử dụng cho tiết kiệm nhưng thủ tục phiền hà nên đành thôi.
Trong cải cách thủ tục hành chính cần hết sức chú ý: Khi đặt ra yêu cầu quản lý hoặc cải tiến quản lý phải tính đến những tác động đối với đối tượng quản lý và tính hiệu quả của quản lý. Khi thực hiện luật thuế GTGT đa số các cơ sở kinh doanh đều phàn nàn chế độ kê khai thuế GTGT quá phức tạp nên doanh nghiệp đều phải tăng biên chế và tăng chi phí. Trước đây thực hiện luật thuế doanh thu, hàng tháng kế toán chỉ cần khoá sổ là xác định được doanh thu, tính được thuế phải nộp và chỉ lập duy nhất một tờ khai. Theo chế độ thuế GTGT như trình bày trên tờ khai quá phức tạp, xác định thuế cũng phức tạp hơn thuế doanh thu do phải xác định cả đầu vào, đầu ra...
- Nâng cao trình độ nhận thức, năng lực làm việc và đạo đức của cán bộ cơ quan Nhà nước, đặc biệt cần giáo dục để cán bộ các ngành các cấp nhận thức và quan tâm đúng mức đối với khu vực kinh tế NQD thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế NQD.
Cùng với sự đổi mới nhận thức về kinh tế và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cho thấy có một bộ phận không nhỏ cán bộ các cơ quan quản lý Nhà nước không đủ năng lực, không đủ phẩm chất chính trị đã gây cản trở cho việc phát triển kinh tế nói chung và kinh tế NQD nói riêng. Tình trạng cán bộ các cơ quan quản lý Nhà nước lợi dụng chức quyền gây phiền hà cho cơ sở kinh doanh thậm chí đòi hối lộ đang diễn ra tương đối phổ biến.
Trong quản lý thu thuế nhiều cán bộ thuế không nhận thức đầy đủ mục đích tác dụng của chính sách thuế, không nắm vững được chuyên môn nghiệp vụ thuế, quy trình quản lý thuế, nên trong giải quyết công việc thường không đúng, nhiều trường hợp còn giảI quyết sai gây thiệt hại cho cơ sở kinh doanh. Không ít trường hợp lợi dụng chức quyền gây ra tiêu cực.
6. Về quản lý đối tượng nộp thuế
Phải rà soát lại cả các đối tượng có thực tế sản xuất kinh doanh trên địa bàn để đưa vào quản lý thu thuế.
- Đối với các doanh nghiệp:
Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số doanh nghiệp đã được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên cơ sở đó thống kê những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký thuế, không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã có mã số thuế nhưng từ đầu năm đến nay không hoạt động, không kê khai nộp thuế, từ đó phối hợp với các ngành ở địa phương và Chi cục thuế quận huyện tổ chức kiểm tra phát hiện những doanh nghiệp có kinh doanh nhưng không xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế. Tiến hành xử phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế GTGT, thuế TNDN để thu những tháng không kê khai. Đối với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn tại hoặc ngừng hoạt động thì đề nghị sở Kế hoạch Đầu tư thông báo công khai và thực hiện thu hồi đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp di chuyển địa điểm nhưng không khai báo phải phạt vi phạm hành chính và ấn định số thuế những tháng không kê khai, yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay thuế vào ngân sách.
- Đối với hộ kinh doanh cá thể.
Đối chiếu số hộ lập bộ môn bài, số hộ lập bộ thuế GTGT, thuế TNDN với số hộ điều tra thống kê, xác định số hộ chưa quản lý đồng thời tổ chức điều tra doanh thu, thu nhập của những hộ này để đưa vào bộ thu thuế môn bài, thuế GTGT, thuế TNDN nếu thu nhập kinh doanh lớn hơn thu nhập được miễn thuế.
Cục thuế chỉ đạo từng Chi cục thuế, đội Thuế phải tự kiểm tra rà soát địa bàn nào qua kiểm tra lại vẫn còn thất thu về hộ phải kiểm điểm trách nhiệm của lãnh đạo Chi cục, lãnh đạo đội Thuế.
7. Về quản lý doanh thu nộp thuế
7.1 Đối với doanh nghiệp NQD
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp NQD đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế theo quy định.
Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế với kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ phát hiện và xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ những doanh nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập hoá đơn, chứng từ hoặc lập hoá đơn nhưng ghi thấp hơn giá thực tế thanh toán nhằm mục đích trốn lậu thuế. Nếu kiểm tra phát hiện các vi phạm trên phải kiên quyết áp dụng biện pháp ấn định giá để tính thuế.
- Khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp, qua kiểm tra nếu phát hiện thu thiếu thì ra thông báo yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay số phát sinh thêm vào ngân sách, đồng thời đối chiếu số phát sinh về thuế TNDN năm 2000 so với kê khai tạm nộp thuế TNDN năm 2001, nếu số kê khai tạm nộp năm 2001 thấp hơn so với doanh thu và thuế TNDN năm 2000 thì yêu cầu điều chỉnh lại cho phù hợp với kết quả kinh doanh 6 tháng và kết quả kiểm tra quyết toán thuế.
- Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không trung thực hoặc có nghi vấn trốn lâu thuế thì báo cáo lãnh đạo cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác minh hoá đơn, nếu phát hiện vi phạm thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử phạt vi phạm hành chính, truy thu thuế hoặc ấn định mức thuế phải nộp cao hơn mức thuế đã kê khai.
- Đối với các doanh nghiệp Cục Thuế đã phân cấp cho Chi cục Thuế quản lý, yêu cầu các Chi cục Thuế phải trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ và kê khai nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Nghiêm cấm không được áp dụng thu thuế khoán. Trường hợp doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán hoá đơn chứng từ, vi phạm chế độ kê khai phải phạt vi phạm hành chính và ấn định mức thuế phải nộp.
- Thực hiện kiểm tra hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp đã được hoàn thuế. Trước mắt là những doanh nghiệp có số thuế đã hoàn lớn hoặc có dấu hiệu vi phạm.
7.2 Đối với hộ kinh doanh cá thể
- Đối với hộ kinh doanh lớn:
Yêu cầu Cục thuế chỉ đạo các Chi cục Thuế phải thống kê, phân loại và triển khai chế độ kế toán bắt buộc với tất cả các hộ kinh doanh lớn theo đúng chỉ thị số 03/2000/CT-BTC ngày 10/4/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán áp dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ NQD. Quyết định số 169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ kế toán hộ kinh doanh và công văn số 1210 TCT/NV6 ngày 11/4/2001 của Tổng cục Thuế về tăng cường thực hiện chế độ kế toán hộ kinh doanh. Để có căn cứ xét thành tích thi đua năm 2001, Tổng cục Thuế giao chỉ tiêu số hộ phải triển khai cho từng địa phương.
Yêu cầu cục Thuế địa phương:
+ Căn cứ chỉ tiêu Tổng cục giao phân bổ cho các Chi cục và chỉ đạo các Chi cục Thuế căn cứ chỉ tiêu số hộ được giao, số hộ triển khai, xác định cụ thể số hộ còn phải thực hiện chế độ kế toán để hoàn thành chỉ tiêu. Chi cục thuế căn cứ vào chỉ tiêu Cục giao phân cho từng đội Thuế thực hiện ngay, đồng thời chỉ đạo Chi cục thuế, đội thuế lựa chọn xác định những hộ kinh doanh, những ngành nghề kinh doanh thuộc diện phải mở đầy đủ hệ thống sổ sách kế toán, những hộ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, trước mắt chỉ cần mở sổ nhật ký bán hàng cho phù hợp trình độ của người kinh doanh và phù hợp yêu cầu quản lý của cơ quan Thuế. Tổ chức xét duyệt cho hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ chặt chẽ, tránh lợi dụng.
+ Tổ chức kiểm tra việc ghi chép sổ kế toán, phát hiện kịp thời những vướng mắc để hướng dẫn, giúp đỡ hộ kinh doanh yên tâm thực hiện chế độ kế toán và hạch toán trung thực. Đối với những hộ kinh doanh đã thực hiện hướng dẫn nhưng cố tình không thực hiện hoặc cố tình hạch toán, lập hoá đơn, chứng từ không trung thực với thực tế phát sinh nhằm trốn thuế thì phải lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính, nếu vẫn tái phạm thì ấn định doanh thu, thuế, mức ấn định phải bằng hoặc cao hơn so với hộ kinh doanh thực hiện không đúng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, kê khai doanh thu hoặc kê khai thuế GTGT đầu ra, đầu vào trung thực để động viên các hộ kinh doanh thực hiện đúng chế độ kế toán và hộ kinh doanh thấy được lợi ích thực tế, không tái phạm.
+ Tổ chức kiểm tra chặt chẽ tờ khai nộp thuế của các hộ kinh doanh. Đối với những hộ kinh doanh kê khai doanh thu, mức thuế thấp (nếu tính thuế theo phương pháp trực tiếp) hoặc kê khai số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra (đối với hộ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) phải tổ chức kiểm tra, xác minh ngay để tính trung thực của tờ khai, phát hiện và xử lý ngay nếu hộ kinh doanh vi phạm, không để hộ kinh doanh lợi dụng triển khai chế độ kế toán làm thất thu thuế nhiều hơn.
+ Để thúc đẩy các Chi cục Thuế thường xuyên quan tâm triển khai kế toán hộ kinh doanh và nâng cao trách nhiệm của cán bộ thuế, Cục thuế phải phân công cán bộ trực tiếp theo dõi năm tình hình triển khai, phản ánh kịp thời tiến độ, kết quả triển khai, những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai. Đồng thời định kỳ tổ chức kiểm tra thực tế việc triển khai kế toán hộ kinh doanh tại các Chi cục thuế. Qua kiểm tra tình hình thực tế, kết hợp ý kiến phản ánh của cán bộ được phân công trực tiếp theo dõi tại Chi cục thuế, phát hiện nhanh những nhân tố tích cực để phổ biến, nhân rộng và có ý kiến chỉ đạo kịp thời, khắc phục thiếu sót trong việc triển khai kế toán hộ kinh doanh để thực hiện tốt hơn. Đối với những Chi cục thuế làm chưa tốt cần phê bình và yêu cầu chấn chỉnh ngay trong thời gian tới.
+ Triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh nhằm đưa công tác quản lý thu thuế vào nề nếp theo kết quả kinh doanh phản ánh trên sổ sách kế toán là công việc trọng tâm trong công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể năm 2001 là căn cứ để xét thi đua, khen thưởng, vì vậy Cục thuế phải chỉ đạo từng Chi cục thuế triển khai hoàn thành chỉ tiêu Tổng cục giao (theo biểu đính kèm).
- Đối với hộ thu khoán:
Tổng cục đã chỉ đạo các Cục thuế phải xác định lại doanh thu đối với các hộ khoán 6 tháng cuối năm. Đề nghị cục Thuế kiểm tra ngay các Chi cục. Đối với những Chi cục chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phải xác định lại cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất kinh doanh.
Quá trình điều tra, xác định lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán phải làm đúng quy trình, thực hiện công khai và không được điều chỉnh đồng loạt theo kiểu bình quân.
8. Về quy trình quản lý thu thuế
Chỉ đạo các đơn vị thu thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các biện pháp, quy trình quản lý đã đề ra: như quy trình quản lý doanh thu đối với hộ khoán, quy trình quản lý doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, quy trình cấp mã số thuế, quy trình thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế, các biện pháp duyệt bộ tổng hợp, chống thất thu qua kiểm tra việc lập hoá đơn phát hiện và xử lý các trường hợp lập hoá đơn thấp hơn giá thực tế thanh toán đối với một số ngành nghề, mặt hàng, xử phạt các cơ sở kinh doanh vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ... quy trình thu nộp thuế, quy trình quản lý hoá đơn chứng từ...:
Một là: phải rà soát lại các văn bản pháp luật thuế hiện hành để có những bổ sung, điều chỉnh trong phần hướng dẫn thủ tục nộp thuế. Yêu cầu các doanh nghiệp có trách nhiệm chủ động nộp đầy đủ số thuế phải nộp đã kê khai vào kho bạc nhà nước trong thời hạn quy định của luật thuế, thay cho việc doanh nghiệp nộp theo thông báo thuế của cơ quan thuế. Cơ quan thuế chỉ ra thông báo nộp thuế trong một số trường hợp đặc iệt như: thông báo ấn định thuế, thông báo chậm nộp thuế và xử lý nộp chậm. Để thực hiện được vấn đề như trên cần phải cải tiến lại mẫu các tờ khai thuế. Hiện nay ở mỗi tờ khai thuế đều có phần cam kết của doanh nghiệp ở phía dưới tờ khai: “Xin cam đoan số liệu kê khia trên là đúng, nếu sai xin chịu trách nhiệm xử lý theo pháp luật”. Phần cam kết trên mới chỉ cam kết số liệu kê khia mà chưa gắn việc kê khai nộp thuế của doanh nghiệp, vậy nên sửa lại là: “Xin cam đoan số liệu kê khai trên là đúng, doanh nghiệp cam kết sẽ nộp đầy đủ, đúng hạn số thuế kê khai trên vào kho bạc nhà nước. Nếu kê khai sai hoặc chậm nộp, xin chịu trách nhiệm xử lý theo pháp luật”. Với dòng cam kết này, các doanh nghiệp sẽ tự ý thức được trách nhiệm của họ trước pháp luật trong việc kê khai và nộp thuế, không trông chờ vào thông báo nộp thuế của cơ quan thuế.
Hai là: Nên bỏ chương trình tính lại thuế trên máy vi tính như hiện nay, những sai sót trên tờ khai thuế như: kê khai thuế chỉ tiêu, kê khai sai thuế ssuất, hoặc sai số về tính toán số học... sẽ được phòng quản lý thu kiểm tra, kiểm soát, yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh hoặc kiểm tra xử lý theo đúng trình tự của quy trình và quy định của luật thuế. Có như vậy, mới thực sự tôn trọng số liệu tự kê khai của doanh nghiệp.
Ba là: theo quy định hiện hành, thì chậm nhất trong vòng 60 ngày, kể từ khi kết thúc năm tài chính, các doanh nghiệp phải lập và gửi các tờ quyết toán thuế: dẫn đến việc lập, gửi các tờ quyết toán thuế của các doanh nghiệp đến cơ quan thuế cũng như việc thu thập và xử lý thông tin của cơ quan thuế từ các tờ quyết toán thuế diễn ra rất rời rạc, thiếu khoa học, thậm chí nhiều doanh nghiệp gửi các tờ quyết toán thuế không đầy đủ, không đồng nhất. Để đơn giản trong việc lập báo cáo quyết toán thuế, vừa để đảm bảo yêu cầu của các luật thuế, nên quy định thống nhất các doanh nghiệp chỉ phải lập một báo cáo quyết toán thuế. Trong báo cáo quyết toán thuế phải nêu được đầy đủ 3 nội dung: chi tiết quyết toán từng loại thuế. Tổng hợp tình hình thanh toán với ngân sách nhà nước, phản ánh tổng hợp số thuế nộp đầu kỳ, phát sinh trong kỳ, nộp trong kỳ, miễn giảm trong kỳ và tồn đọng cuối kỳ của tất cả các loại thuế. Phần thuyết minh báo cáo phản ánh nguyên nhân chênh lệch giữa tổng hợp tờ khai thuế 12 tháng với quyết toán thuế của từng loại thuế, nguyên nhân của nợ đọng thuế.
9. Tập trung chỉ đạo khai thác các nguồn thu, những ngành nghề và lĩnh vực còn đang thất thu nhiều
Thời gian qua, do tập trung vào triển khai các luật thuế mới, các địa phương ít quan tâm chỉ đạo tăng cường quản lý và chống thất thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Trước mắt tập trung giải quyết nợ đọng thuế của doanh nghiệp và các hộ kinh doanh lớn vẫn đang hoạt động. Đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn còn nợ đọng thuế nhưng vẫn hoạt động mà cục Thuế đã đôn đốc, đã phạt nộp chậm vãn không nộp thuế thì ra lệnh phong toả tài khoản hoặc lập hồ sơ đề nghị các ngành chức năng can thiệp.
Đối với hộ kinh doanh vừa và nhỏ chủ yếu dùng biện pháp phối hợp hội đồng tư vấn vận động hộ kinh doanh nộp thuế còn nợ đọng để thúc đẩy thu nhanh gọn số thuế phát sinh. Cục thuế, Chi cục Thuế giao chỉ tiêu phấn đấu cho từng đơn vị phải thu dóc số thuế phát sinh, không để số thuế nợ đọng phát sinh thêm.
Đồng thời Cục thuế cần quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm và kỷ luật lao động cho cán bộ thuế, đồng thời tăng cường kiểm tra thúc đẩy các Chi cục Thuế, đội thuế, cán bộ thuế thực hiện nghiêm túc các quy trình biện pháp nghiệp vụ và những nội dung Tổng cục Thuế tập trung chỉ đạo.
- Đối với những hộ kinh doanh xe gắn máy, đồ điện tử, điện lạnh... tăng cường kiểm tra xác minh đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các cơ sở kinh doanh các mặt hàng này vì đang bị lợi dụng lập hoá đơn không đúng thực tế thanh toán. Phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, nếu kiểm tra phát hiện thu tiền nhưng khôn lập hoá đơn hoặc lập hoá đơn khôn đúng giá thanh toán thì căn cứ vào giá niêm yết để ấn định doanh thu, đối với những cơ sở không niêm yết giá tuỳ theo đặc điểm cụ thể, cục Thế kết hợp với các ngành xây dựng bảng giá tối thiểu làm căn cứ để cơ quan thuế áp giá tính thuế, áp giá tính chi phí kiểm tra phá hiện có lợi dụng.
Qua kiểm tra xác minh, nếu phát hiện có vi phạm, lập hoá đơn khôn đúng phải kiên quyết bác bỏ số liệu kê khai của các hộ, thực hiện ấn định thuế theo hướng dẫn tại công văn 740 ngày 23/3/2001 của Tổng cục Thuế.
+ Đối với hoạt động vận tải: Từng đội Thuế phải phối hợp hội đồng tư vấn rà soát tại địa bàn, đồng thời kết hợp với Cảnh sát Giao thông, Cơ quan đăng ký để rà soát nắm số lượng phương tiện có hoạt động kinh doanh, đối chiếu với số phương tiện đã được các cơ sở kê khai, phương tiện các chủ phươn tiện đang kinh doanh nhưng không khai báo nộp thuế để đưa vào diện quản lý. Đối với các phương tiện vận tải đã kinh doanh không khai nộp thuế phải xử phạt hành chính và truy thu thuế từ tháng bắt đầu kinh doanh.
+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải phải kiểm tra chặt chẽ phương thức quản lý, phương thức hạch toán kế toán, kiểm tra việc đăng ký, sử dụng vé, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp thu tiền của khách hàng nhưng không xuất vé. Đối với các HTX dịch vụ vận tải: Nếu HTX có cung ứng dịch vụ cho xã viên thì phải kê khai nộp thuế GTGT và thuế TNDN tính trên tiền công dịch vụ HTX thu về. Các xã viên nhận khoán phải kê khai nộp thuế trên doanh thu nhận khoán, để thuận tiện chi cục Thuế có thể bàn với các HTX đứng ra kê khai và nộp thuế thay cho từng xã viên.
+ Đối với các doanh nghiệp vận tải có mở các đại diện ở các địa phương khác, cần phải phối hợp với các cơ quan Thuế nơi mở đại diện để cùng kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Xem xét lại doanh thu, mức thuế ấn định đối với các phương tiện vận tải tư nhân, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng giữa các hộ kinh doanh vận tải tư nhân với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải.
+ Đối với hoạt động xây dựng tư nhân: Yêu cầu đội Thuế có trách nhiệm phối hợp hội đồng tư vấn, Thanh tra Xây dựng kiểm tra báo cáo đầy đủ các công trình đang xây dựng trê địa bàn phường, xã để phối hợp với các Chi cục Thuế và các phòng quản lý của cục Thuế quản lý hết các công trình xây dựng phát sinh trên địa bàn. Đối với các công trình do doanh nghiệp ký kết hợp đồng xây dựng thi công thì thông báo ngay cho phòng quản lý biết để kiểm tra đối chiếu, phát hiện lợi dụng. Đối với các công trình xây dựng do tư nhân thi công thì yêu cầu người nhận thầu phải kê khai tạm nộp thuế theo tiến độ thi công, trường hợp chủ nhà thông đồng với chủ thi công nhận là tự xây nhà để trốn thuế thì đề nghị hội đồng tư vấn tham gia cùng xác định có phải tự xây dựng hay không làm cơ sở để xử lý thu hay không thu.
Để phân biệt công trình xây dựng tự làm với công trình xây dựng phải thuê thi công, căn cứ điều lệ quản lý xây dựng cơ bản Chính phủ đã ban hành đề nghị cục Thuế phối hợp sở Xây dựng hướng dẫn cụ thể loại công trình dân tự làm để cơ quan Thuế làm căn cứ không thu thuế. Nguyên tắc chung là mọi công trình từ cấp 1 đến cấp 3 đều phải do tổ chức, cá nhân có nghề xây dựng thi công, chỉ có nhà cấp 4 mới được tự tổ chức thi công.
Doanh thu tính thuế được xác định theo hợp đồng xây dựng, trường hợp không có hợp đồng xây dựng thì căn cứ vào giá xây nhà do Nhà nước ban hành đối với từng loại nhà để làm căn cứ ấn định giá tính thuế.
+ Đối với hoạt động khách sạn, nhà nghỉ cục Thuế phối hợp các ngành đề nghị khách sạn, nhà nghỉ phải lập và cung cấp sơ đồ phòng nghỉ cho cơ quan Thuế, hàng ngày khách sạn phải tự đánh dẫu phòng có khách nghỉ vào sơ đồ.
Cục thuế phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra khách nghỉ thực tế đối chiếu với việc phản ánh trên sơ đồ có khớp không? Định kỳ đối chiếu số lượng khách nghỉ với cơ quan công an để xác định tổng số khác nghỉ hàng tháng và số lượng phòng sử dụng hàng tháng. Nếu phát hiện có gian lận thì ấn định doanh thu tính thuế theo mức bình quân chung sử dụng phòng nghỉ và giá thuê phòng ở địa phương.
Trường hợp kiểm tra thực tế không phát hiện nhưng nghi vấn những khách sạn, nhà nghỉ kê khai công suất sử dụng phòng thấp, chi phí điện nước tăng thì phải cử cán bộ thanh tra, giám sát ngay để phát hiện kịp thời.
Để chống thất thu về giá tiền phòng, cục thuế cần phối hợp các cơ quan xây dựng bảng giá thuê phòng chuẩn để làm căn cứ kiểm tra, đối chiếu, trường hợp khách sạn, nhà nghỉ kê khai giá thuê phòng thấp hơn giá quy định phải lập biên bản xác định giá thực tế, đồng thời đối chiếu xác minh hoá đơn để xác định tiền thực tế thanh toán làm cơ sở ấn định xử lý vi phạm hành chính và doanh thu tính thuế.
+ Đối với hoạt động nhà hàng, vũ trường: Phải bố trí cán bộ Thuế phối hợp hội đồng Tư vấn kiểm tra ngoài giờ để có căn cứ xác định đúng doanh thu thực tế.
Hiện nay Bộ Văn hoá đang chỉ đạo tổ chức kiểm tra sắp xếp lại các hoạt động vũ trường, các địa phương cần phối hợp đề nghị Uỷ ban Nhân dân ban hành quy định cho các vũ trường phải thực hiện chế độ kế toán, lập hoá đơn chứng từ theo quy định, đồng thời thực hiện tổ chức kiểm tra thực hiện và xử lý nghiêm minh các vũ trường vi phạm chế độ kế toán, dùng vé tự in để thu tiền...
Đối với các nhà hàng phải nắm được số phòng, số bàn ăn, số nhân viên phục vụ cụ thể để làm căn cứ ấn đinh doanh thu.
Đối với các vũ trường có bán vé cho người vào thì phải kiểm tra việc phát hành vé và sử dụng vé, nếu sử dụng vé không đăng ký, chưa được sự chấp nhận của Tổng cục Thuế thì phải sử phạt và ấn định thuế phải nộp.
10. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan khác
Khi nói đến các giải pháp để quản lý, phát triển kinh tế NQD các cơ quan quản lý hay né tránh nêu vấn đề làm thế nào để quản lý được qua đó để hướng sự phát triển sao cho có lợi cho đất nước. Không thể nói một chiều phát triển ngoài tầm quản lý. Thực tiễn vừa qua khi đánh giá 2 năm thực hiện luật doanh nghiệp mới luôn có mâu thuẫn giữa cơ quan hoạch định chính sách phát triển (Bộ Kế hoạch Đầu tư, Viện quản lý kinh tế, Ban đổi mới doanh nghiệp) đều cho rằng các cơ quan quản lý yếu kém không đáp ứng được yêu cầu thông thoáng để khuyến khích phát triển. Các cơ quan quản lý cho rằng luật sơ hở đang bị lợi dụng. ở nước ta, do trình độ dân trí còn thấp, trình độ quản lý chưa cao, phương tiện quản lý chưa được hiện đại hoá, nếu hoạch định chính sách vượt quá trình độ hiện tại dễ gây tác dụng xấu, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, xã hội. Có quản lý được thì mới định hướng được sự phát triển đúng hướng. Xét về mặt tài chính và thuế có quản lý được mới đảm bảo cho tài chính doanh nghiệp lành mạnh qua đó mới đảm bảo cho sự lành mạnh của nền Tài chính quốc gia, quản lý được mới thực hiện được việc tính đúng, tính đủ thuế phải nộp, mới đảm bảo được sự công bằng và binh đẳng giữa các cơ sở kinh doanh và các thành phần kinh tế, mới đảm bảo đựơc quyền lợi về tài chính của các thành viên liên quan...
Trên tinh thần đó để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD về phía các cơ quan chức năng khác cần có các giải pháp như sau:
9.1. Kiến nghị sửa đổi và bổ sung một số điểm còn sơ hở trong các quy định của luật doanh nghiệp đang bị một số cá nhân và doanh nghiệp lợi dụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp và cá nhân liên quan ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế, gây thất thoát tiền của Ngân sách Nhà nước, cụ thể ở một số việc như sau:
- Cần có quy định chặt chẽ hơn để kiểm soát được người điều hành hoặc người chủ doanh nghiệp, loại trừ được những người không đủ điều kiện (nghiện hút, mới ra tù hoặc đang trong thời kỳ bị quản chế, những người kém về sức khoẻ -bệnh thần kinh, những người trình độ văn hoá thấp) không được thành lập doanh nghiệp vì những người này nếu có vi phạm trốn thuế, lậu thuế cũng không xử lý được.
- Cần quy định những điều kiện về vốn và tài sản của doanh nghiệp bắt buộc phải có để khi xảy ra các hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tiền, hàng hoá còn có cơ sở để cưỡng chế đảm bảo thanh toán cho người bị hại, kể cả chiếm dụng tiền thuế, có tài sản cưỡng chế.
- Quy định về địa diểm kinh doanh hay địa điểm đặt trụ sở cũng cần chặt chẽ hơn, tránh tình trạng như hiện nay, doanh nghiệp không có hiện diện tại địa điểm quản lý đăng ký kinh doanh quá nhiều, hoặc khai không đúng địa điểm kinh doanh dẫn đến cơ quan thuế không quản lý được...
- Có những quy định chặt chẽ hơn về quản lý doanh nghiệp trong thời gian hoạt động. Ví dụ: Trong thời gian hoạt động doanh nghiệp vi phạm các chính sách thuế đã bị xử phạt nếu doanh nghiệp vẫn cố tình không chấp hành thì các ngành phải có trách nhiệm cùng cơ quan Thuế đôn đốc và xử lý việc kê khai thay đổi kinh doanh...
9.2.Tăng cường việc quản lý tiền mặt, quản lý thanh toán yêu cầu tất cả các tổ chức và cá nhân kinh doanh đều phải mở tài khoản tại Ngân hàng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, có như vậy mới quản lý được đầy đủ doanh thu, chi phí trên cơ sở đó mới tính đúng, tính đủ số thuế phải nộp, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về thuế.
9.3.Cần có quy định cụ thể buộc các cấp các ngành liên quan như cơ quan cấp đăng ký kinh doanh, cơ quan quản lý thị trường, công an có trách nhiệm và nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ cơ quan thuế cung cấp những tài liệu liên quan đến quá trình hình thành và hoạt động của doanh nghiệp để cơ quan thuế có thể kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của có sở kinh doanh. Giúp đỡ cơ quan thuế trong việc xử lý các hành vi vi phạm thuế.
9.4. Sớm ban hành luật kế toán để nâng cao tính pháp lý của các đối tượng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ được tốt hơn.
9.5. Đề nghị Bộ, Chính phủ trang bị đồng bộ máy vi tính và điều kiện làm việc cho cơ quan thuế, đảm bảo cán bộ thuế có thu nhập đủ yên tâm công tác.
9.6. Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quan tâm chỉ đạo công tác thuế NQD, chỉ đạo các cấp, các ngành ở địa phương phối hợp và tạo điều kiện cho cơ quan thuế triển khai các biện pháp quản lý thu, chống thất thu, chống trốn lậu thuế.
Kết luận
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã phát huy mạnh mẽ theo đường lối, chiến lược của Đảng và Nhà Nước. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế Nhà nước là quan trọng nhất. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn cả về số lượng và quy mô kinh doanh, đồng thời là khu vực có đóng góp lớn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó khu vực này còn thất thu nhiều trong công tác quản lý thu thuế, phương thức quản lý của cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác còn thiếu đồng bộ, bộ máy quản lý thu thuế có trình độ chưa cao... gây khó khăn cho công tác quản thu thuế .
Vậy các giải pháp nêu ra trong luận văn hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Chắc chắn rằng trong thời gian tới với các giải pháp của cơ quan thuế và các cơ quan khác khu vực kinh tế này sẽ phát triển mạnh mẽ góp phần tích cực vào việc chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước thực hiện tốt các mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD. Trên thực tế để đạt được một vị trí vững chắc trong nền kinh tế thị trường, cần thiết phải nghiên cứu một cách chi tiết và toàn diện đối với tất cả các nghiệp vụ thuế của Tổng Cục Thuế.
Tài liệu tham khảo.
Lịch sử phát triển ngành Thuế tập 1,2.
Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay.
Vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN trong thời kỳ đổi mới đất nước. NXB Quốc gia.
Kinh tế Chính trị Mác - Lê nin.
Tạp chí Tài chính số 3+7/2000, số 5/2001, số 1+2/2002.
Tạp chí Kinh tế phát triển số 38/2000.
Tạp chí Thuế Nhà nước số 10, 11,12 năm 2001.
Số liệu kê khai của các cơ sở kinh tế Ngoài quốc doanh – Tổng cục Thuế.
Báo cáo dự toán ngân sách năm 2001- Tổng cục Thuế
Báo cáo Bộ về quản lý kinh tế Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế
Báo cáo công tác quản lý thu thuế đối với khu vực công thương nghiệp Ngoài quốc doanh- Tổng cục Thuế.
Báo cáo điều tra thi hành luật doanh nghiệp – Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Báo cáo tổng kết và tài liệu lịch sử của Tổng cục Thuế.
Tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân của Viện nghiên cứu Kinh tế.
Báo cáo tình hình quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế Tư nhân - Tổng cục Thuế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0477.DOC