Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận

Lời mở đầu Chương 1: Cơ sở lý luận về Quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu 1.1 Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ công....................................................................03 1.1.1 Khái nhiệm dịch vụ công....................................................................................03 1.1.2 Phân loại dịch vụ công........................................................................................03 1.1.3 Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các dịch vụ công....

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.........................04 1.2 Đơn vị sự nghiệp có thu .........................................................................................06 1.2.1 Khái niệm và phân loại đơn vị sự nghiệp có thu...................................................06 1.2.2 Vai trò của đơn vị sự nghiệp có thu......................................................................08 1.2.3 Nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu........................................................09 1.2.4 Nhiệm vụ chi của đơn vị sự nghiệp có thu............................................................13 1.3 Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu.........................................................14 1.3.1 Nguyên tắc quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu..........................................14 1.3.2 Phương pháp quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu.......................................14 13.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu.....15 1.4 Kinh nghiệm quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu của Trung Quốc...............17 1.5 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam...................................................................19 Chương 2: Thực trạng Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận.............................................................................................................................2 2.1Thực trạng Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu 2.1.1 Giai đoạn trước đổi mới (Trước 2002).................................................................22 2.1.2 Giai đoạn sau đổi mới đến nay (từ tháng 10/2002)..............................................23 2.1.2.1 Sự cần thiết phải đổi mới...................................................................................23 2.1.2.2 Mục đích............................................................................................................23 2.1.2.3 Các văn bản pháp luật hướng dẫn......................................................................24 2.1.2.4 Đánh giá thực trạng quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu...................26 2.1.2.5 Tổng quan tình hình tự chủ tài chính ................................................................42 2.2 Thực trạng Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận.......................................................................................................................45 2.2.1 Tình hình kinh tế – xã hội Bình Thuận.............................................................45 2.2.2 Quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu tại Bình Thuận..............47 2.2.2.1 Yêu cầu..............................................................................................................47 2.2.2.2 Kết quả đạt được................................................................................................48 2.2.2.3 Tồn tại và nguyên nhân ....................................................................................57 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại Bình Thuận..............................................................................................................60 3.1 Định hướng..............................................................................................................60 3.2 Mục tiêu và quan điểm phát triển các hoạt động sự nghiệp.....................................61 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại Bình Thuận............................................................................................................................62 3.3.1 Đối với nguồn NSNN............................................................................................63 3.3.2 Đối với nguồn thu sự nghiệp của đơn vị...............................................................65 3.3.3 Giải pháp khác......................................................................................................68 3.4 Điều kiện thực hiện..................................................................................................75 Kết luận.........................................................................................................................76 Phụ lục...........................................................................................................................77 Tài liệu tham khảo Các chữ viết tắt trong luận văn BHYT Bảo hiểm y tế CNH-HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa ĐTPT Đầu tư phát triển GDĐT Giáo dục đào tạo HCSN Hành chính sự nghiệp HCNN Hành chính nhà nước KBNN Kho bạc Nhà nước KHCN Khoa học công nghệ NSNN Ngân sách nhà nước TSCĐ Tài sản cố định TW Trung ương UBND ủy ban nhân dân VHTT Văn hóa thể thao XHCN Xã hội chủ nghĩa Tài liệu tham khảo 1. Hệ thống các văn bản pháp quy về cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu, NXB Tài chính 2003; Báo cáo tình hình thực hiện Nghị định 10, Dự thảo sửa đổi Nghị định 10. 2. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam - Trung Quốc: Nâng cao năng lực quản lý tài chính công ở Trung Quốc và Việt Nam, Học Viện Tài chính và Học viện tài chính - tiền tệ, ĐH nhân dân Trung Hoa tổ chức, năm 2004. 3. PGS. TS. Lê Chi Mai: “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia 2003. 4. Ngân hàng thế giới: Báo cáo phát triển Việt Nam 2005: Quản lý và điều hành. 5. Quỹ Tiền tề quốc tế: “Cẩm nang thống kê Tài chính Chính phủ 2001”. 6. UNDP - Bộ Tài chính - Viện Khoa học Tài chính, ‘Đổi mới quản lý chi tiêu công ở Việt Nam’, Hà Nội - 2003. 7. Kỷ yếu Dự án VIE/96/028 ‘Đánh giá chi tiêu công’: Đánh giá và quản lý chi tiêu công ở Việt Nam: Những kết quả về lý luận và thực tiễn, Hà Nội – 2003. 8. Tạp chí tài chính 2003, 2004, 2005, 2006 9. Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia 2003, 2004, 2005, 2006 10. Báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP Tỉnh Bình Thuận, năm 2003,2004,2005. 11. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 24/5/2006 của Chính phủ. 12. Thông tư số 71/2006/TT Lời mở đầu 1.Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá thể thao... là những hoạt động có vị trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp cho sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước. Các lĩnh vực này không tạo ra hàng hoá thông thường cho nền kinh tế mà sản phẩm của chúng là hàng hoá đặc biệt: hàng hoá công. Để đo lường mức độ tăng trưởng, mức độ văn minh của một nền kinh tế, đa số các nước xem xét cách thức cung cấp hàng hoá công, trình độ, số lượng, chất lượng hàng hoá công. Chính vì thế nhà nước rất quan tâm tạo cơ chế, đầu tư, cung cấp nguồn vốn cho các lĩnh vực sự nghiệp (giáo dục, y tế...). Đầu tư cho phát triển con người được nhiều nước coi là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội một cách lâu dài. Vấn đề đặt ra đó là phải xem xét đến tính hợp lý, hiệu quả khi huy động và sử dụng các nguồn tài chính đầu tư cho các hoạt động này. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường thì việc tìm ra một cơ chế mới cho phép nâng cao hiệu quả quản lý tài chính đối với khu vực sự nghiệp là hết sức cần thiết. Cải cách cơ chế quản lý tài chính theo hướng giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp đã góp phần quản lý thống nhất các nguồn thu, thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài : Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu, góp phần vào công cuộc cải cách tài chính công, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.Mục tiêu của đề tài Nhận thức được yêu cầu trên, người thực hiện đề tài mong muốn đạt được những mục tiêu sau: Hệ thống hóa một phần cơ sở lý luận về công tác Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu. Phân tích, đánh giá thực trạng công tác Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận Đề xuất những giải pháp Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đơn vị sự nghiệp có thu bao gồm: đơn vị sự nghiệp có thu công lập, đơn vị sự nghiệp có thu ngoài công lập, trong phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu về các đơn vị sự nghiệp có thu công lập. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận. 4.Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, người viết chủ yếu dựa vào phương pháp cơ bản là duy vật biện chứng, quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn của công cuộc đổi mới kinh tế. Đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống, thống kê để xử lý và phân tích số liệu nhằm thấy được nguyên nhân để đưa ra các giải pháp khắc phục hạn chế và hướng hoàn thiện mà đề tài đề ra. 5.Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm 3 chương như sau: Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu. Chương II - Thực trạng quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận. Chương III: Giải pháp quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại tỉnh Bình Thuận. Đề tài được thực hiện với sự nỗ lực của bản thân, có sử dụng nhiều tài liệu nghiên cứu và học tập của nhiều tác giả trong tham khảo và đặc biệt là sự hướng dẫn rất tận tình của TS. Trầm Thị Xuân Hương trong thời gian thực hiện đề tài. Chắc chắn nội dung nghiên cứu của đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp. Xin chân thành cám ơn TS. Trầm Thị Xuân Hương, cám ơn các tác giả của các tài liệu mà người viết đã sử dụng để tham khảo khi thực hiện đề tài, cám ơn Sở Tài chính Bình Thuận đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu 1.1. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ công 1.1.1. Khái niệm dịch vụ công Dịch vụ công là các hoạt động phục vụ các lợi ích chung cần thiết của cả cộng đồng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu và quyền cơ bản của người dân trong việc hưởng thụ của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Dịch vụ công có thể do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay do các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện, nhằm đảm bảo trật tự, công bằng xã hội và các lợi ích công cộng của xã hội. Theo Cẩm nang Tài chính Chính phủ của Quỹ tiền tệ quốc tế, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tập thể cung cấp cho cộng đồng bao gồm các dịch vụ như dịch vụ hành chính công, quốc phòng, bảo vệ pháp luật. Các dịch vụ tiêu biểu phục vụ tiêu dùng cá nhân bao gồm: giáo dục, y tế, nhà ở, giải trí và các dịch vụ văn hóa. Các dịch vụ này được cung cấp miễn phí hoặc Chính phủ có thể thu một mức phí. Hàng hóa và dịch vụ được cung cấp cho toàn cộng đồng hay các cá nhân có thể do tự Chính phủ sản xuất hoặc do Chính phủ mua lại của một bên thứ ba. 1.1.2. Phân loại dịch vụ công Dịch vụ công thuần túy: là các dịch vụ mà việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng hay khả năng tiêu dùng của người khác. Ví dụ như hệ thống chiếu sáng công cộng hay thông tin phát thanh truyền hình...Các loại dịch vụ này còn được gọi là dịch vụ công vô hình: các hoạt động đảm bảo chủ quyền quốc gia và cuộc sống thanh bình cho mọi người, bảo vệ môi trường, đê điều... Quản lý hành chính nhà nước cung cấp dịch vụ hành chính công là một loại dịch vụ công thuần túy điển hình. Dịch vụ hành chính công gắn liền với các cơ quan hành chính công cung cấp trực tiếp cho người dân, gắn với việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Các dịch vụ này có tác dụng bảo đảm và duy trì trật tự, an ninh xã hội, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân (duy trì trật tự trị an, hộ khẩu, cấp giấy phép kinh doanh, công chứng...). Dịch vụ công không thuần túy: là những hàng hóa mà việc loại trừ ai đó ra khỏi việc sử dụng này là có thể, chúng còn được gọi là các dịch vụ công hữu hình, có rất nhiều trong đời sống hàng ngày như dịch vụ về giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật, giao thông, thủy lợi... 1.1.3. Vai trò của nhà nước trong việc phát triển dịch vụ công 1.1.3.1. Ban hành các chính sách, văn bản pháp luật - Chỉ có nhà nước (thông qua thu, chi ngân sách) là có đủ cơ sở kinh tế và toàn quyền về pháp lý đóng vai nhà cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công thuần tuý cho xã hội. Tuy nhiên, trong giới hạn nguồn thu NSNN, nhà nước cũng không thể đảm nhận trách nhiệm cung cấp toàn bộ hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội. Việc xác định đúng đắn những hàng hóa, dịch vụ công nào do nhà nước cung cấp, cung cấp như thế nào, có thu phí hay không thu phí... và những hàng hóa, dịch vụ nào nhà nước cần có cơ chế mở rộng cho các thành phần kinh tế khác cung cấp là rất cần thiết, quan trọng. - Mỗi quyết định như vậy, không những liên quan đến chất lượng cuộc sống cộng đồng và sự phát triển của xã hội mà còn phát huy tích cực vai trò điều tiết của ngân sách, khắc phục những thiếu hụt, khiếm khuyết của thị trường tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư. Bên cạnh cung cấp dịch vụ công, khi mở rộng cho các thành phần khác tham gia, nhà nước cần phải định hướng thông qua việc ban hành các văn bản pháp lý, tạo công bằng cho người dân khi sử dụng dịch vụ công. Vì vậy, Nhà nước có vai trò hướng dẫn, khuyến khích, điều tiết và phối hợp các hoạt động liên quan đến phát triển các dịch vụ công như quy định về cơ chế hoạt động đối với các đơn vị tham gia cung cấp các dịch vụ công cho xã hội, hay các chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao... 1.1.3.2 Nhà nước là chủ thể trực tiếp cung cấp các dịch vụ công Đối với các dịch vụ công thuần tuý, những dịch vụ mà liên quan đến lợi ích của toàn xã hội nhưng khu vực tư nhân không tham gia cung cấp các dịch vụ này thì nhà nước chính là chủ thể trực tiếp cung cấp các dịch vụ công, như : quản lý hành chính, y tế dự phòng, ...ở hầu hết các nước trên thế giới, Nhà nước vẫn có trách nhiệm bảo đảm cung ứng những dịch vụ công phục vụ các nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội khi mà các thành phần khác không tham gia vào việc cung ứng. Chẳng hạn đối với dịch vụ công như phòng bệnh, tiêm chủng..., nếu tư nhân đứng ra để cung cấp loại dịch vụ này thì họ sẽ phải thu tiền dịch vụ của mọi người nhằm tư lợi cá nhân. Song sẽ có những người cho rằng họ không cần sử dụng loại dịch vụ này, hoặc không thể trả tiền cho dịch vụ đó. Điều đó sẽ không khuyến khích các cá nhân sử dụng làm ảnh hưởng tới xã hội, thậm chí gây tổn hại to lớn hơn nhiều so với phần người dân đóng góp. Nhà nước có vai trò cung cấp các dịch vụ công đặc biệt là đối với hàng hóa công thuần túy là do tính chất của hàng hóa công khi được cung cấp sẽ phát huy tác dụng đối với toàn xã hội, nó không hạn chế số lượng người được hưởng thụ và sự tăng thêm người hưởng thụ cũng không làm tăng thêm chi phí cung cấp sản phẩm dịch vụ. Từ đó đảm bảo được các quyền lợi bình đẳng cho người dân. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công để đảm bảo sự phân phối công bằng về các dịch vụ xã hội cơ bản của thị trường. Nhà nước cần thiết tham gia vào lĩnh vực hoạt động sự nghiệp xuất phát từ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường trong việc cung cấp các dịch vụ công, nâng cao tính hiệu quả và công bằng xã hội. 1.1.3.3.Nhà nước đóng vai trò người kiểm soát chất lượng dịch vụ, bảo vệ quyền lợi của người dân Việc thụ hưởng dịch vụ công là quyền của mọi công dân, Nhà nước phải đảm bảo để mọi công dân được hưởng quyền lợi đó. Tuy nhiên, khả năng chi trả của người dân cho các dịch vụ không giống nhau, chi phí cho việc cung cấp dịch vụ cũng không giống nhau ở các địa bàn khác nhau. Để người dân được thụ hưởng quyền lợi và người cung ứng dịch vụ không bị thua thiệt thì cần có sự can thiệp của nhà nước. Chính bằng cách này, nhà nước đã hạn chế được những khiếm khuyết của cơ chế thị trường. Theo quan điểm của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Chính phủ của một quốc gia bao gồm cơ quan công quyền và các đơn vị trực thuộc, thực hiện chức năng kinh tế chủ đạo là (1) cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho cộng đồng để tiêu dùng tập thể hoặc cá nhân, trên cơ sở phi thị trường, (2) tái phân phối thu nhập và của cải bằng các phương tiện thanh toán, chuyển giao. Các hoạt động trên chủ yếu được tài trợ thông qua thuế hoặc các khoản chuyển giao bắt buộc khác. Chất lượng của các dịch vụ công đặc biệt là dịch vụ giáo dục và y tế đối với người dân nói chung và người nghèo nói riêng sẽ quyết định đến hiệu quả và những tiến bộ trong công cuộc giảm nghèo của đất nước. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mở ra một khả năng đa dạng hoá những nhà cung cấp các dịch vụ này, đưa khu vực tư nhân tham gia và tăng cường khả năng lựa chọn cho người dân. Song Chính phủ vẫn giữ trách nhiệm kiểm định chất lượng các nhà cung cấp dịch vụ, điều tiết các dịch vụ và định giá trong một số trường hợp. Chính phủ cũng chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản cho người dân nói chung. Trách nhiệm cung cấp dịch vụ cũng bao gồm việc bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với dịch vụ y tế với chi phí hợp lý. Có thể thấy, Chính phủ vừa là người cung cấp dịch vụ chủ yếu, cung cấp các dịch vụ công, đồng thời cũng vừa là người có vai trò quản lý nhà nước đối với các nhà sản xuất tư nhân cung cấp các dịch vụ công. Như vậy, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch vụ này cho xã hội, ngay cả khi các dịch vụ này được chuyển giao cho khu vực tư nhân cung cấp thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt, bảo đảm sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này tới người dân. 1.2. Đơn vị sự nghiệp có thu 1.2.1. Khái niệm và phân loại đơn vị sự nghiệp có thu 1.2.1.1. Khái niệm Đơn vị sự nghiệp có thu là những đơn vị cung cấp dịch vụ công hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, văn hóa thể thao, phát thanh truyền hình, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm... Trên giác độ điều hành quản lý, các đơn vị cung cấp dịch vụ công bao gồm có những dịch vụ xã hội (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học ) và dịch vụ công ích (sản xuất và cung cấp điện, nước sinh hoạt, gas, vệ sinh môi trường, ) được gọi chung là các đơn vị sự nghiệp. Dạy học, khám chữa bệnh, biểu diễn nghệ thuật, thể thao là những hoạt động tạo ra và cung ứng các hàng hoá công. Đối tượng phục vụ của các hoạt động này chính là công chúng. Và các hoạt động này được gọi là hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ công, đó chính là nhiệm vụ cơ bản của các đơn vị sự nghiệp. 1.2.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu Các đơn vị sự nghiệp có thu phân theo ngành là những đơn vị sự nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: o Giáo dục đào tạo o Y tế o Văn hoá thông tin o Khoa học công nghệ  o Thể dục thể thao o Sự nghiệp kinh tế o Phát thanh truyền hình o Dịch vụ việc làm Đơn vị sự nghiệp có thu giữ một vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ công về giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế trạm trại, nông lâm thủy lợi... đáp ứng nhu cầu về phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu về đổi mới, phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đơn vị sự nghiệp có thu có vai trò tự chủ trong điều hành hoạt động của đơn vị và quản lý tài chính và xã hội hóa nguồn lực để phát triển các sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao... Trong quá trình hoạt động có thể được nhà nước cho phép thu một số khoản phí hoặc thu từ hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động, tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức và bổ sung tái tạo chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị. Trong quá trình hoạt động, đơn vị sự nghiệp có thu được phép thu một số khoản phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước, thu thông qua hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ đa dạng ở hầu hết các lĩnh vực (học phí, viện phí, lệ phí, tiền vé xem biểu diễn,...). Căn cứ vào công thức trên đơn vị sự nghiệp có thu công lập được xếp vào 2 mô hình sau : + Đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên là đơn vị có mức tự đảm bảo chi hoạt động thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100%, NSNN không cấp kinh phí chi thường xuyên; + Đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi hoạt động thường xuyên NSNN cấp một phần, là đơn vị có mức tự đảm bảo chi hoạt động thường xuyên nhỏ hơn 100%. 1.2.2. Vai trò của đơn vị sự nghiệp có thu - Tác động mạnh mẽ và lâu dài tới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, có tính quyết định đến năng suất lao động xã hội: Hoạt động sự nghiệp là những hoạt động không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động mạnh mẽ và lâu dài tới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, có tính quyết định đến năng suất lao động xã hội. Điều đó thể hiện thông qua hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, đảm bảo các nhu cầu cho người dân về các dịch vụ xã hội cơ bản. Điển hình như lĩnh vực giáo dục - trang bị kiến thức và kỹ năng cho công dân, lĩnh vực y tế - đảm bảo cho người dân có sức khỏe tốt... - Góp phần quan trọng trong việc phát triển toàn diện đời sống kinh tế-xã hội của đất nước : Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp góp phần quan trọng trong việc phát triển toàn diện đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Các đơn vị có hoạt động sự nghiệp sẽ đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người dân là được cung ứng các dịch vụ công cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả. Chẳng hạn như các nhu cầu về học tập để nâng cao kiến thức, trình độ, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, đường sá đi lại, bưu chính viễn thông, thăm quan, du lịch, danh lam thắng cảnh... - Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân : Các đơn vị cung cấp dịch vụ công còn có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, làm cho đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Lượng hàng hoá công mà người dân được hưởng chính là tiêu chí để đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia. Do vậy, với hệ thống các dịch vụ công do các đơn vị sự nghiệp cung cấp ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân, tác động tích cực tới quá trình tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất kinh doanh. - Nâng cao ý thức cộng đồng xã hội của các tầng lớp nhân dân : Góp phần thực hiện công bằng xã hội, nâng cao ý thức cộng đồng xã hội của các tầng lớp nhân dân. Thông qua chi NSNN cho các hoạt động sự nghiệp, Chính phủ đã đảm bảo kinh phí cho các ngành, các lĩnh vực này có khả năng cung ứng hàng hoá, dịch vụ công đáp ứng cho nhu cầu xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong xã hội, đặt biệt là các đối tượng chính sách được thụ hưởng lợi ích của các hàng hoá, dịch vụ công được cung ứng. 1.2.3. Nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu Nguồn tài chính cho các đơn vị sự nghiệp nói chung gồm có 3 nguồn chính là từ ngân sách nhà nước; nguồn thu sự nghiệp của đơn vị hay là thu từ các hoạt động cung ứng dịch vụ công và nguồn khác như viện trợ, vay nợ, quà biếu, tặng... 1.2.3.1. Nguồn từ Ngân sách nhà nước Nguồn Ngân sách nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, mở rộng và nâng cao hiệu quả của các dịch vụ công đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thiết yếu của người dân. Đầu tư từ ngân sách nhà nước ở hầu hết các nước đều ưu tiên cho giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao... Nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cấp cho các đơn vị sự nghiệp thường căn cứ vào định mức phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, phát thanh truyền hình... Các định mức này được xây dựng theo các tiêu chí khác nhau như dân số, cơ cấu dân số, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ học sinh nhập học, dân số trong độ tuổi đến trường, số giường bệnh, biên chế...ở nước ta, hệ thống các trường học, bệnh viện công lập chiếm tỷ lệ lớn, việc phát triển các trường bán công, dân lập, các bệnh viện tư chưa nhiều. Trong lĩnh vực khoa học công nghệ thì phần lớn là các trung tâm, viện nghiên cứu và phát triển, các phòng thí nghiệm, các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ... đều là các đơn vị sự nghiệp công lập. Về văn hóa, thể thao, phát thanh truyền hình... cũng tương tự như vậy. Bên cạnh đó, quá trình xã hội hóa nhằm thu hút các nguồn lực khác cho các hoạt động sự nghiệp chưa được hoàn thiện và còn những bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện, nên đầu tư từ ngân sách nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong các đơn vị các sự nghiệp của cả nước. Cụ thể, đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin...bao gồm: kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, hay thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước đặt hàng. NSNN còn cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp. Như vậy, nguồn từ NSNN tạo điều kiện để khuyến khích sự đóng góp từ nhân dân, các thành phần kinh tế... tạo cơ sở vật chất cho các đơn vị sự nghiệp, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo đến đời sống của người dân. Nguồn từ ngân sách nhà nước còn đảm bảo từng bước ổn định đời sống của đội ngũ lao động nhằm đảm bảo hoạt động sự nghiệp được thường xuyên, liên tục và chất lượng phục vụ ngày càng tốt hơn. Bên cạnh đó, nguồn từ ngân sách nhà nước còn có vai trò điều phối cơ cấu lao động trong ngành. Thông qua định mức chi ngân sách cho các lĩnh vực hoạt động hàng năm góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu mạng lưới các cấp cơ sở trong các lĩnh vực như cơ cấu các cấp học, mạng lưới các trường phổ thông trong ngành giáo dục. Hay tập trung ngân sách cho những mục tiêu chương trình quốc gia trong lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá... Mỗi hoạt động sự nghiệp đều đã được xác định rõ mục tiêu phát triển và để đạt được các mục tiêu này thì nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước giữ vai trò quyết định đến trên nguyên tắc đảm bảo cho các hoạt động sự nghiệp ngày càng có chất lượng, đảm bảo quyền lợi cơ bản của người dân góp phần thực hiện công bằng xã hội. 1.2.3.2. Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị thể hiện mối quan hệ giữa người hưởng dịch vụ phải trả tiền và người cung ứng dịch vụ. Với mỗi đơn vị sự nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau thì sẽ có các nguồn thu sự nghiệp được quy định cụ thể. Các đơn vị sự nghiệp có thu được tổ chức khai thác các nguồn thu hợp pháp bao gồm: phí, lệ phí, thu từ kết quả hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ. Đối với những ngành nghề khác nhau có những nội dung thu, mức thu và chi phí để thu khác nhau. Chẳng hạn như là học phí đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo, viện phí đối với các đơn vị sự nghiệp y tế... nhưng phải nằm trong khung quy định của nhà nước. Số thu về phí từ các hoạt động sự nghiệp thường được sử dụng để bù đắp chi phí, chi cho các hoạt động thường xuyên, chi cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ do đơn vị cung cấp. Thu phí từ hoạt động sự nghiệp là một khoản thu tương đối "nhạy cảm" đối với các hoạt động kinh tế xã hội nên việc quản lý, ban hành thống nhất được các loại phí này là rất khó khăn. Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp phụ thuộc vào giá dịch vụ được cung cấp, số lượng người tham gia dịch vụ và khả năng chi trả của người dân. Nếu giá dịch vụ thấp sẽ không đủ tái tạo lại chi phí cần thiết cho các đơn vị cung cấp dịch vụ, ngược lại, nếu giá dịch vụ cao sẽ hạn chế số lượng người tham gia vào các dịch vụ do đơn vị cung cấp. Do vậy, cần phải tính toán mức thu phù hợp để đảm bảo hài hòa mục tiêu bù đắp chi phí và phục vụ đông đảo các nhu cầu thiết yếu của quần chúng. Do hoạt động sự nghiệp có nhiều loại hình ở các lĩnh vực khác nhau nên các loại phí cũng rất đa dạng, phong phú, tản mạn, rải rác ở nhiều nơi. Để có thể quản lý thu và sử dụng các khoản phí này một cách hợp lý, chặt chẽ và hiệu quả, quản lý thu phí phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định. Yêu cầu cơ bản đối với quản lý thu phí là: - Tất cả các khoản phí phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định mới được phép thu và phù hợp với điều kiện của từng địa phương, thu nhập của người dân. Các đơn vị hoạt động trực tiếp không được tự động quy định các khoản thu phí. - Nhà nước quy định "giá phí", tức là mức thu phí cho tất cả các khoản thu phí. Tùy theo từng loại hoạt động dịch vụ mà giá phí có thể được quy định cụ thể trong khung giá để đơn vị vận dụng. 1.2.3.3. Nguồn khác Các đơn vị sự nghiệp còn có thể huy động được nguồn lực để nâng cao số lượng, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao...thông qua liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước như liên kết đào tạo, dạy nghề, liên kết tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao.... Hơn nữa, việc hợp tác với nước ngoài để nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động sự nghiệp đang là xu thế tất yếu tạo thêm nguồn lực tài chính để đầu tư cho phát triển, nhất là trong giáo dục, y tế... Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp còn có nguồn tài chính huy động được từ sự đóng góp tự nguyện của người dân, các khoản viện trợ trong và ngoài nước, quà biếu, tặng... Các đơn vị sự nghiệp có thu được vay tín dụng ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn trong ngành y tế, có thể đi vay để đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để mở rộng các loại hình khám chữa bệnh tăng thêm nguồn thu cho đơn vị... 1.2.3.4. Mối quan hệ giữa nguồn NSNN, nguồn thu sự nghiệp và nguồn khác trong đầu tư cho các hoạt động sự nghiệp Ngân sách nhà nước, nguồn thu sự nghiệp và nguồn khác có cùng một mục đích sử dụng là đầu tư cho các hoạt động sự nghiệp, ba nguồn này có mối quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Trong ba nguồn này, nguồn từ ngân sách nhà nước giữ vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng cao, thực hiện được sự._. phân công trách nhiệm trong chi tiêu cho các hoạt động sự nghiệp, định hướng cho các hoạt động sự nghiệp phát triển phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo quyền lợi bình đẳng cho mọi người dân. Nguồn thu sự nghiệp và nguồn thu khác cũng đóng vai trò để hỗ trợ, giảm nhẹ gánh nặng chi cho NSNN và đồng thời cũng thể hiện được tính năng động, hiệu quả của mỗi đơn vị sự nghiệp trong việc huy động được tổng các nguồn lực của xã hội để đầu tư cho hoạt động cung cấp dịch vụ công. Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp còn được tạo điều kiện thuận lợi nhằm khai thác đa dạng các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế cho phát triển các sự nghiệp khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao thông quá hình thức xã hội hoá. Xã hội hóa là quá trình huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người, dưới hình thức: huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng các dịch cụ công cộng của Nhà nước; động viên, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động và tích cực của các tổ chức và công dân vào quá trình cung ứng dịch vụ công công, đa dạng hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy công sức và trí tuệ của dân. 1.2.4. Nhiệm vụ chi của đơn vị sự nghiệp có thu - Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao từ nguồn NSNN và chi từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị cho các nội dung: Chi cho con người ; Chi về quản lý hành chính ; Chi nghiệp vụ ; Chi mua sắm, sửa chữa thường xuyên ; Chi tổ chức thu phí, lệ phí ; Chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ ; Chi thường xuyên khác... - Chi hoạt động không thường xuyên chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành ; chương trình, mục tiêu quốc gia ; chi thực hiện đơn đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát...) của Nhà nước ; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định ; chi thực hiện các nhiện vụ đột xuất được cấp có thẩn quyền giao ; chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ Nhà nước quy định ; chi đào tạo lại cán bộ công nhân viên chức Nhà nước ; chi đầu tư phát triển, gồm : chi đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy định ; các khoản chi không thường xuyên khác. Các đơn vị sự nghiệp có thu được tự chủ tài chính, được chủ động bố trí kinh phí để thực hiện nhiệm vụ, được ổn định kinh phí hoạt động thường xuyên do NSNN cấp đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí theo định kỳ 3 năm và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do cấp có thẩm quyền phê duyệt. 1.3. Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu 1.3.1. Nguyên tắc quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu - Phải đảm bảo kinh phí thường xuyên theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn của Nhà nước để các đơn vị hoạt động liên tục đồng thời phải triệt để tiết kiệm chi ; - Quản lý kinh phí thuộc cơ quan, đơn vị nào là trách nhiệm của đơn vị mà trước hết là trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị ; - Tôn trọng dự toán năm được duyệt : Trong quá trình chấp hành dự toán các đơn vị phải tuân thủ dự toán năm đã được duyệt. Trong trường hợp cần điều chỉnh dự toán chi thì phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhưng không được làm thay đổi tổng mức dự toán do cấp thẩm quyền phê duyệt. Trong trường hợp có biến động khách quan làm thay đổi dự toán sẽ được NSNN bổ sung theo thủ tục quy định của Luật NSNN để đảm bảo cho có đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 1.3.2. Phương pháp quản lý tài chính * Phương pháp thu đủ, chi đủ : áp dụng cho những đơn vị hành chính sự nghiệp có nguồn thu không lớn theo đó mọi nhu cầu chi tiêu của đơn vị được NSNN cấp phát theo dự toán đã được duyệt. Đồng thời mọi khoản thu phát sinh trong quá trình hoạt động đơn vị phải nộp vào NSNN theo quy định. Phương pháp này hiện nay không phù hợp với cơ chế quản lý tài chính mới, hạn chế quyền tự chủ, sáng tạo của đơn vị và tạo tâm lý ỷ lại trông chờ vào NSNN. * Phương pháp thu, chi chênh lệch : áp dụng cho những đơn vị hành chính sự nghiệp có nguồn thu khá lớn, phát sinh thường xuyên và ổn định, theo đó đơn vị được quyền giữ lại các khoản thu của mình để chi tiêu theo dự toán và chế độ quản lý tài chính Nhà nước quy định, NSNN chỉ đảm bảo phần chênh lệch thiếu, các đơn vị phải làm nghĩa vụ đối với NSNN (nếu có). Phương pháp này phù hợp với yêu cầu quản lý tài chính ở nước ta hiện nay, phát huy được tính tích cực, chủ động của các đơn vị trong quá trình khai thác nguồn thu, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của đơn vị. * Phương pháp quản lý theo định mức : để tăng cường quản lý chi tiêu ngân sách có hiệu quả cần thiết phải quản lý theo định mức cho từng nhóm chi, mục chi hoặc cho mỗi đối tượng cụ thể, theo đó có các định mức tổng hợp và định mức chi tiết cho từng lĩnh vực chi tiêu hành chính sự nghiệp. * Phương pháp khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan hành chính Nhà nước và cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu : là cơ chế quản lý tài chính tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Sử dụng tiết kiệm kinh phí hành chính, nghiệp vụ, tăng cường hiệu quả hoạt động dịch vụ công, khuyến khích các đơn vị sắp xếp biên chế theo hướng tinh giản bộ máy, phát triển hoạt động có nguồn thu để nâng cao chất lượng công việc, tăng thu nhập chó đơn vị và cá nhân. 1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý các nguồn tài chính 1.3.3.1. Chính sách của nhà nước đối với khu vực sự nghiệp Trước thời kỳ đổi mới, nhà nước ta có chủ trương bao cấp cho toàn bộ các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá thông tin Trong thời gian gần đây chủ trương của nhà nước thay đổi theo hướng tăng cường xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp nhằm đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công. Một trong những yếu tố chủ chốt trong cuộc cải cách hành chính hiện tại của Việt Nam là tăng tính tự chủ cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách để họ có thể tự xây dựng định mức thu, chi nhưng phải phù hợp với quy định của Nhà nước. Mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính là nhằm trao quyền tự chủ thật sự cho đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sử dụng biên chế lao động, tăng cường huy động và quản lý thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài chính nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng và công tác quản lý hành chính, hoạt động sự nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp đảm bảo trang trải kinh phí hoạt động, nâng cao thu nhập và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Đối với các đơn vị sự nghiệp hoạt động cung cấp dịch vụ công, việc thực hiện cơ chế quản lý mới này có ý nghĩa về nhiều mặt: hoạt động của các đơn vị sự nghiệp đã được quy định rõ ràng, phân biệt rõ ràng hoạt động sự nghiệp với hoạt động của các cơ quan hành chính; Tạo thêm nguồn tài chính phục vụ hoạt động của các đơn vị, thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp; Thúc đẩy thực hành tiết kiệm, công khai tài chính, tạo điều kiện tăng thu nhập hợp pháp cho cán bộ, viên chức, thực hiện phân phối công bằng trong nội bộ đơn vị... Từ đó ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị cung cấp dịch vụ trong các ngành giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá cơ chế trao quyền mới cho phép mở rộng phạm vi dịch vụ được cung cấp, và thu phí đối với người sử dụng đối với các dịch vụ nằm ngoài nghĩa vụ cung cấp cơ bản của đơn vị. Những đơn vị này cũng có quyền tự quyết đáng kể trong việc tăng lương cho nhân viên và áp dụng những mức trả lương phân biệt rộng hơn đối với nhân viên. Các đơn vị chi có được sự linh hoạt đáng kể so với cơ chế cứng nhắc trước đây. Trong các bệnh viện, một số khoản thu có tính chất không thường xuyên đã được chuyển thành các loại phí không chính thức. Cơ chế mới tạo động cơ tiết kiệm cung cấp dịch vụ và tăng lương cho nhân viên. Tôn trọng quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp: tự chủ về tài chính, lao động... 1.3.3.2. Phương thức quản lý chi NSNN: - Quản lý chi NSNN theo phương thức dựa vào khả năng nguồn lực đầu vào Việt Nam quản lý NSNN theo phương pháp truyền thống, Ngân sách được lập và phân phối sử dụng dựa vào khả năng nguồn lực đầu vào (có hạn); Quản lý chi tiêu sử dụng chủ yếu dựa theo hệ thống tiêu chuẩn, chế độ, định mức lập sẵn; Không và không thể chú trọng đến kết quả thực sự đạt được ở đầu ra của chu trình ngân sách. Cách thức quản lý dựa chủ yếu vào các định mức, tiêu chuẩn để thắt chặt quản lý, chưa chú trọng đến kết quả kinh tế - xã hội của các khoản chi ngân sách; Nếu nhu cầu chi đề nghị nhiều nhưng nguồn vốn có hạn thì cắt, hoặc dàn trải cho các hạng mục. Ngoài ra, những nhân tố về trình độ dân trí, mức sống và sức mua của người dân, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho việc cung cấp hàng hoá công cộng, độ nhạy bén của các đơn vị cung cấp dịch vụ công cũng tác động đến hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp. Chẳng hạn khi mức sống và sức mua của người được cải thiện hơn thì họ sẽ có điều kiện thụ hưởng các dịch vụ công nhiều hơn. Ngoài các nhu cầu cơ bản về học tập, chăm sóc sức khoẻ người dân còn muốn được hưởng các dịch vụ về vui chơi, giải trí hay muốn trình độ, kiến thức của mình ngày càng cao hơn, được chăm sóc sức khoẻ toàn diện hơn. Qua đó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các dịch vụ công ngày càng đa dạng, tạo được nhiều nguồn tài chính cho đầu tư cho các hoạt động sự nghiệp. - Quản lý chi NSNN theo phương thức dựa vào khả năng nguồn lực đầu ra Cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra là việc nhà nước bỏ ra một khoản tiền nhất định để mua các dịch vụ công do một Bộ, ngành hoặc một đơn vị nào đó cung ứng cho xã hội. Căn cứ vào dự toán năm được duyệt, Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụnh kinh phí được cấp, thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu. Định kỳ cơ quan tài chính phối hợp với cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp phát hiện đơn vị không đảm bảo thực hiện công việc theo đúng cam kết, thì tạm ngừng cấp phát kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu hồi phần kinh phí đã cấp. 1.4. Kinh nghiệm Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu của Trung Quốc Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã đẩy mạnh cải cách hành chính với mục tiêu nâng cao hiệu quả Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Việc xem xét kinh nghiệm của Trung Quốc có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về định hướng dài hạn trong Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam hiện nay. ở Trung Quốc, phần lớn các đơn vị sự nghiệp công thực hiện cung cấp các dịch vụ giáo dục cơ bản, y tế, khoa học và văn hóa. Có hơn 70% các nhà nghiên cứu khoa học và công nghệ và hơn 95% giáo viên và bác sỹ làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước đảm bảo. Trung Quốc chi khoảng hơn 30% ngân sách cho các đơn vị này, phản ánh tầm quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho công chúng. Qua hơn 2 thập kỷ cải cách, cơ cấu kinh tế của Trung Quốc đã thay đổi đáng kể. Một số đơn vị sự nghiệp công từ thời kỳ của nền kinh tế kế hoạch đã chuyển thành doanh nghiệp. Thực tế, có rất nhiều đơn vị hoạt động giống như một doanh nghiệp dưới những tên không chính thức. Một số khác lại sát nhập với nhau không thông qua Chính phủ và thậm chí là không thể gọi là một đơn vị sự nghiệp công. - Về quản lý chi tiêu cho giáo dục đại học ở Trung Quốc Trung Quốc cũng đã và đang phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ xã hội. Chính phủ Trung Quốc đã thành lập Quỹ đặc biệt thuộc Bộ Giáo dục để hiện đại hoá các cơ sở công nghệ cao và các loại quỹ quốc gia khác để trợ giúp các cơ sở đại học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, nghiên cứu cơ bản, công nghệ chủ chốt, sản xuất thử, tạo ra sản phẩm mới... Nhờ có các chính sách đủ mạnh mà trong thời gian qua, Trung Quốc đã đầu tư xây dựng được 20 công viên khoa học và 100 phòng thí nghiệm trọng điểm với 140.000 chuyên gia. Một số trường đại học trọng điểm đã có nguồn tài chính tự làm ra chiếm 50% thu nhập chung của trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ rõ, muốn thực hiện tự chủ tài chính để gắn kết được công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở các trường đại học, cần có chiến lược phát triển phù hợp và một hệ thống chính sách đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và vững chắc hệ thống giáo dục đại học. Ở Trung Quốc tỷ lệ tuyển chọn vào đại học là 50% số học sinh tốt nghiệp phổ thông, hệ thống giáo dục Trung quốc đang phát triển rất nhanh so với các nước Châu Âu. Mặt khác, Trung Quốc cũng đang có hệ thống giáo dục tư thục phát triển nhanh. Trong năm 2000, có 54.000 trường tư thục đã được thành lập từ mẫu giáo đến đại học. Hiện nay, chỉ 1/10 số học sinh phổ thông tốt nghiệp được nhận vào đại học và quy luật phát triển giáo dục khá khắt khe. Trung Quốc đã sử dụng giải pháp tài chính để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục là giảm dần tỷ trọng chi của ngân sách nhà nước cho giáo dục trong tổng chi NSNN, nguồn vốn của xã hội, gia đình dành cho giáo dục chiếm tỷ trọng ngày một tăng. - Cải cách cung cấp tài chính cho lĩnh vực y tế ở khu vực thành thị : Theo số liệu năm 1997, khu vực thành thị Trung Quốc có khoảng 152 nghìn bệnh viện và cơ sở y tế, 3 triệu nhân viên y tế và 2,11 triệu giường bệnh. Hệ thống phân phối dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người dân thành thị chủ yếu dựa trên hệ thống y tế công. Hệ thống bệnh viện công có khoảng 7 triệu nhân viên y tế. Các bệnh viện công được nhận kinh phí từ 3 nguồn chính : Do ngân sách nhà nước cấp, thu phí dịch vụ và lợi nhuận từ bán thuốc. Kinh phí NSNN cấp giảm dần từ 24,5% năm 1995 xuống còn 10% năm 1997. Nguồn ngân sách nhà nước để trả chi phí cho nhân lực, vật tư ngày càng giảm. Các bệnh viện phải lấy kinh phí từ hai nguồn còn lại để cân đối tài chính. Nguồn thu từ dịch vụ phí bao gồm 2 khoản : phí dịch vụ điều trị và phí xét nghiệm. Nhà nước đặt ra mức phí dịch vụ điều trị thấp hơn chi phí thực tế để đảm bảo cho cư dân thành thị có thể tiêu dùng được dịch vụ này. Phí của các xét nghiệm, chuẩn đoán và các công nghệ mới lại tương đối cao nhằm tạo điều kiện tài chính cho các bệnh viện mua sắm các trang thiết bị kỹ thuật cao để cung cấp các xét nghiệm chuẩn đoán chính xác. Nguồn thu quan trọng nữa cho các bệnh viện là từ bán thuốc. Theo thống kê của Bộ Y tế Trung Quốc, năm 1996 đối với các bệnh viện tuyến trung ương chi phí cho thuốc chiếm 66,3% chi phí của bệnh nhân ngoại trú và 52,3% đối với bệnh nhân nội trú. Nguồn thu từ bán thuốc là tương đối lớn do chi phí thuốc men cho bệnh nhân cao. 1.5. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Mục tiêu cơ bản trong cải cách cung cấp các dịch vụ công: là giảm dần sự bao cấp của Nhà nước thông qua xã hội hoá, huy động ngày càng nhiều sự tham gia của các thành phần trong xã hội. Cách làm như vậy đã tạo ra sự cạnh tranh giữa những người cung cấp dịch vụ, người sử dụng dịch vụ ngày càng được tự do lựa chọn nơi cung cấp dịch vụ phù hợp với mình. Như vậy, các cơ sở cung cấp dịch vụ công được đầu tư từ nhiều nguồn, tạo điều kiện cho người sử dụng dịch vụ có khả năng tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng cao. Khuyến khích thực hiện chính sách đa dạng hoá các nguồn tài chính và các hình thức thu hút nguồn tài chính cho y tế, giáo dục, văn hoá thể thao Trong đó, Nhà nước vẫn đóng vai trò to lớn trong việc cung cấp tài chính và vai trò điều tiết vẫn được chú trọng. Các đối tượng chính sách xã hội vẫn được đảm bảo thụ hưởng những ưu đãi nhất định. Cần từng bước nâng cao tính tự chủ về tài chính cho các cơ sở cung ứng dịch vụ công, tạo điều kiện cho các cơ sở có được nguồn thu thông qua cung cấp dịch vụ đa dạng, chất lượng cao. Từ đó hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào Ngân sách nhà nước như trước kia, các đơn vị có tính độc lập tự chủ về tài chính, thực hiện hạch toán độc lập. Chuyển chi tiêu cho giáo dục cũng như cho các hoạt động sự nghiệp khác từ NSNN theo hướng xã hội hoá là chủ yếu, để có thể đảm bảo cung cấp mọi dịch vụ công cho xã hội thì cần thiết phải có sự tham gia của các thành phần kinh kế ngoài nhà nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự phát triển của hệ thống các dịch vụ công ngoài nhà nước, như thành lập các trường học tư nhân, các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân dưới nhiều hình thức cung cấp như: cung cấp tại nhà hay đào tạo ngắn hạn, không tập trung để có thể đa dạng hoá nguồn cung cấp, đa dạng hoá hàng hoá được cung cấp, giảm nhẹ gánh nặng cho Nhà nước đồng thời có thể thoả mãn các nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Trung Quốc đã tạo ra một nhu cầu học tập suốt đời cho mọi người dân, nhưng cũng có sự phân hoá trình độ trong dân; sử dụng phương pháp quản lý đặc biệt của nhà nước có sự tham gia của cơ chế thị trường. Họ tìm ra nhân tố cạnh tranh tương lai chính là nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, tay nghề cao, giá thành rẻ; Để đáp ứng sự phát triển giáo dục trong xã hội, Trung Quốc sử dụng biện pháp huy động tài chính của toàn dân, ai muốn hưởng dịch vụ cao phải trả nhiều tiền để phát triển giáo dục. Để có thể đa dạng hoá các nguồn tài chính cho phát triển giáo dục, cần có sự kết hợp của 4 yếu tố : Nhà nước : Nhà nước thực hiện điều tiết phân bổ tài chính giáo dục thông qua tăng hoặc giảm ngân sách giáo dục, ban hành các chính sách quản lý, kiểm tra, giám sát cũng như là tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của ngành giáo dục Thị trường : áp lực cạnh tranh thị trường thúc đẩy các cơ sở đào tạo phải thích nghi và đáp ứng các nhu cầu và đòi hỏi của khách hàng bằng việc nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng giáo dục và uy tín nhà trường để thu hút nhiều học sinh. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục: ở nhiều nước, nguồn đóng góp từ cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội cho phát triển giáo dục là rất lớn. Theo các nhà phân tích, sự tham gia ngày càng nhiều của gia đình có thể tạo ra sự cạnh tranh và chất lượng giáo dục được nâng cao nhanh chóng. Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước Chỉ tiêu Việt Nam Mỹ Phỏp Nhật Hàn Quốc Chi tiêu cho giáo dục/GDP (%) 8.3 7.2 6.1 4.7 7.1 + Từ ngân sách 5 5,3 5.7 3.5 4.2 + Từ dân và các nguồn khỏc 3,3 1,9 0.4 1.2 2.9 Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục (%) + Từ ngõn sách 60 74 93 74 59 + Từ dân và các nguồn khác 40 26 7 26 41 Nguồn: Số liệu là cho năm 2005 do TS. Vũ Quang Việt tính. Các cơ sở đào tạo: trong cơ chế thị trường, các cơ sở đào tạo phải có quyền tự chủ, linh hoạt, tích cực đổi mới cấu trúc chương trình, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, có khả năng tiếp thị cao và sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. Kết luận chương 1: Việc nghiên cứu cơ sở lý luận sẽ là nền tảng của việc nghiên cứu so sánh lý thuyết với thực tiễn, để từ đó có thể phát triển lý luận ứng dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả, phù hợp với nền kinh tế thị trường Việt Nam đang vận hành, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chương 2 : Thực trạng quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu Tại Tỉnh Bình Thuận 2.1.Thực trạng Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu 2.1.1.Giai đoạn trước khi đổi mới (Thời kỳ trước năm 2002) Trong suốt một thời gian dài, các đơn vị sự nghiệp nhà nước là các đơn vị công lập chịu một cơ chế quản lý như các đơn vị hành chính nhà nước thuần tuý và được gọi chung là các cơ quan hành chính sự nghiệp. Cơ chế này đã làm mất tính năng động, tự chủ và kìm hãm sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp. Về mặt tài chính, các đơn vị sự nghiệp không có động lực phát triển nguồn thu mà chỉ dựa chủ yếu vào nguồn ngân sách nhà nước cấp. Cơ chế này một mặt không tạo điều kiện tăng về số lượng dịch vụ và chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội, mặt khác tạo ra tâm lý thụ động, ỷ lại của các đơn vị sự nghiệp trong việc điều hành thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện đường lối đổi mới, Chính phủ đã quyết tâm đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp mà bắt đầu từ các đơn vị sự nghiệp có nguồn thu. Trong đó sự nghiệp y tế, giáo dục và văn hoá là các lĩnh vực tiên phong và có nhiều khả năng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động, phát triển nguồn thu. Nhà nước có thể thực hiện xã hội hoá phần lớn các lĩnh vực sự nghiệp này và chỉ cần giữ một bộ phận nhỏ không thể tạo nguồn thu hoặc không được phép thu như đối với giáo dục tiểu học, dịch vụ y tế cho trẻ em, người nghèo, đối tượng chính sách, văn hoá dân gian, dịch vụ ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có thu nhập thấp,... Triển khai thực hiện quan điểm đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, từ năm 1997 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá. Tuy nhiên, hai năm sau ngày ban hành Nghị quyết này thì xã hội hoá các đơn vị sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá vẫn chỉ dừng lại ở phương hướng và tư tưởng mà chưa có sự chuyển biến trong thực tế. Trước thực trạng này, ngày 19/8/1999, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao. Nghị định này được coi là cột mốc đánh dấu một giai đoạn chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp có thu và nhà nước không cần thiết phải quản lý sang hình thức bán công, dân lập và tư thục. Chính sách xã hội hoá của nhà nước theo Nghị định 73/1999/NĐ-CP mặc dù được hưởng nhiều ưu đãi như cơ sở vật chất, hỗ trợ trả lương đối với biên chế khung, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp... Tuy nhiên, mới chỉ thực hiện chủ yếu trong sự nghiệp giáo dục, các lĩnh vực còn lại vẫn chỉ đang xây dựng phương hướng, kế hoạch. Tâm lý chung là ngại thay đổi, trông chờ sự trợ giúp, bao bọc từ phía nhà nước vẫn là cản trở lớn trong việc đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung và sự nghiệp xã hội hoá nói riêng. 2.1.2. Giai đoạn sau khi đổi mới (từ tháng 10/2002) 2.1.2.1.Sự cần thiết phải đổi mới - Do yêu cầu chung của công cuộc cải cách hành chính, lành mạnh nền tài chính quốc gia, gắn liền với chính sách xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa; - Phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; - Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu của Nhà nước trong các lĩnh vực : giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, nghiên cứu khoa học, sự nghiệp nông lâm thủy lợi, giảm cơ chế ‘xin-cho’, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị; - Sử dụng tiết kiệm kinh phí hành chính, nghiệp vụ, tăng cường hiệu quả hoạt động dịch vụ công và khuyến khích đơn vị tổ chức, sắp xếp biên chế theo hướng tinh giản bộ máy quản lý Nhà nước phát triển hoạt động sự nghiệp có nguồn thu để nâng cao chất lượng công việc, chất lượng dịch vụ, tăng thu nhập cho cá nhân và đơn vị. 2.1.2.2. Mục đích - Tạo quyền chủ động, tự quyết, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp có thu; - Thúc đẩy phát triển hoạt động sự nghiệp có thu theo hướng đa dạng hóa các loại hình; - Sắp xếp bộ máy tổ chức và lao động hợp lý; tăng thu nhập, tăng phúc lợi, khen thưởng cho người lao động. Bên cạnh trở ngại về tâm lý thì mấu chốt của sự trì trệ trong cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp có thu là: xã hội hoá mới dừng lại ở việc chuyển đổi hình thức sở hữu của một đơn vị hoặc một bộ phận đơn vị sự nghiệp trong khi gốc của vấn đề lại nằm ở cơ chế tài chính, mà cụ thể là cơ chế huy động và sử dụng nguồn thu, cơ chế quản lý biên chế, tiền lương thu nhập,... thì lại không được nghiên cứu để có cơ chế đổi mới đồng bộ. Do đó, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu được coi là một nền tảng thể chế cơ bản quyết định một cơ chế quản lý mới áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu. 2.1.2.3. Các văn bản pháp luật hướng dẫn Để triển khai thực hiện cơ chế tự trang trải đối với đơn vị sự nghiệp có thu, các Bộ đã ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với từng lĩnh vực cụ thể. - Đối với lĩnh vực giáo dục là Thông tư liên tịch số 21/2003/TTLT-BTC- BGD&ĐT-BNV ngày 24/3/2003; - Đối với lĩnh vực văn hoá thông tin là Thông tư liên tịch số 20/2003/TTLT-BTC-BVHTT-BNV ngày 24/3/2003; - Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ là Thông tư liên tịch số 22/2003/TTLT/BTC-BKH&CN-BNV ngày 24/3/2003; Thông tư số 50/2003/TT-BTC ngày 22/5/2003 hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định tại Nghị định 10/2002/NĐ-CP ; Thông tư số 13/2004/TTLT-BTC-BYT-BNV ngày 27/2/2004 hướng dẫn chế độ Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực y tế công lập. Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp, ngày 1/9/2003 Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 18/2003/CT-TTg về việc đẩy mạnh công tác thực hiện quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp. Đến nay cơ chế tự chủ thu chi tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu đã được nghiên cứu và hoàn thiện nhằm tạo ra một sức sống mới năng động, sáng tạo đối với các đơn vị sự nghiệp nói chung và sự nghiệp có thu nói riêng, thông qua Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006. Thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính thực chất là trao quyền tự chủ trong việc huy động, tạo nguồn thu và sử dụng nguồn thu có hiệu quả đối với cả 3 loại nguồn thu chủ yếu: nguồn thu từ ngân sách nhà nước, nguồn thu sự nghiệp và nguồn thu khác, từ đó đẩy mạnh sự phát triển của các hoạt động sự nghiệp, phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của Nhà nước, đơn vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ, để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị và tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm, có hiệu quả. Đối với các khoản chi quản lý hành chính (công tác phí, hội nghị phí, điện thoại, công vụ phí ), chi hoạt động nghiệp vụ thường xuyên, tùy theo từng nội dung công việc, nếu xét thấy cần thiết, có hiệu quả, Thủ trưởng đơn vị được quyết định mức chi cao hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nước quy định trong phạm vi nguồn thu được sử dụng. Ngoài ra, đơn vị được quyết định đầu tư, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc từ nguồn vốn vay, Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo đề án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các đơn vị sự nghiệp thực hiện theo 10/2002/NĐ-CP được linh hoạt quy định mức thu căn cứ nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối tượng trong trường hợp nhà nước quy định khung. Đồng thời, đơn vị thực hiện chế độ miễn, giảm cho các đối tượng chính sách xã hội theo quy định của Nhà nước. Riêng đối với các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được cơ quan nhà nước đặt hàng thì mức thu theo đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc cho phép. Tuy nhiên, đối với những hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh, liên kết; đơn vị được toàn quyền quyết định các khoản thu, mức thu cho phù hợp, bảo đảm bù đắp chi phí, có tích luỹ. Ngày 25/4/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trác nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, thay thế Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002. Như vậy, quá trình chuyển đổi nhận thức, phương thức Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu, từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự chủ tài chính và xã hội hoá đã huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các nguồn tài chính đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp. 2.1.2.4. Đánh giá thực trạng quản lý các nguồn tài chính } Nguồn NSNN a) Chi đầu tư phát triển Bảng 2.1: Chi đầu tư từ NSNN cho một số lĩnh vực 1999-2002 Đơn vị : tỷ đồng Năm 1999 2000 2001 2002 Tổng chi NSNN 84.817 103.151 119.430 135.490 Tổng chi đầu tư phát triển 29.697 29.624 40.236 45.218 Tỷ trọng chi đầu tư/Tổng chi NSNN (%) 35,0 28,7 33,5 33,3 1. Chi NSNN cho giáo dục đào tạo 13.232 16.344 19.505 22.596 Tỷ trọng chi GDĐT/chi NSNN 15,6 15,8 16,3 16,8 Chi ĐTPT cho GDĐT 3.429 4.470 5.357 6.048 Tỷ trọng chi ĐT GDĐT/chi GDĐT (%) 25,9 27,3 27,4 26,7 2. Chi NSNN cho y tế 4.919 4.647 4.976 5.862 Tỷ trọng chi y tế/tổng chi NSNN (%) 5,8 4,51 4,17 4,33 Chi ĐT cho y tế 1.099 1.031 1.238 1.402 Tỷ trọng chi ĐT y tế/chi y tế (%) 22,3 22,1 24 23,9 3. Chi ĐTPT cho khoa học công nghệ 350 482 1.179 1.327 Tỷ trọng chi ĐT KHCN/chi KHCN (%) 31,4 33,8 45,7 45,0 4. Chi ĐTPT cho văn hoá thể thao 1.587 1.963 2.776 2.724 Tỷ trọng chi ĐT VHTT/chi VHTT (%) 53,1 54,8 59 53 Nguồn : Vụ NSNN, Bộ Tài chính Chi đầu tư phát triển là các khoản chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định, các trang thiết bị chuyên dùng... Theo cơ chế quản lý và điều hành ngân sách hiện nay, nguồn chi đầu tư phát triển được lập dự toán và quản lý theo dự án đầu tư, có quy trình cấp phát và quản lý riêng khác với chi thường xuyên từ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn 1999-2002 là 28,7% đến 35%. Phân tích về cơ cấu chi NSNN cho các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp từ 1999-2002 cho thấy : + Tỷ trọng chi NSNN cho lĩnh vực giáo dục đào tạo nằm trong khoảng từ 15,8% đến 18% tổng chi ngân sách nhà nước ; tỷ trọng chi NSNN cho lĩnh vực y tế là từ 4,17% đến 5,8%, . + Tỷ trọng chi đầu tư phát triển so với tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục là từ 25,9% đến 27,4% ; y tế là từ 22,3% đến 24,8% Như vậy, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN cho các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực giáo dục và y tế thường thấp ._.ng hợp lý có hiệu quả các nguồn tài chính từ NSNN, từ các nguồn thu sự nghiệp, thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, xây dựng cơ chế và biện pháp hợp lý để khai thác, động viên các nguồn lực của toàn xã hội cho phát triển các dịch vụ công, coi đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là sự nghiệp chung của toàn dân, toàn xã hội. 3.2. Mục tiêu và quan điểm phát triển các hoạt động sự nghiệp - Đảm bảo tính công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công. Quan điểm này xuất phát từ bản chất của chế độ nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mọi người dân đều được công bằng trong trách nhiệm và hưởng thụ. NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp, cũng như là phải đảm bảo mọi người dân đều có thể được hưởng những dịch vụ cơ bản nhất. - Sử dụng hiệu quả các nguồn lực huy động được thể hiện ở việc nâng cao chất lượng cũng như quy mô cung cấp các dịch vụ công đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá thể thao. - Đa dạng hoá nguồn lực trong xã hội đầu tư phát triển các hoạt động sự nghiệp: đầu tư của Nhà nước, đóng góp của cộng đồng, tranh thủ viện trợ quốc tế trong đó vẫn phát huy vai trò chủ đạo của nguồn tài chính từ NSNN. Từng bước phấn đấu tăng mức chi thường xuyên cho y tế trong tổng chi ngân sách. Thực hiện xã hội hoá, đa dạng hoá các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hoá... - Coi đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển. - Chi ngân sách nhà nước phải góp phần thực hiện mục tiêu công bằng, đảm bảo cho mọi người dân đều được hưởng thụ các dịch vụ công cộng, đặc biệt là người nghèo. - Mở rộng việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức cung cấp các dịch vụ của các đơn vị nhằm phát huy được các tiềm năng về trang bị cơ sở vật chất, năng lực cán bộ, tăng cường các dịch vụ cung cấp cho xã hội, tăng thu, giảm dần những gánh nặng cho NSNN... 3.3. Giải pháp Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp có thu tại Bình Thuận Việc thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP trong 3 năm qua, đã khẳng định việc giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu là phù hợp với tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước. Nên việc triển khai thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trong thời gian tới là tất yếu khách quan, tuy nhiên cần hết sức lưu ý vì việc tăng thu và tiết kiệm chi phí vì liên quan trực tiếp đến người dân hưởng những dịch vụ công. Tính đến nay, tổng số đơn vị sự nghiệp cấp Tỉnh là 115 đơn vị. Trong đó, đơn vị không có nguồn thu hoặc nguồn thu không đáng kể là 44 đơn vị, còn lại 71 đơn vị là các đơn vị sự nghiệp có thu. Năm 2006, UBND Tỉnh tiếp tục giao quyền tự chủ tài chính cho 6 đơn vị sự nghiệp có thu, nâng tổng số đơn vị thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP lên thành 62 đơn vị. Để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu trong thời gian tới cần có các giải pháp sau : 3.3.1. Đối với nguồn Ngân sách nhà nước Xây dựng cơ chế sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn kinh phí NSNN Trong các nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động sự nghiệp thì nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước vẫn là lớn và quan trọng nhất để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Nguồn NSNN đối với các đơn vị sự nghiệp ngày càng tăng cao. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng cơ chế sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn kinh phí ngân sách nhà nước đầu tư cho các hoạt động sự nghiệp, thực hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả trong chi tiêu của ngân sách nhà nước. Nhà nước cần tăng đầu tư cho các mục tiêu ưu tiên như giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ. Tiếp tục bảo đảm và tăng kinh phí cho giáo dục, y tế nhằm thực hiện các mục tiêu: phổ cập giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, nâng cao hiệu quả cải cách giáo dục, mở rộng quy mô giáo dục đào tạo, nâng cấp trường, đào tạo giáo viên, đổi mới thống nhất chương trình và sách giáo khoa, đổi mới thi tuyển sinh, đẩy mạnh đào tạo nghề phục vụ nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chương trình quốc gia về: vệ sinh, phòng bệnh, khám chữa bệnh, tiếp tục hoàn thiện kiên cố hóa trường học, trạm xá... Những giải pháp đổi mới cơ chế quản lý đối với nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cho các hoạt động sự nghiệp bao gồm: Thứ nhất, xây dựng cơ cấu giữa chi đầu tư và chi thường xuyên hợp lý, trong phân phối ngân sách cho các hoạt động sự nghiệp phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Cần có sự kết nối khi xây dựng và điều hành ngân sách giữa dự toán chi đầu tư phát triển và dự toán chi thường xuyên. Khi bố trí cơ cấu chi đầu tư phát triển cần phải tính tới tác động cả các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm tăng chi hoạt động thường xuyên đối với hoạt động vận hành, duy tu, bảo dưỡng trong quá trình sử dụng lâu dài của công trình. Đối với từng nội dung chi: - Đối với chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN: Thống nhất chủ trương, có chương trình, biện pháp yêu cầu các đơn vị được hưởng kinh phí đầu tư từ NSNN phải thực hiện đầu tư theo quy hoạch thống nhất từ trước. Sửa đổi, bổ sung cơ chế quản lý đầu tư theo hướng NSNN chỉ tập trung ưu tiên đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở xã hội về y tế, giáo dục như các trường học, bệnh viện, trung tâm y tế lớn, đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sự nghiệp. - Đối với chi thường xuyên: Xác định đúng đắn các trật tự ưu tiên trong chi thường xuyên. Cắt giảm các khoản chi không cần thiết, tăng cường các khoản chi có ý nghĩa lâu dài, ổn định xã hội. Trong đó chú trọng đến nhóm các nhiệm vụ chi NSNN cần được ưu tiên vốn, kinh phí (nông nghiệp, giáo dục, khoa học). Thứ hai, hoàn thiện chế độ, định mức cấp phát, chi tiêu sử dụng ngân sách. Định mức phân bổ ngân sách cần đảm bảo tính công bằng, hợp lý phù hợp với tính chất hoạt động, khả năng thu hút nguồn thu của các đơn vị đặc biệt là trong lĩnh vực y tế, giáo dục nhằm đảm bảo cho những người dân đều được hưởng các dịch vụ công tương tự nhau, và mỗi địa phương đều có mức kinh phí ngân sách tối thiểu, cần thiết để đáp ứng nhưng nhu cầu thiết yếu cho nhân dân. Định mức phân bổ ngân sách cũng nên ưu tiên ngân sách cho các tỉnh nghèo, có điều kiện thiên nhiên khó khăn, tỉnh miền núi, tính tới các điều kiện đặc điểm về địa lý, dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội Định mức phân bổ ngân sách phải phù hợp với khả năng của NSNN, và việc sử dụng các định mức này không được vượt quá khả năng của NSNN đã cân đối cho từng lĩnh vực. Thứ ba, hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý tài sản công, đảm bảo sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia. Cần có pháp lệnh về quản lý tài sản công. Tách bạch cơ chế quản lý tài sản công khu vực hành chính và sự nghiệp. Đối với khu vực hành chính, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công; thành lập cơ quan quản lý thống nhất việc mua sắm, đấu thầu tài sản công chung cho toàn bộ khu vực hành chính nhà nước. Trong khu vực sự nghiệp, giao quyền tự chủ gắn với trách nhiệm của các đơn vị trong việc mua sắm, sử dụng và thanh lý tài sản công. Xác lập thể chế quản lý và khai thác hiệu quả tài sản quốc gia, đặc biệt là đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, các nguồn thu từ cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê. Thứ tư, vận dụng mô hình quản lý NSNN hiện đại dựa theo kết quả đầu ra. Tức là căn cứ vào kết quả kinh tế - xã hội của việc chi tiêu sử dụng ngân sách, chất lượng và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của mỗi đơn vị sự nghiệp để lập, phân bổ và quản lý NSNN theo kết quả đầu ra. Để kiểm soát được việc sử dụng các nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp một cách phù hợp, có hiệu quả hơn thì cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát chú ý đến chất lượng đầu ra thay cho cơ chế kiểm soát quá chú trọng đến yếu tố đầu vào như hiện nay. Trong cơ chế kiểm soát chất lượng đầu ra, các yếu tố về hệ thống tiêu chuẩn, định mức được thay bởi các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng đầu ra cũng như tác dụng của chúng đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Muốn vậy, trước hết phải xây dựng được các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu ra trong từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp của đơn vị. 3.3.2. Đối với nguồn thu sự nghiệp của đơn vị Nguồn thu sự nghiệp ngày càng trở nên là một nguồn thu quan trọng cùng với ngân sách nhà nước đầu tư phát triển của các đơn vị sự nghiệp. Do có nguồn thu sự nghiệp, các đơn vị có quyền chủ động trong việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị y tế, đa dạng hoá dịch vụ cung cấp. Kết quả là chất lượng dịch vụ cung cấp được nâng cao, người sử dụng được phục vụ tốt hơn, và các đơn vị sẽ thu hút được nguồn thu lớn hơn. Do vậy, cần thiết thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng đối với nguồn thu sự nghiệp, cụ thể : 3.3.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, sửa đổi chế độ thu phí dịch vụ theo hướng tính đúng, tính đủ chi phí cung cấp dịch vụ công. Đồng thời, có chính sách thoả đáng bảo đảm cho người nghèo được hưởng các phúc lợi cơ bản. Huy động tốt hơn sự đóng góp của người sử dụng dịch vụ công thông qua các loại phí nhất là học phí, viện phí: không đặt vấn đề chỉ thu một phần học phí, viện phí như hiện nay mà cần xác định người học, người bệnh có nghĩa vụ chi trả chi phí học tập, khám chữa bệnh cho mình, phải nâng mức thu phí lên để học phí, viện phí có thể bù đắp chi phí thường xuyên về dạy học, khám chữa bệnh; kinh phí của Nhà nước ngày một tăng lên, nhưng chủ yếu để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để hỗ trợ về học phí, viện phí cho các đối tượng chính sách và người nghèo, đồng thời khuyến khích nhân tài, người học giỏi. Sớm ban hành chính sách về học phí, học bổng hợp lý Nhà nước tiếp tục có chính sách ưu tiên hỗ trợ để cho con em các gia đình thuộc diện chính sách, gia đình nghèo và học sinh xuất sắc có điều kiện học tập tốt hơn. Cần phải tăng mức học phí để bổ sung nguồn thu còn thiếu hụt trong nhiệm vụ bảo đảm chất lượng và đó cũng là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay. Nhiều trường học cho biết, họ không mua được thiết bị hiện đại và Việc ban hành chính sách học phí, học bổng hợp lý là dựa trên cơ sở đổi mới quan niệm về học phí, học bổng. Ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước nhằm thực hiện chính sách xã hội và các mục tiêu ưu tiên, về nguyên tắc học phí phải được tính đúng, tính đủ chi phí cần thiết cho hoạt động giáo dục, đào tạo. Bộ GD ĐT phải rất thận trọng trong việc tính đúng tính đủ, đảm bảo tính hợp lý và tất cả các khoản sẽ đưa vào học phí, bãi bỏ tất cả các khoản thu khác trong nhà trường. Có như vậy mới đảm bảo một chính sách học phí minh bạch, rõ ràng, không có các hiện tượng tiêu cực khác. Một chính sách học phí phù hợp là động lực hết sức quan trọng thức đẩy người học học tốt hơn, người dạy dạy tốt hơn đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao trong giáo dục. Ban hành Nghị định mới về giá viện phí trên nguyên tắc “Nhà nước đảm bảo những khoản chi lớn cho y tế như đầu tư ban đầu, xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật, chi phí tổ chức quan lý bộ máy, người bệnh tự trang trả các chi phí phục vụ trực tiếp cho khám chữa bệnh’’. Mở rộng đối tượng tham gia BHYT và đa dạng hoá các loại hình BHYT để thu hút mọi đối tượng tham gia BHYT, hướng tới mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân. Trong tình hình hiện nay, cần thiết phải sửa đổi lại chế độ thu viện phí theo hướng: tính đúng, tính đủ các chi phí y tế. Phân tuyến kỹ thuật để có mức phí phù hợp như nâng mức viện phí đối với tuyến trên, giảm viện phí đối với tuyến dưới, tuyến y tế cơ sở, như vậy sẽ tiết kiệm được các chi phí xã hội, người dân được khám chữa bệnh trong môi trường bảo đảm, công bằng. Giá viện phí mới chỉ tính một phần chi phí đối với người bệnh trong nước; thu đủ toàn bộ các chi phí, bao gồm cả khấu hao TSCĐ và có tích lũy đối với người nước ngoài. Các đối tượng được miễn viện phí bao gồm: trẻ em dưới 6 tuổi; người cho mô, bộ phận cơ thể người; người tàn tật...Đối tượng được giảm viện phí là người bệnh nặng hiểm nghèo có chi phí điều trị lớn, người phải nộp viện phí nhưng bị rủi ro về chuyên môn. Bộ Y tế cho rằng việc sửa đổi chế độ thu một phần viện phí để phù hợp với điều kiện hiện nay là cần thiết, mức thu viện phí phù hợp với mức tăng giá và tiền lương khi tăng viện phí ở mức bình quân 30% so với năm 1995. Việc ban hành chính sách mới về học phí, viện phí giá viện phí mới là tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp . Và đối với ngành giáo dục cũng gặp phải những khó khăn khi thực hiện theo cơ chế mới nếu không được phép tăng học phí, đó là: Sự eo hẹp từ nguồn thu học phí đã khiến cho các trường không chủ động được nguồn vốn đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và nghiên cứu khoa học; Các trường được tự chủ về chi tiêu nhưng không được tự chủ về nguồn thu, mức thu; Nhà nước giao cho các đơn vị tự cân đối nguồn thu để đảm bảo chi trả lương theo hệ số cơ bản, nhưng khi đơn vị không đủ kinh phí để chi trả vẫn không được nhà nước bù hỗ trợ; 3.3.2.2.Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, chất lượng các sản phẩm dịch vụ được cung cấp. Chất lượng các dịch vụ công cung cấp ngày càng được cải thiện sẽ làm tăng tính cạnh tranh giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ để từ đó có thể thu hút được nhiều người tham gia làm tăng thêm cho nguồn thu cho đơn vị. Các đơn vị sự nghiệp được trao quyền quyết định nhiều hơn thì phải gắn với việc đưa ra các tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ, dựa trên đó các đơn vị này phải chịu trách nhiệm giải trình. Việc tham khảo có hệ thống phản hồi từ phía người sử dụng, sẽ tăng cường trách nhiệm hơn đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công. Để có một nền giáo dục có chất lượng cao hơn cần phải xây dựng các mốc so sánh chuẩn để dựa vào đó đánh giá xem chi tiêu ở các cấp đã phù hợp chưa. Vấn đề này đã được phần nào xử lý khi áp dụng định nghĩa về các tiêu chuẩn Mức chất lượng trường học Căn bản vào năm 2003. Mặc dù Mức chất lượng trường học Căn bản hiện chỉ đang được áp dụng để hướng dẫn cho các dự án cụ thể ở một số trường học song nó có thể trở thành mốc so sánh chuẩn áp dụng cho tất cả các trường. Tuy nhiên, chuẩn này chưa được cụ thể hoá thành các chi phí đơn vị tính trên một học sinh để phục vụ các mục đích cung cấp kinh phí. Một vấn đề quan trọng liên quan đến mốc so sánh chuẩn là có tỷ lệ học sinh-giáo viên đủ. 3.3.2.3. Đa dạng hoá và mở rộng hơn nữa các loại hình hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp. Từ đó thu hút nhiều người tham gia, sử dụng các dịch vụ mà đơn vị cung cấp tạo thêm được nguồn thu cho đơn vị trên cơ sở vật chất và nguồn lực hiện có. Như trong lĩnh vực giáo dục đào tạo vừa giáo dục đào tạo chính quy tập trung, vừa không tập trung, vừa đào tạo ngắn hạn vừa dài hạn, đào tạo tại chỗ và đào tạo từ xa, vừa đào tạo trong nước vừa đào tạo nước ngoài. Trong lĩnh vực y tế: 3.3.3. Giải pháp khác Việc triển khai tích cực và đồng bộ các giải pháp sẽ nâng cao chất lượng các hoạt động sự nghiệp phục vụ công chúng gắn liền với tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, phát triển con người một cách toàn diện. Mở rộng và điều chỉnh các hoạt động công ích, cho phép mọi tổ chức cá nhân tham gia và việc cung ứng dịch vụ công không vì mục đích lợi nhuận, được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải toàn bộ hay một phần kinh phí hoạt động. Các giải pháp chung bao gồm : 3.3.3.1. Cấp vốn hoạt động ngay từ đầu năm Tùy vào khả năng nguồn thu ngân sách, hàng năm UBND Tỉnh cho phép cân đối trong dự toán ngân sách một khoản kinh phí nhất định để ưu tiên cấp ứng kinh phí hoạt động cho các đơn vị sự nghiệp có thu, tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt động ngay từ đầu năm. Căn cứ vào khả năng nguồn thu, nhu cầu chi, tiến độ thực hiện trong năm, để cấp ứng vốn kịp thời và đơn vị có trách nhiệm hoàn trả nợ ứng ngay trong năm ngân sách. 3.3.3.2.Đẩy mạnh quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu thông qua việc Nghị định 43/2006/NĐ-CP theo hướng tạo quyền chủ động thật sự cho các đơn vị sự nghiệp về tổ chức, cán bộ, thu chi tài chính, để tăng nguồn lực phục vụ dân tốt hơn, hiệu quả hơn. Cụ thể là: phát huy quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp trong việc cung cấp các dịch vụ công từ khâu tổ chức hoạt động, tuyển dụng lao động, vay vốn, phân phối kết quả hoạt động nhằm phát huy mọi tiềm năng của các đơn vị, đổi mới chính sách về thu sự nghiệp, mở rộng các đối tượng tham gia, khai thác triệt để các nguồn thu để mở rộng việc cung cấp các dịch vụ công công cho xã hội, tăng thu nhập cho người lao động. Trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế nhằm tạo động lực mới Tự chủ về các khoản thu, mức thu Đơn vị tổ chức hoạt động dịch vụ, liên doanh liên kết được quyết định các khoản thu, mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ. Đối với hoạt động thu phí, lệ phí và sản phẩm nhà nước đặt hàng thực hiện theo mức thu hoặc khung mức thu và đơn giá sản phẩm do nhà nước quy định. Để ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động sự nghiệp, tạo nguồn kinh phí tăng thu nhập cho người lao động và tích lũy đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, các đơn vị sự nghiệp cần chủ động thực hiện các giải pháp liên quan đến việc khai thác nguồn thu sự nghiệp như sau : - Đối với nguồn thu từ phí, lệ phí : Ngoài các khoản thu thuộc thẩm quyền của Trung ương, đối với các khoản thu phí, lệ phí thuộc thẩm quyền quy định của địa phương, các đơn vị tiến hành rà soát lại quá trình thực hiện ở đơn vị mình. Trường hợp số thu được để lại không đảm bảo bù đắp chi phí, kể cả các khoản chi phí phát sinh tăng do các yếu tố khách quan, thì kịp thời báo cáo cơ quan chủ quản và Sở Tài chính để trình Thường trực HĐND và UBND Tỉnh xem xét quyết định. - Đối với nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ (không phải phí, lệ phí) : Đơn vị chủ động xây dựng và áp dụng mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp được chi phí, có tích lũy. Đồng thời, tiến hành rà soát và đề nghị cơ quan chủ quản, Sở Tài chính trình UBND Tỉnh bãi bỏ các văn bản quy định liên quan đến Đặc biệt, tại một số đơn vị có chủ trương mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng do nguồn đầu tư từ ngân sách quá hạn hẹp, huy động từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp cũng không kịp cho nhu cầu thực tế, đơn vị có nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng (ngân hàng, quỹ hỗ trợ phát triển...) nhưng thực tế nhiều đơn vị đã không vay được ngân hàng, mặc dù tại điều 3, Nghị định 10/2002/NĐ-CP nêu rõ “các đơn vị sự nghiệp có thu được vay tín dụng ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp... và điều 11, Nghị định 43/2006/NĐ-CP cũng nêu rõ các đơn vị sự nghiệp có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng để mở rộng nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp. . Cần có hướng dẫn cụ thể để việc vay vốn của các đơn vị sự nghiệp được thực hiện thuận lợi hơn. 3.3.3.3.Thúc đẩy phát triển khu vực cung cấp dịch vụ công ngoài công lập - Triển khai mạnh mẽ chủ trương xã hội hoá nhằm động viên, thu hút rộng rãi các nguồn vốn trong xã hội đóng góp đầu tư nâng cao số lượng và chất lượng các dịch vụ công. Giải pháp chiến lược cần tập trung huy động các nguồn lực của các thành phần kinh tế trong xã hội để cùng với Nhà nước chăm lo phát triển các dịch vụ công. Chuyển dần việc Nhà nước cung cấp phần lớn các dịch vụ công sang việc chỉ cung cấp một số dịch vụ cơ bản. Tích cực thu hút các nguồn nhân, tài, vật lực của xã hội đầu tư phát triển cả số lượng và chất lượng cung ứng dịch vụ công trên cơ sở : Đa dạng hóa các mô hình cung cấp dịch vụ công theo hướng xã hội hoá; Tổ chức tốt việc tổng kết, rút kinh nghiệm các loại hình công lập, dân lập, bán công... Đẩy mạnh việc triển khai chủ trương, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo điều kiện về chính sách tài chính, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức xã hội huy động vốn thành lập doanh nghiệp công ích, xây dựng các cơ sở cung cấp dịch vụ công ngoài công lập như giáo dục ở các cấp học, các bậc học; phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe; xây dựng các cơ sở nghiên cứu ứng dụng KH&CN, phát triển các loại hình văn hóa, thể thao, vệ sinh môi trường và các dịch vụ công khác... Từ đó tạo nên sự cạnh tranh với các cơ sở của nhà nước, buộc các cơ sở nhà nước phải nâng cao chất lượng hoạt động của mình, phục vụ người dân - Nghiên cứu triển khai cơ chế Nhà nước mua sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành thay thế cho hình thức cấp kinh phí trực tiếp cho các đơn vị thực hiện như hiện nay. Đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ công cần tiến hành phân loại, tổ chức đấu thầu, giao cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện; Nhà nước chỉ kiểm tra, giám sát, kiểm soát giá cung ứng dịch vụ hoặc ban hành mức lệ phí phải thu. - Triển khai các cơ chế tài chính mới như cơ chế giao đất, cho thuê đất để xây dựng trường học, bệnh viện; Ban hành chế độ BHXH, BHYT hợp lý đối với cán bộ công nhân viên chuyển từ hệ công lập sang dân lập... Xây dựng cơ chế tài chính khuyến khích các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài, mở rộng các hình thức liên doanh và đầu tư trực tiếp của nước ngoài đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo đại học, trên đại học, dạy nghề, bệnh viện có chất lượng cao ở các thành phố, khu công nghiệp. - Nhà nước xây dựng và hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất và thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê... tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tư nhân cùng với Nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ công hoặc ngược lại. Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng công cộng để thu hút vốn đầu tư của xã hội vào phát triển dịch vụ công; Phối hợp và hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tư nhân và các thành phần kinh tế khác cùng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cung ứng dịch vụ công; Có cơ chế tài chính cho việc mua lại các cơ sở hạ tầng cung cấp dịch vụ công do tư nhân xây dựng. Tăng việc thực hiện cơ chế giao, bán, khoán, cho thuê khai thác, sử dụng các cơ sở hạ tầng phục vụ công cộng. Chú ý hoàn thiện các mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động cung cấp các dịch vụ công tại các đô thị (vận chuyển hành khách nội thị, vệ sinh môi trường, chiếu sáng công cộng...). 3.3.3.4. Phân phối, sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả, công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ ; đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công Bảo đảm tính bao quát về phạm vi, đối tượng và mức độ kiểm soát theo đúng Luật Ngân sách nhà nước, bảo đảm tất cả các khoản chi của ngân sách nhà nước đều được kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ; Tăng cường tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công trong việc quản lý và sử dụng các nguồn tài chính một cách có hiệu quả; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với việc sử dụng quỹ NSNN tại các đơn vị sự nghiệp. Tổ chức thực hiện Đánh giá chi tiêu công một cách bắt Hàng năm phần chênh lệch thu lớn hơn chi được sử dụng để: - Tăng thu cho cán bộ: Tuỳ theo kết quả hoạt động tài chính trong năm, đơn vị được quyết định tổng mức thu nhập: + Tối đa 4 lần quỹ tiền lương theo cấp bậc, chức vụ đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên. + Tối đa 3 lần quỹ tiền lương theo cấp bậc, chức vụ đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Việc chi trả thu nhập cho từng người lao động do đơn vị quyết định theo nguyên tắc người nào có hiệu suất công tác cao hơn được trả cao hơn, không khống chế thu nhập của từng người. - Đơn vị được trích lập 04 quỹ gồm: Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Mức trích lập các quỹ do đơn vị quyết định. Trong đó mức trích lập đối với 2 quỹ : khen thưởng và phúc lợi tối đa bằng 3 tháng tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm. Riêng quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: trích tối thiểu 25% số chênh lệch thu lớn hơn chi, sau khi đã bảo đảm thu nhập bằng 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ của đơn vị. 3.3.3.5. Sử dụng tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát các nguồn tài chính Thúc đẩy đơn vị sử dụng ngân sách tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí thất thoát đầu tư NSNN cho các hoạt động sự nghiệp.Thực hiện công khai minh bạch để làm căn cứ sử dụng, kiểm soát chi ngân sách đối với các đơn vị sử dụng ngân sách. Tăng cường trách nhiệm công bố ngân sách, cụ thể hoá các khoản thu, các khoản phí và các khoản đóng góp cũng như việc sử dụng các nguồn lực này đối với tất các các đơn vị sự nghiệp, đặc biệt là đối với hệ thống các trường phổ thông. Có cơ chế chính sách và tạo môi trường khuyến khích toàn dân, các doanh nghiệp thực hành tiết kiệm, triển khai mạnh và có hiệu quả pháp lệnh tiết kiệm; tăng cường kỷ cương và năng lực giám sát tài chính đối với nền kinh tế (hiệu quả giám sát quá trình lập, thẩm tra, chấp hành, sử dụng và quyết toán NSNN; kiểm soát chế độ sử dụng vốn, tài sản công; quy định rõ trách nhiệm vật chất của thủ trưởng cơ quan, cán bộ công 3.3.3.6.Hướng dẫn và giám sát việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của các đơn vị sự nghiệp Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ nhằm tạo quyền chủ động trong việc quản lý và chi tiêu tài chính cho Thủ trưởng đơn vị, cán bộ, viên chức trong đơn vị; là căn cứ để quản lý, thanh toán các khoản chi tiêu, thực hiện kiểm soát của KBNN, cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan tài chính và các cơ quan thanh tra, kiểm toán. Tạo điều kiện cho đơn vị sử dụng tài sản đúng mục đích, hiệu quả, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, khuyến khích tăng thu, tiết kiệm chi, thu hút và giữ được những cán bộ, viên chức có năng lực cho đơn vị. Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ ở một số nội dung chủ yếu như : về sử dụng văn phòng phẩm, về sử dụng ô tô phục vụ công tác, về sử dụng điện thoại, về sử dụng điện trong cơ quan, về trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức. 3.3.3.7.Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến sâu kỹ các chính sách, chế độ về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP đến từng cán bộ, viên chức trong đơn vị để mọi người quán triệt, nhất là người lao động, tham gia một cách dân chủ, công khai vào hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ tại đơn vị mình với mục tiêu tiết kiệm chi tăng thu nhập chính đáng cho người lao động và có tích lũy để đầu tư mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị. 3.4. Điều kiện thực hiện Để các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu đạt được những kết quả khả quan, đòi hỏi quá trình triển khai phải đáp ứng được một số điều kiện cần thiết sau : *Đối với Nhà nước : Khi kinh tế ngày càng tăng trưởng ổn định và bền vững, Nhà nước cần xác định chi ngân sách cho các hoạt động sự nghiệp là một trong những lĩnh vực ưu tiên của chi ngân sách nhà nước, từng bước tăng tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá thể thao, phát thanh truyền hình. Đổi mới các chính sách và hình thức đối với các nguồn thu sự nghiệp, đặc biệt là thu học phí, viện phí tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân được tham gia thực hiện các chính sách này phù hợp với điều kiện thu nhập và nhu cầu chăm sóc y tế của từng đối tượng dân cư. *Đối với nhân dân : Phát huy trách nhiệm của người dân trong việc tham gia với Nhà nước trong chi tiêu cho y tế, giáo dục, gắn liền giữa trách nhiệm với quyền lợi của mình trong việc thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. *Đối với xã hội : Thực hiện xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội và đầu tư phát triển cung cấp dịch vụ công. Đa dạng hoá các hình thức động viên, xây dựng môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi để phát huy được sức mạnh thu hút nguồn lực vật chất toàn xã hội cho phát triển các hoạt động sự nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, tư nhân đầu tư vào cung cấp dịch vụ công dưới các hình thức bán công, dân lập, tư nhân và liên doanh, liên kết với nước ngoài, đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. KẾT LUẬN Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân, là hoạt động hết sức cần thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế càng phát triển thì đầu tư cho các hoạt động sự nghiệp cũng sẽ được tăng cường với mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ, hàng hóa công. Khi đó, con người không chỉ được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của mình mà còn có điều kiện tiếp cận với những tri thức hiện đại để phát triển một cách toàn diện nhất. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các trường học, bệnh viện, các cơ sở văn hóa thông tin, khoa học công nghệ hoạt động trong điều kiện được bao cấp hoàn toàn nên các đơn vị này không phát huy được tính năng động, sáng tạo của mình, luôn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Sự đổi mới quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường nói chung và đặc biệt là cơ chế trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa thông tin đã phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các đơn vị này. Trong thời gian tới, những chính sách liên quan cần được hoàn thiện hơn nữa để có thể thực hiện được các mục tiêu của cơ chế mới là cho phép đơn vị huy động đa dạng và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sự nghiệp của các đơn vị cung cấp dịch vụ công, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển của con người. Sự thành công của việc cải cách chính sách quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp tùy thuộc vào sự lựa chọn mục tiêu cải cách, giải pháp cải cách cần xuất phát từ tình hình thực tiễn trong quá khứ, hiện tại và có tính đến sự phát triển trong tương lai. Trước mắt, cần tập trung triển khai tốt Nghị định 43/NĐ-CP xây dựng khuôn khổ chế độ thu- chi trung hạn với sự tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể Để thực hiện được các giải pháp này, cần phải có đầy đủ nguồn lực tài chính, đặc biệt là phải có sự hỗ trợ và cam kết từ phía các nhà lãnh đạo, các cấp chính quyền đối với tiến trình cải cách này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA1153B.doc
  • pdfLA1153.pdf
  • pdfLA1153B.pdf
Tài liệu liên quan