MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Viết tắt
Cụm từ đầy đủ
1
BIDV
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
2
CTTC
Cho thuê tài chính
3
Cty
Công ty
4
Phòng QLRR
Phòng Quản lý rủi ro
5
Phòng QHKH
Phòng Quan hệ khách hàng
6
Phòng QTTD
Phòng Quản trị tín dụng
7
DPRR
Dự phòng rủi ro
8
NH
Ngân hàng
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1
:
Dư nợ cho thuê 2006-2008
Bảng 2.2
:
Cơ cấu dư nợ cho thuê theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
Bảng 2.3
:
Thị phầ
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Bảng 2.4
:
Dư nợ cho thuê và nợ quá hạn 2006-2008
Bảng 2.5
:
Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành kinh tế năm 2008
Bảng 2.6
:
Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu 2006-2008
Bảng 2.7
:
Nợ xấu của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008.
Bảng 2.8
:
Lãi treo và tỷ lệ lãi treo 2006-2008
Bảng 2.9
:
Trích lập dự phòng rủi ro 2006-2008
Bảng 3.1
:
Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả 2009-2010
Biểu đồ 2.1
:
Cho thuê tài chính nội ngành và ngoại ngành 2006-2008
Biểu đồ 2.2
:
Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
Biểu đồ 2.3
:
Thị phần của các công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008.
Biểu đồ 2.4
:
Nợ quá quá hạn 2006-2008
Sơ đồ 1.1
:
Cho thuê tài chính hai bên
Sơ đồ 1.2
:
Cho thuê tài chính ba bên
Sơ đồ 2.1
:
Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính BIDV từ tháng 11/2008
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, vì vậy chúng ta phải không ngừng đổi mới và phát triển chính mình. Với việc gia nhập WTO, nhu cầu về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp càng tăng cao, đặc biệt là nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc để mở rộng quy mô, nâng cao trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, lượng vốn trung và dài hạn đầu tư cho các doanh nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Kênh huy động vốn quen thuộc vẫn là đi vay vốn ngân hàng thương mại. Tuy nhiên việc đi vay vốn ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm lâu đời của hình thức tín dụng này, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong tài sản đảm bảo cũng như uy tín, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong những trường hợp như vậy, một kênh huy động khác mà doanh nghiệp có thể tìm đến là các công ty cho thuê tài chính. Với những ưu điểm của mình, cho thuê tài chính tỏ ra thích hợp với những doanh nghiệp mới thành lập, có lượng vốn nhỏ.
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam với hơn 49 năm kinh nghiệm và chủ lực trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Thành lập từ năm 1998, Công ty cho thuê tài chính – BIDV đã có hơn 8 năm kinh nghiệm cung cấp dịch vụ thuê tài chính cho hàng trăm doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên phạm vi cả nước với tổng số vốn tài trợ hàng ngàn tỷ đồng. Tôn chỉ hoạt động của Công ty là “Đơn giản, chất lượng và hiệu quả”.
Trên thực tê hoạt động cho thuê tài chính của các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam nói chung và hoạt động cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV nói riêng, trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện một số rủi ro như không thu được tiền thuê, tính chuyển nhượng của tài sản thuê thấp, hiệu quả của dự án không như dự tính...
Do đó, để kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo an toàn hoạt động và không ngừng phát triển, Công ty cho thuê tài chính-BIDV cần phải nhận diện, phân tích rủi ro để từ đó có các giải pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng và an toàn hoạt động.
Với suy nghĩ như thế, em đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương IQuản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.1. Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu, tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính trên thế giới hiện nay phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm. Các sản phẩm của hình thức tín dụng này ngày càng đa dạng hơn, từ máy fax, máy photocopy, máy tính đến xe tải, máy bay, tàu thủy...Trước khi đi vào phân tích về lĩnh vực quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, việc tìm hiều những nét tổng quan về hình thức tín dụng này sẽ giúp chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính có nguồn gốc từ việc cho thuê tải sản. Từ những năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian gần vịnh Ba Tư ( hiện nay thuộc Iraq ), giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra đời với việc cho thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, ruộng đất, nhà cửa. Sau đó, vào khoản năm 1700 trước Công nguyên, vua Babylon đã ban hành nhiều văn bản quy định về cho thuê tài sản.
Ở các nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, giao dịch cho thuê tài sản cũng đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên. Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc cho thuê hầm mỏ. Người Hy Lạp cổ đại cũng tiên phong tạo ra khái niệm ngân hàng cho thuê. Tài sản thuộc quyền sở hữu của ngân hàng cho thuê đầu tiên được kí kết vào năm 370 trước công nguyên trong đó bao gồm tên ngân hàng, tiền kí quỹ, tên văn phòng và đội ngũ nhân viên.
Đến đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hóa hoạt động thuê tài sản đã có sự thay đổi về tính chất của giao dịch và xuất hiện hình thức cho thuê tài chính đầu tiên ở Mỹ. Hoạt động cho thuê tài chính thời kỳ này đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng, chủng loại thiết bị tài sản thuê. Những dạng hợp đồng cho thuê tài chính tạm thời bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Công ty cho thuê tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ United State Leasing Corporation do Henry Shoeld sáng lập vào năm 1952 Công ty đã được thành lập để phục vụ cho ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt.
Các nước châu Âu đã nối gót thành lập những công ty cho thuê vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 và có những bước phát triển mạnh mẽ ở châu Á và châu Phi từ thập niên 70. Thập niên 80 đã đánh dấu việc cho thuê tài chính được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng, nghiệp vụ cho thuê tài chính mới bắt đầu được thực hiện dưới hình thức tín dụng thuê mua bằng việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc hoặc văn phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng thuê mua. Tiếp theo đó ngày 09/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho hàng loạt các Công ty Cho thuê tài chính ra đời.
Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương mại trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP vào ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Mới đây nhất, chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung một số điều về Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam đang có 13 công ty cho thuê tài chính được thành lập dưới các hình thức khác nhau đang hoạt động. Trong số đó, có các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, có các doanh nghiệp dưới hình thức công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, lại có doanh nghiệp thuộc hình thức đa sở hữu như Công ty cho thuê tài chính liên doanh. Lượng vốn cấp theo hình thức cho thuê tài chính chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng. Trong khi đó, với lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phải được phát triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang cần thu hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở rộng. Dù vậy cũng phải nhìn nhận hoạt động cho thuê tài chính đã phần nào giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay gồm:
+ Các công ty cho thuê tài chính của các Ngân hàng: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công thương, Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Đầu tư và Phát triển Việt Nam;
+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài gồm: Công ty cho thuê tài chính ANZ-VTRAC; Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Chailease;
+ Các loại hình khác: Công ty cho thuê tài chính Quốc tế VN (liên doanh); Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Công nghiệp tàu thủy.
1.1.2. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính
* Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), một giao dịch thuê tài sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được gọi là thuê tài chính:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng.
- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng của tài sản.
Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể trong pháp luật về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước, có thể nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu chuẩn khác nhưng về cơ bản không có điều gì mâu thuẩn với các tiêu chuẩn chung.
* Ở Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ về “ Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” thì:
“Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Điểm khác biệt lớn giữa quan điểm về cho thuê tài chính ở Việt Nam so với trên thế giới là đối tượng cho thuê là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà không áp dụng cho thuê đối với bất động sản.
1.1.3. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
- Hoạt động cho thuê tài chính phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định như Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ giao dịch thuê nào thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn sau đều được gọi là giao dịch thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng.
+ Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng.
+ Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích của tài sản thuê.
+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả tiền lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp đồng
- Đa phần các hợp đồng cho thuê tài chính được hai bên ký kết là để đầu tư cho các tài sản thuê mới. Quyền lựa chon tài sản thuê trong các trường hợp đều thuộc về bên thuê, công ty cho thuê tài chính có nghĩa vụ phải mua đúng loại tài sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hay cam kết với bên cung cấp tài sản.
- Tài sản thuê tài chính phải được mua bảo hiểm vật chất đầy đủ trong suốt quá trình thuê. Phí bảo hiểm cho tài sản có thể do bên thuê hoặc bên cho thuê thanh toán và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính nhưng người hưởng thụ trong suốt quá trình thuê phải là bên cho thuê tài chính.
- Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên bên thuê không được quyền chấm dứt hợp đồng trước hạn, trừ trường hợp do lỗi của bên cho thuê hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp đồng trước hạn và phải được bên cho thuê đồng ý.
- Thuê tài chính là một hình thức vay vốn, tài trợ vốn. Tổng số tiền thuê tài chính được trả theo một lịch thanh toán do bên cho thuê và bên thuê thỏa thuận và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính. Thông thường số tiền thuê tài chính được trả theo định kỳ nhất định mà bên thuê đề nghị. Các khoản tiền phải trả trong một kỳ bao gồm tiền gốc và tiền lãi thuê.
So sánh giữa cho thuê tài chính và cho vay trung dài hạn
Để các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính trở nên nổi bật và dễ nhận biết, ta có thể làm phép so sánh sau:
Về cơ bản, có thể coi cho thuê tài chính như một loại hình tín dụng trung và dài hạn vì nó mang những đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này:
- Bên cho vay (hay bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên đi vay (hay bên đi thuê) một lượng giá trị dựa trên những cơ sở tín nhiệm.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (hay cho thuê) hay nói cách khác là bên đi vay (đi thuê) phải trả thêm phần lãi ngoài vốn vay gốc.
Tuy nhiên cho thuê tài chính vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung và dài hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau:
- Trong cho vay trung và dài hạn thông thường, ngân hàng tài trợ vốn bằng tiền cho khách hàng dùng số tiền đó mua tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Còn trong cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho khách hàng trực tiếp bằng các tài sản máy móc thiết bị mà khách hàng đang cần dùng. Như vậy, tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn so với hoạt động cho vay thông thường.
- Lãi suất cho thuê của cho thuê tài chính cao hơn so với lãi suất tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, do được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản cho thuê của bên cho thuê.
- Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng phần lớn có sự tham của hai bên là người đi vay và ngân hàng, nhưng cũng có những trường hợp có sự tham gia của bên thứ ba là người bảo lãnh trong trường hợp người đi vay không đủ năng lực tài chính. Còn trong cho thuê tài chính, bên cạnh sự tham gia của bên thuê, công ty cho thuê tài chính, người bảo lãnh còn có sự tham gia rất quan trọng của một chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp tài sản, nhưng cũng có trường hợp chỉ có hai bên tham gia trong giao dịch mua và cho thuê lại.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, người đi vay có quyền định đoạt đối với tài sản đầu tư bằng tiền vay (tài sản đó thuộc sở hữu của người vay, được thế chấp cho ngân hàng). Do đó, khi cần thu nợ thường khó khăn vì xử lý tài sản thế chấp phức tạp. Đối với cho thuê tài chính, quyền sở hữu tài sản vẫn do bên cho thuê nắm giữ và bên thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian cho thuê. Vì thế bên thuê không được hạch toán vào tài sản có của mình mà chỉ được hạch toán vào tài sản ngoại bảng và tất nhiên cũng không được sử dụng làm vật bảo đảm trong tài sản thế chấp. Đồng thời, cũng nhờ vậy mà khi xảy ra tình huống xiết nợ thì điều đó dễ dàng cho công ty cho thuê tài chính để thu hồi tài sản.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo và kéo theo nhiều thủ tục giấy tờ. Còn trong cho thuê tài chính, tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê nên người thuê không bị đòi hỏi có tài sản thế chấp và nhờ đó giảm bớt một số công đoạn thủ tục, giấy tờ.
1.1.4. Phân loại hoạt động cho thuê tài chính.
Việc áp dụng cho thuê tài chính có sự cải biến tùy theo điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia, nhưng sự khác biệt là không nhiều do quan hệ cho thuê hiện nay đã có mối quan hệ toàn cầu, doanh nghiệp của một nước hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm được thuê từ một tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính, các ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước phát triển cũng đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình thức thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh hoặc liên doanh. Điều này giúp cho thuê tài chính thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát triển và sự khác biệt về quan điểm cho thuê tài chính giữa các quốc gia dần dần thu hẹp lại.
Theo số đối tác tham gia giao dịch, cho thuê tài chính thường có hai hình thức chủ yếu sau:
a, Cho thuê tài chính giản đơn (có sự tham gia của hai bên)
Theo hình thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng. Đây là hình thức được các công ty kinh doanh bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện. Các tổ chức tài chính rất ít khi áp dụng hình thức tài trợ này.
Bên cho thuê
Bên đi thuê
Ký hợp đồng thuê (1)
Bàn giao tài sản thuê (2)
Thanh toán tiền thuê (3)
Sơ đồ 1.1: Cho thuê tài chính hai bên
Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng
Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng và giao tài sản cho bên đi thuê
Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê
b, Cho thuê tài chính thông thường (có sự tham gia của 3 bên) :
Theo hình thức này, có sự tham gia của ba bên là bên cho thuê, bên đi thuê và bên cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với bên cung cấp về sản phẩm. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng của bên đi thuê.
Nhà cung cấp
Bên thuê
Bên cho thuê
(1) (3)
(4) (5)
(6)
(2)
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
Bên thuê được chủ động lựa chọn máy móc thiết bị, thỏa thuận với nhà cung cấp bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ.
Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua máy móc thiết bị, kết quả thẩm định của bên cho thuê đồng ý cho thuê.
Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán máy móc thiết bị là tài sản thuê theo thỏa thuận giữa bên thê và nhà cung cấp.
Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài sản giao nhận.
Bên cho thuê thanh toán tiền tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp.
Bên cho thuê thanh toán tiền thuê tài chính theo hợp đồng cho thuê chính.
Đây là hình thức cho thuê được sử dụng phổ biến nhất, có đến 80% hợp đồng thuê tài chính trên thế giới áp dụng theo phương thức này. Các công ty cho thuê tài chính đã áp dụng phương thức này là chủ yếu để tài trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với cho thuê thiết bị. Sở dĩ như vậy là vì, phương thức này có những ưu điểm nổi trội sau đây:
Về phía bên thuê: Bên thuê được quyền lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp thỏa thuận, đám phán cho nhà cung cấp về những đặc tính của sản phẩm nhằm lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất, thỏa mãn tối đa yêu cầu của bên thuê.
Về phía bên cho thuê: Bên cho thuê không phải mua sản phẩm trước, như vậy sẽ giảm bớt những chi phí về kho bãi, hao mòn trong quá trình dữ trự và hơn nữa còn giúp quay vòng vốn nhanh hơn nhờ không phải dự trữ hàng tồn kho.
Mặt khác bên thuê trực tiếp nhận sản phẩm từ nhà cung cấp, nhờ vậy bên thuê giảm được rủi ro xảy ra khi bên thuê từ chối nhận hàng do những sai sót về mặt kỹ thuật. Việc lắp đặt bảo dưỡng, sửa chữa sản phẩm đều thuộc nhà cung cấp và bên thuê nên bên cho thuê không phải quan tâm đến tình trạng hoạt động của tài sản.
Trên đây là hai hình thức cho thuê cơ bản. Từ hai hình thức này còn có nhiều hình thức biến tướng, đó là hình thức cho thuê hợp vốn, mua và cho thuê lại, cho thuê giáp lưng...
c, Cho thuê hợp vốn:
Đây là hình thức cho thuê đặc biệt kết hợp từ hai hình thức cho thuê cơ bản trên. Trong hình thức cho thuê này, nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên thuê, trong đó bên cho thuê đứng ra làm đầu mối. Hình thức này được áp dụng khi nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt quá giới hạn cho thuê của một công ty cho thuê tài chính hoặc nhằm phân tán rủi ro hoặc cũng có trường hợp do bên thuê yêu cầu ( Ở Việt Nam, tổng dư nợ cho thuê tài chính của một công ty cho thuê tài chính không được vượt quá 30% vốn tự có đối với một khách hàng và 80% vốn tự có đối với nhóm khách hàng có liên quan). Sự liên kết của các bên cho thuê có thể xảy ra theo chiều ngang (giữa nhiều nhà sản xuất, giữa các định chế tài chính với nhau ) hoặc theo chiều dọc (giữa các công ty mẹ với các chi nhánh của mình).
d, Mua và cho thuê lại ( tái cho thuê):
Đây là hình thức cho thuê mà trong đó công ty cho thuê tài chính mua tài sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình thức cho thuê tài chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong giao dịch mua và cho thuê lại, bên thuê đồng thời là bên cung ứng tài sản cho thuê. Bên mua và cho thuê lại (gọi là bên cho thuê) là các công ty cho thuê tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Hình thức cho thuê này được sử dụng trong trường hợp nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác hết tài sản cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng. Đồng thời doanh nghiệp vẫn muốn duy trì năng lực sản xuất hiện có nên không thể bán bớt tài sản cố định của mình. Trong hoàn cảnh này, hình thức giao dịch mua và cho thuê lại sẽ giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng trên, ngoài ra phương thức này cũng có thể được sử dụng như một giải pháp tình thế cho vẫn đề nợ quá hạn mà không phải sử dụng đến biện pháp thanh lý. Điều này còn nhằm ngăn chặn việc phá sản của doanh nghiệp, đông thời giúp ngân hàng giảm được thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra khi doanh nghiệp thực sự lâm vào tình trạng phá sản. Có thể coi phương thức mua và cho thuê lại như là sự chuyển hóa từ vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn.
e, Cho thuê giáp lưng:
Dù các công ty tài chính có thể tài trợ được cho cả những doanh nghiệp không nhận được sự tin tưởng cao từ ngân hàng hoặc các công ty cho thuê tài chính khác nhưng cũng không có nghĩa là tài trợ cho bất cứ ai. Ví dụ trong những trường hợp doanh nghiệp đã không thực hiện được những hợp đồng trong quá khứ, hay doanh nghiệp chưa được bên cho thuê biết đến (như các công ty nước ngoài chỉ chấp nhận tài trợ cho những công ty lớn của Việt Nam). Trong những trương hợp này, dưới sự đồng ý của bên cho thuê, bên thuê thứ nhất sẽ cho bên thuê thứ hai (người thực sự cần sử dụng tài sản vào thời điểm đó ) thuê lại tài sản mà mình đã thuê từ bên cho thuê. Kể từ khi hợp đồng cho thuê lại được kí kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ cùng tài sản thuê được chuyển giao từ bên thuê thứ nhất sang bên thuê thứ hai. Các chi phí pháp lý, di chuyển tài sản phát sinh từ hợp đồng này do bên thuê thứ nhất và bên thuê thứ hai thỏa thuận với nhau. Dù bên đi thuê thứ nhất chỉ là trung gian giữa bên cho thuê và bên đi thuê thứ hai nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc thực hiện hợp đồng đối với bên cho thuê. Bù lại, bên đi thuê thứ nhất sẽ nhận được phần chênh lệch giữa hai khoản tiền thuê như là hoa hồng trách nhiệm.
f, Cho thuê bằng vốn vay:
Đây cũng là một biện pháp trong trường hợp công ty cho thuê không đủ điều kiện tự tài trợ cho khách hàng. Không giống như quan hệ đồng tài trợ trong cho thuê hợp vốn, bên cho thuê sẽ vay vốn từ các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác để mua tài sản cho thuê. Bên cho thuê vẫn là trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê. Hay nói cách khác, vốn tài trợ trong phương thức này bao gồm hai phần, một phần là vốn của bản thân bên cho thuê và một phần là vốn vay được cung cấp từ các bên cho vay. Vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ nhưng không được vượt quá 80% và khoản cho vay được đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê và cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho thuê và các khoản tiền thuê.
1.1.5. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính
a) Đối với bên đi thuê:
Bên đi thuê dễ dàng tiếp cận nguồn tài trợ từ cho thuê tài chính: Do đặc thù của cho thuê tài chính là quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê, các công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính không quá khắt khe trong việc xem xét uy tín của khách hàng để đưa ra quyết định cho vay. Điều này tạo thuận lợi rất lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay các doanh nghiệp mới thành lập. Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Việc không đòi hỏi tài sản đảm bảo còn giúp thủ tục cho thuê tài chính được thực hiện nhanh chóng, đơn giản.
Cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt đồng vốn hơn thay vì mua tài sản cố định: Thuê tài chính giúp cho bạn tiếp cận được với rất nhiều loại thiết bị, từ những thiết bị văn phòng đơn giản như máy photocopy, máy tính, xe tải, xe ô tô cho tới các dây chuyền sản xuất hiện đại. Mặc dù thuê tài chính không trực tiếp chuyển vốn cho doanh nghiệp, tuy nhiên hình thức này hoàn toàn có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt lượng tiền cần để khởi sự hoặc mở rộng kinh doanh.
Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản. Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
Việc sử dụng tài sản cho thuê không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của doanh nghiệp ( hay nói cách khác là không ảnh hưởng đến nguồn tài trợ từ vốn vay ngân hàng ) do tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng. Hơn nữa, dù không phải bỏ ngay ra một khoản tiền đểu lớn để mua tài sản nên doanh nghiệp không bị đọng vốn, có thể sử dụng số tiền đó để phục vụ cho những hoạt động khác nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lịch trả nợ cũng thường được các công ty cho thuê tài chính điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hạn chế sự lạc hậu, bắt kịp tôc độ phát triển của khoa học công nghệ, qua đó nâng cao năng lực sản xuất: để tăng cường khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phải chú ý đến việc đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất nhằm tăng năng suất hoạt động, tạo ra những sản phẩm tiến tiến, hạ giá thành sản phẩm. Cho thuê tài chính là một kênh đáp ứng nhu cầu đó của khách hàng. Lợi ích này đặc biệt quan trọng nếu ngành kinh doanh của doanh nghiệp phải dựa nhiều vào các công nghệ tân tiến như thế hệ máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công nghệ mới hoặc các thiết bị khác. Nhiều hợp đồng thuê ngắn hạn có thể sẽ tiết kiệm hơn là việc sau một hai năm lại mua thiết bị mới. Ngoài ra, do các tài sản đều thuộc sở hữu của bên cho thuê nên bên đi thuê không phải quan tâm đến rủi ro về mặt pháp lý.
Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hưởng lợi ích từ lá chắn thuế: Tài sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế.
b, Đối với nhà cung cấp:
Hoạt động cho thuê tài chính giúp nhà cung cấp thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, đối với loại hình cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên, dù người muốn sử dụng sản phẩm chưa có điều kiện để thanh toán, nhà cung cấp vẫn được nhận tiền ngay mà không phải sử dụng đến những biện pháp như cho mua trả góp, vay trả chậm để bán được hàng.
c, Đối với nền kinh tế:
Cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế: cũng như các hoạt động tín dụng khác, các công ty cho thuê tài chính thu hút vốn từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế và thông qua hoạt động cho thuê tài chính của mình, chuyển vốn đến tay những đối tượng đang cần vốn dưới dạng tài sản. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay, nguồn vốn được chu chuyển không chỉ trong nội bộ một nền kinh tếmà mở rộng giữa các quốc gia với nhau. Điều đó được thể hiện thông qua việc các công ty cho thuê tài chính cung cấp các loại máy móc, thiết bị cho thuê được mua từ nước ngoài hoặc thông qua các hoạt động liên doanh, mở chi nhánh, thành lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài của các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, phần lớn các công ty cho thuê tài chính là công ty con của ngân hàng mẹ. Hoạt động huy động vốn của các công ty này còn rất hạn chế và nguồn vốn hoạt động chủ yếu hình thành từ việc đi vay ngân hàng mẹ.
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ bổ sung, giúp hoàn thiện hệ thống tài chính của nền kinh tế: nhu cầu tài trợ vốn trung và dài hạn là rất cao, nhưng khả năng đáp ứng của ngân hàng đối với nguồn vốn này là có hạn. Điều này là do nguồn vốn huy động được của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn là nguồn ngắn hạn, mà việc chuyển đổi từ nguồn ngắn hạn sang tài trợ dài hạn mang lại nhiều rủi ro. Phương thức tài trợ cho thuê là hình thức tài trợ bổ sung góp phần đa dạng hóa loại hình dịch vụ trong hệ thống tà._.i chính. Nếu doanh nghiệp cần có máy móc, thiết bị ngay lập tức, việc đi thuê sẽ được chấp thuận nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín dụng, và không cần nhiều thủ tục giấy tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng cũng dễ chịu hơn. Nhất là với các doanh nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu, việc thuê tài chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc đi vay ngân hàng. Thông qua hoạt động của mình, các công ty tài chính cũng đóng vai trò là trung gian giúp gắn chặt hệ thống tài chính với lĩnh vực sản xuất.
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.1. Khái niệm rủi ro.
Rủi ro là một khái niệm luôn song hành cùng với tất cả các lĩnh vực. Trong hoạt động tín dụng, rủi ro là một phạm trù rất quan trọng mà cho thuê tài chính cũng không phải là ngoại lệ. Có nhiều quan niệm về rủi ro và những hậu quả mà rủi ro gây ra, tuy nhiên khái niệm chung nhất về rủi ro có thể được đưa ra như sau: Rủi ro là bất cứ điều gì không chắc chắn có thể ảnh hưởng tới các kết quả so với những gì chúng ta mong đợi.
Lĩnh vực tài chính nói chung, tài chính ngân hàng nói riêng không chỉ là lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế mà còn là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất về rủi ro. Hoạt động tín dụng chiếm từ 60% đến 70% các chỉ số trong hoạt động tài chính ngân hàng. Do đó nói đến rủi ro trong lĩnh vực tài chính thì rủi ro tín dụng là rủi ro thường được quan tâm nhất. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng:
Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, rủi ro tín dụng là rủi ro mất vốn do bên đối tác không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Ở Việt Nam, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 22/04/2005 “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Tại sổ tay tín dụng của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam cho rằng “Rủi ro tín dụng là tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tài chính đã cam kết”.
Từ các khái niệm về rủi ro tín dụng, xuất phát từ đặc thù hoạt động cho thuê tài chính thì có thể hiểu:
Rủi ro hoạt động cho thuê tài chính là những tổn thất mà công ty cho thuê tài chính phải gánh chịu khi bên thuê không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo cam kết tại hợp đồng cho thuê tài chính.
1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tồn tại khách quan cùng với sự tồn tại của hoạt động này. Về bản chất, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung dài hạn, vì vậy hoạt động cho thuê tài chính có những rủi ro giống như hoạt động tín dụng nói chung, đồng thời có những rủi ro đặc thù. Có nhiều tiêu chí để phân loại, nhưng khái quát lại có thể phân rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính bao gồm: rủi ro về tài chính, rủi ro hoạt động và rủi ro khác.
1.2.2.1. Rủi ro tài chính.
Rủi ro tài chính là những rủi ro liên quan trực tiếp đến việc thu hồi tiền thuê gây nên những thiệt hại về mặt tài chính cho bên thuê. Các rủi ro về tài chính bao gồm:
Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn:
Rủi ro này rất đáng lo ngại bởi nó sẽ làm trì trệ cũng như làm đảo lộn kế hoạch kinh doanh của công ty cho thuê tài chính. Thậm chí nếu người thuê vĩnh viễn không trả tiền thuê thì có thể khiến việc thu hồi vốn đầu tư trở nên khó khăn hoặc công ty bị mất vốn. Khi rủi ro này xảy ra, thiệt hại đối với công ty cho thuê tài chính là không nhỏ. Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn trong các trường hợp sau:
Bên thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê khi đến hạn do tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém. Doanh nghiệp rơi vào tình trạng như vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do tình hình kinh tế, môi trường kinh doanh hoặc do năng lực quản trị của chính doanh nghiệp. Sự không đủ khả năng thanh toán này có thể xảy ra tạm thời hoặc là vĩnh viễn tùy vào mức độ yếu kém và khả năng phục hồi của người thuê. Trong trường hợp này, các công ty cho thuê tài chính có thể tham gia hỗ trợ doanh nghiệp bằng các biện pháp gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ, tài trợ thêm máy móc thiết bị cần thiết, khuyến nghị về cách thức sản xuất, định hướng thị trường để người thuê có thể vượt qua được tình hình khó khăn trước mắt, phục hồi sản xuất kinh doanh để tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ hoàn trả trong thời gian tiếp theo.
Bên thuê có ý định lừa đảo: Tài sản thuê vẫn khai thác có hiệu quả nhưng bên thuê dây dưa không trả nợ mà lấy nguồn thu từ dự án dùng vào mục đích khác. Với nguyên nhân này, khi các khoản thuê bắt đầu phát hiện có vấn đề, công ty cho thuê tài chính cần phải có biện pháp mạnh, dứt khoát quyết liệt nagya từ đầu buộc bên thuê phải thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp số tiền bỏ ra tài trợ, trong các trường hợp như
Xảy ra vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính dẫn tới tranh chấp, phải tố tụng tại các cơ quan chức năng, dẫn tới trì trệ hoạt động sản xuất, tài sản thuê phải ngừng hoạt động, không được bảo dưỡng và bị xuống cấp dẫn tới giá trị thu hồi thấp.
Công ty cho thuê tài chính tài trợ khách hàng với lãi suất cố định trong khi phải đi huy động vốn với lãi suất thả nổi. Khi lãi suất huy động vốn trên thị trường biến động theo chiều hướng tăng lên thì lãi suất cho thuê thu về không đủ bù đắp cho chi phí bỏ ra để có số vốn tài trợ ban đầu gây thiệt hại vốn cho công ty.
1.2.2.2. Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là những rủi ro liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện cho thuê. Các rủi ro hoạt động bao gồm:
Rủi ro về dự án đầu tư:
Hoạt động thuê tài chính gắn liền với quá trình thực hiện dự án đầu tư của bên thuê. Vì vậy hiệu quả của dự án đầu tư quyết định đến khả năng trả tiền thuê của bên thuê tài chính.
Rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng mua tài sản, hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng cho thuê tài chính là văn bản pháp lý cao nhất xác định giao dịch thuê tài chính giữa bên thuê và bên cho thuê. Các rủi ro pháp lý thường gặp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng có thể là: người ký hợp đồng không đúng quy định, loại tài sản thuê trong hợp đồng không đúng với tài sản thuê trong thực tế, hay một số điều khoản thỏa thuận không đúng quy định của pháp luật...
Các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua tài sản có thể là do nhà cung cấp tài sản không có thực hoặc đã phá sản giải thể trong khi đã chuyển tiền mua tài sản. Có trường hợp các điều khoản trong hợp đồng không phù hợp với thông lệ quốc tế (trường hợp tài sản phải nhập khẩu), mô tả về tài sản, giao nhận, giá cả, bảo hiểm, bảo hành, bảo trì...không rõ ràng, khi xảy ra tranh chấp gây thiệt hại lớn cho bên cho thuê.
Cũng như vậy, các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kêt và thực hiện hợp đồng bảo hiểm tài sản có thể là do: các điều khoản không được xác định rõ ràng dẫn đến bên bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc chỉ bồi thường một phần thiệt hại; rủi ro đối với tài sản thuê không thuộc phạm vi bảo hiểm...
Rủi ro về tài sản cho thuê.
Loại rủi ro này liên quan đến giá trị còn lại (giá trị thu hồi) của tài sản cho thuê, có thể do các nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân liên quan đến chất lượng tài sản thuê: tài sản sau khi cho thuê có thể bị lỗi thời, hư hỏng, mất phẩm chất hoặc tài sản thuộc loại hàng chuyên dùng, đặc chủng nên không chuyển nhượng, cho thuê lại hoặc bán đi được.
- Tài sản thuê bị mất hoặc không được mua bảo hiểm nên khi rủi ro xảy ra với tài sản làm tài sản hư hỏng không có nguồn để bù đắp. Nếu tài sản do nhà cung cấp giao cho người cho thuê không đúng theo hợp đồng thì không được phép kinh doanh.
- Nguyên nhân do phía nhà cung cấp cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của công ty cho thuê. Có nhiều cách để nhà cung cấp thực hiện ý đồ của mình, nhưng điển hình nhất vẫn là thông đồng với người thuê để làm sai lệch giá tài sản so với thị trường, gây thiệt hại cho công ty cho thuê tài chính.
1.2.2.3. Rủi ro khác
Bên cạnh hai nhóm rủi ro trên, có thể có các nguyên nhân khác nữa trên các phương diện sau:
Rủi ro do môi trường kinh doanh biến động: Tình hình kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho thuê tài chính. Kinh tế lâm vào suy thoái, mất ổn định làm cho việc sản xuất bị trì trệ, các doanh nghiệp sẽ giảm nhu cầu thuê máy móc thiết bị, khả năng trả lãi cho thuê cũng giảm do lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm.
Rủi ro do tiến bộ khoa học kĩ thuật: Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, nếu không kịp thời đổi mới, tài sản cho thuê sẽ trở nên lạc hậu hoặc ngày càng suy giảm chất lượng-hao mòn vô hình.
Rủi ro bất khả kháng: do các nguyên nhân như: thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, khủng bố...
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
a, Nợ xấu:
Nợ xấu và phân loại nợ xấu của các tổ chức tín dụng được pháp luật nước ta quy định trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc Ngân hàng nhà nước. Theo Nghị định này, Nợ xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại hoặc các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà công ty cho thuê tài chính có đủ cơ sở đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì công ty cho thuê tài chính chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ thuộc nợ xấu.
Trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với công ty cho thuê tài chính mà có bất kỳ khoản nợ nào bị xếp vào nhóm nợ xấu thì các khoản nợ còn lại của khách hàng đó cũng bị xếp vào nhóm nợ xấu đó.
Để có thể đánh giá mức độ nợ xấu của công ty cho thuê tài chính ta dùng công thức sau:
Nợ xấu
Công thức : Tỷ lệ nợ xấu (%) = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc là nợ xấu trong một trăm đồng dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này là căn cứ để đánh giá chất lượng cho thuê tài chính.
b, Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn (%): Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc đã quá hạn trong một trăm đồng dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng công tác thẩm định cho thuê cùng với năng lực quản lý tài sản cho thuê sau khi đã giải ngân.
Công thức: Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê
- Tỷ lệ nợ quá hạn ròng (%): Đây là chỉ tiêu nợ quá hạn đã được điều chỉnh bởi quỹ dự phòng rủi ro. Chỉ tiêu này có ý nghĩa phản ánh về hoạt động của công ty ở khía cạnh mức độ an toàn trong kinh doanh cũng như khả năng chống đỡ cũng như khả năng chống đỡ của công ty trước các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Nợ quá hạn – Dự phòng rủi ro
Công thức : Tỷ lệ nợ quá hạn ròng = x 100%
Dư nợ cho thuê – Dự phòng rủi ro
c, Lãi treo:
Lãi treo là các khoản lãi cho thuê đến hạn mà khách hàng không trả được nên công ty cho thuê tài chính đưa ra ngoại bảng để theo dõi.
Chỉ tiêu này cho biết đồng vốn của công ty cho thuê tài chính đem đầu tư có thu được hiệu quả hay không. Chỉ tiêu này cũng phản ánh về mức độ rủi ro của hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu ở khía cạnh hiệu quả sinh lời của vốn kinh doanh, đồng thời thể hiện chất lượng của hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro hoạt động cho thuê tài chính thành hai nhóm là các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan, cụ thể như sau:
a, Các nhân tố khách quan:
Chính sách kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý:
Chính sách kinh tế vĩ mô có tác động lên toàn bộ nền kinh tế, từ đó có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bên thuê. Một khi Chính phủ có những chính sách phù hợp, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trả lãi cho thuê của các doanh nghiệp thuê tài chính cao hơn, giảm thiểu rủi ro cho các công ty cho thuê tài chính.
Môi trường pháp lý cũng có những tác đến động rủi ro hoạt động cho thuê tài chính. Pháp luật quy định tất cả các yếu tố trong quy trình cho thuê tài chính, từ loại tài sản thuê, đến đăng kí quyền sở hữu, lãi suất, các nghiệp vụ bảo lãnh...Vì vậy, môi trường pháp lý tốt tạo niềm tin cho những người tham gia, có thể bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên, đồng thời không có kẽ hỡ cho những kẻ có ý định xấu. Môi trường pháp lý thuận lợi còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính hoạt động có trật tự, hiệu quả.
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội:
Sự ảnh hưởng này dễ thấy trong thời gian vừa qua (2008), khi nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng, mà đặc biệt là ngành Ngân hàng-Tài chính, các hoạt động kinh doanh đều bị thu hẹp lại. Khi đó, đối tượng khách hàng của cho thuê tài chính không chỉ ít đi mà việc thu hồi lãi cũng trở nên khó khăn, khả năng gặp phải rủi ro của công ty cho thuê tài chính cao lên. Môi trường chính trị-xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định, thể hiện qua lối sống, thói quen, phong tục sử dụng tài sản của người kinh doanh, người tiêu dùng. Ví dụ như thói quen sử dụng đồ rẻ tiền không đảm bảo chất lượng có thể dẫn tới việc tài sản nhanh chóng xuống cấp, hư hỏng không thu hồi về được.
Môi trường tự nhiên:
Bên cạnh các yếu tố của tự nhiên như về thiên tai, địch họa có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố khí hậu của từng quốc gia cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính. Khí hậu phức tạp, điều kiện tự nhiên không ổn định còn làm cho việc bảo quản, sử dụng tài sản cho thuê khó khăn, tài sản thuê nhanh hỏng, sử dụng không hiệu quả, dẫn tới khả năng thu hồi thấp.
b,Các nhân tố chủ quan:
Về phía công ty cho thuê tài chính:
- Mô hình tổ chức và nguyên tắc quản trị điều hành:
Công ty cho thuê tài chính có mô hình tổ chức hợp lý, các nhiệm vụ của phòng ban được phân công cụ thể, cùng với quản trị chặt chẽ sẽ giúp công ty hoạt động có hiệu quả hơn, từ đó hạn chế được các rủi ro.
- Chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng cán bộ tín dụng sẽ quyết định việc sàng lọc các dự án tốt, khách hàng tốt. Để có thể có đánh giá một cách chính xác về khách hàng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực chuyên môn đầy đủ, bên cạnh đó phải có khả năng phân tích, am hiểu nhiều về lĩnh vực kinh doanh cũng như môi trường sống của khách hàng. Cán bộ tín dụng còn phải có khả năng dự báo, đồng thời cũng phải tinh nhanh trong việc phát hiện số liệu, hồ sơ giả do khách hàng cung cấp. Rủi ro có thể xảy ra trong toàn bộ quá trình cho thuê tài chính, vì vậy có năng lực chuyên môn thôi là chưa đủ, đạo đức nghề nghiệp cũng là yếu tố vô cùng quan trọng đối với cán bộ tín dụng. Thiếu ý thức trách nhiệm, cố ý bỏ sót thủ tục cho thuê hay thông đồng với khách hàng có thể dẫn tới những rủi ro khó có thể khắc phục trong cho thuê tài chính.
- Các quy định, quy trình cho thuê tài chính của công ty
Dựa trên những quy định chung của pháp luật, mỗi công ty cho thuê tài chính có những quy định riêng và quy trình cho thuê tài chính riêng. Nếu các quy định này không chặt chẽ sẽ tạo nhiều sơ hở trong quá trình thực hiện, chất lượng cho thuê phụ thuộc nhiều vào quy trình thẩm định cũng như xét duyệt khoản thuê. Các bảng biều, chỉ số chấm điểm khách hàng, chỉ số đánh giá khách hàng, nội dung phân tích dự án nếu không chặt chẽ, đầy đủ có thể dẫn tới những quyết định sai lầm của cán bộ tín dụng. Đồng thời sự phân cấp trách nhiệm phân tích, đánh giá, xét duyệt đến lãnh đạo phụ trách và người ra quyết định cũng góp phần nâng cao hiệu quả giám sát chất lượng thẩm địnhm đảm bảo cho việc quyết định cho thuê tài chính là đúng đắn, mang lại lợi nhuận và sự an toàn cho hoạt động cho thuê tài chính.
- Chính sách khách hàng:
Bên cạnh việc khuyến khích khách hàng, chính sách khách hàng phù hợp sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt, phù hợp với mục tiêu của công ty và kiểm soát được rủi ro ngay từ đầu.
Về phía khách hàng thuê tài chính
- Do kinh doanh thua lỗ:
Việc kinh doanh thua lỗ của khách hàng có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do năng lực kinh doanh thấp, gặp một số tác động ngoài dự kiến, không nắm bắt được nhu cầu thị trường... Làm ăn thua lỗ làm cho bên thuê không đủ năng lực tài chính để hoàn tất lãi cho thuê, cũng như không có khả năng mua lại tài sản thuê. Đây là một rủi ro lớn. khó khắc phục đối với công ty cho thuê tài chính.
- Khách hàng thuê chủ định lừa đảo:
Khách hàng có thể có nhiều thủ đoạn tinh vi để qua mặt công ty cho thuê tài chính, mà cán bộ thẩm định khó có thể phát hiện. Khách hàng có thể làm đẹp báo cáo tài chính, làm hiện trường giả, thậm chí là thông đồng với nhà cung cấp để hạ giá tài sản thuê. Trong những trường hợp rủi ro này, công ty cho thuê tài chính được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên vẫn là bên chịu thiệt thòi đầu tiên và tổn thất lớn nhất.
1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
1.3.1. Khái niệm
Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính là quá trình phân loại, đánh giá rủi ro để từ đó đưa ra các chính sách, biện pháp, quy chế, nghiệp vụ nhằm ngăn chặn, phòng ngừa giảm thiểu rủi ro xảy ra trong hoạt động cho thuê tài chính cũng như giải quyết rủi ro đã xảy ra sao cho hiệu quả tác động đến hoạt động cho thuê tài chính xuống mức thấp nhất có thể.
Rủi ro có thể xảy ra trong suốt quá trình hoạt động cho thuê tài chính. Vì vậy để có thể hạn chế rủi ro, việc quản lý rủi ro cũng là một quá trình liên tục bắt đầu từ khâu thẩm định trước khi cho thuê, phê duyệt cho thuê, giải ngân, theo dõi khoản thuê, đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm về tình trạng của khách hàng, quản lý các khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại cho các công ty cho thuê tài chính.
1.3.2. Nội dung quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
Theo như định nghĩa, việc quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính diến ra trong suốt quá trình cho thuê. Vì vậy nội dung của hoạt động quản lý cũng bao gồm tất cả các khâu, cụ thể như sau:
Xây dựng chính sách cho thuê phù hợp
Một chính sách cho thuê tài chính phù hợp sẽ đảm bảo đưa hoạt động cho thuê tài chính phát triển theo đúng định hướng, đạt được mục tiêu an toàn-hiệu quả, tăng trưởng bền vững và kiểm soát được rủi ro cũng như tiến dần đến thông lệ quốc tế. Để đạt được như vậy, chính sách cho thuê tài chính phải được xây dựng và thực thi trên những nội dung cơ bản sau:
- Xác định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tham gia quá trình cho thuê, cơ chế phân cấp, ủy quyền trong phê duyệt cho thuê tài chính.
- Xác định thị trường và các lĩnh vực cho thuê, xây dựng các giới hạn an toàn trong hoạt động cho thuê.
-Xây dựng chính sách khách hàng trong hoạt động cho thuê tài chính.
Xây dựng hệ thống các công cụ đo lường và định hạng rủi ro cho thuê tài chính
- Chấm điểm khách hàng
Công ty cho thuê tài chính chấm điểm khách hàng để phân loại khách hàng. Việc chấm điểm bảo gồm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của khách hàng, và từ đó có những chính sách tín dụng với tứng khách hàng và nhóm khách hàng. Việc chấm điểm được xây dựng theo một mô hình khoa học, với các chỉ tiêu-hệ số cụ thể sao cho có kết quả đầy đủ và chính xác nhất về khách hàng. Hiện nay hầu hết các công ty cho thuê tài chính đều có phần mềm chấm điểm khách hàng.
- Phân loại khoản cho thuê:
Khoản cho thuê được thực hiện phân loại theo chất lượng và mức độ rủi ro. Khoản cho thuê có chất lượng cao thì có tỷ lệ rủi ro thấp và ngược lại. Việc phân loại khoản cho thuê cần được các công ty cho thuê tài chính thực hiện thường xuyên để theo dõi, phân tích và có phương án xử lý kịp thời đối với rủi ro phát sinh trong từng khoản cho thuê để giúp bảo toàn vốn và thu được lợi nhuận.
- Định hạng rủi ro công ty:
Bên cạnh việc phân loại các khoản cho thuê như đã nói ở trên, các công ty cho thuê tài chính phải thực hiện phân loại về mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính để giúp cho các cấp điều hành chỉ đạo, khắc phục kịp thời các tồn tài, đối phó với các rủi ro tiềm ẩn, từ đó giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động cho thuê tài chính.
- Đánh giá nhà cung cấp, đánh giá tính hợp lý của tài sản cho thuê
Rủi ro có thể xảy ra ở mọi góc cạnh, vì vậy cần đánh giá một cách toàn diện. Các công ty cho thuê tài chính không chỉ đánh giá khách hàng, đánh giá chung về khoản thuê mà còn phải đánh giá cả bên cung cấp tài sản cũng như tính hợp lý của tài sản thuê, để tránh những rủi ro về ngay từ khi bắt đầu kí hợp đồng.
Quản lý, giám sát danh mục cho thuê:
- Xây dựng danh mục: mục tiêu của công ty cho thuê tài chính là xây dựng được một danh mục cho thuê tài chính an toàn hiệu quả. Tài sản cho thuê phải được phân bổ một cách hợp lý vào các lĩnh vực ngành nghề theo các giới hạn quy định, tránh tập trung cho thuê quá mức, thực hiện phân tán rủi ro, tránh “bỏ nhiều trứng vào một giỏ”
- Rà soát, phân tích rủi ro : Danh mục cho thuê phải được rà soát và có các báo cáo định kỳ về xu hướng rủi ro, các nguy cơ rủi ro chính, các lĩnh vực rủi ro cao của danh mục và có các biện pháp áp dụng, giảm thiểu rủi ro.
- Điều chỉnh danh mục: Trên cơ sở rà soát, phân tích rủi ro ảnh hưởng đến khả năng giảm sút thu nhập và mất vốn của danh mục cho thuê hiện tại, thực hiện việc điểu chỉnh danh mục cho thuê tài chính một cách kịp thời, hợp lý nhằm tạo sự cân đối của danh mục giữa các tài sản có độ rủi ro cao và các tài sản có độ rủi ro thấp, từ đó tạo ra thu nhập và điều tiết rủi ro.
Trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro:
Việc trích lập dự phòng rủi ro là việc mà bất kỳ tổ chức tín dụng nào cũng phải làm. Vì vậy công ty cho thuê tài chính phải thường xuyên thực hiện việc phân loại tài sản “Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để chủ động xử lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
Xây dựng hệ thống thông tin quản trị rủi ro hoạt động cho thuê tài chính:
Hệ thống thông tin rủi ro hoạt động cho thuê tài chính phải được xây dựng để đảm bảo cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động cho thuê tài chính một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác và thường xuyên cập nhật nhằm giúp cho các cấp lãnh đạo quản trị hoạt động cho thuê tài chính có hiệu quả, hạn chế thiệt hại do thiếu thông tin.
Hệ thống thông tin rủi ro hoạt động cho thuê tài chính được chia làm hai lĩnh vực
- Các thông tin có tính vĩ mô, định hướng: Bao gồm môi trường kinh tế vĩ mô, các định hướng, chính sách kinh tế của Nhà nước có ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính.
- Các thông tin phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính: gồm các thông tin từ khách hàng thuê tài chính; hệ thống thông tin phục vụ cho quản trị điều hành hoạt động cho thuê tài chính như báo cáo thực trạng hoạt động cho thuê tài chính, dự báo xu hướng phát triển, báo cáo xu hướng rủi ro hoạt động cho thuê tài chính, báo cáo tổng kết ...
Các báo cáo bao gồm:
Báo cáo về tính hình tập trung cho thuê tài chính.
Những vấn đề trong danh mục cho thuê tài chính theo đó chỉ ra những khoản cho thuê có vấn đề, khoản cho thuê cần chú ý và những khoản thuê có thể bị mất.
Tình trạng các khoản cho thuê đã được cơ cấu lại.
Những khu vực cho thuê tài chính tăng trưởng nhanh.
Hàng năm hoặc hàng quý, hội đồng quản trị phải nhận được báo cáo về những khoản có khả năng mất vốn trong tình huống thay đổi bát lợi của nền kinh tế hoặc khủng hoảng.
Các báo cáo lên ban điều hành: Báo cáo định kỳ về xu hướng rủi ro trong lĩnh vực cho thuê tài chính; Báo cáo về danh mục cho thuê và các rủi ro chính; Báo cáo định kỳ về mức độ tập trung của danh mục cho thuê và việc duy chuyển các khoản thuê; Báo cáo đột xuất theo yêu cầu khi phát sinh các vấn đề về cơ chế chính sách.
Chương II Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
2.1. Tổng quan về công ty cho thuê tài chính – BIDV.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Ngày 27/5/1995, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra Quyết định số 149/QĐ-NH5 về việc ban hành thể lệ Tín dụng thuê mua. Theo đó, Công ty Tín dụng thuê mua trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chính thức được thành lập theo Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 128/ QĐ-NH5 ngày 26/4/1995.
Để tạo một hành lang thông thoáng hơn cho hoạt động cho thuê, tháng 10/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/NĐ-CP quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam. Sau 3 năm hoạt động cho thuê một cách dè dặt như một chi nhánh trực thuộc của ngân hàng, tháng 9/1998 Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tiền thân là Công ty tín dụng thuê mua, đã chính thức được thành lập theo Quyết định số 305/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Công ty Cho thuê tài chính BIDV là một doanh nghiệp nhà nước và là một trong những Công ty cho thuê tài chính được thành lập rất sớm, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này. Điều 2 của Quyết định số 305 này quy định: “Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một pháp nhân; là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp vốn điều lệ; có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quy định tại Điều lệ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.”
Một số nét về công ty như sau:
Tên gọi đầy đủ của công ty bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Anh: Financial Leasing Company of Bank for Investment and Development of Viet Nam.
Tên viết tắt bằng tiếng Anh: BIDV Leasing Co. (BLC)
Vốn điều lệ được cấp ban đầu : 55 tỷ đồng. Năm 2001 vốn điều lệ tăng lên là 102 tỷ đồng Việt Nam. Cuối năm 2006 vốn điều lệ tăng lên 200 tỷ đồng.
2.1.2. Hoạt động và cơ cấu tổ chức của công ty
a, Hoạt động của công ty
Hiện nay, Công ty cho thuê tài chính BIDV cung cấp các dịch vụ:
Cho thuê tài chính: là một hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn trong đó Công ty cho thuê tài chính BIDV sẽ đứng ra mua các máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận. Trong thời hạn thuê, tài sản thuê vẫn thuộc sở hữu của công ty; doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng tài sản thuê vào mục đích kinh doanh và có nghĩa vụ bảo dưỡng, mua bảo hiểm tài sản thuê và trả phí thuê. Hêt thời hạn thuê, tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp với giá chọn mua danh nghĩa.
Cho thuê ủy thác: Công ty nhận vốn ủy thác của các tổ chức khác để thực hiện cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp do các tổ chức đó chỉ định.
Mua và cho thuê lại: Công ty mua các tài sản trước đây thuộc sở hữu doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê lại. Đây là một hình thức tháo gỡ khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp.
Tư vấn về cho thuê tài chính: Công ty sẽ tư vẫn cho cac doanh nghiệp về các giải pháp đàu tư vốn và công nghệ có liên quan đến dịch vụ thuê tài chính.
Nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê: Công ty sẽ đứng ra nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê mà doanh nghiệp yêu cầu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhập khẩu ủy thác.
b, Cơ cấu tổ chức
Nguyên tắc tổ chức và điều hành
Công ty cho thuê tài chính BIDV chịu sự quản lý của của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về vốn, về kế hoạch phát triển kinh doanh, về tổ chức nhân sự và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ.
Công ty thực hiện các nghiệp vụ theo quy định của pháp luật về tài chính, tín dụng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Công ty chịu sự quản lý, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Mô hình tổ chức
Từ một mô hình tổ chức đơn giản năm 1998 với 01 Ban lãnh đạo, 03 phòng chức năng Kinh doanh, Tổng hợp, Kế toán, đến tháng 10 năm 2001 công ty Cho thuê tài chính BIDV thành lập Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11 năm 2008 mô hình tổ chức và hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính BIDV như sau:
+ Hội sở chính gồm có Ban Giám đốc, phòng Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ và 8 phòng chức năng là Phòng Quan hệ khách hàng I, phòng Quan hệ khách hàng II, phòng Quản lý rủi ro, phòng Quản trị tín dụng, phòng Cho thuê nội ngành, phòng Kế hoạch-Tổng hợp, phòng Tài chính-Kế toán, phòng Tổ chức-Hành chính,
+ Chi nhánh Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh (được nâng cấp thành Công ty Cho thuê tài chính II Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam từ tháng 1 năm 2005)
Tuân thủ theo các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước, được sự chấp thuận của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, công ty Cho thuê tài chính BIDV thực hiện mô hình tổ chức mới như sau:
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban kiểm soát HĐQT
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng tổ chức Hành chính
Phòng Tài chính Kế toán
Phòng Quản lý Rủi ro
Phòng Kế hoạch Tổng hợp
Phòng Quản trị tín dụng
Phòng Quan hệ khách hàng I
Phòng Quan hệ khách hàng II
Phòng Cho thuê nội ngành
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính BIDV từ tháng 11/2008
Với mô hình như trên, chức năng nhiệm vụ các phòng ban được quy định cụ thể hơn, chuyên môn hóa cao hơn, tạo được sự phối hợp liên kết giữa các bộ phận, phòng ban chức năng với nhau. Các quyết định, chính sách của Công ty đưa ra đều dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá và có sự tham gia của số đông mà không mang tính chất chủ quan của một người quyết định (giám đốc, phó giám đốc). Vì vậy, mô hình tổ chức mới mang tính ưu việt, chuyên môn và năng động hơn so với mô hình quản trị cũ.
2.2. Thực trạng quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính BIDV
2.2.1.Thực trạng về hoạt động cho thuê tài chính
Tiếp theo năm 2005, năm 2006 là năm rất khó khăn của Công ty sau 8 năm hoạt động, các khoản nợ xấu đã bùng phát, việc quản lý, quản trị điều hành đã bộc lộ nhiều sai sót, kết quả kinh doanh của Công ty sa sút, lợi nhuận thấp nhất sau 8 năm hoạt động, tỷ lệ Nợ xấu/Dư nợ ngoại ngành gần 16%. Các cuộc thanh kiểm tra kéo dài đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý cán bộ.
Cuối năm 2006, Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam quyết tâm._.êu
Năm 2009
Năm 2010
1
Chênh lệch thu chi trước trích DPRR
59,5
78,3
2
Trích Dự phòng rủi ro
15
20
3
Lợi nhuận trước thuế
44,5
58,3
Thu nợ hạch toán ngoại bảng
10,5
7
4
Lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người
354trđ/người
394trđ/người
5
ROE
12,8%
12%
6
ROA
1,6%
1,74%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2008 Công ty cho thuê tài chính –BIDV
Công ty dự kiến năm 2009 vốn điều lệ công ty được cấp tăng lên 300 tỷ đồng, vốn bình quân là 250 tỷ đồng. Năm 2010 dự kiến vốn điều lệ được cấp bổ sung là 500 tỷ đồng, vốn bình quân là 350 tỷ đồng (dự kiến cấp vốn vào cuối năm). Do vốn điều lệ năm 2010 là 500 tỷ đồng nên chỉ số ROE năm 2010 giảm nhẹ so với năm 2009.
3.1.3. Định hướng phát triển 2009-2010
- Công tác nguồn vốn: Chủ động trong cân đối nguồn vốn hoạt động, đáp ứng đủ vốn cho tăng trưởng kinh doanh, tạo nền móng ổn định
- Cho thuê mới: Năm 2009 Công ty xác định sẽ là năm khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Do đó mức tăng trưởng tín dụng năm 2009-2010 Công ty dự kiến chỉ tăng trưởng khoảng 24-26%.
- Thu hồi, xử lý nợ xấu: Thực hiện phân loại nợ chính xác, trung thực, phản ánh đúng bản chất khoản vay để có biện pháp chủ động phòng ngừa, xử lý. Xây dựng phương án, kế hoạch xử lý thu hồi nợ quyết liệt, về nguyên tắc đối với các khoản nợ từ nhóm 3 trở xuống sẽ tiến hành thông báo chấm Hợp đồng cho thuê tài chính và thu hồi tài sản thuê để xử lý nợ. Quyết liệt đối với những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, đạo đức kém, khởi kiện những doanh nghiệp chây ỳ, trốn tránh trả nợ, tận thu lãi treo.
- Phát triển nguồn nhân lực.
Theo lộ trình năm 2010 thì lĩnh vực cho thuê tài chinh sẽ được mở cửa hoàn toàn, do đó để có thể hội nhập và phát triển, công ty xác định công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực sẽ là yêu cầu quan trọng, bố trí đúng người, đúng việc, phát huy thế mạnh bản thân. Công tác tuyển dụng cán bộ thực hiện đúng quy trình, quy định.
Vận hành tốt mô hình TA2 đề ra vào năm 2008, mạnh dạn quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ trẻ có năng lực, tâm huyết. Xây dựng cơ chế phấn đấu nhưng có đào thải để tránh sức ỳ trong cán bộ.
- Phát triển thương hiệu doanh nghiệp: Tăng cường quảng bá, xây dựng hình ảnh Công ty như xây dựng website, phục vụ tư vấn, cung cấp thông tin cho khách hàng qua mạng internet, quảng cáo, tiếp thị...
3.2.Giải pháp nâng cao quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV
Trong hoạt động cho thuê tài chính, rủi ro là một phạm trù luôn song hành cùng, việc “xóa sạch rủi ro” là rất khó. Rủi ro có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách nhau, và để lại nhiều thiệt hại lớn. Do đó việc quản lý rủi ro và nâng cao quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính là rất cần thiết và hết sức quan trọng. Tuy nhiên mỗi Công ty cho thuê tài chính phải tự tìm ra giải pháp quản lý rủi ro phù hợp nhất và có hiệu quả nhất. Xuất phát từ những rủi ro gặp phải cũng như những định hướng và mục tiêu mà đã đề ra, Công ty cho thuê tài chính-BIDV cần phải đưa ra những giải pháp sau nâng cao khả năng quản lý rủi ro như sau:
3.2.1. Thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Việc thực hiện phân tán rủi ro đòi hỏi Công ty cho thuê tài chính-BIDV phải không ngừng đổi mới trên nhiều phương diện và nhiều mặt hoạt động, bao gồm:
- Thực hiện nhiều hình thức cho thuê tài chính
Cho đến nay hình thức cho thuê tài chính chủ yếu của Công ty cho thuê tài chính-BIDV là cho thuê ba bên, Công ty cần tăng cường cho thuê theo các hình thức khác như mua và cho thuê lại, cho thuê ủy thác (các hình thức này đã thực hiện nhưng rất ít). Công ty cho thuê tài chính-BIDV cũng cần phối hợp với các công ty cho thuê tài chính khác thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính hợp vốn, mạn dạn thực hiện hình thức cho thuê giáp lưng nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động cho thuê tài chính, giúp Cong ty phân tán được rủi ro mà vẫn không bị mất nguồn thu từ phương án kinh doanh khả thi.
- Đa dạng hóa ngành nghề cho thuê, khách hàng cho thuê, tài sản cho thuê.
Thực tế phân tích nợ quá hạn của Công ty cho thấy, nợ quá hạn chủ yếu tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp đang thi công và xây lắp (khai thác mỏ, xây dựng) do không thu được tiền công trình và doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề sử dụng tài sản khó chuyển nhượng hoặc dự án đầu tư không hiệu quả (điển hình là Công ty PG Rồng Biển- cho thuê thiết bị trò chơi. Vì vậy Công ty không nên tập trung cấp nhiều tín dụng cho một ngành nghề mà cần phải mở rộng cho thuê trên nhiều lĩnh vực, đồng thời lựa chọn những dự án kinh doanh không sử dụng các tài sản đặc chủng, khó thanh lý, thu hồi.
Cũng với mục đích như trên là phân tán rủi ro, việc cho vay cũng không nên tập trung vào một doanh nghiệp. Có một số doanh nghiệp là bạn hàng lâu năm của Công ty và làm ăn hiệu quả, nhưng việc đa dạng hóa khách hàng là việc nên làm vì nếu doanh nghiệp cho thuê gặp khó khăn đột xuất xảy ra thì công ty cho thuê tài chính vẫn phải chịu tổn thất lớn.
3.2.2. Thiết lập các quy trình liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính và thực hiện tốt các quy trình này
Với quy trình cho thuê tài chính, cần phải làm rõ công việc cụ thể của từng bộ phận, từng giai đoạn. Trách nhiệm cụ thể của từng phòng, từng cán bộ thực hiện các công đoạn của cho thuê. Hiện nay Công ty đã ban hành quy trình cho thuê tài chính nội ngành và cho thuê tài chính ngoại ngành, tuy nhiên vẫn chưa cụ thể hóa trách nhiệm của từng phòng trong quy trình.
Quy trình thẩm định phải được quy định chặt chẽ, được phân theo từng đối tượng khách hàng, từng ngành nghề. Quy trình thẩm định của Công ty được áp dụng cho tất cả các đối tượng sẽ không cho một kết quả thực sự sát sao và không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của từng ngành nghề. Tuy nhiên việc xây dựng các quy trình (từ quy trình cho thuê, quy trình thẩm định đến quy trình cơ cấu lại thời hạn trả nợ, quy trình bán nợ...) có mối liên hệ chặt chẽ, Công ty phải đảm bảo được tính thống nhất, đồng bộ trong tất cả các quy trình, kịp thời phát hiện ra các kẽ hở, kịp thời chỉnh sửa để tạo sự thuận lợi trong quá trình tác nghiệp và đảm bảo an toàn.
Cho đến nay, Công ty đã xây dựng được Quy trình cho thuê tài chính, quy trình thẩm định, quy trình xử lý nợ xấu nhưng vẫn chưa có quy trình quản lý rủi ro. Vì vậy việc thiết lập quy trình quản lý rủi ro là rất cấp thiết. Quy trình quản lý rủi ro đòi hỏi phải được thực hiện trước, trong và sau khi cho thuê tài chính.
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định
Có thể nói thẩm định là nhiệm vụ quan trọng nhất trong quá trình quản lý tín dụng cũng như trong quá trình thực hiện cho thuê tài chính. Nội dung thẩm định phải bao gồm được hết các nội dung
- Thẩm định năng lực pháp lý:
Khách hàng được chia thành tư nhân và pháp nhân, đối với pháp nhân lại được chia theo: Công ty CP, Cty TNHH, Cty tư nhân. Cán bộ QHKH kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và đầy đủ các văn bản pháp lý do doanh nghiệp gửi đến. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những yêu cầu pháp lý khác nhau.
- Thẩm định về năng lực và uy tín của bên thuê
Cán bộ QHKH phải kiểm tra tính phù hợp của ngành nghề kinh doanh ghi trong đăng kí kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và phù hợp với dự án dự kiến đầu tư. Phải tìm hiểu xem mô hình tổ chức, bố trí lao động của bên thuê có hợp lý không, trình độ tay nghề có đảm bảo không? Tìm hiểu về năng lực chuyên môn của ban quản trị điều hành, quan hệ của bên thuê với các tổ chức tín dụng. Dư nợ đối với các chi nhánh trong BIDV là bao nhiêu? Với các tổ chức tín dụng khác là bao nhiêu?
- Thẩm định tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của bên thuê
Nguyên tắc để đánh giá bên thuê cần đặt ra là: Việc tính toán các chỉ số để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của, tài chính của bên thuê cần phải được thực hiện qua nhiều năm. Khi đánh giá, nhận xét, cán bộ tín dụng phải nhìn một cách tổng thể về các chỉ tiêu khi đánh giá và có so sánh với thực tế, đặc điểm kinh doanh của bên thuê để việc đánh giá được chính xác và toàn diện.
Để xác định những điểm mạnh, điểm yếu hiện tại của một doanh nghiệp qua việc tính toán và phân tích những tỷ số khác nhau sử dụng những số liệu từ các báo cáo tài chính. Cán bộ tín dụng cần phải tìm ra được các mối liên hệ giữa các tỷ số tính toán được để có thể đưa ra những kết luận chính xác về bên thuê. Hoàn toàn không có một chuẩn mực nào cho phần phân tích theo từng tỷ số. Một hoặc một số chỉ số là tốt cũng chưa thể kết luận là doanh nghiệp đang trong tình trạng tốt. Do vậy các mối quan hệ giữa các tỷ số là mục đích cuối cùng của phân tích tài chính của doanh nghiệp.
- Thẩm định dự án thuê tài chính
Không có một chuẩn mực chung nào về dự án thuê tài chính, trong quá trình thẩm định dự án, tùy theo quy mô, tính chất đặc điểm của từng dự án, đề nghị thuê tài chính, tùy từng khách hàng và điều kiện thực tế, cán bộ phòng QHKH/QLRR sử dụng linh hoạt các nội dung theo mức độ hợp lý để đảm bảo hiệu quả thực hiện. Tùy theo từng dự án đầu tư cụ thể, có thể xem xét bỏ qua hoặc bổ sung thêm một số nội dung thẩm định nếu không phù hợp hoặc chưa đầy đủ so với thực tế. Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ tập trung phân tích đánh giá về khía cạnh tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Các khía cạnh khác như hiệu quả về mặt xã hội, hiệu quả kinh tế nói chung sẽ được đề cập tới tùy theo đặc điểm và yêu cầu của từng dự án. Các nội dung chính khi thẩm định dự án cần tiến hành phân tích đánh giá gồm:
+ Sự cần thiết phải đầu tư: Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu xem mục tiêu của dự án có phù hợp hay không, nếu ở mức khiêm tốn quá so với khả năng lực tài chính thì có lãng phí quá hay không? Khả năng đứng vững của dự án trên thị trường như thế nào? Lựa chọn quy mô, hình thức đầu tư có phù hợp với khả năng mở rộng thị phần, yêu cầu thị trường? Quy mô dự án, đầu tư tài sản thuê, cơ cấu vốn tự có tham gia trả trước và thuê tài chính phù hợp chưa?
+ Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án: Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án đóng vai trò rất quan trọng, quyết định việc thành bại của dự án. Vì vậy cán bộ phòng QHKH, QLRR cần xem xét đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định. Các nội dung cần xem xét, đánh giá gồm: đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm của dự án, đánh gí về cung sản phẩm, thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án (gồm thị trường nội địa và thị trường nước ngoài), phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối, đánh giá và dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án.
+ Đánh giá khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào: Trên cơ sở hồ sơ dự án (báo cáo đánh giá chất lượng, trữ lượng tài nguyên, giấy phép khai thác tài nguyên, nguồn thu bên ngoài, nhập khẩu...) và đặc biệt tính kỹ thuật của dây chuyền công nghệ, việc đánh giá khả năng này của doanh nghiệp phải kết luận được hai vấn đề: Dự án có chủ động được nguồn nguyên nhiên liệu đâì vào hay không? Những thuận lợi khó khăn đi kèm với việc để có thể chủ động được nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào là gì?
+ Đánh giá, nhận xét các nội dung về phương diện kỹ thuật
+ Đánh giá vè phương diện tổ chức, quản lý thực hiện dự án
+ Thẩm định tổng mức đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn: bao gồm Tổng mức đầu tư dự án, xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án, nguồn vốn đầu tư.
+ Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án.
3.2.4. Xếp hạng rủi ro hoạt động cho thuê tài chính, tăng cường các điều kiện đảm bảo an toàn khi cho thuê và thực hiện tốt biện pháp xử lý thu hồi nợ.
Xếp hạng rủi ro
Hiện nay, Công ty cho thuê tài chính-BIDV chưa thực hiện định hạng xếp hạng rủi ro hoạt động cho thuê tài chính. Việc xếp hạng rủi ro cho từng khách hàng, từng khoản cho thuê tài chính nhằm mục đích
- Là căn cứ để đánh giá chính xác và tổng thể về mức độ rủi ro của từng hàng mục tín dụng thuê mua.
- Phát hiện nhanh những yếu tố bất lợi hay những khoản cho thuê tài chính không đúng hướng mà chính sách cho thuê tài chính đã đặt ra cho từng đối tượng khách hàng cho những giai đoạn cụ thể.
- Xác định rõ khoản cho thuê nào, tài thời điểm nào thì cần tăng sự giám sát và tưng các hoạt động điều chỉnh.
- Là căn cứ để Công ty cho thuê tài chính tạo lập danh mục cho từng khách hàng, từng khoản cho thuê tài chính.
Việc xếp hạng rủi ro dựa trên mức độ tín nhiệm và khả năng trả nợ của khách hàng, do đó đòi hỏi phải được làm chính xác, rõ ràng và nhất quán. Kết quả của xếp hạng rủi ro phải được trình bày trong tất cả các bản báo cáo, tường trình nội bộ của Công ty.
Tăng cường điều kiện đảm bảo an toàn khi cho thuê
Hoạt động cho thuê tài chính được tiến hành kéo dài trong nhiều năm. Việc thẩm định căn cứ vào điều kiện hiện tại để dự tính tương lai, vì vậy không thể bao hàm hết được các rủi ro có khả năng xảy ra. Chính vì vậy vẫn cần phải chú trọng đến các biện pháp đảm bảo an toàn nhằm phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro, các biện pháp thường sử dụng là: yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ bổ sung thêm tài sản đảm bảo, mua bảo hiểm đầy đủ cho tài sản trong suốt thời hạn thuê, nâng cao tỷ lệ tham gia trả trước. Với biện pháp nâng cao tỷ lệ tham gia trả trước, Công ty phải lựa chọn một tỷ lệ sao cho không quá cao để tạo thuận lợi cho khách hàng, nhưng cũng không quá thấp để mức độ an toàn vẫn được đảm bảo.
Thực hiện những biện pháp xử lý, thu hồi nợ xấu
Với thực trạng nợ quá hạn và nợ xấu trong giai đoạn vừa qua, trong giai đoạn 2009-2010, Công ty cần đề ra chủ trương xử lý nợ xấu như sau
+ Thực hiện phân loại nợ chính xác, trung thực, phản ánh đúng bản chất khoản vay để có biện pháp chủ động phòng ngừa xử lý
+ Xây dựng phương án, kế hoạch xử lý thu hồi nợ quyết liệt, về nguyên tắc đối với các khoản nợ từ nhóm 3 sẽ tiến hành thông báo chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính và thu hồi tài sản thuê để xử lý nợ. Quyết liệt đối với những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, đạo đức kém, khởi kiện những doanh nghiệp chây ỳ, trốn tránh trả nợ, tận thu lãi treo.
+ Sử dụng những công cụ cơ cấu lại nợ được phép như gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ để đảm bảo việc thu nợ khả thi cao, phù hợp vơi chu kỳ sản xuất kinh doanh thực tế của khách hàng.
+ Duy trì tốt quan hệ với các cơ quan pháp luật để hỗ trợ Công ty trong quá trình thu hồi tài sản.
3.2.5. Phát triển mạng lưới và nguồn nhân lực
- Về mạng lưới: Hiện nay công ty có một Phòng quan hệ khách hàng III tại Quận Long Biên-Hà Nội mà chưa có chi nhánh nào. Vì vậy việc phát triển mạng lưới là điều cần thiết, từ các chi nhánh này mà Công ty có thể tăng cường công tác tiếp thị, quản lý khách hàng, tài sản cho thuê trên các địa bàn. Sang năm 2010, Công ty sẽ mở thêm ba điểm giao dịch tại Nghệ An, Quảng Ninh, Hải Phòng với số lượng nhân sự ban đầu dự kiến khoảng 4 người/1 điểm giao dịch.
- Về nguồn nhân lực: Vai trò của nguồn nhân lực là rất quan trọng, để có thể có một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển hoạt động và đảm bảo quản lý rủi ro tín dụng tốt, công ty cho thuê tài chính nói chung và công ty cho thuê tài chính BIDV nói riêng từng bước phải thực hiện chuẩn hóa cán bộ tín dụng. Cán bộ của Công ty không chỉ là người giỏi chuyên môn mà còn phải là người có tư cách đạo đức tốt. Để làm được điều đó, Công ty cần thực hiện các chính sách:
+ Tuyển dụng: Để phục vụ cho khối kinh doanh hiện nay của Công ty, dự kiến nguồn nhân lực tăng thêm 15 người trong năm 2009 và 17 người trong năm 2010. Công tác tuyển dụng cần được thực hiện đúng quy trình, quy định, đồng thời có những chính sách giúp đỡ cán bộ trẻ có trình độ khi vào làm việc bằng cách hướng dẫn nghiệp vụ, phổ biến kinh nghiệm giúp cán bộ mới nắm vững quy trình, quy chế. Công việc tuyển dụng cũng cần được thực hiện đúng tiến độ để tạo sự giao hòa trong quá trình chuyển giao cán bộ, tránh những xáo trộn lớn làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
+ Đào tạo: Theo lộ trình năm 2010 thì lĩnh vực cho thuê tài chính sẽ được mở cửa hoàn toàn do đó để có thể hội nhập và phát triển, Công ty cần xác định công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực sẽ là yêu cầu quan trọng, bố trí đúng người, đúng việc, phát huy thế mạnh bản thân. Hơn nữa đặc thù của ngành cho thuê tài chính đòi hỏi sự hiểu biết đa dạng về thị trường, khoa học công nghệ và những kiến thức khác vì tài sản cho thuê thường rất phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau. Bên cạnh việc tích lũy kinh nghiệm trong thẩm định, cần thực hiện đòa tạo kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ. Công ty cần cử các cán bộ tham gia các khóa đào tạo do BIDV và các cơ sở ngoài hệ thống tổ chức.
+ Khen thưởng và kỷ luật: Công ty cần vận hành tốt mô hình TA2 đã đề ra, mạnh dạn quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ trẻ, có năng lực, có quyết tâm. Bên cạnh đó một chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời sẽ là động lực cho đội ngũ cán bộ. Công ty cần thực hiện tốt Quy chế trả lương kinh doanh gắn với hiệu quả công việc. Xây dựng cơ chế phấn đấu nhưng có đào thải để tránh sức ỳ trong cán bộ. Đồng thời Công ty cũng cần xây dựng cơ chế thưởng, phạt trong từng khâu công tác: tiếp thị, tăng trưởng tín dụng, chất lượng tín dụng, thu hồi xử lý nợ xấu...Dùng các chính sách thu hút nhân lực (thu nhập, chế độ đãi ngộ...), phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, tạo dựng không khí làm việc thu đua lao động, có tinh thần đoàn kết tập thể cao để người lao động găn bó với tổ chức.
3.2.6. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
Xây dựng và ứng dụng các phần mềm tiện ích trong hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực: quản lý, thẩm định, phân tích tài chính, quản lý tài sản, tạo điều kiện nâng cao chất lượng quản lý điều hành. Hệ thống thông tin quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính phải được xây dựng thành hai cấp
- Cấp thông tin có tính vĩ mô, định hướng: Bao gồm các định hướng, chính sách kinh tế của Nhà nước; hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính.
- Cấp thông tin phục vụ trực tiếp cho hoạt động quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
+ Hệ thống thông tin từ khách hàng thuê tài chính: Bên cạnh thông tìn từ báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cần thường xuyên kết hợp với nhau để trao đổi thông tin, đi khảo sát thực tế tại nơi sản xuất kinh doanh của khách hàng để tìm hiểu thông tin về: tình trạng nhà xưởng, máy móc thiết bị, kĩ thuật, quy trình công nghệ hiện có của khách hàng; địa điểm hạ tầng cơ sở nơi sẽ thực hiện dự án...
+ Các hệ thống thông tin về giá cả thị trường, tình hình cung cầu chung của thị trường. Tìm hiểu từ các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, mạng, Internet...), từ các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp...
Bên cạnh xây dựng hệ thống thông tin, Công ty cần ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tạo báo cáo, chiết xuất dữ liệu phục vụ báo cáo nghiệp vụ, quản trị điều hành tại Công ty. Xây dựng và ứng dụng các chương trình về quản lý biển số xe, chương trình tính lịch cho thuê tài chính, chương trình quản lý mọi tài sản thuê.
3.3.Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ.
- Cho phép các Công ty cho thuê tài chính thực hiện cho thuê bất động sản
Hiện nay Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép tổ chức tín dụng tiến hành cho thuê tài chính đối với đối tượng là động sản. Sở dĩ như vậy là vì thị trường bất động sản ở Việt Nam hiện nay quá thất thường, không có quy luật rõ ràng và tiềm ẩn quá nhiều rủi ro, tính thanh khoản của thị trường Việt Nam cũng thấp. Trên thực tế, việc cho thuê bất động sản rõ ràng an toàn hơn nhiều so với cho thuê động sản vì đặc tính không thể di dời của nó cũng như khả năng đảm bảo quyền sở hữu thông qua việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu và đăng ký giao dịch đảm bảo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, hiện nay, thị trường cho thuê bất động sản mà chủ yếu là cho thuê văn phòng đang có nhu cầu rất lớn, việc để các công ty cho thuê tài chính “đứng ngoài cuộc” sẽ không có lợi cho bất kỳ ai. Việc cho phép các công ty cho thuê tài chính thực hiện cho thuê bất động sản sẽ góp phần làm cho thị trường cho thuê tài chính phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có, có lợi cho các doanh nghiệp trong kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phát triển thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ.
Trên thế giới đã có nhiều nước hình thành trung tâm mua bán thiết bị, máy móc cũ. Với kinh nghiệm của các nước đi trước, Việt Nam nên phát triển hoạt động này. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn. Chính phủ cũng cần ban hành các quy định để quản lý hoạt động của thị trường mua bán này về khu vực hoạt động, quản lý chất lượng, giá cả...
- Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay, ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 95% tổng số doanh nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia, các doanh nghiệp được coi là yếu thể hiệ sau chữ M trong tiếng Anh là Man Power (nguồn nhân lực), Management (quản trị), Machinery (máy móc, công nghệ), Materials (vật tư), Marketing (tiếp thị) và cuối cùng là Money (vốn). Mặt khác loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ này rất thích hợp với hình thức huy động vốn từ cho thuê tài chính. Việc đi vay trung và dài hạn ở Ngân hàng là khó, vì các doanh nghiệp này không đáp ứng đủ yêu cầu của Ngân hàng về vốn, tài sản thế chấp, đảm bảo... Ưu điểm của cho thuê tài chính là không cần tài sản đảm bảo, giúp doanh nghiệp sử dụng đồng vốn một cách linh hoạt hơn, chủ động lựa chọn máy móc, thiết bị, nhà cung cấp cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với mình. Với lượng vốn còn khiêm tốn, và khả năng bắt kịp công nghệ còn hạn chế, cho thuê tài chính trở thành một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy để phát triển hoạt động cho thuê tài chính, Chính phủ cần hướng tới các cộng đồng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì đây là đối tượng và mục tiêu chính của hoạt động cho thuê tài chính.
3.3.2. Kiến nghị với Các Bộ, Ban, Ngành chức năng.
- Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước
Về Quy định tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc huy động vốn của các Công ty cho thuê tài chính là rât khó khăn, hiện nay vốn của các công ty chủ yếu là từ ngân hàng mẹ (đối với các công ty cho thuê tài chính thuộc Ngân hàng thương mại). Ngày 05/12/2008 Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005. Tuy nhiên, với Quyết định này, vấn đề huy động vốn từ các Ngân hàng “mẹ” của các Công ty cho thuê tài chính vẫn gặp gặp nhiều khó khăn.
- Kiến nghị với Bộ tài chính
Về vấn đề khấu hao tài sản thuê. Hiện nay tài sản cố định thuê tài chính khấu hao thường như tài sản cố định khác là chưa khuyến khích doanh nghiệp thuê tài chính. Điểm nổi bật của loại hình cho thuê tài chính là khấu hao nhanh tài sản thuê nhằm giúp doanh nghiệp sớm hiện đại hóa sản xuất, theo kịp công nghệ tiên tiến trên thế giới, đề nghị Bộ tài chính cho phép Công ty cho thuê tài chính khấu hao nhanh bằng thời gian thuê hoặc tối đa bằng 60% thời gian cần thiết khấu hao của tài sản.
- Kiến nghị với Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam
+ Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền: Mặc dù đã ra đời được 13 năm, nhưng hoạt động cho thuê tài chính vẫn còn mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. bên cạnh việc tự marketing cho hoạt động của bản thân mỗi công ty, Hiệp hội cho thuê tài chính cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức thích hợp, để các doanh nghiệp và công chúng ngày càng hiểu thêm và lựa chọn hình thức tài trợ vốn này.
+ Là cầu nối giữa Cơ quan quản lý nhà nước và các công ty cho thuê tài chính
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, ở nước ta hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng cho thuê tài chính nói riêng đang gặp phải những khó khăn thách thức không nhỏ, Hiệp hội cần nghiên cứu, theo sát tình hình, cùng các Công ty cho thuê tài chính tìm ra những giải pháp nhằm ổn địn, vượt qua khó khăn, thúc đẩy hoạt động. Hiệp hội cần tích cực báo cáo, đề xuất kiến nghị với Bộ tài chính về vấn đề thuế đối với hoạt động cho thuê tài chính; với Ngân hàng nhà nước về các biện pháp tưng dư nợ, giảm nợ quá hạn.
+ Tổ chức một số khóa đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ trong nước, phối hợp với các Trung tâm đào tạo, viện trường hoặc các tổ chức khác trong và nước ngoài để thực hiện. Đồng thời tổ chức một số đoàn đi kháo sát nghiệp vụ tại nước ngoài.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Theo quy định tại Quyết định số 34/2008/QĐ-NHNN ngày 05/12/2008 thì nguồn vốn của Công ty thời gian tới sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Công ty chưa có khả năng mở rộng huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế vì chưa có mạng lưới huy động, chi phí huy động cao. Do đó để có đủ vốn để hoạt động, Công ty cần BIDV hỗ trợ vay vốn tại các Công ty hạch toán độc lập thuộc BIDV, được tham gia vay vốn tại các tổ chức kinh tế nước ngoài và tiếp tục thực hiện nghiệp vụ mua các khoản phải thu để Công ty có vốn hoạt động.
- Theo quy định tại Nghị định 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 của Chính phủ thì các Công ty cho thuê tài chính được thực hiện cho vay vốn lưu động và bao thanh toán với điều kiện có đủ mức vốn điều lệ như đối với các công ty tài chính. Do đó để có thể mở rộng hoạt động, tăng thu dịch vụ và tăng lợi nhuận, BIDV cần cấp bổ sung vốn điều lệ cho Công ty lên 500 tỷ đồng trong năm 2009.
- Hỗ trợ cho công ty trong việc áp dụng cơ chế bán vốn FPT bằng giá mua FPT + 0.1%/ năm. Theo quy định của Chính phủ thì Công ty chỉ được huy động vốn có kỳ hạn 12 tháng trở lên của các tổ chức và cá nhân và vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Do không có mạng lưới huy động vốn nên nguồn vốn chính của Công ty là vốn vay BIDV (75% tổng nguồn vốn), để tạo điều kiện giúp Công ty kinh doanh cso hiệu quả trong điều kiện kinh tế khó khăn.
- Theo dự báo năm 2009 kinh tế sẽ khó khăn đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hoạt động của Công ty sẽ khó khăn hơn, BIDV có thể tạo điều kiện cho Công ty được tham gia các dự án có hiệu quả, các dự án có tài sản thuê dễ chuyển nhượng và tiến độ giải ngân nhanh.
- Hỗ trợ cho Công ty trong việc tuyển chọn nguồn nhân lực, công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ để kịp thời thích nghi với bối cảnh mới. Với bề dày kinh nghiệm trong thẩm định dự ấn đầu tư trung và dài hạn, BIDV sẽ hỗ trợ thực sự có hiệu quả cho Công ty trong việc truyền thụ các kinh nghiệm về thẩm định dự án, thẩm định khách hàng và phòng ngừa rủi ro.
- Hỗ trợ cho Công ty trong việc triển khai dự án hiện đại hóa công nghệ thông tin, gồm chỗ đặt máy chủ và nhân sự triển khai dự án.
- Hỗ trợ Công ty trong việc quảng bá thương hiệu, xây dựng hình ảnh của Công ty. Từ các chi nhánh của BID, có thể tư vấn cho các khách hàng về nghiệp vụ cho thuê tài chính, đồng thời giúp Công ty tìm hiểu thông tin về bên thuê đã từng là khách hàng của chi nhánh, để từ đó Công ty có thể thẩm định, xếp hạng bên thuê một cách chính xác hơn.
KẾT LUẬN
Cùng với xu thế phát triển của nên kinh tế, các tổ chức tài chính ngân hàng đang nỗ lực đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của mình mà một trong các dịch đó là cho thuê tài chính. Hoạt động tài chính ra đời trong thời gian qua đã phần nào làm giảm sức ép, giảm gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” đã giải quyết các vấn đề sau:
Nêu được lý luận chung về cho thuê tài chính và quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính bao gồm: Khái quát về sự hình thành và phát triển, khái niệm và đặc trưng của cho thuê tài chính; Rủi ro, các loại rủi ro và nội dung quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính.
Phân tích thực trạng rủi ro, quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV và một số kiến nghị lên các cơ quan chức năng có liên quan.
Mặc dù đã em đã cố gắng để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, song vấn đề về quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính là một vấn đề lớn, gồm nhiều khía cạnh mới mẻ và phức tạp, cần phải tiếp cận thực tế nhiều, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự giúp đỡ, góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo và những người quan tâm đến đề tài này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài Chính, 2002, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam
Chính phủ, 2001, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính.
Chính phủ, 2005, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 về việc bổ sung và sửa đổi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP.
Chính phủ, 2008, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định số 16/2001/NĐ-CP
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,2004, Quyết định 731/2004/NHNN ngày 15/6/2007 về việc Ban hành quy chế tạm thời về hoạt động cho thuê vận hành của các công ty cho thuê tài chính.
PGS.TS. Lưu Thị Hương,(Chủ biên), 2005, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp. NXB Thống Kê.
PGS.TS. Lưu Thị Hương và PGS.TS. Vũ Duy Hào (đồng chủ biên), 2006, Quản trị tài chính doanh nghiệp. NXB Tài Chính.
Peter S.Rose, 2001, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
TS, Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ.NXB Thống kê.
Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Báo cáo tổng kết năm 2006, 2007, 2008.
Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Sổ tay tín dụng.
Trang web của Bộ Tài Chính Việt Nam.
Trang web
Trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21451.doc