Quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung với việc mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank - Thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Khi nhân loại bước sang một nền văn minh thứ ba-văn minh trí tuệ, cùng với xu thế quốc tế hoá nên kinh tế thì tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trên toàn thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng đều có những biến đổi lớn. Các doanh nghiệp không chi cạnh tranh với đối thủ trong nước mà cả các đối thủ nước ngoài. Doanh nghiệp chiến thắng là doanh nghiệp mà sản phẩm của họ chỉ có một phần nhỏ tỷ trọng lao động chân tay còn tỷ trọng trí tuệ và công nghệ thì rất cao. Để làm được v

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung với việc mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc này thì một yếu tố không thể thiếu được đối với doanh nghiệp là vốn. Vốn để mua nguyên vật liệu, mua dây chuyền công nghệ, mở rộng thị trường… Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, nguồn vốn của ngân hàng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Bên cạnh việc tạo ra các hoạt động cho ngân hàng, nguồn vốn của ngân hàng còn góp phần tạo nên nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp thông qua hoạt động cho vay. Ngân hàng có thể tạo lập nguồn vốn cho mình bằng nhiều hình thức: huy động, phát hành giấy tờ có giá, đi vay,…Với tỷ trọng 70-80% tổng nguồn vốn, vốn huy động trở nên vô cùng quan trọng đối với bất kỳ ngân hàng nào, bởi sự dồi dào và chi phí thấp của nó. Các ngân hàng luôn tìm mọi cách để thu hút nguồn vốn này sao cho hiệu quả, nhất là khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Cũng như tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam, việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng luôn được VPBank quan tâm hàng đầu. Song thực hiện được nó không phải là vấn đề đơn giản. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên em đã chọn đề tài: “ Quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung với việc mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn tại VPBank – Thực trạng và giải pháp”. Đề tài chủ yếu tập trung vào việc phân tích thực trạng huy động vốn của VPBank trong khoản thời gian từ năm 2001 đến năm 2004. Song không vì thế mà đề tài mất đi tính thực tiễn của nó bởi vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của ngân hàng. Kết cấu của đề tài: Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được nghiên cứu theo nội dụng gồm ba chương: Chương1: Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi của khách hàng với hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Chương2:Thực trạng về quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tại VPBank . Chương3: Một số giải pháp khơi tăng nguồn vốn huy động thông qua việc quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tại VPBank . Trên cơ sở phân tích thực trạng huy động vốn tại VPBank , khoá luận đưa ra một số giải pháp cho việc thực hiện quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn áp dụng vào điều kiện thực tiễn của VPBank . Chương 1 huy động vốn từ tài khoản tiền gửi của khách hàng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng thương mại, vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại Khái niệm ngân hàng thương mại Ngân hàng ra đời gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá và lịch sử của phát triển tiền tệ, của các kiểu thiết chế xã hội. Hoạt động ngân hàng thuở ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả hộ và tiếp đến là sự phát triển hoạt động vay và các hoạt động khác. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm ngân hàng tuỳ theo từng khu vực, từng quốc gia. ở Mỹ “ ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. ở Pháp, ngân hàng được coi là “những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới nhiều hình thức ký thác hay hình thức khác, số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệ vụ chứng khoán tín dụng hay dịch vụ tài chính (luật ngân hàng 1941). Còn trong luật ngân hàng của Đan Mạch 1930 lại định nghĩa: “ Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và hành nghề địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm,…” ở Việt Nam trong nghị định 49/NĐCP về tổ chức ngân hàng thương mại đã nêu: “ NHTM là tổ chức tín dụng có hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay, cung ứng các phương tiện thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác.” Ngày nay trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế, cùng với sự thông thoáng trong quy định lĩnh vực, phạm vi kinh doanh phù hợp với xu thế hội nhập, các tổ chức kinh tế phi ngân hàng càng tham gian nhiều vào lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Tuy nhiên vẫn tồn tại một ranh giới nhất định giữa ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng ở chỗ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền chủ yếu là tiền gửi không kì hạn. Chính từ hoạt động này đã tạo nên chức năng tạo tiền đề thông qua hệ số nhân tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đó là đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các tài chính tín dụng. 1.1.2 Chức năng của Ngân Hàng Thương Mại Khi xét đến tầm quan trọng của bất kì một doanh nghiệp nào người ta cũng đều xét đến chức năng của nó đầu tiên. Xét ở nhiều giác độ khác nhau, chức năng của NHTM được đề cập đến là khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì chức năng của ngân hàng thương mại gồm 3 chưc năng cơ bản sau: chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, và chức năng tạo tiền. a) Chức năng trung gian tín dụng NHTM làm chức năng trung gian tín dụng bởi nó là” cầu nối “ giữa cung và cầu vốn; giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động vốn của các chủ thể có vốn dư thừa NHTM đã hình thành nên một quỹ để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đi vay của các chủ thể cần vốn. Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Cơ sở nào để ngân hàng thương mại thực hiện được chức năng này? Chính là xuất phát từ sự tuần hoàn vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Bởi tại một thời điểm nhất định có những chủ thể dư thừa vốn nhưng có những chủ thể khác lại thiếu vốn; và ngay cả trong quá trình sản xuất kinh doanh của một chủ thể cũng có lúc thừa vốn, có lúc thiếu vốn. Nắm bắt được điều đó, ngân hàng đã huy động nguồn vốn nhàn rỗi, kết hợp với khả năng thu thập và xử lý thông tin rất chuyên nghiệp để giải quyết mối quan hệ cung cầu tín dụng cả về khối lượng và thời hạn cho vay. Thông qua chức năng này, NHTM đã góp phần tạo ra lợi ích cho tất cả các bên trong mối quan hệ tín dụng này. Đối với người cho vay, họ thu được lợi từ số vốn nhàn rỗi thông qua lãi được hưởng. Ngay cả khi họ không cần phải đầu tư hay tìm kiếm một cơ hội sinh lời nào đó. Ngoài ra họ nhận được sự an toàn về số tiền gửi và được hưởng thêm nhiều dịch vụ khác từ phía ngân hàng. Đối với người đi vay, nhu cầu về vốn kinh doanh của họ được đáp ứng một cách nhanh chóng, hợp pháp mà lại tiết kiệm được chi phí, thời gian. Ngoài ra họ còn có thể nhận được tư vấn miễn phí cho quan hệ này. Đối với ngân hàng, thông qua việc đi vay về để cho vay thì ngân hàng sẽ nhận được chênh lệch giữa lãi suất đi vay, hoặc nhận được phí hoa hồng, môi giới. Đây chính là cơ sở tồn tại, phát triển của ngân hàng. Đối với kinh tế, chức năng này đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất, đồng thời ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi, không hoạt động thành nguồn vốn hoạt động kích thích quá trình luân chuyển vốn. Thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Chính vì thế mà chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. b) Chức năng trung gian thanh toán Trên cơ sở khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng thực hiện trích tài khoản tiền gửi của khách hàng này vào tài khoản của khách hàng khác để thanh toán hàng hoá dịch vụ, thanh toán công nợ khi khách hàng có lệnh yêu cầu. Hoặc đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt. Thực hiện chức năng này chính là ngân hàng đã thực hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề cho chức năng này. Ngoài ra, nó còn thực hiện trên cơ sở khắc phục tính kém hiệu quả của thanh toán trực tiếp giữa các chủ thể trong xã hội, xuất phát từ những rắc rối nẩy sinh như: chi phí thanh toán cao, rủi ro trộm, cướp… Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại có ý nghĩa to lớn trong mục tiêu nâng cao tỉ trọng thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho toàn xã hội, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Thực hiện chức năng này làm tăng uy tín của ngân hàng và do đó làm tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. c) Chức năng tạo tiền Từ một lượng tiền cơ sở tăng lên, thông qua hệ thống ngân hàng một lượng tiền mới được tạo ra. Sở dĩ ngân hàng thương mại có thể tạo ra tiền là xuất phát từ hai chức năng cơ bản là chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng có một quỹ cho vay tập trung toàn bộ lượng vốn nhàn rỗi của nền kinh tế. Thông qua chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi của chủ thể này chi trả cho chủ thể khác. Chính quá trình thanh toán tiền giữa các chủ thể trong ngân hàng thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng đã tạo ra “tiền bút tệ” (tiền ghi sổ). Thực hiện nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán, ngân hàng đã tạo ra được loại tiền này thông qua khả năng biến mức tiền gửi ban đầu của một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn gấp nhiều lần. Khi một ngân hàng cho vay thông qua tài khoản tại ngân hàng khác, nó làm giảm vốn tại ngân hàng cho vay đồng thời tăng tiền gửi tại ngân hàng kia. Cứ như vậy, lượng tiền gửi duy trì trên hệ thống ngân hàng từ một lượng tiền nhất định ban đầu tạo khả năng tạo tiền cho ngân hàng. Chức năng này của ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện được nếu vốn mà ngân hàng thương mại huy động đã cho vay được và số tiền đó phải được luôn chuyển trong hệ thống ngân hàng, nghĩa là chức năng này của ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện được nếu có sự tham gia của một hệ thống các ngân hàng thương mại và có sự trợ giúp của ngân hàng trung ương. Dựa trên sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán thì tạo tiền là chức năng vốn có của hệ thống ngân hàng thương mại. Thông qua chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu chi trả của xã hội, mở rộng khái niệm về “tiền”. Và chức năng này càng có ý nghĩa to lớn trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt. 1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại Trên cơ sở các chức năng và các nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng thương mại có thể xác định được vai trò của nó trong từng giai đoạn nhất định. Bởi chức năng là tính vốn có của ngân hàng thương mại, vai trò là sự vận dụng các chức năng đó vào hoạt động thực tiễn. Cùng với sự phát triển về kinh tế – xã hội, vai trò của ngân hàng thương mại thay đổi và phụ thuộc vào các hoạt động chủ quan của các cơ quan pháp lý. Tuy nhiên ngân hàng thương mại có những vai trò cơ bản sau. a) Cung ứng vốn cho nền kinh tế Vốn được tạo lập từ mọi chủ thể trong xã hội thông qua quá trình tích luỹ, từ tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp đến chính phủ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tích tụ vốn mà không diễn ra đồng thời với quá trình tập trung vốn thì nảy sinh một số hạn chế như: tích tụ tự phát không hiệu quả, quy mô vốn tạo lập được nhỏ, thời gian sử dụng vốn ngắn, từ đó làm giảm sút quá trình tích tụ (vì quy mô vốn nhỏ nên xu hướng tiêu dùng đi ). Ngân hàng sẽ tập trung các quỹ nhỏ, lẻ của quá trình tích tụ thành một quỹ khổng lồ khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng. Từ nguồn vốn huy động đươc trong nền kinh tế, bằng hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy, nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại mà đặc biệt là hoạt động tín dụng các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nền kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, nâng cao năng suất lao động từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. b) Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường Khi hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp tất yếu phải đối mặt với sự tác động mạnh mẽ của các quy luật của thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá cả…. Đồng thời không được tự do lựa chọn sản xuất hàng hoá, mà phải sản xuất trên cơ sở thoả mãn được các nhu cầu của thị trường trên mọi phương diện: Số lượng, chất lượng, giá cả… Tức là phải sản xuất theo những cái gì khách hàng cần, không sản xuất cái gì mà mình có. Để đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, để đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng và hoàn thiện sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng bằng việc nâng cao chất lượng lao động, cải tiến công tác quản lý, công tác kế toán, đặc biệt là phải đầu tư trang thiết bị máy móc, dây truyền công nghệ tìm nguồn nguyên liệu mới với chi phí và chất lượng phù hợp… Và để thực hiện được những điều kiện trên thì không thể thiếu được một yếu tố – Vốn – rất lớn. Một trong những nguồn đáp ứng tốt nhu cầu vốn cần thiết cho doanh nghiệp đó là đi vay ngân hàng. Đi vay ngân hàng giúp doanh nghiệp nhận được vốn nhanh, chi phí rẻ, và nhận được cả những lời tư vấn tốt từ ngân hàng. Như vậy thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã giúp doanh nghiệp nắm bắt được toàn bộ nhu cầu của thị trường, có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường, đứng vững trên thị trường. Điều đó đã chứng minh ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường. c) Ngân hàng thương mại là công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Hoạt động trong nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của các quy luật khách quan, việc điều tiết của nhà nước là vô cùng cần thiết – “bàn tay hữu hình’’. Để đạt được hiệu quả trong quá trình này nhà nước cần phải sử dụng rất nhiều công cụ trong đó có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Thực tế cho thấy, ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả qua các hoạt động kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng việc mở rộng tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, giảm sức ép khi sử dụng tiền mặt. Thông qua việc cấp tín dụng cho các tổ chức trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt luồng tiền, tập hợp và phân phối vốn của thị trường, điều chuyển chúng một cách hiệu qủa và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô “ Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường’’. d) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Trong xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thì nhu cầu giao lưu kinh tế giữa các quốc gia là xu thế tất yếu bởi không thể tồn tại một quốc gia hoạt động độc lập, không giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong vô số hoạt động hội nhập giao lưu quốc tế thì nền kinh tế tài chính mỗt nước cũng bước và cuộc hội nhập. Và trong công cuộc đó, các ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng – với các nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, chuyển tiền,…, ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng, thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, đến lượt nó, các ngân hàng thương mại thông qua chức năng, vai trò của mình đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ thể kinh tế của mỗt quốc gia; đóng vai trò vào sự hội nhập và giao lưu kinh tế quốc tế. 1.1.4 Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại Sở dĩ ngân hàng thương mại có chức năng, vai trò quan trọng như vậy là do hệ thống các sản phẩm dịch vụ mà nó cung cấp, do nó thực hiện nhiều nghiệp vụ nhất trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại có bao nhiêu nghiệp vụ và đó là những nghiệp vụ gì? Quan điểm Marketing chỉ ra các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại được phân loại theo tiêu chí: theo khách hàng. Tuy nhiên, quan điểm phân loại nghiệp vụ của ngân hàng thương mại dựa trên bảng cân đối kế toán của nó, nghĩa là ta chia nghiệp vụ của ngân hàng thương mại làm hai mảng chính là: nghiệp vụ tài sản có, nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có. a) Nghiệp vụ tài sản có. Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn, cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm: * Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ ngân quỹ là nghiệp vụ được ngân hàng thương mại thực hiện thông qua việc duy trì các quỹ dự trữ, quản lý việc sử dụng các quỹ này để đảm bảo yêu cầu của pháp luật và yêu cầu trong kinh doanh. *Nghiệp vụ cho vay: Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung- dài hạn đối với nền kinh tế. *Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Là nghiệp vụ mà các ngân hàng thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường. *Nghiệp vụ khác: Đó là các nghiệp vụ như kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, kim loại, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ khác liên quan đến ngân hàng như: dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật . b) Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động của ngân hàng thương mại khác với nghiệp vụ tài sản có, đây là nhóm các nghiệp vụ phản ánh nghĩa vụ của ngân hàng với xã hội, bao gồm các nghiệp vụ: *Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào ngân hàng với mục đích thanh toán hay bảo quản tiền gửi và các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Từ các khoản tiền gửi này ngân hàng thương mại tạo thành quỹ cho vay phục vụ mục đích kinh doanh của mình. *Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng có thể chủ động tài trợ vốn cho mình khi thiếu vốn cả về số lượng, thời hạn và chi phí. Các ngân hàng thương mại sẽ phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu nhằm mục đích chủ yếu là huy động vốn trung – dài hạn để tài trợ cho các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Nghiệp vụ này tạo nguồn vốn ổn định cho ngân hàng bởi ngân hàng kế hoạch được thời gian cũng như số tiền chi trả. Tuy nhiên do giá phải trả cho hình thức huy động này khá cao nên nghiệp vụ này chỉ được tiền hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. * Nghiệp vụ đi vay: Ngoài những nghiệp vụ kể trên, các ngân hàng thương mại còn có thể tài trợ cho nhu cầu vốn của mình bằng hình thức đi vay các tài chính tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu. * Vốn tự có: Vốn tự có của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu của ngân hàng hay được quyền sử dụng như vốn của chủ sở hữu hay những khoản vốn được duy trì lâu dài và thường xuyên tại các ngân hàng mà các ngân hàng được phép sử dụng để bù dắp trong quá trình hoạt động. Theo luật các tổ chức tín dụng, vốn tự có của ngân hàng thương mại gồm hai thành phần cơ bản: Vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của ngân hàng thông qua ba chức năng cơ bản là: tạo lập, bảo vệ, phát triển hoạt động. Với ba chức năng này tuy chiếm tỉ trọng rất nhỏ, song vốn tự có là đòn bẩy cho hoạt động của ngân hàng thông qua một loạt các chỉ tiêu: Dư nợ cho vay tối đa một khách hàng / vốn tự có; dư nợ tối đa / vốn tự có; giá trị mua sắm tài sản cố định / vốn tự có;… Do đó vấn đề bảo toàn và không ngừng phát triển vốn tự có của ngân hàng theo nhu cầu của sự phát triển là một mục tiêu hướng tới của toàn bộ ngân hàng thương mại. c) Các nghiệp vụ trung gian Đây là những nghiệp vụ không được phản ánh trực tiếp trên bảng cân đối kế toán, tuy nhiên nó góp phần quan trọng cho kết quả kinh doanh của ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí của ngân hàng cũng như hỗ trợ các dịch vụ cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung gian bao gồm các nhóm nghiệp vụ sau: Nhóm các nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước. Nhóm các nghiệp vụ kinh doanh hối đoái. Nhóm các nghiệp vụ liên quan đến vấn đề môi giới và đại lý chứng khoán. Nhóm các nghiệp vụ tư vấn tài chính. d) Các nghiệp vụ ngoài bảng Đây là những nghiệp vụ chỉ được hạch toán trên các tài khoản ngoại bảng, và được hạch toán theo bút toán đơn: Nhập – xuất. Nhóm nghiệp vụ này bao gồm: Các nghiệp vụ tín dụng cam kết như bảo lãnh. Các cam kết trong giao dịch hối đoái, như cam kết trong nghiệp vụ kì hạn, tương lai, quyền chọn,... Các cam kết trong giao dịch về tài sản thế chấp. 1.2 Lý luận cơ bản về việc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân hàng thương mại 1.2.1 ý nghĩa của việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Trong kết cấu tài sản nợ của ngân hàng, tài khoản tiền gửi chiếm một tỉ lệ lớn và vô cùng quan trọng. Nó vừa thể hiện quy mô vốn kinh doanh của ngân hàng, vừa thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng đối với xã hội, đồng thời cũng thể hiện uy tín hình ảnh của ngân hàng trên thị trường. ý nghĩa quan trọng của việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng được thể hiện cụ thể như sau: a) Đối với người mở và sử dụng tài khoản tiền gửi Họ được hưởng lợi từ tài khoản tiền gửi hoặc họ được hưởng những dịch vụ thanh toán qua ngân hàng với sự chính xác, nhanh chóng ngoài ra họ còn được đảm bảo an toàn về tài sản của mình khi giao nó cho ngân hàng. Sở dĩ ngân hàng là nơi an toàn bởi tính chuyên nghiệp, tính đổ vỡ dây chuyền của nó mà một ngân hàng ra đời phải rất khó khăn. Vì vậy mà sự hoạt động an toàn của nó luôn là đối tượng của các cơ quan quản lý, điều đó đồng nghĩa với tính an toàn cao của các tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng. b) Đối với ngân hàng Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn với chi phí thấp hơn các hình thức huy động khác thông qua việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Từ khoản tiền huy động được, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt động, mở rộng việc cung cấp dịch vụ ngân hàng ra thị trường. Từ đó làm tăng vị thế và hình ảnh của ngân hàng trên thị trường. Và không thể không kể đến một ý nghĩa đặc biệt quan trọng là mở rộng khả năng tạo tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. c) Đối với nền kinh tế Với tiềm lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn (nguồn tiết kiệm của dân cư ), song vấn đề dặt ra cho các ngân hàng là làm thế nào để có thể thu hút vào ngân hàng, để từ đó thực hiện việc đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Đó không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của các nhà ngân hàng, mà của toàn xã hội trong việc tác động từng bước làm thay đổi thói quen cất trữ tiền, vàng… Do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự phát triển, tâm lý đầu tư vào giấy tờ có giá còn e ngại ( do thời gian dài ), nên họ vẫn ưu tiên cho việc gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Đối với doanh nghiệp mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là rất cần thiết, mà chủ doanh nghiệp nào cũng có ý thức được. Song đối với cá nhân thì vấn đề lại khác- tâm lý và thói quen cất trữ tiền mặt vẫn ăn sâu vào tiềm thức của họ. Nhưng nếu làm được và làm tốt điều này thì có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao lợi ích của xã hội và của nền kinh tế. Thứ nhất, việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng sẽ nâng hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó mà việc quản lý và điều tiết cung tiền dễ dàng hơn. Thứ hai, mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng đảm bảo việc chi trả giữa các chủ thể trong nền kinh tế nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, qua đó tăng tốc độ chu chuyển vốn, tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Các loại tiền gửi và tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng Ngân hàng có thể huy động vốn qua nhiều hình thức khác nhau như: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay. So với phát hành giấy tờ có giá và đi vay thì nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn được ngân hàng chú ý nhất. Thực tế cho thấy, nguồn vốn huy động thông qua nhận tiền gửi chiếm tỉ trọng lớn nhất ( 70 – 80 % nguồn vốn huy động) bởi nó mang lại những lợi ích to lớn không chỉ với ngân hàng mà với toàn xã hội: chi phí lưu thông bỏ ra thấp hơn so với các hình thức huy động khác, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, là cơ sở để ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ hiện đại, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông… Có nhiều loại hình tiền gửi trong một ngân hàng thương mại, tuy nhiên xét về mục đích thì có thể xếp các loại tiền gửi vào ba nhóm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi tiết kiệm. a) Tiền gửi không kỳ hạn- tài khoản tiền gửi không kỳ hạn Đối tượng chủ yếu sử dụng tài khoản tiền gửi này là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng với mục đích không phải là để hưởng lãi mà là để hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng với việc thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Với nội dung chi trả như vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Đặc điểm của tiền gửi không kỳ hạn là người gửi tiền có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào trong phạm vi số dư. Tuy nhiên nếu khách hàng có uy tín, ngân hàng có thể cho thấu chi (Overdraft) đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ tài khoản nhằm đảm bảo khả năng trả nợ. Và với tính chất linh hoạt của số dư, chủ tài khoản được hưởng các tiện ích thanh toán nên tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) thường không được ngân hàng trả lãi hoặc được hưởng lãi nhưng với mức lãi suất rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản có tên là: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này có kết cấu như sau: - Bên nợ: phản ánh giá trị các khoản tiền mà khách hàng rút sử dụng: rút tiền mặt, thanh toán thẻ, séc, nhờ thu,… - Bên có: phản ánh số tiền mà khách hàng nộp vào tài khoản: nộp tiền mặt, séc, chiết khấu, lợi tức lãi tiền gửi,… Tính chất của tài khoản này là luôn luôn dư có. Tuy nhiên tại một thời điểm nhất định có thể tài khoản này dư nợ nếu giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau sử dụng hình thức thấu chi tài khoản. Dư nợ khi số tiền rút ra lớn hơn số tiền nộp vào, thực chất là một khoản nợ mà khách hàng nợ ngân hàng. Số tiền nợ này chỉ được nằm trong phạm vi hạn mức mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận. Dư có khi khách hàng gửi tiền vào lớn hơn số tiền rút ra. Số dư này không bị ngân hàng khống chế . Với đặc điểm lưỡng tính, vừa huy động vốn bên có, vừa sử dụng vốn bên nợ, tài khoản tiền gửi không kỳ hạn đã thực hiện tốt chức năng “vay để cho vay” với chi phí huy động thấp. Và chính qua tài khoản này mà hệ thống ngân hàng tạo được đồng tiền ghi sổ hay “bút tệ ”, vừa làm tăng phương tiện lưu thông – thanh toán cho nền kinh tế, vừa giúp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt ở tầm vĩ mô, lại vừa cho phép mỗi ngân hàng tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán mà nguồn này chủ yếu do doanh nghiệp cung cấp nên khối lượng rất lớn, chi phí lại rất rẻ sẽ hạ thấp chi phí đầu vào bình quân, tăng lợi nhuận ở tầm vi mô. Trong thanh toán thẻ, séc,…tài khoản này là không thể thiếu. b) Tiền gửi có kỳ hạn- tài khoản tiền gửi có kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền khi đáo hạn. Đối tượng chủ yếu của tiền gửi loại này là doanh nghiệp và các tổ chức. Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn tạo cho ngân hàng một nguồn vốn ổn định, vững chắc, nên mức lãi suất áp dụng thường cao hơn tiền gửi thanh toán. Ngân hàng thực hiện đa dạng hoá các kỳ hạn: 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng hay dài hơn nữa; tương ứng với mỗi mức kỳ hạn là một mức lãi suất phù hợp để thu hút nguồn tiền này. Đặc điểm của tiền gửi có kỳ hạn là người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền khi đến hạn và được hưởng lãi suất tiền gửi có kỳ hạn khi lĩnh tiền đúng hạn. Tuy nhiên, do những lý do khác nhau mà khách hàng có thể rút tiền trước hạn với hai khả năng chủ yếu xảy ra: 1. Khách hàng sẽ hưởng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn cho thời gian gửi thực tế; 2. Khách hàng sẽ không được hưởng lãi do vi phạm hợp đồng, gây ảnh hưởng đến kế hoạch nguồn vốn của ngân hàng… Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể cũng như mối quan hệ tín nhiệm lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng mà ngân hàng sẽ linh hoạt trong việc xử lý.Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các ngân hàng có xu hướng vẫn cho khách hàng hưởng lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và phải thoả thuận trong hợp đồng là rút trước hạn phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi có kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng. Tính chất của tài khoản này là luôn luôn dư có, phản ánh số tiền khách hàng đang gửi tại ngân hàng. Tài khoản này ngân hàng không cho phép khách hàng được thấu chi. c) Tiền gửi tiết kiệm – Tài khoản tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội với mục đích tích luỹ và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm chia thành 2 loại là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn . - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền có thể gửi và rút tiền bất kỳ lúc nào trong giờ giao dịch của ngân hàng với số tiền từ nhỏ đến lớn (mục đích tích luỹ). Tuy là loại tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không phải là tài khoản thanh toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện ích thanh toán (nếu người gửi tiền muốn thực hiện gửi tiền ở một nơi và lĩnh tiền ở nơi khác thì có thể áp dụng hình thức tiết kiệm gửi một nơi và lĩnh tiền ở nhiều nơi khác). Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản có tên gọi (tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn). - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Tiết kiệm có kỳ hạn ngoài mục đích hưởng lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì còn nhằm vào mục đích khác như mua sắm tài sản, xây._. dựng nhà ở… trong tương lai. Đây là loại tiền gửi mang lại tính ổn định cao nhất cho nguồn vốn của ngân hàng trong tất cả các loại tiền gửi ở trên. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn được phản ánh trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng và tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng. 1.1.3 Khái quát cơ chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng taị ngân hàng Khái quát cơ chế mở tài khoản tiền gửi taị ngân hàng Hệ thống tài khoản kế toán ngân hàng là hệ thống các chỉ tiêu hạch toán kế toán ngân hàng, nó được xây dựng có căn cứ khoa học và thực tiễn. Trong đó, các tài khoản được mở để phản ánh liên tục, kịp thời, theo dõi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn. Ngoài ra các tài khoản được mở còn để giao dịch với khách hàng theo chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng phải xây dựng chế độ mở và sử dụng tài khoản kế toán nhằm đảm bảo tính hợp pháp trong quan hệ kinh tế giữa khách hàng và ngân hàng. Nghị định 64/CP của Chính Phủ quy định về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng như sau: Để mở tài khoản tiền gửi các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang, công dân Việt Nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (gọi tắt là khách hàng) gửi cho ngân hàng nơi mở tài khoản những giấy tờ sau: Đối với khách hàng là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, đơn vị vũ trang có: - Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (chủ tài khoản là tổng giám đốc, giám đốc, chủ doanh nghiệp, thủ trưởng đơn vị) ký tên và đóng dấu trong đó ghi rõ: + Tên đơn vị. + Địa chỉ giao dịch của đơn vị. + Ngày tháng cấp chứng minnh thư nhân dân của chủ tài khoản. + Tên ngân hàng mở tài khoản. - Bản đăng ký chữ ký và mẫu giao dịch với ngân hàng nơi mở tài khoản gồm: + Chữ ký mẫu của chủ tài khoản và người được hưởng quyền thay chủ tài khoản trên các chứng từ thanh toán giao dịch với ngân hàng (chữ ký 1). + Chữ ký mẫu của kế toán trưởng và người được uỷ quyền thay kế toán trưởng (chữ ký 2). + Một dấu đơn vị. - Các văn bản chứng minh tư cách pháp nhân của đơn vị: + Quyết định thành lập doanh nghiệp. + Giấy phép thành lập doanh nghiệp. + Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc, giám đốc, thủ trưởng đơn vị. (Nếu là bản sao phải có chứng nhận của công chứng nhà nước). Đối với khách hàng là cá nhân . Gửi đến ngân hàng là những giấy tờ sau: - Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (người gửi tiền) ký tên và đóng dấu ghi rõ: Tên chủ tài khoản. Địa chỉ giao dịch của chủ tài khoản Giấy chứng minh thư nhân dân của chủ tài khoản Tên ngân hàng nơi mở tài khoản - Bản đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản để giao dich với ngân hàng nơi mở tài khoản. Đối với tài khoản đứng tên cá nhân không được thực hiện uỷ quyền thay chủ tài khoản, tất cả các giấy tờ thanh toán giao dịch với ngân hàng đều phải do chủ tài khoản ký. *Khi có sự thay đổi chữ ký của người được uỷ quyền trên các chứng từ thanh toán với ngân hàng hoặc thay đổi mẫu dấu, chủ tài khoản phải gửi cho ngân hàng nơi mở tài khoản bản đăng ký mẫu dấu mới thay thế mẫu đăng ký trước đây, trong đó ghi rõ ngày thay đổi mẫu dấu cũ. * Cách thức lập giấy đăng ký mở tài khoản: Lập giấy đăng ký theo mẫu dấu và chữ ký do ngân hàng hướng dẫn cụ thể cho khách hàng thực hiện . * Khi nhận được giấy đăng ký mở tài khoản của khách hàng, ngân hàng có trách nhiệm giải quyết việc mở tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay trong ngày làm việc. Sau khi đã chấp nhận việc mở tài khoản, ngân hàng thông báo cho khách hàng biết số hiệu tài khoản, ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản. b) Nguyên tắc sử dụng tài khoản tiền gửi * Đối với chủ tài khoản - Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản tiền gửi, trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi và tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài khoản có thể thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng hoặc rút tiền mặt để sử dụng. - Chủ tài khoản chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt số dư tài khoản tiền gửi và chịu phạt theo điều 15 của thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt (30% số tiền vượt ); chịu trách nhiệm về số sai sót, lợi dụng trên các giấy tờ thanh toán, các chữ ký và dấu phải đúng mẫu đã đăng ký tại ngân hàng. - Chủ tài khoản tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư tiền gửi tại ngân hàng. Trong phạm vi 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận giấy báo nợ, giấy báo có về các khoản giao dịch trên tài khoản tiền gửi cuối tháng do ngân hàng gửi đến, chủ tài khoản phải đối chiếu với sổ sách của mình, nếu có chênh lệch thì báo ngay cho ngân hàng biết để cùng nhau đối chiếu, điều chỉnh lại số liệu cho khớp. * Đối với ngân hàng - Việc trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện các khoản chi trả phải có yêu cầu của chủ tài khoản, trừ trường hợp chủ tài khoản vi phạm luật chi trả hoặc theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền được pháp luật quy định buộc chủ tài khoản phải thanh toán, ngân hàng được quyền trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện việc thanh toán đó. - Ngân hàng có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách hàng, bảo đảm lập đúng thủ tục quy định, dấu (nếu có đăng ký mẫu) và các chữ ký trên các giấy tờ thanh toán với mẫu đã đăng ký số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng còn đủ thanh toán. Ngân hàng được quyền từ chối các khoản thanh toán nếu các giấy tờ thanh toán không đầy đủ điều kiện nêu trên. 1.3 Tác động của CNTT tới việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại NHTM 1.3.1 Vai trò của công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng Khi nhân loại bước vào văn minh thứ 3, nền văn minh hậu công nghiệp – thời đại của nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin thì khái niệm công nghệ thông tin không còn là khái niệm xa lạ trong nền kinh tế hiện nay. Riêng đối với ngành ngân hàng thì công nghệ thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nói tới ngân hàng là nói tới mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch dày đặc. Vì vậy “ Phát triển công nghệ thông tin là một trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đổi mới và phát triển hoạt động ngân hàng, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với ngân hàng các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới (trích bài thuyết trình của ông tạ Quang Hiến- Cục trưởng cục công nghệ ngân hàng tại Học viện ngân hàng tháng 1 năm 2004). Với chức năng phản ánh bình diện tình hình tài chính và tình hình phát triển kinh tế của một quốc gia, ngân hàng có vai trò quan trọng hàng đầu khi tiến hành ra nhập WTO, AFTA, thực hiện hiệp định thượng mại Việt – Mỹ và nhiều tổ chức khác trong khu vực cũng như quốc tế. Do đó CNTT trong hoạt động ngân hàng lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia nói chung. Vai trò to lớn của công nghệ thông tin trong ngân hàng có thể kể đến là: - CNTT tạo ra sức mạnh, tạo ra năng lượng cho hoạt động ngân hàng, thiếu năng lượng đó thì hoạt động của ngân hàng chẳng khác gì hoạt động của một chiếc xe thiếu nguyên liệu, như hoạt động của cơ thể suy nhược, có nghĩa là hoạt động của ngân hàng sẽ bị đình trệ. - CNTT làm thay đổi môi trường hoạt động của ngân hàng, từ môi trường chứng từ giấy sang môi trường chứng từ điện tử hoặc không có chứng từ, từ đó làm thay đổi điều kiện, quá trình xử lý và phương pháp kinh doanh của ngân hàng. - CNTT xóa bỏ khoảng cách giữa các ngân hàng về không gian và thời gian, phạm vi, … làm cho ngân hàng “dài ra”, phạm vi rộng ra. Bởi nhờ có CNTT mà các ngân hàng có thể trao đổi thông tin với nhau hoặc thực hiện quản lý thông tin với nhau, và hai ngân hàng dù có cách xa nhau (giữa vùng này với vùng khác hoặc giữa quốc gia này với các quốc gia khác...) thì vẫn có thể trao đổi thông tin với nhau một cách dễ dàng. Hơn thế nữa việc trao đổi thông tin có thể chỉ trong giây lát (trong thời gian vô cùng ngắn) thực hiện ngay nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Chính vì vậy mà các ngân hàng hiện nay đang chuyển dần từ phân phối sản phẩm dịch vụ qua kênh giao dịch tại chi nhánh sang các kênh phân phối hiện đại. - CNTT tạo ra các tiện ích hết sức to lớn cho khách hàng như: ATM, thẻ debit card, telephone banking,…Sở dĩ có được những tiện ích này là do các NH thực hiện cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng thông qua các kênh phân phối hiện đại như: kênh phân phối thông qua máy tính (PC Banking), kênh giao dịch tự phục vụ, kênh phân phối thông qua điện thoại, kênh phân phối dịch vụ qua Internet…Mà để thực hiện được các kênh phân phối này thì không thể không áp dụng công nghệ thông tin. - CNTT tạo khả năng quản lý tốt hơn, ảnh hưởng to lớn hơn đến thành công hay thất bại của ngân hàng, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay bởi công nghệ thông tin có thể tạo ra những khả năng mới trong cạnh tranh. - CNTT góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí quản lý và chi phí điều hành, thực hiện tốt xu hướng đẩy dịch vụ về phía khách hàng. 1.3.2 CNTT đối với việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong hoạt động của mình, các ngân hàng thương mại đang từng bước tiến hành hiện đại hoá theo chương trình hiện đại hoá công nghệ thông tin của toàn ngành khởi xướng từ năm 1990. Tác động của công nghệ thông tin mà biểu hiện rõ nét là tác động của hiện đại hoá công nghệ thông tin đối với việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi được thể hiện như sau: - Một là: Hiện đại hoá công nghệ thông tin giúp ngân hàng có thể tập trung hoá tài khoản của khách hàng. Đây là một trong những tác dụng có ý nghĩa to lớn nhất của công nghệ thông tin mà ngân hàng thương mại nào cũng quan tâm. thực tế hiện nay, việc quản lý tài khoản khách hàng rất phân tán phi khoa học do chưa có khả năng online trên toàn hệ thống. Biểu hiện ở chỗ cùng một khách hàng gửi tiền vào một hệ thống ngân hàng nhưng ở các chi nhánh, phòng giao dịch khác nhau nên mỗi chi nhánh, phòng giao dịch quản lý tài khoản riêng biệt mà chưa có sự kết nối và chia sẻ thông tin tài khoản khách hàng. Nếu khách hàng cần một khoản tiền lớn, hoặc đến một địa điểm để rút tiền thì hoặc chỉ được rút số tiền đã gửi tại chính chi nhánh đó mà không được rút tổng số tiền đã gửi vào hệ thống ngân hàng đó. Muốn có đủ lượng tiền cần thì khách hàng phải đến nhiều địa điểm giao dịch khác nhau để rút tiền, và như vậy chi phí giao dịch với ngân hàng của khách hàng tăng lên ( chi phí về thời gian, công sức, tiền bạc…), đặc biệt là làm tăng chi phí cơ hội của khách hàng, làm bỏ lỡ cơ hội kinh doanh…Trên đây mới chỉ là một biểu hiện rất nhỏ của việc chưa thực hiện tập trung hoá tài khoản. Hiện đại hoá công nghệ thông tin sẽ cung cấp một phương tiện cho việc tập trung hoá tài khoản của khách hàng. Theo đó tài khoản của khách hàng sẽ được quản lý theo quy mô tập trung: mọi thông tin của khách hàng đăng ký tại chi nhánh đều được truyền về trung ương để quản lý. Trung ương quản lý sổ cái, tài khoản khách hàng do chi nhánh mở và quản lý theo quy định của trung ương. Việc quản lý tập trung tài khoản có ý nghĩa rất lớn đối với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. *Đối với ngân hàng: Tập trung hoá tài khoản thanh toán sẽ đẩy khả năng tích tụ và tập trung vốn; nâng cao hiệu suất sử dụng vốn trong kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt; xoá bỏ tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo; giảm chi phí điều chuyển vốn nội bộ; giúp nhà nước quản lý và điều hành chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả. *Đối với người mở và sử dụng tài khoản: Có thể giao dịch với ngân hàng mọi lúc mọi nơi; tiết kiệm được chi phí giao dịch với ngân hàng: chi phí cho thời gian giao dịch, chi phí về phương tiện đi lại,…đặc biệt là giảm được chi phí cơ hội khi giao dịch với ngân hàng; không bị bỏ lỡ các cơ hội trong kinh doanh; cùng một lúc có thể tiếp cận với nhiều loại hình dịch vụ do hệ thống tài khoản được tập trung hoá;… * Đối với nền kinh tế: góp phần bình ổn giá trị của đồng tiền; giúp ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao khả năng huy động vốn; tăng cường vai trò quản lý và kiểm soát của các ngân hàng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và dịch vụ ngân hàng; tăng tốc độ lưu thông và chu chuyển vốn toàn xã hội; cải tiến phương thức thanh toán; thúc đẩy đầu tư; tạo điều kiện để ngân hàng Việt Nam hội nhập; đặc biệt là làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Tập trung hoá tài khoản là xu thế tất yếu trong chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, và là tác động căn bản giữ vai trò tiền đề quan trọng khác cho các tác động của công nghệ thông tin trong việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng . - Hai là: Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong ngân hàng giúp cho khách hàng có thể mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của mình một cách linh hoạt, thuận tiện ở mọi nơi mọi lúc, do đó tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch cho cả ngân hàng và khách hàng. - Ba là : Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong ngân hàng giúp cho việc giao dịch với ngân hàng của khách hàng diễn ra thuận tiện, từ đó sẽ góp phần làm tăng số lượng khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp trong việc trả lương thông qua dịch vụ đầu tư tự động – SWEEPiNG dịch vụ chuyển tiền tự động – AFT. - Bốn là: Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong ngân hàng sẽ góp phần làm giảm khối lượng công việc ghi chép kế toán cũng như số lượng sổ sách lưu trữ tại ngân hàng, từ đó mà nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Tác động của công nghệ thông tin trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là rất lớn. Hiện đại hoá công nghệ thông tin là việc làm đầu tiên và không thể thiếu được khi các ngân hàng bước vào xu thế hội nhập. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, ngân hàng nào cũng phải đối mặt với một trở ngại đó là vốn. Cho nên việc đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ thông tin đang trở thành một bài toán đòi hỏi mỗi ngân hàng phải đi tìm cho mình một đáp án mang lại hiệu quả nhất. 1.4 Những nhân tố tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng 1.4.1 Điều kiện triển khai quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung Quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung có thể được hiểu đơn giản là khi khách hàng đến đăng ký thông tin để mở một tài khoản tại bất kỳ một chi nhánh nào thì tất cả các thông tin về khách hàng cũng như tài khoản của khách hàng đều được truyền về Hội sở và được quản lý tại Hội sở. Từ đó khách hàng có thể rút tiền và có thể giao dịch thanh toán tại chi nhánh nào cũng được. Ngược lại khách hàng có thể gửi tiền ở mọi chi nhánh và rút tất cả số tiền đó ở một chi nhánh mà chỉ cần đăng ký thông tin của mình một lần. Về phía ngân hàng nếu thực hiện quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung sẽ giúp ngân hàng đơn giản hoá được việc quản lý khách hàng; giảm được rất nhiều giấy tờ sổ sách liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng; giúp ngân hàng nắm bắt được toàn bộ quá trình hoạt động, giao dịch của khách hàng, ngăn ngừa được những khách hàng có ý đồ xấu. Như vậy quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung có vai trò rất lớn đối với hoạt động ngân hàng: giúp cho khách hàng giao dịch với ngân hàng rất thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng; đồng thời giúp ngân hàng giảm bớt được chi phí quản lý khách hàng, chi phí huy động vốn, góp phần khơi tăng nguồn vốn huy động cho ngân hàng. Vai trò là rất lớn, nhưng để thực hiện được việc quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là: a) Điều kiện 1: Nền tảng công nghệ Đây là một điều kiện quan trọng hàng đầu. Bởi muốn truyền được thông tin phải có các thiết bị truyền tin, có mạng lưới truyền tin, các thiết bị lưu trữ thông tin…tức là phải có một nền tảng về công nghệ. Đây là một điều kiện khách quan, nó phụ thuộc hoàn toàn vào ngành bưu chính viễn thông, mỗi ngân hàng không thể trang bị một nền tảng công nghệ riêng bao phủ toàn bộ phạm vi hoạt động của mình được- do chi phí rất lớn. b) Điều kiện 2: Môi trường pháp lý Đây cũng là một điều kiện hết sức quan trọng. Mỗi một hoạt động diễn ra đều được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua các văn bản pháp luật. Thực hiện việc quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung cũng cần phải có các văn bản được ban hành một cách đồng bộ để hướng dẫn việc triển khai, quy định quyền và nghĩa vụ của ngân hàng, quy định quyền và nghĩa vụ của khách hàng, các hình thức kỷ luật, xử phạt khi có vi phạm,…một cách rõ ràng, cụ thể. c) Điều kiện 3: Tính bảo mật Mỗi khách hàng đến với ngân hàng là một chủ thể trong nền kinh tế. Có những chủ thể là cá nhân nhưng có nhiều chủ thể là các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Khi môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều đối thủ. Một trong những nguyên tắc chiến thắng đối thủ là bí mật kinh doanh. Bí mật ở đây là không tiết lộ các thông tin về chiến lược kinh doanh, mục tiêu hoạt động, đặc biệt là thông tin về tài chính. Việc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng cũng phần nào nói lên tình hình tài chính của họ. Do đó ngân hàng phải tuyệt đối bảo mật thông tin đó, nhất là khi thông tin này được truyền từ chi nhánh về Hội sở và ngược lại. Về phía ngân hàng, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên cũng phải đối mặt với nhiều đối thủ trong môi trường cạnh tranh. Cho nên ngân hàng phải giữ bí mật thông tin hoạt động của mình, thông tin khách hàng của mình. Nếu tiết lộ, đối thủ biết được các thông tin khách hàng sẽ tìm mọi cách lôi kéo khách hàng về phía họ làm cho thị phần của ngân hàng giảm xuống. Chính vì những lý do trên mà tính bảo mật là điều kiện không thể thiếu được. d) Điều kiện 4: Khả năng đầu tư Giống như tính bảo mật thì đây cũng là một điều kiện mang tính chất chủ quan từ phía ngân hàng. Để quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung, ngân hàng phải trang bị các thiết bị máy móc hiện đại tại tất cả các chi nhánh và tại Hội sở. Đặc biệt là các thiết bị quản lý và lưu trữ thông tin. Làm được việc này thì ngân hàng phải sẵn sàng đầu tư, phải có khả năng đầu tư, tức là phải có vốn. Đầu tư phải đồng bộ nhưng cũng phải hợp lý, khoa học, không đầu tư tràn lan nhưng cũng không được đầu tư giữa chừng. Có như vậy mới thực hiện được dự án, tiết kiệm được chi phí, tránh lãng phí nguồn vốn Trên đây là một số điều kiện cơ bản, ngoài ra còn có những điều kiện khác mà tuỳ thuộc vào từng điều kiện thực tiễn của mỗi ngân hàng. 1.4.2 Những nhân tố tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng Ngoài sự tác động của công nghệ thông tin tới việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng đã nói ở trên, thì tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng còn bao gồm hai nhóm nhân tố: nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan . a) Nhóm nhân tố khách quan Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài thuộc môi trường kinh tế vĩ mô hay các đặc trưng trong nhu cầu tâm lý khách hàng,…có tác động khác nhau dến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là khác nhau. Có thể kể đến trong nhóm nhân tố này là: Thu nhập của chủ tài khoản . Tâm lý, thói quen, sở thích của chủ tài khoản . Tình hình kinh tế. Môi trường kinh tế và môi trường chính trị. Cơ chế chính sách của nhà nước và hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng . Trong các nhân tố kể trên, các ngân hàng đặc biệt quan tâm đến nhân tố tâm lý, thói quen, sở thích của chủ tài khoản bởi nó có quyết định lớn đến việc khách hàng có mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ở ngân hàng hay để tiền ở nhà, hay đầu tư vào việc khác? Và khách hàng có thói quen sử dụng tiền mặt hay có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng? Tác động đến nó là cơ chế, chính sách, là hành lang pháp lý của nhà nước. Bởi nếu tồn tại một cơ chế chính sách, một hành lang pháp lý thông thoáng thì ngân hàng sẽ linh hoạt và chủ động đưa ra các biện pháp kích thích khách hàng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng như: Mức lãi suất, các tiện ích kèm theo,... Thêm vào đó hoạt động mở và sử dụng tiền gửi ở ngân hàng thực sự tăng trưởng thu nhập của chủ tài khoản tăng cũng như cách thức trả lương qua tài khoản ngân hàng phát triển mạnh . b) Nhóm nhân tố chủ quan Bao gồm : Chính sách của ngân hàng . Hình thức huy động vốn. Chính sách Marketing. Chính sách lãi suất . Uy tín của ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi. Trình độ cán bộ. Hệ thống dịch vụ cung cấp cho khách hàng . Khác với nhóm nhân tố khách quan, nhóm nhân tố chủ quan bao gồm những nhân tố liên quan trực tiếp tới các chính sách, quyết định, chiến lựợc của ngân hàng trong việc thu hút mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng. Do là một ngành dịch vụ nên chính sách ngân hàng, chính sách Marketing cùng uy tín và các biện pháp bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng là rất quan trọng. Một hình ảnh đẹp về ngân hàng trong đó bao gồm thái độ phục vụ tận tình, chu đáo của nhân viên, một trụ sở khang trang, một chính sách tiếp thị độc đáo, một sự an toàn về tài sản cho khách hàng... sẽ tạo một ấn tượng tốt cho khách hàng, là cơ sở lôi kéo khách hàng về phía ngân hàng. Ngoài ra làm tăng lợi ích vật chất cho khách hàng cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Mặc dù có thể không biết đến khái niệm chi phí cơ hội nhưng khách hàng luôn có sự so sánh: gửi vào ngân hàng nào được hưởng lãi suất cao hơn, ngân hàng nào phục vụ chu đáo tận tình hơn, giao dịch với ngân hàng nào dễ dàng và thuận tiện hơn, đầu tư vào hoạt động khác có lợi hơn hay gửi vào ngân hàng hưởng lãi cao hơn … Dù là chủ quan hay khách quan thì mỗi nhân tố đều có tác động nhất định đến việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng. Ngân hàng nào huy động vốn được nhiều là do họ biết đề cao các nhân tố khác nhau trong từng thời kỳ khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cũng như tiềm lực của ngân hàng. Là loại hình marketing dịch vụ, ngân hàng càng cần thiết phải quan tâm đến những yếu tố tác động đến hành vi của khách hàng để từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp nhằm lôi kéo khách hàng. Chương 2 Thực trạng về quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tại VPBank 2.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của VPBank 2.1.1 Sự ra đời của VPBank Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) được thành lập theo giấy phép hoạt đống số 0042/NH-GP của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Tên tiếng Anh : Viet Nam Joint- Stock Commercial Bank For Private Enterpries. Tên viết tắt : VPBank. Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ đồng. Sau đó do nhu cầu phát triển, VPBank đã tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng theo quyết định số 193/QĐ-NH5 ngày 12/09/1994 và tiếp tục tăng vốn điều lệ lên 174,9 tỷ đồng theo quyết định số 53/QĐ-NH5 vào ngày 18/03/1996 của Ngân hàng Nhà nước tương đương với 174 900 cổ phiếu của 97 cổ đông. Trải qua một số lần chuyển nhượng và thay đổi, đến nay VPBank đã có số vốn điều lệ là 174,9 tỷ đồng thuộc sở hữu của 102 cổ đông pháp nhân và thể nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong đó có một cổ đông nước ngoài là DRAGON CAPiTAL nắm giữ 10% vố điều lệ. VPBank là ngân hàng thương mại cổ phần có số vốn điều lệ đứng thứ 10/36 ngân hàng cổ phần đô thị. Từ năm 1994 đến năm 1996 là giai đoạn phát triển năng động của VPBank. Giai đoạn này VPBank đã đạt được những kết quả khá khả quan: tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần là 36 % trong năm 1995 , 1996, chất lượng tín dụng đảm bảo, các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh chóng…Nhưng sau đó do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á, tình trạng cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, một phần do sai lầm chủ quan từ phía ngân hàng, VP Bank đã rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng. Vì vậy giai đoạn từ 1997-2001 là giai đoạn VP Bank củng cố và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. Trong giai đoạn này nhờ sự giúp đỡ tận tình của các cơ quan thuộc chính phủ và các ngân hàng thương mại, cùng với nỗ lực hết mình của toàn thể các nhân viên trong VP Bank, ngân hàng đã đạt được những bước tiến vững chắc tạo đà cho giai đoạn kế tiếp. Năm 2000 là mốc chuyển biến quan trọng, đó là việc hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến lược của ngân hàng trong vòng 10 năm tới là xây dựng VP Bank trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam và trong khu vực . Năm 2004 là năm VP Bank đã gặt hái được những thành tựu to lớn, đây là kết quả của một cơ chế điều hành, quản lý đúng đắn hiệu quả cùng với sự năng động sáng tạo và phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên: lợi nhuận trước thuế và dự phòng rủi ro đạt trên 60 tỉ đồng, vượt kế hoạch 70,7% và tăng trên 17 tỉ đồng so với năm 2003, nợ quá hạn đã khống chế được ở mức dưới 2%, uy tín của VP Bank ngày càng tăng… Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VP Bank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Đến nay hệ thống VP Bank gồm : - Hội sở chính số 4 Dã Tượng theo giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày04/09/1993. Cùng với các chi nhánh tại Hà Nội. + Chi nhánh Hoàn Kiếm : Công văn chấp thuận số 1035/NHNN- HAN7KSĐBm ngày 04/08/2003 của NHNN Hà Nội . + Phòng giao dịch ii ( 11E Cát Linh, quận Đống Đa): Công văn chấp thuận số 54/GCT ngày 02/03/1995. + Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo: Công văn chấp thuận số 21/GCT ngày 12/01/2004. Ngoài ra còn có các chi nhánh: Phòng giao dịch Hai Bà Trưng ( 222 Lò Đúc), GD Giảng Võ, phòng giao dịch Chương Dương, phòng giao dịch Trần Duy Hưng cũng đã được thành lập trong khoảng thời gian 2003-2004. - Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động theo giấy phép số 0018/GCT ngày 16/12/1993 của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, với các chi nhành cấp 2: + Chi nhánh Tân Định (236 Hai Bà Trưng, phường Tân Định, Quận 1): Công văn chấp thuận số 1035/NHNN-HCM. 02 ngày 14/10/2003 của nHNN thành phố Hồ Chí Minh. + Chi nhánh Bà Chiểu: Công văn chấp thuận số 10/10/NHNN-HCM.02 ngày 11/11/2003của NHNN thành phố HCM . + Chi nhánh Chợ Lớn: Công văn chấp thuận số 10/10/NHNN-HCM.02 ngày 11/11/2003 của NHNN thành phố Hồ Chí Minh. + Phòng giao dịch Thủ Đức: Công văn chấp thuận số 175/NHNN-HCM.02 ngày 12/02/2004 của NHNN thành phố HCM. - Chi nhánh tại thành phố Đà Nẵng: giấy phép số 0026/GCT ngày 27/7/1995 của thống đốc NHNN Việt Nam. - Chi nhánh Huế được thành lập theo quyết định số 77-2004QĐ- HĐQT ngày 06/10/2004 của chủ tịch HĐQT VPBank . Với mạng lưới rộng các chi nhành và phòng giao dịch tập trung chủ yếu ở 4 thành phố lớn: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng; VP Bank ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Dự kiến trong thời gian tới VP Bank sẽ mở thêm chi nhành ở Quảng Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Bắc Ninh. 2.1.2 Phạm vi hoạt động của VP Bank Là một ngân hàng thương mại cổ phần có bề dày truyền thống hoạt động và uy tín cao trong hơn 10 năm qua, VP Bank thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ cơ bản của một ngân hàng hiện đại trong nền kinh tế thị trường . a) Hoạt động huy động vốn: - Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức và các cá nhân trong và ngoài nước bằng các sản phẩm tiền gửi phong phú và đa dạng. - Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước - Vay vốn của ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. b) Hoạt động sử dụng vốn: - Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn dưới nhiều hình thức khác nhau như tín dụng sản xuất, tín dùng tiêu dùng… Cho vay các tổ chức và các cá nhân, đặc biệt là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. - Tài trợ nhu cầu vốn ngắn hạn thông qua các hình thức chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. - Tham gia hùn vốn liên doanh, mua cổ phần theo pháp luật hiện hành. c) Các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại tệ và các hoạt động khác: - Làm dịch vụ thanh toán giữa các ngân hàng. - Thực hiện kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, huy động các nguồn vốn từ nước ngoài và làm các dịch vụ thanh toán quốc tế khác. - Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền dưới nhiều hình thức đặc biệt là chuyển tiền nhanh Western Union. Hoạt động của VP Bank rất phong phú và đa dạng cả bên tài sản và tài sản nợ. Phạm vi và quy mô hoạt động của VP Bank phù hợp với định hướng và mục tiêu phát triển của ngân hàng trong từng thời kỳ. 2.1.3) Cơ cấu tổ chức của VP Bank Đồng thời với việc tuyển dụng, VP Bank còn thực hiện cả chương trình đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên. Đến cuối năm 2004, số lượng nhân viên của VP Bank trên toàn hệ thống là 484 người trong đó có 258 nữ và 226 nam. Phần lớn các cán bộ, nhân viên có trình độ Đại Học và trên Đại Học (78%). P.KTKT nội bộ(InternalAuditing&Controlling Dept) Đại hội cổ đông Meeting) Hội đồng quản trị (Board of Directors) Ban điều hành (Board oManagemet) Ban kiểm soát(Supervisory) Hội đồng tín dụng (Board of Credit) Các ban tín dụng (Credit Committees) Hội sở ở Hà Nội Chi nhánh Hồ Chí Minh Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh Đà Nẵng Chi nhánh Huế Chi nhánh cấp 2 và các phòng giao dịch (Branch level2&SubBranch) Phòng phục vụ Kh DN Commercial Banking Dept Phòng phục vụ Kh cá nhân Conumer Banking Dept Phòng thẩm định TSĐB (Collateral Appraisal) Phòng thu hồi nợ (Dept Collection Dept) Relation& Settlement Phòng TTQT & Kiều hối International Dept Phòng ngân quỹ Treasury Phong kế toán (Accounting Dept) Văn phòng VPBank (VPBank ‘s office) Phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh General affairs and Branch Management Phòng giao dịch- kho quỹ (Banking Operation Dept) Trung tâm tin học (Information Technology) Trung tâm đào tạo Trung tâm dịch vụ kiều hối phát chuyển tiền 2.2Thực trạng hoạt động kinh doanh của VP Bank Để khẳng định vị trí của một ngân hàng thương mại cổ phần đô thị trên thị trường, ban lãnh đạo cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên của VP Bank đã phát huy tối đa sự năng động sáng tạo của mình trên tất cả các lĩnh vực, mang lại cho ngân hàng những thành công to lớn. Năm 2004 cũng là một trong những mốc lịch sử quan trọng, đánh d._.ải pháp cho vấn đề này khi VPBank thực hiện quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung theo em có thể như sau: - Tiếp tục chuẩn hóa đội ngũ nhân sự một cách toàn diện, cả về kỹ năng nghiệp vụ và chuyên môn, cả về phong cách là việc. VPBank cần đào tạo các cán bộ lãnh đạo theo chiều sâu bằng việc đào tạo và đào tạo lại, cũng như khuyến khích tinh thần tự học. - Đào tạo trình độ công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin cho toàn bộ đội ngũ nhân viên, nâng cao trình độ cho họ cả về nghiệp vụ ngân hàng cũng như trình độ về công nghệ. Tổ chức những khoá đào tạo nhằm giúp cán bộ tiếp cận với công nghệ hiện đại, các dịch vụ ngân hàng hiện đại. - Phát huy hơn nữa vai trò của trung tâm đào tạo, đặc biệt là đào tạo có bài bản theo hướng chuyên sâu đối với những nhân viên mới vào làm việc. - Thực hiện phong cách văn hoá mang nét đặc thù riêng của VPBank trên cơ sở đổi mới phong cách phục vụ, tạo thiện cảm đối với khách hàng. Người cán bộ ngân hàng phải luôn có tác phong làm việc tận tình, chu đáo, cởi mở, thân thiện với khách hàng ở mọi nơi, mọi lúc, thể hiện được một đội ngũ nhân viên trẻ đẹp, năng động, giàu kinh nghiệm, và đầy nhiệt huyết. - Công tác tuyển dụng cần công khai và được công bố rộng để thực sự thu hút được những ứng viên có đủ trình độ. - Cần có các chính sách động viên, khen thưởng đối với các phòng ban, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao đồng thời kỷ luật nghiêm minh đối với những người chưa làm tốt công việc. Điều này sẽ tạo ra môi trường làm việc công bằng, thoải mái, phát huy tính sáng tạo của cán bộ nhân viên, phát huy tinh thần đoàn kết và hợp tác chặt chẽ giữa các cá nhân, bộ phận, đạt kế hoạch đề ra. c) Giải pháp phát triển kênh phân phối, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại Khi môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, khốc liệt, thì khách hàng đã biến thành mục tiêu sống còn của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía mình. Biện pháp hiệu quả nhất mà các doanh nghiệp thường áp dụng là thoả mãn tối đa mọi nhu cầu của khách hàng và làm sao để khách hàng tiếp cận với doanh nghiệp mình một cách dễ dàng nhất. Từ thực tiễn hoạt động của VPBank hiện nay thì cần có các giải pháp sau: - Bên cạnh việc sử dụng kênh phân phối sản phẩm truyền thống là phân phối giao dịch qua chi nhánh và kênh phân phối qua điện thoại ( phone Banking ) thì ngân hàng nên sử dụng các kênh phân phối hiện đại khác như: kênh phân phối qua máy tính (PC Banking), kênh phân phối qua máy tự động (Self Service), kênh phân phối qua internet (i Banking), kênh phân phối qua các điểm bán hàng, và E Banking, Home Banking. - Nếu như trước kia chỉ cung cấp cho khách hàng một số sản phẩm dịch vụ như: nhận tiền gửi, cho vay, chuyển tiền, cung cấp thông tin cho khách hàng về số dư tài khoản qua điện thoại, làm trung gian thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, thì nay VPBank nên cung cấp thêm cho khách hàng các sản phẩm hiện đại như: cho thuê két sắt, tư vấn, quản lý danh mục đầu tư đầu tư hộ khách hàng, vấn tin (về tỷ giá, biểu phí, lãi suất, xem báo có, báo nợ, sổ phụ, cho phép khách hàng lấy dữ liệu điện tử), dịch vụ chuyển khoản, rút tiền tự động, thanh toán tiền điện, nước, điện thoại thông qua việc sử dụng ATM… Thực hiện hai vấn đề cơ bản trên thì VPBank sẽ thu hút được đông đảo khách hàng đến với mình, có khả năng cạnh tranh được với tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần khác và các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài… d) Giải pháp đa dạng hoá hình thức thanh toán qua ngân hàng Khách hàng khi mở tài khoản tại ngân hàng thì bên cạnh mục đích hưởng lãi là mục đích hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Bởi xu hướng hiện nay là sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để thay thế cho hình thức thanh toán dùng tiền mặt. Hơn nữa phát triển các hình thức thanh toán qua ngân hàng sẽ góp phần hoàn thiện tính ưu việt của quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung, từ đó hấp dẫn khách hàng đến mở tài khoản tại ngân hàng. Để đa dạng hoá các hình thức thanh toán qua ngân hàng VPBank nên: - Phát hành séc cá nhân có đảm bảo khả năng chi trả của ngân hàng. - Triển khai các dịch vụ thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động. - Phát triển các dịch vụ chuyển tiền qua ngân hàng. Hiện nay cả hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, VPBank nói riêng đang bị cạnh tranh gay gắt bởi công ty tiết kiệm bưu điện. Bưu điện cũng có mạng lưới rộng không kém gì ngân hàng, hơn nữa việc chuyển tiền qua bưu điện có thủ tục rất đơn giản và phù hợp với tập quán, tâm lý của người dân, đặc biệt dịch vụ chuyển tiền qua bưu điện của các gia đình cho sinh viên. VPBank nên xem xét mở quầy giao dịch tại một số trường đại học, làm chiến dịch tiếp thị tới phụ huynh về tiện ích của việc chuyển tiền cho con hàng tháng qua dịch vụ ngân hàng. - VPBank nên tìm thêm nhiều khách hàng là doanh nghiệp trả lương cho nhân viên qua tài khoản tại ngân hàng. Hiện nay ngân hàng đã và đang làm dịch vụ này cho Frudential và Colgate. Đây là một bước khởi đầu về cung cấp dịch vụ này của VPBank cần phải phát huy hơn nữa trong thời gian tới. - Đa dạng hoá các phương thức thanh toán như: thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, thanh toán bù trừ trực tiếp, thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, thanh toán chuyển tiền điện tử…nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. e) Giải pháp thực hiện chiến lược Marketing Marketing trong hoạt động ngân hàng là toàn bộ nghệ thuật tổ chức, quản lý kinh doanh của một ngân hàng từ việc phát hiện ra nhu cầu trên thị trường đến việc tạo ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng bằng một hệ thống các chính sách để tối đa hoá lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, tạo hình ảnh, vị thế của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở phương thức quảng cáo trên những tờ báo ngành, những tờ báo nhỏ, hoặc gián quảng cáo ngay tại ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động Marketing hầu như chưa được chú trọng. Là một ngân hàng có nhiều hoạt động tuyên truyền quảng cáo trong thời gian gần đây nhưng VPBank vẫn chưa được đánh giá là một ngân hàng có chiến lược Marketing tốt nhất. Do vậy giải pháp để thực hiện tốt chiến lược Marketing là: - Cần phải xây dựng chiến lược marketing phù hợp với từng thời kỳ, tổ chức tiếp thị tổng thể từ Hội sở chính cho đến các chi nhánh, phòng giao dịch trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực của mình. - Ngân hàng phải thường xuyên giới thiệu đối với các nhóm khách hàng tiền gửi, nhóm khách hàng tiền vay, tổng công ty và các đơn vị trực thuộc thông qua các buổi giới thiệu sản phẩm dịch vụ mới, diễn đàn, hội thảo, hội nghị. - Sử dụng tối đa vai trò, khả năng Marketing của các nhân viên ngân hàng. Khách hàng đến với ngân hàng để mở tài khoản, nhân viên ngân hàng phải giới thiệu sản phẩm dịch vụ, hướng dẫn nhiệt tình để khách hàng mở và sử dụng tài khoản thuận tiện nhanh chóng. - VPBank cũng cần tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, giới thiệu chi tiết những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, những lợi ích mà khách hàng đạt được khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. - Cần phân đoạn khách hàng để tuyên truyền và giới thiệu thông tin về hoạt động ngân hàng cho phù hợp với từng nhóm: + Nhóm khách hàng là những người hiểu biết rất rõ về lợi ích của việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng nên việc tuyên truyền và vận động mở tài khoản sẽ rất dễ dàng. + Nhóm khách hàng đã có giao dịch với ngân hàng và biết rõ về hoạt động ngân hàng thì ngân hàng tạo sự thông thoáng về thủ tục giấy tờ, cũng như chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. + Nhóm khách hàng chưa biết nhiều về hoạt động ngân hàng thì cần tổ chức tuyên truyền để họ biết, hiểu và mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. + Nhóm khách hàng chưa từng biết đến hoạt động của ngân hàng thì cần tổ chức tuyên truyền để họ làm quen với hoạt động ngân hàng, bước đầu vận động họ gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng và từng bước giới thiệu về các dịch vụ khác của ngân hàng. f) Giải pháp sử dụng mối quan hệ giữa các loại tài khoản Từ xưa tới nay các ngân hàng thương mại luôn sử dụng các tài khoản, nhóm tài khoản có tính chất khác nhau thì được sử dụng khác nhau mà không hề để ý đến mối quan hệ giữa chúng. Điển hình nhất là hai loại tài khoản: tài khoản tiền gửi và tài khoản tiền vay. Như ta đã biết tài khoản tiền vay là loại tài khoản phản ánh một loại tài sản của ngân hàng. Tài khoản tiền vay được chia nhỏ thành tài khoản tiền vay trong hạn đã được gia hạn nợ và tài khoản nợ qúa hạn chia theo các cấp về thời gian quá hạn nợ. Tài khoản này bên nợ phản ánh nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân hàng, còn bên có phản ánh sự giảm nghĩa vụ của khách hàng đối với ngân hàng hay giảm quyền đòi nợ của ngân hàng đối với khách hàng. Và cùng một nhóm tài khoản tiền vay ta có thể phản ánh chúng lên cùng một tài khoản theo các nấc kỳ hạn khác nhau. Và cùng một nhóm tài khoản tiền gửi thì tương tự như tài khoản tiền vay cũng có thể phản ánh chúng lên cùng một tài khoản theo các nấc kỳ hạn khác nhau. Một điểm đặc biệt quan trọng nữa đó là giữa tài khoản tiền gửi và tiền vay chúng cũng có một mối quan hệ với nhau. Tài khoản tiền vay bên nợ phản ánh số tiền mà khách hàng vay ngân hàng hay phản ánh quyền đòi nợ của ngân hàng đối với khách hàng, bên có phản ánh số tiền khách hàng trả cho ngân hàng, tức phản ánh nghĩa vụ trả nợ của khách hàng giảm xuống. Còn tài khoản tiền gửi thì ngược lại, bên có phản ánh nghĩa vụ của ngân hàng đối với khách hàng hay quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng, bên nợ phản ánh nghĩa vụ của ngân hàng giảm xuống. Xét về bản chất ta có thể thấy tài khoản tiền vay bên nợ phản ánh số tiền khách hàng vay ngân hàng, bên có phản ánh số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng, tài khoản tiền gửi cũng phản ánh bên nợ là số tiền khách hàng vay ngân hàng còn bên có phản ánh số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng. Do đó hai tài khoản này có tính chất phản ánh giống nhau và hoàn toàn có thể nhập hai tài khoản đó làm một. Như vậy, sử dụng mối quan hệ giữa các loại tài khoản ta có thể đơn giản hoá được số lượng tài khoản, đơn giản hoá được thủ tục giao dịch của khách hàng với ngân hàng, quản lý các thông tin của khách hàng một cách dễ dàng, khoa học… 3.2.2 Giải pháp riêng đối với từng loại tài khoản Mỗi loại tài khoản gắn liền với một đối tượng khách hàng khác nhau, nên mục đích mở tài khoản cũng khác nhau. Xuất phát từ đặc điểm này thì cần có những giải pháp khác nhau cho từng loại tài khoản. a) Nhóm giải pháp đối tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế Doanh nghiệp là đối tượng chính sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán với mục đích chủ yếu là sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Lợi ích này là rất to lớn so với việc doanh nghiệp sử dụng phương thức thanh toán trực tiếp nên hầu hết các doanh nghiệp đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp VPBank nên xem xét cho khách hàng được hưởng một hạn mức thấu chi nhất định. Nếu làm được điều này, việc sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ linh hoạt hơn, thuận tiện hơn, hạn chế được khả năng bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, từ đó tạo uy tín cho ngân hàng, góp phần tăng trưởng doanh số huy động. Tuy nhiên cấp cho doanh nghiệp một hạn mức thấu chi cũng đồng nghĩa với việc cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Do tín dụng là một sản phẩm có khả năng rủi ro cao nhất nên khi thực hiện phương án này, VPBank cần đặc biệt quan tâm đến công tác “thẩm định” khách hàng trên mọi khía cạnh: tài chính, năng lực lãnh đạo của ban giám đốc, thị phần của doanh nghiệp, thiện chí trả nợ ngân hàng…nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Là một sản phẩm cung cấp cho doanh nghiệp, điều quan trọng đối với doanh nghiệp là vấn đề định giá cho sản phẩm này. Sau khi đã hội đủ các điều kiện để cấp hạn mức thấu chi, ngân hàng và khách hàng cần thoả thuận thật kỹ lưỡng một số vấn đề: - Về hạn mức thấu chi: Cho doanh nghiệp thấu chi bao nhiêu để vừa đảm bảo sự an toàn cho hoạt động ngân hàng, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp có một số vốn linh động không phải là vấn đề đơn giản. Ngân hàng cần phải cân nhắc hết sức thận trọng khi xác định hạn mức này cho từng loại hình doanh nghiệp, từng đối tượng khách hàng, và phải xác định rõ thời hạn thấu chi. - Về lãi suất thấu chi: Là chi phí mà doanh nghiệp được cấp hạn mức thấu chi phải trả cho ngân hàng cho số tiền trong hạn mức thấu chi đã thoả thuận trong khoảng thời gian thấu chi. Như vậy, lãi suất thấu chi phụ thuộc vào số tiền doanh nghiệp được cấp trong hạn mức thấu chi và thời hạn thấu chi. Tuy thời hạn thấu chi càng dài thì thì lãi suất thấu chi càng lớn song rủi ro có thể tăng lên theo cấp số nhân, và theo đó khoản dự trữ cho hạn mức này thêm lớn làm cho một phần vốn ngân hàng đóng băng. Chính khả năng rủi ro lớn này làm cho lãi suất thấu chi khá cao, song trong kinh doanh thời cơ nhiều khi quan trọng hơn. Doanh nghiệp sẵn sàng trả mức lãi suất cao hơn để nắm trong tay một cơ hội kinh doanh. Những dự án, những hợp đồng kinh tế được ký kết không chỉ trong thời gian trước mắt mà có thể đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Do đó nếu phải trả một giá đắt thêm doanh nghiệp nào cũng sẽ chấp nhận bởi kinh doanh trong thời điểm hiện nay không dễ dàng chút nào. Về phía ngân hàng, nếu xác định hạn mức thấu chi phù hợp, cấp cho đúng đối tượng khách hàng sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng với khách hàng, tạo cho ngân hàng một khoản thu nhập tăng thêm, thu hút thêm nhiều khách hàng. Hình thức thấu chi đã và đang được áp dụng khá phổ biến ở các nước phát triển, song trong các ngân hàng thương mại Việt Nam thì hình thức này chưa được sử dụng nhiều. Với những ưu thế của nó, theo em VPBank nên nghiên cứu để sớm cấp cho những khách hàng có quan hệ tín nhiệm một hạn mức thấu chi hợp lý nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng tới giao dịch, mở tài khoản tại ngân hàng, tạo cho ngân hàng khả năng mới trong chiến lược thu hút vốn . b) Nhóm giải pháp đối với tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân Để sử dụng các tiện ích dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại tới dân cư theo mục tiêu hoạt động của VPBank thì vấn đề phát triển tài khoản cá nhân là điều kiện tiên quyết. Song xuất phát từ những vấn đề khó khăn như: thu nhập của người dân còn thấp, chỉ đủ chi tiêu bình thường; tỷ lệ dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn cao; công nghệ ngân hàng chưa phát triển; giao dịch ngân hàng chưa thuận lợi; tâm lý thói quen sử dụng tiền mặt trong dân cư,…tất cả những yếu tố khách quan và chủ quan trên đã khiến cho tiền gửi tiết kiệm cá nhân phát triển không lành mạnh. Vì thế VPBank nên: - Có chiến dịch thu hút tiền gửi thanh toán: đây là điều nói thì dễ nhưng làm thì không dễ chút nào do thói quen cố hữu của dân chúng. Hoạt động chính ở 5 thành phố lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, và chỉ hoạt động trong nội thành nên việc thu hút tiền gửi của cá nhân có nhiều thuận lợi hơn do trình độ dân trí của người dân khá cao, do mức thu nhập cũng như sự tác động mau lẹ của phương tiện thông tin đại chúng. - Đáp ứng mọi sinh hoạt, tiêu dùng của khách hàng thông qua việc chuyển tiền từ tài khoản của cá nhân sang tài khoản của đơn vị, tổ chức cung ứng dịch vụ, bán hàng khi khách hàng ra lệnh thanh toán. - Khuyến khích khách hàng mở tài khoản với thủ tục nhanh gọn, số tiền duy trì tài khoản thấp và các dịch vụ tư vấn về tài khoản được miễn phí. - Thực hiện dịch vụ tư vấn miễn phí cho các chủ tài khoản. Về vấn đề này em thấy VPBank đã thành lập phòng tư vấn địa ốc miễn phí làm tăng sức hấp dẫn đối với các chủ tài khoản. Trên đây mới chỉ là một số giải pháp phát triển tài khoản cá nhân của VPBank. Tuy nhiên em hy vọng nó sẽ đóng góp không nhỏ vào việc tạo vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. c) Nhóm giải pháp đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm là một trong những nguồn vốn huy động quan trọng của ngân hàng. Với trình độ dân trí và khả năng đầu tư thấp, sự chậm phát triển của thị trường chứng khoán thì tiết kiệm có lẽ là một loại hình sinh lời khá an toàn cho những người không ưa mạo hiểm. Để góp phần vào việc giảm thả nổi đồng vốn, các ngân hàng thương mại nói chung, VPBank nói riêng cần tập trung vào một số giải pháp sau: *Đưa ra mức lãi suất tiền gửi hợp lý, đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền. Lãi là lợi ích kinh tế mà khách hàng nhận được sau một thời gian nhất định chuyển giao quyền sử dụng vốn cho ngân hàng. Định giá lãi suất tiền gửi luôn là một bài toán khó đối với mỗi ngân hàng bởi nó bị ràng buộc bởi rất nhiều yếu tố: đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng, cho khách hàng… theo công thức: Lãi suất cho vay= lãi suất huy động + các chi phí liên quan đến huy động vốn + lợi nhuận hợp lý. Vì vậy VPBank nên tính toán một cách khoa học và hợp lý để đưa ra mức lãi suất đủ sức hấp dẫn khách hàng. Sự so sánh nên được đặt giữa lãi suất của tiền gửi cùng kỳ hạn hơn là kỳ hạn khác nhau, bởi tâm lý người dân vẫn không thích gửi tiền lâu dài trong ngân hàng. Trong bài toán về lãi suất tiền gửi, yếu tố uy tín của ngân hàng trong dân cư cũng rất quan trọng. Và đây cũng là lý do vì sao lãi suất ở các ngân hàng thương mại cổ phần thường cao hơn so với lãi suất ở các ngân hàng thương mại quốc doanh mà người dân vẫn thích gửi ở ngân hàng quốc doanh hơn, chỉ đơn giản khách hàng nghĩ rằng quốc doanh có nghĩa là Nhà nước nên yên tâm hơn. Do vậy thái độ, uy tín, lòng tin,…là rất quan trọng. Thêm vào đó là lợi ích kinh tế khách hàng nhận được thông qua mức lãi suất hợp lý. *Đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm. Đa dạng hoá hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm nghĩa là đa dạng hoá hình thức tiết kiệm và kỳ hạn gửi tiết kiệm. - Về kỳ hạn gửi tiết kiệm: Hiện nay không chỉ riêng VPBank mà toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại đều đưa ra các kỳ hạn gửi tiền khác nhau, từ 1 tháng, 2 tháng,…đến 36 tháng và tương ứng với mỗi kỳ hạn đó là một mức lãi suất khác nhau trên nguyên tắc: kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao do phải cộng thêm mức bù kỳ hạn. Thực tế cho thấy do nhu cầu tạm thời chưa sử dụng tiền ở mỗi người, mỗi giai đoạn là rất khác nhau nên để thu hút thêm nhiều nguồn vốn thông qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm, VPBank cần đưa thêm nhiều kỳ hạn gửi tiền và tương ứng với mỗi kỳ hạn đó là mức lãi suất phù hợp. Về lãi suất tiền gửi, VPBank không nên quá cứng nhắc theo quy chế chung, nghĩa là trả lãi suất không kỳ hạn cho số ngày quá hạn. Qua thực tập tại VPBank em thấy nếu khách hàng gửi tiền với kỳ hạn dài khi rút trước hạn sẽ được hưởng 90% lãi suất của kỳ hạn ngắn hơn. Đây là cách làm hướng về khách hàng mà ít ngân hàng đang làm nên VPBank cần phát huy hơn nữa nhằm tăng cường công tác huy động vốn. Thêm vào đó, trong thời gian tới ngân hàng cần đưa thêm hình thức vốn bằng phát hành thương phiếu, trái phiếu,… *Về hình thức gửi tiền tiết kiệm. Hình thức gửi tiền tiết kiệm là cách thức mà khách hàng để số tiền tạm thời nhàn rỗi của mình tại ngân hàng. Như vậy trong cuộc sống bận rộn ngày nay, đơn giản hoá thủ tục gửi tiền đồng nghĩa với giảm thời gian giao dịch, giảm chi phí cho khách hàng. VPBank nên không ngừng nghiên cứu và hoàn thiện những hình thức gửi tiền tiết kiệm mới như: + Tiết kiệm an sinh: đây là sản phẩm khá thành công của VPBank. Với hợp đồng tiết kiệm này bạn có thể gửi định kỳ 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng,…tuỳ thuộc vào các khoản thu nhập của bạn. Hình thức tiết kiệm này không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng trong việc kế hoạch hoá được nguồn vốn, mà còn có ý nghĩa đối với từng cá nhân gửi tiền bởi họ có nghĩa vụ gửi tiền vào ngân hàng theo định kỳ đã thoả thuận với ngân hàng. Tuy nhiên đến nay số lượng tài khoản tiền gửi tiết kiệm an sinh rất ít (>250 tài khoản), chủ yếu là của các nhân viên trong ngân hàng gửi cho con như một hợp đồng bảo hiểm. Thiết nghĩ ngân hàng nên có một cách thức tiếp thị phù hợp cho hình thức tiết kiệm này, như: dán thông báo chỗ khách hàng ngồi chờ giao dịch với ngân hàng, mỗi nhân viên hãy là một Marketing trong chiến dịch này,… + Tiết kiệm trung dài hạn: thời gian vừa qua nhu cầu vốn cho những dự án trung dài hạn là rất lớn mà nguồn cung chủ yếu là từ các ngân hàng thương mại. Hàng loạt các dự án đi vào thực hiện, hàng trăm công ty liên doanh, công ty cổ phần, nhà máy, xí nghiệp ra đời,…, riêng địa bàn Hà Nội các khu chung cư, đô thị mới, rồi sự ra đời của hai quận mới: Hoàng Mai, Long Biên mà đi kềm theo nó là bao chi phí phát sinh,… Với vai trò là trung gian tín dụng, là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, các ngân hàng đã chạy đua tăng lãi suất để huy động tiền gửi. Nhưng do rất nhiều nguyên nhân như: tâm lý, thói quen,…mà dân chúng chưa thực sự tin tưởng vào hệ thống ngân hàng, thể hiện qua thời hạn gửi tiền. Rõ ràng rất nhiều khách hàng gửi tiền xác định đó là khoản đầu tư lâu dài, chỉ rút lãi để chi tiêu và chỉ rút khi có việc bất đắc dĩ bất đừng nhưng khách hàng vẫn gửi với thời hạn ngắn? Xuất phát từ việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng, từ mục đích gửi tiền của khách hàng, ngân hàng cần nghiên cứu và đưa ra những chính sách phù hợp. Ngân hàng nên đưa ra hình thức tiết kiệm có mục đích với mức lãi suất huy động khuyến khích cả về lượng và thời gian. Loại hình tiết kiệm này mang lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng thể hiện ở chỗ: Về phía ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động được nguồn vốn; Về phía khách hàng, kế hoạch được việc chi tiêu của mình để hưởng mức lãi suất cao và khách hàng sẽ có thể được cấp một khoản tín dụng với hạn mức tối đa bằng số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tại ngân hàng. Ngoài ra VPBank nên thực hiện huy động tiền gửi bằng vàng. d) Một số biện pháp chung khác * Nâng cao chính sách khách hàng . Khách hàng có ý nghĩa đặc biệt trong sự hoạt động và phát triển của ngân hàng, bởi khách hàng tồn tại ở cả hai đầu của “quá trình sản xuất” của ngân hàng, đó là khách hàng gửi tiền, khách hàng vay tiền. Do vậy việc xây dựng một chính sách khách hàng khoa học, hợp lý là mục tiêu quan trọng của bất kỳ ngân hàng nào. Đối với VPBank, để phát triển việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn cần thực hiện một số giải pháp sau: - Thứ nhất, xây dựng một chính sách khách hàng phù hợp, khoa học, thể hiện: chính sách khách hàng phải phù hợp với xu thế hội nhập, phù hợp với nguồn lực và trình độ hiện có của ngân hàng. Với chiến lược xây dựng mô hình bán lẻ, VPBank nên tập trung vào những doanh nghiệp nhỏ sản xuất những mặt hàng có tính cạnh tranh cao, tập trung vào những cá nhân có thu nhập ổn định và có nhu cầu lớn đối với sản phẩm tiền gửi tại ngân hàng. - Thứ hai, tạo tiện ích và lợi ích tối đa cho khách hàng khi đến với ngân hàng. Muốn vậy, ngoài việc không ngừng nghiên cứu, điều tra để xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, ngân hàng cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp khác nhằm gắn chặt quyền và nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng. - Thứ ba, tạo không khí vui vẻ, thân mật giữa ngân hàng và khách hàng thông qua sự phục vụ nhiệt tình chu đáo, coi “ tín nhiệm là trên hết”, đồng thời cần tạo sự hấp dẫn về vật chất thông qua lãi suất, phí sử dụng dịch vụ,…Ngoài ra, ngân hàng nên có chương trình khuyến mãi nhân các ngày lễ tết, tặng quà nhân ngày kỉ niệm thành lập công ty đối với những khách hàng có quan hệ thường xuyên,… * Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi là sản phẩm nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống NHTM Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi ra đời và hoạt động đem lại lợi ích cho mọi chủ thể tham gia: công chúng, doanh nghiệp, ngân hàng và cả các cơ quan quản lý Nhà nước. Hoạt động này đặc biệt có ý nghĩa đối với cá nhân bởi tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt lâu nay và những dư âm về thời kỳ sụp đổ của hệ thống Hợp tác xã tín dụng những năm 1990. Vì vậy, VPBank cần tham gia tích cực hơn nữa đến bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. 3.3 Một số kiến nghị đối với các cấp 3.3.1 Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước NHNN là một cơ quan quan trọng trong bộ máy quản lý vĩ mô của Nhà nước, với nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị của đồng tiền, quản lý hệ thống tổ chức tín dụng trong cả nước bằng các văn bản, chính sách và các cơ chế nghiệp vụ. Qua thực trạng huy động vốn của VPBank cho ta thấy công tác huy động vốn tại ngân hàng còn tồn tại không ít những khó khăn do nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng, nguyên nhân khách quan, một phần do cơ chế chính sách. Để VPBank nói riêng, các NHTM nói chung có thể tăng cường huy động vốn, làm tròn chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế thì NHNN cần giải quyết một số vấn đề sau: - Một là: NHNN nên đưa chính sách thanh toán không dùng tiền mặt là chính sách Nhà nước chứ không phải chỉ ở phạm vi cấp ngành. Theo đó: + Việc bắt buộc mở và sử dụng tài khoản trong kinh doanh trở thành một nguyên tắc, từ đó để NHNN dễ dàng kiểm tra việc chấp hành thuế của các thành phần kinh tế, khi đó tránh tình trạng các doanh nghiệp có doanh thu rất lớn nhưng thanh toán qua ngân hàng rất nhỏ taọ cơ hội trốn thuế. + Là chính sách Nhà nước nên cũng bắt buộc chi lương qua hệ thông ngân hàng đối với mọi thành phần kinh tế ở các thành phố lớn hay ở những nơi có ngân hàng, gần ngân hàng. Việc các cơ quan trả lương qua tài khoản cá nhân không nên dừng lại ở chỗ chỉ sử dụng để rút tiền mặt qua các máy ATM vì thực chất đây vẫn là biện pháp tăng thanh toán bằng tiền mặt. + Thêm vào đó thanh toán bằng chuyển khoản cần qui định bắt buộc đối với những giao dịch mua bán tài sản có đăng ký theo giá thị trường (tránh trường hợp thảo thuận trong hợp đồng với giá trị thấp để trốn thuế) như: xe hơi, nhà cửa, tàu thuyền…có giá trị từ 200 triệu trở lên. Để khuyến khích, NHNN cần giảm bớt thuế suất cho người thực hiện giao dịch này khi việc bán tài sản của họ không vì mục đích kinh doanh. Làm được điều này sẽ tạo nên thói quen dùng chuyển khoản, dịch vụ ngân hàng của các chủ thể trong nền kinh tế. - Hai là: Chính phủ nghiên cứu để đưa ra chính sách tiền lương phù hợp nhằm nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên có thu nhập bằng lương. - Ba là: Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ vật chất nhất định đối với ngân hàng, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, cũng như các chủ thể tham gia thanh toán qua tài khoản tại ngân hàng như: hỗ trợ về chi phí dịch vụ thanh toán, giảm thuế để dân chúng nhanh chóng tạo lập thói quen thanh toán qua ngân hàng,…Và các chi phí này cần được san sẻ cho các ngành chứ không phải chỉ dành cho ngành ngân hàng gánh chịu. - Bốn là: Hỗ trợ các ngân hàng trong việc hiện đại hoá công nghệ thông tin và NHNN cần phải giữ vai trò đầu mối trong chương trình hiện đại hoá toàn ngành ngân hàng. - Năm là: NHNN cần không ngừng cải tiến và tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng. Nội dung thanh tra cần tập trung vào các vấn đề: chất lượng tài sản có, chất lượng quản lý kinh doanh và nhân sự, lợi nhuận và khả năng sinh lời,…Công tác thanh tra phải được tiền hành thường xuyên kết hợp với đột xuất và phải thanh tra có trọng điểm và không dàn trải. - Sáu là: Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh tình trạng chạy đua lãi suất như thời gian vừa qua,… - Bảy là: Nên ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng nghị định 159/CP về phát hành và sử dụng Séc. Đặc biệt là nội dung văn bản cần nêu bật được những điểm khác biệt giữa hai nghị định 159/CP và nghị định 30/CP. Trên đây là một số kiến nghị mà khoá luận chỉ ra. Em hy vọng với chức năng ngân hàng của các ngân hàng, NHNN cần khẳng định vai trò của mình trong việc quản lý đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng để ngành ngân hàng sẵn sàng bước vào công cuộc hội nhập chung của đất nước. 3.3.2Kiến nghị đối với cục bưu chính viễn thông - Nên trang bị một mạng lưới các thiết bị truyền thông hiện đại. - Cho phép tất cả các đối tượng sử dụng điện thoại được phép nối mạng thông qua mạng điện thoại. - Giảm cước phí nối mạng thông qua mạng điện thoại và các thiết bị khác. Kết luận Đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong thời gian gần đây (trung bình 7.5%) là một thành tựu đầy khởi sắc đối với Việt Nam. Có được kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực hết mình của các ngành, các thành phần kinh tế, trong đó không thể thiếu được vai trò của ngành ngân hàng. Nếu ví nền kinh tế như một cơ thể thì ngành ngân hàng được coi như là bộ xương của cơ thể ấy. Với vai trò là trung gian tín dụng- đi vay để cho vay, các NHTM đã khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, và phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoà mình vào thành tích chung của ngành ngân hàng, trong những năm qua VPBank đã có những bước chuyển mình vượt bậc cả về quy mô hoạt động và chất lượng hoạt động. Đặc biệt là công tác huy động vốn. Hai tháng thực tập tại đây đã giúp em có được kiến thức thực tế cho đề tài “Quản lý thông tin và tài khoản khách hàng tập trung với việc mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn tại VPBank – thực trạng và giải pháp”. Qua đó giúp em hiểu được phần nào thực trạng huy động vốn cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác huy động vốn của ngân hàng, từ đó đưa ra một số giải pháp về quản lý thông tin và tài khoản khách hàng nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại VPBank . Những giải pháp được đề xuất trong khoá luận chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp khơi tăng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên em hy vọng những giải pháp này có thể phát huy tác dụng trong sự nỗ lực chung của ngân hàng. Do chỉ có hai tháng thực tập lại chưa có kinh nghiệp thực tế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, em mong các thầy cô, các cô chú, anh chị cán bộ ngân hàng tham gia đóng góp ý kiến cho bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các phòng ban của VPBank đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt khoá thực tập của mình; cảm ơn trường Học viện ngân hàng, các thầy cô khoa ngân hàng và các khoa khác đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường; đặc biệt là thầy giáo Đinh Đức Thịnh đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34070.doc
Tài liệu liên quan