Quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tại Sở giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam

MỞ ĐẦU Sự cần thiết của đề tài. Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo Quyết định số 108/2006/QĐ – TTg ngày 19/5/2006. Ngân hàng phát triển Việt Nam là 1 tổ chức tài chính, hoạt động không vì mục đích thương mại. Đối tượng cho vay vốn tín dụng đầu tư chủ yếu là các dự án thuộc ngành, vùng kinh tế khó khăn, các chương trình kinh tế có tác động trực tiếp đến chuyển

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tại Sở giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Với mục đích khuyến khích đầu tư, nâng cao hiệu quả xã hội nên các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi như: Thời gian vay vốn dài, tài sản thế chấp cầm cố về cơ bản chỉ là tài sản hình thành từ vốn vay,... Do đó, hoạt động cho vay đầu tư chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Thực tế hiện nay, tỷ lệ nợ quá hạn tại Ngân hàng phát triển là cao, đặc biệt các dự án vay vốn thuộc đối tượng là các dự án hạ tầng giao thông, các chương trình kinh tế như chương trình đánh bắt cá xa bờ, chương trình mía đường, ... Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tại Sở giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của đề tài. Làm rõ các vấn đề lý luận về rủi ro tín dụng, các biện pháp dự báo, phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Trên cơ sở thực tế hoạt động quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tại Sở giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam, đề tài đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu những rủi ro tín dụng, thực trạng và các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng phát triển Việt Nam trên cơ sở dữ liệu từ năm 2005 đến năm 2007. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Về mặt lý luận: Tổng kết lại toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng trong thời gian qua. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động nghiên cứu lý luận và đưa ra những vấn đề cần tiếp tục phải nghiên cứu. - Về mặt thực tiễn: Tổng kết và rút ra bài học kinh nghiệm cho việc quản lý rủi ro tín dụng của Sở Giao dịch I - Ngân hàng phát triển Việt Nam. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước. Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch I – Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC. Khái niệm tín dụng đầu tư của Nhà nước: Khi mục đích của đầu tư Nhà nước chuyển từ chi tiêu đầu tư sang đầu tư dưới dạng cho vay có hoàn trả, tín dụng đầu tư của Nhà nước ra đời giúp Nhà nước tập trung được nguồn vốn, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó. Tín dụng đầu tư của Nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức: cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư. So với các hình thức tín dụng khác như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng quốc tế, cho vay đầu tư của nhà nước cũng hoạt động với nguyên tắc có vay có trả. Tuy nhiên, tín dụng đầu tư của Nhà nước với bản chất riêng luôn có những khác biệt so với các loại hình tín dụng khác, cụ thể: - Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn huy động theo kế hoạch của Nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ trương của Nhà nước. - Tổ chức làm nhiệm vụ quản lý và điều hành vốn tín dụng đầu tư là hệ thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo Nghị định của Chính phủ. - Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước gắn trực tiếp với việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo chủ trương của Nhà nước. Đối tượng cho vay đầu tư của Nhà nước là những dự án đầu tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được qui định trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. - Tín dụng đầu tư được thực hiện với nhiều ưu đãi hơn so với các hình thức tín dụng khác như: lãi suất cho vay ưu đãi hơn, thời gian vay vốn dài, các điều kiện về bảo đảm tiền vay được ưu đãi hơn, … Cho vay đầu tư của Nhà nước: Khái niệm Cho vay đầu tư của Nhà nước là việc Nhà nước sử dụng vốn ngân sách hoặc vốn từ các nguồn do Nhà nước huy động để cho vay các dự án theo kế hoạch của Nhà nước như các chương trình mục tiêu phục vụ lợi ích quốc gia, các dự án đầu tư quan trọng trong từng thời kỳ kế hoạch. Cho vay đầu tư của Nhà nước có những đặc tính sau: Cho vay đầu tư của Nhà nước tập trung vào các lĩnh vực then chốt hoặc một số ngành, một số vùng, hay một số khu vực có vay trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của cả nước. Cho vay đầu tư của Nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích cho các nhà doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đầu tư vào các lĩnh vực, ngành, hàng, khu vực nêu trên. Cho vay đầu tư của Nhà nước tập trung vào các lĩnh vực mà tín dụng thương mại ít quan tâm để giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: việc làm cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh, trật tự - xã hội, chính trị,… Vai trò của cho vay đầu tư của Nhà nước. Xét trên nhiều phương diện, cho vay đầu tư của Nhà nước không chỉ là biện pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà nước mà còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm soát vĩ mô. Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô thông qua hoạt động cho vay đầu tư của Nhà nước được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau: - Cho vay đầu tư của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc lành mạnh hóa nền tài chính, tiền tệ quốc gia. Cho vay đầu tư của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Nhà nước có thể tập trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời gian dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia. Cơ chế cho vay đầu tư của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt động tín dụng mang tính kinh tế, xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế hạch toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển cho vay đầu tư của Nhà nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hòa các nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa. - Cho vay đầu tư của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách tiền tệ ... cho vay đầu tư của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với cho vay đầu tư là thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, mặt khác, cho vay đầu tư của Nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội, ... nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, bảo đảm không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới, khu vực. - Cho vay đầu tư của Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư, xóa bao cấp về đầu tư. Cho vay đầu tư của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được Nhà nước cấp không hoàn lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn đối với ngân sách Nhà nước. Đồng thời cho vay đầu tư của Nhà nước cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy huy động vốn đặc biệt là huy động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó cho vay đầu tư của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu quả trong đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý cho vay đầu tư của Nhà nước được đưa ra chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước trong và sau quá trình đầu tư một cách nghiêm ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn cho vay đầu tư của Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi cho khoản tín dụng Nhà nước. Đây cũng là động lực mạnh mẽ tạo nên tư duy làm ăn có hiệu quả, là yếu tố quan trọng trong việc động viên trí tuệ, sức lực của toàn dân nhằm phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng đất nước. - Cho vay đầu tư của Nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh. Khi được tiếp nhận nguồn vốn cho vay đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, tăng qui mô phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, hoạt động cho vay đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của quá trình sản xuất. Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn, đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào, tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông đường không, bộ, thuỷ, khu công nghệ cao... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề phát triển cho các ngành kinh tế khác. - Cho vay đầu tư của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao động , giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Cho vay đầu tư của Nhà nước với mục đích là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp, do đó, khi thực hiện đầu tư phát triển sản xuất tại các địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa hoặc các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế … còn góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC. Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng. Các chuyên gia cho rằng một số tài sản của ngân hàng (đặc biệt là các khoản cho vay) giảm giá trị hay không thể thu hồi là biểu hiện của rủi ro tín dụng. Hay nói một cách khác rủi ro tín dụng là khả năng (hay xác suất) mà khách hàng vay hoặc người phát hành công cụ tài chính không có khả năng thanh toán tiền lãi hoặc tiền gốc theo các điều kiện và cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng, các khoản thanh toán trả nợ đó có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí không được thanh toán cho ngân hàng. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 20/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, rủi ro tín dụng được định nghĩa: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng không chỉ đơn thuần giới hạn trong nghiệp vụ cho vay mà còn bao gồm nhiều nghiệp vụ khác như chiết khấu, cho thuê tài chính, …Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài, tác giả chỉ đề cập đến rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư. Rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư có thể hiểu là khả năng (hay xác suất) mà khách hàng vay không có khả năng thanh toán tiền lãi hoặc tiền gốc theo các điều kiện và cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng, các khoản thanh toán trả nợ đó có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí không được thanh toán. * Đặc điểm rủi ro tín dụng. - Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp. Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một thời gian nhất định, do vậy ngân hàng thường là người biết sau, biết không đầy đủ tình hình sử dụng và những vấn đề phát sinh trong quá trình sử dụng nguồn vốn đó. - Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp. Đặc điểm này được biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng. - Rủi ro tín dụng có tính tất yếu, luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng. * Phân loại rủi ro tín dụng. - Căn cứ vào nguyên nhân gây rủi ro tín dụng, gồm có: Rủi ro khách quan: do các nguyên nhân khách quan gây ra như thiên tai, địch hoạ, chính sách quản lý của Nhà nước thay đổi …. Rủi ro chủ quan: do các nguyên nhân chủ quan của người vay hoặc người cho vay gây ra. - Căn cứ vào nguồn gốc hình thành: Rủi ro từ phía người cho vay: do quá trình quản lý của người cho vay gây ra như chính sách quản lý lỏng lẻo, công tác kiểm tra kiểm soát không chặt chẽ. Rủi ro từ phía người vay: xuất phát từ quá trình sử dụng nguồn vốn vay của người vay như hoạt động kinh doanh thất bại, sử dụng vốn vay không đúng mục đích,… hoặc do thái độ của người vay trong việc trả nợ như chây ì, lạm dụng vốn để sử dụng sang mục đích khác,… Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. * Nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân do môi trường vay. Môi trường vay bao gồm: môi trường chính trị, pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội, các điều kiện khách quan khác. - Môi trường chính trị: có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn định, thì không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh gặp khó khăn mà nó cũng gây ra những rủi ro cho các Ngân hàng cho vay. - Môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ tác dụng rất lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật trở thành bộ phận không thể thiếu. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tác và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm tin được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng hoạt động thuận lợi, giảm thiểu rủi ro. - Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế - xã hội tác động lên hoạt động của doanh nghiệp, đó chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế - xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế ổn định tăng trưởng tốt giúp cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn vay cao hơn, tác động tới mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, các nguyên nhân bất khả kháng mang tính khách quan như thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn,… có thể làm thiệt hại đến tài sản của người vay, làm họ mất hoặc giảm khả năng thanh toán gây rủi ro cho ngân hàng. * Nguyên nhân từ phía khách hàng vay. Nguyên nhân từ phía người vay có thể là những nguyên nhân cố ý hoặc không cố ý gây thiệt hại cho ngân hàng. Trong nhiều trường hợp người vay không đủ trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi thực hiện đầu tư. Khi lập phương án kinh doanh, dự án đầu tư, người vay có thể không tính toán, đánh giá hết được những khó khăn, những rủi ro trong hoạt động đầu tư của mình. Do vậy, không thể khắc phục những khó khăn, không quản lý, sử dụng hiệu quả được đồng vốn đã bỏ ra dẫn đến tình trạng không trả nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ cho ngân hàng. Năng lực của doanh nghiệp thể hiện trên các mặt: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện hiệu quả tài sản hiện có mà chủ yếu là tài sản cố định, cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết quả như thế nào. Năng lực tài chính của doanh nghiệp: năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn sử dụng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp ngân hàng chịu rủi ro do khách hàng cố ý lừa đảo, chây ỳ,… trong vay và trả nợ vốn vay. Để đạt được mục đích vay tiền, người đi vay có thể lợi dụng sự không cân xứng về thông tin để cung cấp thông tin sai lệch về tình hình tài chính, về phương án sản xuất, phương án trả nợ vốn vay làm chệch hướng thẩm định của cán bộ ngân. * Nguyên nhân từ phía ngân hàng. - Chính sách tín dụng, quy trình nghiệp vụ. Chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng, vai trò quan trọng của nó thể hiện qua các nội dung: Định hướng lĩnh vực đầu tư tín dụng, cơ cấu tín dụng; Quy định chính sách lãi suất của ngân hàng đối với nhiều đối tượng khác nhau; Quy định cơ chế nghiệp vụ, giám sát tín dụng ngân hàng; Quy định cơ chế giám sát, quyền lợi và trách nhiệm đối với cán bộ ngân hàng,… Trong thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chính sách tín dụng của ngân hàng có thể không hợp lý biểu hiện như: cơ sở thiết lập cơ cấu tín dụng không hợp lý do không căn cứ trên cơ cấu kinh tế địa bàn, không căn cứ vào khả năng thực tế của ngân hàng; chính sách lãi suất và “giá” không đủ linh hoạt so với đối thủ cạnh tranh, với thị trường; Quy trình tín dụng thông thường được xác lập dựa trên những quy định chung của luật pháp và những đặc thù trong hoạt động của mỗi ngân hàng. Quy trình nghiệp vụ đồng bộ, thống nhất và khoa học, quy định rõ ràng trình tự và thủ tục từng thao tác nghiệp vụ và trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm rủi ro cho khoản vay. Quy trình tín dụng không phát huy được tác dụng và có thể gây ảnh hưởng làm tăng rủi ro tín dụng của ngân hàng thường xuất phát từ những nguyên nhân chính sau: Thông tin cần phải thực hiện trong các bước không được quy định chi tiết và đầy đủ; Mối quan hệ giữa các bước không được nhận thức đầy đủ và quy định cho phù hợp; Việc thiết lập hồ sơ khách hàng chỉ đảm bảo tuân thủ quy định chứ chưa đảm bảo đầy đủ về chất lượng,...quy trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ hoặc không phát huy được tính tự chủ của cán bộ ngân hàng; cơ chế giám sát cán bộ không hợp lý, không tạo động lực cho cán bộ phấn đấu,… Cụ thể những sai lầm trong quy trình nghiệp vụ có thể dẫn đến như sau: STT Các bước của quy trình cho vay. Các loại rủi ro có thể xảy ra 1 Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ Đối tượng cho vay sai. Xác định không chuẩn xác dòng tiền của dự án, các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. Không thẩm định chính xác năng lực tài chính của chủ đầu tư, năng lực điều hành của chủ đầu tư đối với dự án. Thẩm định không đầy đủ về nguồn vốn tham gia đầu tư và tài sản thế chấp. 2 Xét duyệt cho vay và ký kết hợp đồng. Xét duyệt cho vay không đúng thẩm quyền quy định. Xét duyệt cho vay sai quy trình. Hợp đồng ký kết không đảm bảo đầy đủ các ràng buộc, không đúng quy định của ngành và của pháp luật. 3 Giải ngân vốn vay Hồ sơ giải ngân không đảm bảo tính đầy đủ và tính pháp lý. Giải ngân không đúng quy chế đầu tư xây dựng, giải ngân vượt khối lượng. Các điều kiệnràng buộc tín dụng quy định tại hợp đồng không được thực hiện đầy đủ. 4 Theo dõi thu nợ Công tác kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính của Công ty, tình hình hoạt động của dự án không kịp thời, chính xác. Việc theo dõi tài sản bảo đảm không chính xác. Các điều kiện ràng buộc thực hiện không đầy đủ. 5 Xử lý nợ Hồ sơ xử lý nợ không đầy đủ, không chính xác, không đảm bảo tính pháp lý. Việc xử lý nợ không đúng quy định của ngành và của pháp luật. Tài sản bảo đảm không đủ giá trị để thu hồi nợ vay. - Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính. Tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý điều hành được hình thành phù hợp, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quy định rõ về quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận sẽ có tác dụng lớn trong các mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín dụng, hạn chế tình trạng rủi ro quản lý và điều hành do tổ chức bộ máy kém hiệu quả. Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng. Năng lực thẩm định trước khi cho vay: đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của khoản vay và dự án. Năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, việc dự đoán hoạt động trong tương lai, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn. Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trong để đảm bảo cho việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng lực giám sát và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, giảm rủi ro tín dụng trong quá trình hoạt động cho vay. Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng phụ thuộc nhiều vào chất lượng cán bộ tín dụng. QUẢN LÝ RRTD TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong hoạt động tín dụng; nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng so với tổng giá trị tài sản là rất nhỏ nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ danh mục cho vay có vấn đề sẽ có thể đẩy ngân hàng vào nguy cơ phá sản. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng là cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng. Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Cơ cấu tổ chức được tạo lập một cách có hệ thống, phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng tốt phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận; phân cấp, uỷ quyền rõ ràng trong hoạt động của hệ thống; xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận; phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Thiết lập chính sách quản lý tín dụng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng rất phong phú, đa dạng, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro nhất. Xây dựng một chính sách tín dụng nhất quán và hợp lý, phù hợp với đặc điểm nội tại và tính đặc thù của mỗi ngân hàng, phát huy được các thế mạnh, khắc phục, hạn chế được các điểm yếu của hệ thống ngân hàng đó, sẽ giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng của ngân hàng. Quy trình quản lý tín dụng. Quy trình tín dụng là quy định cụ thể các bước nghiệp vụ, yêu cầu và nội dung của từng bước nghiệp vụ từ nhận và thẩm định hồ sơ đến nghiệp vụ cho vay, thu nợ, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng,… đồng thời phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận tham gia thực hiện công tác tín dụng. Quy trình tín dụng được xây dựng hợp lý sẽ giúp cho công tác quản lý tín dụng được thống nhất, khoa học, hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Quy trình tín dụng phải xác định được người thực hiện công việc và trách nhiệm của cán bộ liên quan trong quá trình cho vay. Quy trình tín dụng phải đảm bảo tuân thủ các văn bản pháp lý của Nhà nước. Đánh giá, phân loại các khoản vay. Trước khi cho vay, cán bộ tín dụng cần xây dựng cho mình một cơ sở kiến thức đầy đủ và chắc chắn về khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đồng thời phải thường xuyên cập nhật thông qua việc thường xuyên liên hệ với khách hàng. Các thông tin này được báo cáo lên Ban lãnh đạo thông qua báo cáo thẩm định hoặc báo cáo định kỳ. Trong quá trình giải ngân, ưu tiên hàng đầu là phải đảm bảo số tiền vay được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả; thời gian thực hiện sẽ được hoàn tất đúng hạn và trong phạm vi ngân sách cho phép. Sau khi hoàn thất giai đoạn triển khai, cần tiếp tục giám sát chặt chẽ hoạt động và so sánh với kế hoạch kinh doanh. Cần phải kiểm tra về tình hình thị trường, tính hình bán hàng, tình hình sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài sản bảo đảm tiền vay, giá trị của tài sản bảo đảm. Sau khi khoản vay phát sinh, cán bộ tín dụng phải luôn theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro, qua đó có những giải pháp tối ưu giúp ngăn ngừa và xử lý các khoản tín dụng. - Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng: bao gồm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng và dấu hiệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các dấu hiệu cho thấy phát sinh rủi ro liên quan đến Ngân hàng thường là: trì hoãn, gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng; chậm gửi hoặc trì hoãn gửi báo cáo tài chính; không thực hiện các quy định trong quan hệ tín dụng; chậm thanh toán các khoản nợ khi đến hạn; có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ từ bên ngoài dự án,… Các dấu hiệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: có sự chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với dự kiến khi doanh nghiệp đề nghị cấp tín dụng; những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản; xuất hiện các khoản chi phí bất hợp lý; khó khăn trong phát triển sản phẩm mới;… - Nhóm các dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng: đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng như đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng; cấp tín dụng dựa trên nhưng cam kết không chắc chẵn và thiếu tính bảo đảm của khách hàng; tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soạt vốn của ngân hàng; hồ sơ tín dụng không đầy đủ;… Trên cơ sở thực hiện đánh giá khoản vay, cần phải thực hiện phân loại tín dụng. Phân loại tín dụng không phải là một môn khoa học chính xác mà là vấn đề liên quan đến việc đánh giá, xếp hạng. Do vậy, không có một hệ thống phân loại nào là hoàn hảo. Việc phân loại giúp ngân hàng tổng hợp được tình hình về tài chính của doanh nghiệp, cố gắng xác định được những thế mạnh, điểm yếu và rủi ro của khoản tín dụng. Việc xếp hạng chất lượng các khoản vay được thực hiện cho tất cả các khách hàng để ngân hàng có điều kiện theo dõi và đánh giá cấp độ rủi ro trong từng trường hợp và từ đó phân tích, có phương án xử lý kịp thời. Quản lý nợ có vấn đề Sau khi phát sinh khoản nợ có vấn đề, việc thực hiện quản lý thường được thực hiện qua các bước: - Thông tin trong nội bộ. Qua quá trình quản lý các khoản vay, khi có dấu hiệu phát sinh khoản nợ vay có vấn đề, có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng của khoản vay và khả năng trả nợ của người vay, cán bộ tín dụng cần phải thông báo bằng văn bản cho Lãnh đạo phòng, các phòng có liên quan, ban lãnh đạo. Nội dung truyền đạt cần phải nêu rõ được: Bản chất của vấn đề và nguyên nhân; Vấn đề được phát hiện ra như thế nào; Những ảnh hưởng có thể phát sinh của vấn đề này đối với ngân hàng, trường hợp dễ xảy ra nhất và trường hợp xấu nhất; Đề xuất về các hành động khẩn cấp mà ngân hàng cần thực hiện. - Kiểm tra hồ sơ khoản vay. Cán bộ tín dụng cần ngay lập tức kiểm tra lại hồ sơ của khoản vay để biết được: Hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không; Biến cố không trả được nợ đã xảy ra chưa hoậc biến cố không trả được nợ chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai gần hay không; Ngân hàng có những quyền gì, có những khả năng hành động nào để thực hiện những quyền này. Giai đoạn này cán bộ tín dụng có thể tham khảo ý kiến của bộ phận pháp chế. - Thông tin với người vay để người vay thấy được ngân hàng đã biết vấn đề và khẳng định lại tính chính xác của thông tin. Đồng thời ngân hàng kiểm tra thái độ của người vay, kế hoạch hành động của người vay. - Thay đổi phân loại tín dụng. Trên cơ sở đánh giá ảnh hưởng những thông tin trên, ngân hàng cần thay đổi xếp loại đối với khoản vay để đánh giá đúng tình hình hoạt động tín dụng. - Chiến lược hành động và xử lý nợ có vấn đề. Ngân hàng cần phải nhanh chóng đề ra và thực hiện chiến lược của mình. Những hành động này phải được xây dựng một cách thận trọng trên cơ sở đánh giá ._.của ngân hàng về: Nguyên nhân thực sự của vấn đề; Thái độ, hành động ban lãnh đạo của doanh nghiệp; Vị thế của ngân hàng. Qua đó, ngân hàng xây dựng được các giải phải giải quyết vấn đề trên, các bước hành động. Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng. Các tiêu chí đánh giá công tác quản lý rủi ro tín dụng là các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của tổ chức tín dụng: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thanh toán đã thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn được xác định như sau: Tỷ lệ nợ quá hạn so với dư nợ vay = ( Nợ quá hạn ) * 100% Tổng dư nợ vay Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ chưa thanh toán bị quá hạn. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn là số tương đối và tuyệt đối phản ánh mức độ của khoản nợ quá hạn của ngân hàng. Các chỉ tiêu này càng cao thì khả năng rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn, phản ánh việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng là chưa tốt. Tuy nhiên, nếu các chỉ tiêu này thấp hoặc bằng không không có nghĩa hoạt động tín dụng của ngân hàng không có mà khi đó số tiền rủi ro chính là tổng dư nợ của ngân hàng. - Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng: Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng = ( Dự phòng rủi ro tín dụng ) * 100% Tổng dư nợ vay Tỷ lệ này phản ánh số dư quỹ dự phòng rủi ro mà ngân hàng trích lập so với tổng dư nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này nói lên sự chuẩn bị của ngân hàng cho khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại của ngân hàng. - Tỷ lệ nợ xoá trong năm. Tỷ lệ nợ xoá = ( Nợ xoá trong năm ) * 100% Tổng dư nợ vay Các khoản cho vay được xoá nợ là những khoản cho vay được ngân hàng tuyên bố là không còn giá trị và được xoá khỏi sổ sách. Tỷ lệ này phản ánh tổn thất thực tế của ngân hàng vì đây là những khoản nợ mà ngân hàng sẽ bị mất vốn vì không còn khả năng thu hồi. Vì vậy, nếu chỉ tiêu này tăng thì rủi ro tín dụng của ngân hàng là rất lớn. - Các khoản tín dụng có vấn đề: là những khoản vay chưa đến hạn, chưa được xem là nợ quá hạn nhưng trong quá trình theo dõi, ngân hàng phát hiện thấy khách hàng có dấu hiệu không trả được nợ. Đây là chỉ tiêu định tính phản ánh rủi ro tín dụng. Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc ngân hàng bị phá sản, do vậy, hầu hết các quy định đều nhằm đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu để quản lý rủi ro tín dụng. Để bảo toàn thị trường tài chính quốc tế, những tiêu chuẩn chính đã được đề cập tới trong các thoả thuận quốc tế nhằm thống nhất các phương pháp quản lý tín dụng của quốc gia. Cơ sở để quản lý tốt rủi ro tín dụng là xác định những rủi ro hiện hữu và tiềm năng trong các hoạt động cho vay. Các phương pháp đối phó với những rủi ro này thường bao gồm những chính sách rõ ràng về lý thuyết rủi ro tín dụng của các ngân hàng và các chỉ số kiểm soát rủi ro tín dụng. Kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm việc hạn chế các rủi ro thông qua các chính sách áp dụng cho các hồ sơ tín dụng đa dạng. Có thể chia các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng thành 03 nhóm chính: * Nhóm 1: Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng - Đối với các khoản vay có rủi ro lớn. Các nhà quản lý thường có sự quan tâm sát sao đến những khoản tín dụng có mức độ tập trung rủi ro cao của các ngân hàng. Mục đích chính trong việc quản lý rủi ro của nhà quản lý là ngăn ngừa tình trạng các ngân hàng phụ thuộc quá nhiều vào một nhóm những khách hàng đi vay. Các quy chế đảm bảo an toàn hiện đại thường quy định rằng tổng mức giá trị một ngân hàng được phép đầu tư, cho vay hoặc cung ứng công cụ tín dụng khác đối với bất kỳ một pháp nhân hoặc một nhóm pháp nhân có liên quan nào vượt hơn một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số vốn và dự phòng của ngân hàng đó. Trong phạm vi này, các nhà quản lý có thể kiểm soát được rủi ro tín dụng của cả ngành ngân hàng và từng ngân hàng riêng biệt để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền và ngăn chặn các tình huống có thể gây ra rủi ro cho cả hệ thống ngân hàng. Hầu hết các quốc gia đều hạn chế mức cho vay đối với một khách hàng trong khoảng từ 20-25% tổng vốn, mặc dù ở một số nơi tỷ lệ này có thể lên tới 30 – 40%. Uỷ ban Basle về giám sát ngân hàng khuyến nghị nên áp dụng tỷ lệ tối đa là 25% với mục đích giảm xuống chỉ còn 10% khi thực tế cho phép. Mức ngưỡng phải báo cáo cho cơ quan quản lý chức năng thường được đặt thấp hơn mức tỷ lệ tối đa. Khi đó các nhà quản lý có thể quan tâm đặc biệt đến những khoản vay vượt trên tỷ lệ ngưỡng và yêu cầu các ngân hàng có biện pháp phòng ngừa trước khi việc tập trung rủi ro trở thành nguy cơ. - Đối với các khoản cho vay có nhiều bên lên quan. Cho vay có nhiều bên liên quan là một loại hình cho vay có nguy cơ rủi ro tín dụng đặc biệt lớn. Các bên có liên quan bao gồm ngân hàng mẹ, những cổ đông chính, các công ty con, các công ty phụ thuộc, giám đốc và nhân viên điều hành. Mối quan hệ này thể hiện khả năng kiểm soát hoặc gây ảnh hưởng đến việc đưa ra các quyết sách của một ngân hàng, đặc biệt, các quyết định có liên quan đến tín dụng. Khả năng nhận biết một cách có hệ thống và theo dõi việc cho vay những người trong nội bộ của ngân hàng rất quan trọng. Vấn đề là liệu việc cho vay có dựa trên cơ sở các chỉ số và các chính sách, quy trình của ngân hàng hay không. Một vấn đề đáng quan tâm khác là khoản tín dụng đó có dựa trên cơ sở các điều kiện thị trường và tuân theo các điều khoản có lợi hơn về sự cung ứng tín dụng, thời hạn, lãi suất, thế chấp, và rủi ro…so với những khách hàng thông thường khác hay không. - Đối với các khoản cho vay theo khu vực địa lý hoặc theo ngành nghề kinh doanh. Một hướng khác của quản lý rủi ro là quản lý dư nợ cho vay của một ngân hàng cho một ngành kinh tế hoặc cho một khu vực địa lý hẹp. Điều này làm cho ngân hàng bị phụ thuộc vào những bất lợi của ngành nghề hoặc khu vực đó và do đó rủi ro mà ngân hàng sẽ phải gánh chịu không chỉ do một khách hàng đơn lẻ mà có thể đồng thời phát sinh từ một số khách hàng cho cùng một nguyên nhân. Điều này đặc biệt đúng đối với các ngân hàng khu vực hoặc ngân hàng chuyên doanh hoặc các ngân hàng tại quốc gia nhỏ có ít ngành nghề kinh tế như các quốc gia sản xuất nông nghiệp hoặc khai thác một loại khoáng sản là chủ yếu. Trong bất kỳ trường hợp nào, các ngân hàng, do đặc trưng hoạt động, luôn chịu rủi ro ngành nghề, cũng cần phải xây dựng tốt một hệ thống kiểm soát các rủi ro này và đánh giá tác động do sự thay đổi theo chiều hướng xấu của chất lượng các khoản vay và cân đối lỗ lãi. Các ngân hàng này cũng cần phải có một cơ chế tổ chức để giải quyết các rủi ro tăng lên. - Đối với các khoản nợ được điều chỉnh. Các khoản nợ được điều chỉnh là các khoản vay đã được cơ cấu lại làm giảm bớt gốc hoặc lãi do tình hình tài chính của khách hàng vay bị xấu đi. Còn các khoản vay được gia hạn hoặc đảo nợ theo các điều khoản giống như các điều khoản cho vay ban đầu có cùng mức độ rủi ro không được coi là các khoản cho vay được điều chỉnh. Việc cơ cấu lại có thể bao gồm việc khách hàng thanh toán khoản vay cho ngân hàng bằng đất đai, các khoản phải thu, hoặc các tài sản khác của một bên thứ ba, gán nợ hoặc thanh toán một phần khoản vay hoặc thêm khách hàng vay. Các giao dịch này nên được ban lãnh đạo ngân hàng phê duyệt vì thường có sự nhân nhượng đối với khách hàng vay vốn. Các chính sách của ngân hàng cũng phải đảm bảo rằng các điều khoản này được thực hiện hoàn hảo trên quan điểm về kế toán và kiểm soát. Ngân hàng phải tính toán các khoản vay được cơ cấu lại bằng cách giảm bớt các số liệu đầu tư cho phù hợp với giá trị hiện thời có tính đến các nhân hượng vào thời điểm cơ cấu lại. Các khoản giảm bớt sẽ được tính vào báo cáo thu nhập của ngân hàng vào thời kỳ ngân hàng cơ cấu lại khoản vay. Việc giảm một lượng lớn cho các khoản vay được điều chỉnh là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp phải khó khăn. một ngoại lệ đó là trường hợp lãi suất trên thị trường đang giảm và vì lợi ích của người đi vay và người cho vay, các điều khoản tín dụng ban đầu cần được điều chỉnh lại. * Nhóm 2: Nhóm biện pháp phân loại tín dụng Phân loại tín dụng là quá trình trong đó xác định cấp độ rủi ro tín dụng cho một tài sản được khách hàng dùng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thanh lý theo điều khoản hợp đồng tín dụng. Nói chung, mọi khoản cho vay đều cần được đánh giá, phân loại kỹ càng. Phân loại tín dụng là một công cụ quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng. Các khoản cho vay được phân loại tại thời điểm gốc và cần được đánh giá, phân loại lại (theo mức độ rủi ro) sau một thời gian. Việc đánh giá lại này dựa vào thực tế hoạt động và sử dụng khoản vay của người đi vay. Sự thay đổi các xu hướng kinh tế, các thị trường và giá cả hàng hoá có liên quan cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản. Các ngân hàng thường tự quyết định cách thức phân loại tín dụng nhưng nói chung đều dựa trên một số tiêu chuẩn để phân loại tín dụng thành các loại sau: - Khoản tín dụng đạt tiêu chuẩn: Là các khoản tín dụng mà các ngân hàng không phải nghi ngờ về khả năng hoàn trả của nó. Nói chung, các khoản cho vay được đảm bảo (kể cả vốn gốc và lãi) bằng tiền mặt hoặc các giấy tờ có giá thay thế tiền mặt như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kho bạc được xếp vào loại chuẩn này. - Khoản tín dụng cần được theo dõi: Là những khoản tín dụng chứa đựng tiềm năng rủi ro, nếu không được giám sát sẽ gây nguy hiểm đối với khả năng trả nợ của người đi vay trong tương lai. Ví dụ như những khoản cho vay không cân xứng, không có sự giám sát tài sản thế chấp hay thiếu một số giấy tờ hợp lệ hay những khoản cho vay mà người đi vay kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế và thị trường có những tác động ngược chiều. - Khoản tín dụng không đủ tiêu chuẩn: Là những khoản tín dụng chắc chắn chứa đựng rủi ro gây nguy hiểm đối với khả năng trả nợ của khách hàng. Trong những trường hợp này, các ngân hàng phải sử dụng đến các nguồn trả nợ khác như thanh lý tài sản thế chấp, tài sản cố định, tái đầu tư,…Những khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên thường được xếp vào loại này. - Khoản tín dụng khó thu hồi: Là loại tín dụng không đủ tiêu chuẩn nhưng khả năng thu hồi và lãi khó khăn hơn nhiều. Dường như chúng ta có thể nhận thấy rằng chỉ có rất ít khả năng thu hồi khoản vay. Những khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên thường được xếp vào loại này. - Khoản tín dụng thua lỗ, mất mát: Là những khoản tín dụng không còn tài sản thế chấp nào khác để thu hồi hoặc các tài sản này không có giá trị đến mức mà nếu làm các thủ tục thanh lý thì còn tốn kém hơn. Những khoản nợ quá hạn từ 01 năm trở lên thường được xếp vào loại này. Nói chung, các tiêu chuẩn phân loại thường dựa vào khả năng trả nợ và mong muốn trả nợ của người đi vay (kể cả gốc và lãi). Tại một số ngân hàng lớn, các khoản tín dụng được phân chia thành nhiều loại nhỏ hơn để tiện cho việc quản lý và giám sát. * Nhóm 3: Nhóm biện pháp phòng ngừa tổn thất hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Việc phân loại tín dụng ở trên là cơ sở cho việc đưa ra quyết định mức độ giám sát và mức trích lập quỹ dự phòng đối với từng khoản cho vay. Để đưa ra mức trích lập dự phòng thích hợp cần phải dựa vào nhiều yếu tố khác như lịch sử vay trả của người đi vay, tài sản thế chấp và tất cả các yếu tố có ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng. Quỹ dự phòng được xếp vào vốn loại 2 và không được kê vào loại vốn cố định nhằm hình thành nên nguồn vốn để bù đắp thua lỗ trong kinh doanh. Các yếu tố trên bao hàm trong nó là chất lượng của các chính sách và công tác quản lý của ngân hàng, kinh nghiệm xử lý những thiệt hại trước đây, mức độ tăng trưởng của các khoản cho vay, chất lượng và khả năng quản lý trong khu vực cho vay, khả năng thu hồi vốn, sự thay đổi về điều kiện kinh tế, môi trường kinh doanh và các xu hướng kinh tế nói chung. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro được đưa ra nằm trong giới hạn từ việc thực hiện theo các văn bản, quy định của ngành đến các quyết định của bản thân ngân hàng tùy thuộc vào hệ thống ngân hàng của nước đó. Mức trích lập quỹ thường được quyết định bởi các con số thống kê hiện tại về mức độ rủi ro tín dụng. Ở những nước có hệ thống luật pháp cho việc quản lý các khoản nợ phát triển thì mức trích lập nhỏ ví dụ như ở Mỹ mức trích lập vào khoảng 10% đối với các khoản tín dụng không đủ tiêu chuẩn, 50% đối với các khoản tín dụng khó đòi và 100% đối với các khoản tín dụng thua lỗ, mất mát; còn ở những nước đang phát triển thì mức trích lập lên tới 20-25% đối với các khoản tín dụng không đủ tiêu chuẩn. Đối với những nước có hệ thống luật pháp chưa phát triển thì khuyến khích tỷ lệ trích lâp như sau: Bảng 1.1: Mức trích lập dự phòng rủi ro theo chất lượng tín dụng Khoản tín dụng Mức trích lập Đạt tiêu chuẩn (tốt) 0 – 1% Cần được theo dõi 5 – 10% Không đạt tiêu chuẩn (xấu) 10 – 30% Khó đòi 50 – 75% Mất mát, thua lỗ 100% (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước) Có hai cách xử lý những khoản mất mát: một là, giữ nguyên khoản mất mát trên sổ sách cho đến khi thu hồi lại được (với cách thức này thì tỷ lệ dự trữ thường lớn), hai là, các khoản này phải được tất toán và đưa ra khỏi sổ sách kế toán chuyển vào khoản thua lỗ (với cách thức này tỷ lệ dự trữ thường nhỏ hơn). Các nhân tố tác động tới quản lý rủi ro tín dụng. Có nhiều nhân tố tác động đến công tác quản lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên những nhân tố cơ bản, quan trong tác động mạnh mẽ và trực tiếp nhất là mô hình tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý và điều hành nguồn vốn tín dụng; Cơ chế, chính sách của Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực tín dụng; Quy chế, quy trình nghiệp vụ hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động nghiệp vụ của cơ quan quản lý và điều hành; trình độ công nghệ, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, thẩm định, kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý và điều hành nguồn vốn tín dụng. Cơ quan quản lý và điều hành nguồn vốn cho vay đầu tư của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng mô hình, tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý phù hợp với thực tế hiện tại cũng như lâu dài là nhân tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro tín dụng của nguồn vốn cho vay đầu tư của Nhà nước. Cơ chế, chính sách của Nhà nước về cho vay đầu tư của Nhà nước là nhân tố đặc biệt quan trọng, có tác động tới chất lượng tín dụng và mức độ rủi ro của nguồn vốn cho vay đầu tư của Nhà nước. Trong trường hợp Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và hoạt động của các doanh nghiệp sẽ tác động tới chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro cho hoạt động cho vay đâu tư của Nhà nước. Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của cơ quan quản lý hoạt động cho vay đầu tư của Nhà nước. Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định hiệu quả của công tác quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước. Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các thông tin tín dụng. Năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung cấp thông tin cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng, giảm được rủi ro trong tương lai của khoản vay. Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi sát sao và chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. - Tổ chức bộ máy và quy trình nghiệp vụ: Hoạt động cho vay đầu tư của cơ quan quản lý hoạt động cho vay đầu tư của Nhà nước có triển khai thuận lợi và có đạt hiệu quả cao, rủi ro tín dụng có được hạn chế hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy, quy trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng trơng quá trình thực hiện từ thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn gốc, lãi. Quy trình quản lý tín dụng được bố trí khoa học, rõ tàng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng, từ đó hạn chế rủi ro tín dụng. - Công nghệ ngân hàng: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam, công nghệ ngân hàng có tác động nhiều đến công tác quản lý rủi ro tín dụng. Công nghệ ngân hàng cung cấp cho người làm công tác quản lý rủi ro tín dụng những công cụ hữu hiệu từ việc giúp nhanh chóng phát hiện sớm các rủi ro tín dụng có thể xảy ra đến việc cập nhật các thông tin cần thiết. Với hệ thống thông tin hiện đại đảm bảo cho ngân hàng có thể thu thập, phân tích và xử lý những thông tin liên quan đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với những tiện lợi về thời gian trong việc cập nhật và phân tích thông tin, công nghệ ngân hàng hiện đại giúp ngân hàng đưa ra các biện pháp phù hợp và hạn chế được rủi ro tín dụng. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN KHÁI QUÁT SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước đã chủ trương đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế từ hình thức kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Trong lĩnh vực đầu tư phát triển đã có những bước thay đổi quan trọng nhằm huy động tối đa nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để phát triển đất nước. Với yêu cầu nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, Chính phủ đã thay đổi cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chuyển từ hình thức cấp phát sang hình thức tín dụng đầu tư đối với những dự án cần khuyến khích đầu tư và có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Kênh tín dụng mới này thực chất là tín dụng ưu đãi của Nhà nước (hiện nay gọi là tín dụng đầu tư của Nhà nước). Tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam trước đây do Ngân hàng Kiến thiết (thuộc Bộ Tài chính) nay là Ngân hàng Đầu tư phát triển thực hiện. Năm 1995, với mục tiêu đổi mới hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Đầu tư phát triển chuyển sang hoạt động với vai trò là một ngân hàng thương mại. Do đó hoạt động tín dụng đầu tư được chuyển giao cho Tổng cục Đầu tư phát triển (trực thuộc Bộ Tài chính) tiếp tục thực hiện. Để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong quá trình đổi mới kinh tế, năm 2000, Tổng cục Đầu tư phát triển được cơ cấu lại chuyển thành Quỹ Hỗ trợ phát triển tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư và nhiệm vụ mới là tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Trong quá trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế, chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đứng trước yêu cầu đổi mới cho phù hợp với lộ trình cam kết gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Do vậy, ngày 19/05/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg về việc thành lập NHPT Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển và đi vào hoạt động từ ngày 01/07/2006. NHPT Việt Nam là một định chế tài chính của Chính phủ, có nhiệm vụ huy động vốn, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu theo quy định của Chính phủ thông qua các hình thức cho vay đầu tư; hỗ trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư; cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng; nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận uỷ thác giữa NHPT với các tổ chức uỷ thác; cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế… So với các Ngân hàng thương mại khác, NHPT Việt Nam có sự khác biệt là tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% vốn của Chính phủ, không nhận tiền gửi dân cư. Do hoạt động của NHPT Việt Nam là nhằm mục tiêu lợi ích kinh tế - xã hội nên được hưởng một số ưu đãi đặc biệt như không phải dữ trữ bắt buộc, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách của Nhà nước theo quy định của pháp luật. NHPT Việt Nam được cấp vốn điều lệ là 10.000 tỷ đồng, được cấp bù chênh lệch lãi suất, cấp vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, được bù đắp rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan khi thực hiện cho vay đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu tư của NHPT Việt Nam luôn có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường. Nhà nước sẽ cấp bù cho NHPT Việt Nam phần chênh lệch lãi suất do lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động. Tín dụng đầu tư của Nhà nước gắn trực tiếp với việc điều tiết kinh tế vĩ mô theo chủ trương của Nhà nước. Do vậy, đối tượng cho vay của tín dụng đầu tư của Nhà nước là những dự án đầu tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà nước, theo chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng đã được qui định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống tổ chức của NHPT Việt Nam bao gồm: Hội đồng quản lý; Ban Kiểm soát; Ban Lãnh đạo và 20 phòng, ban chức năng giúp việc; Sở Giao dịch I tại Hà Nội; Sở Giao dịch II tại TP Hồ Chí Minh; 58 Chi nhánh tại 58 tỉnh và 02 Chi nhánh khu vực. NHPT Việt Nam hiện đang quản lý cho vay, thu hồi nợ vay trên 5000 dự án vay vốn trong nước với tổng số theo hơp đồng tín dụng đã ký gần 100.000 tỷ đồng, dư nợ trên 51.000 tỷ đồng (các dự án nhóm A chiếm 41%) và 336 dự án vay vốn ODA với tổng số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký hơn 6,6 tỷ USD, dư nợ gần 50.000 tỷ đồng. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, bình quân các năm 2000 – 2005, số vốn đầu tư từ NHPT Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) chiếm khoảng 7% tổng mức đầu tư chung của toàn xã hội, bằng 2,6% GDP hàng năm. Trong đó, các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 59,6%; cơ sở hạ tầng các ngành nông nghiệp, nông thông chiếm 18,1%, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chiểm 17,5%, và các ngành khác là 4,75%. Cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch I – NHPTVN. Ngày 01/07/2006, Tổng Giám đốc NHPT Việt Nam đã ban hành Quyết định số 04/QĐ-NHPT thành lập Sở Giao dịch I – NHPT trên cơ sở tổ chức lại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội và Sở Giao dịch - Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện các nhiệm vụ: huy động tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; được kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ Sở Giao dịch và Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. Các hoạt động của Sở Giao dịch I bao gồm: - Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo quy định của Chính phủ. - Thực hiện chính sách tín dụng đầu tư: Cho vay đầu tư; Hỗ trợ sau đầu tư; Bảo lãnh tín dụng đầu tư.  - Thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu: Cho vay xuất khẩu; Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.  - Nhận ủy thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận uỷ thác giữa NHPT Việt Nam với các tổ chức uỷ thác. - Cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động của NHPT Việt Nam theo quy định của pháp luật. - Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu. - Thực hiện một số nhiệm vụ khác do NHPT Việt Nam giao. Sở Giao dịch I – NHPT là đơn vị trực thuộc NHPT Việt Nam. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Giao dịch I được tổ chức bao gồm: - Ban Giám đốc: gồm Giám đốc và các Phó giám đốc. - Các phòng nghiệp vụ gồm: Phòng Thẩm định, Phòng Kế hoạch - nguồn vốn, các Phòng tín dụng, Phòng vốn nước ngoài, Phòng Tài chính kế toán, Phòng kiểm tra, Phòng Hành chính nhân sự. Kết quả một số hoạt động của Sở Giao dịch I – NHPTVN. Theo quy định, nguồn vốn hoạt động của NHPT Việt Nam bao gồm: Vốn chủ sở hữu; Vốn huy động (từ phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu của NHPT Việt Nam và kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi theo quy định của pháp luật; Vay của Công ty Dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước; Vay các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài); Các khoản vốn khác (gồm: vốn ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ sau đầu tư; Vốn ODA được Bộ Tài chính uỷ quyền thực hiện cho vay lại; Nhận tiền gửi uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước; Vốn nhận uỷ thác giải ngân cho các dự án và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua Hợp đồng nhận uỷ thác giữa NHPT Việt Nam với các tổ chức uỷ thác; Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước; Vốn do ngân sách nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu và các mục tiêu, chương trình của Chính phủ); Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, các nguồn vốn huy động với lãi suất thị trường sẽ được Chính phủ xem xét cấp bù lãi suất để đảm bảo cho vay ra theo đúng mức lãi suất qui định của tín dụng đầu tư của Nhà nước. Sở giao dịch I cũng như các chi nhánh NHPT Việt Nam thực hiện huy động vốn từ các tổ chức, nguồn vốn huy động được điều chuyển về NHPT Việt Nam. Sở Giao dịch I sẽ tiếp nhận nguồn vốn từ NHPT Việt Nam để thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đầu tư, cho vay lại vốn ODA,… Tính đến năm 2007, Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam đã thực hiện cho vay trên 160 dự án đầu tư trung và dài hạn với tổng số vốn theo các hợp đồng tín dụng đã ký trên 5.000 tỷ đồng thuộc các ngành như: dệt may, đóng tàu; phát triển cơ sở hạ tầng; bưu chính viễn thông; khai thác khoáng sản; cơ khí;… Cho vay vốn hỗ trợ xuất khẩu 20 doanh nghiệp với số vốn vay trên 2.000 tỷ đồng; Quản lý và cho vay lại vốn ODA 53 dự án, dư nợ trên 8.000 tỷ đồng; Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 186 dự án với tổng số vốn trên 420 tỷ đồng, góp phần thu hút được 4.500 tỷ đồng từ các tổ chức tín dụng đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC TẠI SỞ GIAO DỊCH I Tình hình chung. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, hoạt động tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước đã trải qua nhiều bước đổi mới, được thực hiện thông qua các hệ thống tổ chức khác nhau. Công tác tín dụng đầu tư của Nhà nước thông qua NHPT Việt Nam có thể nói là sự kế thừa và phát triển của hoạt động tín dụng ưu đãi của Nhà nước qua các thời kỳ: thông qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ HTPT. Công tác tín dụng đầu tư nói chung và cho vay đầu tư của Nhà nước nói riêng tại Sở Giao dịch I – NHPT được kế thừa mọi quyền lợi và trách nhiệm từ Sở Giao dịch - Quỹ Hỗ trợ phát triển và Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. Trong thời gian qua, do chủ động được trong việc triển khai nhiệm vụ được giao và kịp thời trong việc phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để xử lý, giải quyết các vướng mắc nên công tác giải ngân, thu hồi nợ vay các dự án sử dụng vốn vay đầu tư của Nhà nước tại Sở Giao dịch I - NHPT Việt Nam đã được triển khai đạt kết quả tốt, là một trong những đầu tàu trong công tác cho vay đầu tư trong hệ thống NHPT Việt Nam. Bảng 2.1: Kết quả công tác cho vay đầu tư của Nhà nước qua các năm. Đvt: tỷ đồng. STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Tổng số dự án quản lý 179 147 154 2 Tổng số vốn giải ngân trong năm 246 425 622 3 Số thu nợ 586 679 748 Trong đó: + Gốc 440 413 573 + Lãi 146 266 174 4 Dư nợ 3.665 3.677 3.726 5 Tốc độ tăng trưởng so với năm trước 0,32% 1,33% (Nguồn: Báo cáo CN Quỹ HTPT Hà Nội và Sở Giao dịch - Quỹ HTPT năm 2005; Sở Giao dịch I – NHPT năm 2006,2007) Trong quá trình hoạt động, cùng với sự đổi mới của đất nước, những chính sách ưu tiên phát triển của Nhà nước cũng có nhiều thay đổi nhằm tối ưu hoá tác động của hoạt động tín dụng. Những thay đổi trong chính sách cho vay của Chính phủ đã tác động đến công tác triển khai cho vay vốn tín dụng đầu tư tại Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam. Bên cạnh việc tạo ra được những lĩnh vực, ngành nghề mới, tạo ra cơ hội khai thác tiếp xúc các đối tượng cho vay đầu tư mới, những thay đổi chính sách cũng làm cho hoạt động cho vay đầu tư có những khó khăn ban đầu khi chuyển hướng tiếp xúc với khách hàng mới. Nhưng sau những khó khăn ban đầu, Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam đã liên tục nhanh chóng phù hợp với những chính sách mới để phát triển tốt hơn. Năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định 106/2004/NĐ-CP ngày 01/04/2004 thay thế cho Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Do lần đầu tiên có những thay đổi trong chính sách, công tác triển khai thực hiện còn nhiều lúng túng, do vậy công tác khai thác dự án mới đạt kết quả không cao. Các dự án cho vay chủ yếu tập trung vào các ngành giao thông, điện, trường,… Cuối năm 2006, chính sách tín dụng đầu tư được tiếp tục thay đổi để phù hợp với những chuyển biến và hội nhập của nền kinh tế; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 thay thế Nghị định 106/2004/NĐ-CP ngày 01/04/2004. Tuy nhiên, do đối tượng cho vay tín dụng đầu tư mới tập trung nhiều vào các ngành thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống cung cấp nước sinh hoạt là những ngành có mức đầu tư lớn, cùng với những nỗ lực trong công tác triển khai nhiệm vụ mới, công tác giải ngân tại Sở Giao dịch I đã có sự tăng trưởng. Trong những năm qua, đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước ngày càng hạn hẹp, tập trung nhiều vào những ngành, nghề có tính chất xã hội hoá cao như điện, trường, bệnh viện, cơ sở hạ tầng giao thông, cơ sở hạ tầng các khu công nghi._.i Trung ương (là các dự án có chủ đầu tư là doanh nghiệp trực thuộc Bộ, Tổng công ty) chiếm tỷ trọng lớn, do vậy việc phối hợp với các Tổng công ty thu hồi nợ vay cũng giúp cho các dự án khác của Tổng công ty được tiếp cận vay vốn, nên việc phối hợp với các Tổng công ty trong quá trình thu hồi nợ vay cũng đạt được nhiều hiệu quả. Thường xuyên thực hiện rà soát các dự án, phân tích và xếp loại các doanh nghiệp, qua đó đưa ra được các biện pháp thực hiện đối với từng loại dự án. Việc phân loại dự án phải dựa trên cơ sở phân tích tình hình tài chính, năng lực của chủ đầu tư, tình hình hoạt động của dự án, tìm hiều phân tích các dấu hiệu rủi ro của khoản vay, từ đó phân loại các khoản vay thành từng nhóm có các biện pháp xử lý tương ứng. Từ các nhóm phân loại trên tiếp tục chi tiết cho từng khoản vay hướng xử lý cụ thể. Đối với các dự án gặp khó khăn khách quan, thuộc đối tượng xử lý nợ theo quy định của Nhà nước: cần nghiên cứu những ảnh hưởng do các điều kiện khách quan tác động đến, đồng thời thu thập tài liệu liên quan, phối hợp với cơ quan chính quyền, cơ quan chức năng lượng hoá những tổn thất. Đối với các dự án gặp khó khăn không có khả năng thu hồi vốn nhưng không thuộc đối tượng xử lý nợ theo quy định của Nhà nước: Nghiên cứu chính sách của Nhà nước để có thể yêu cầu phá sản doanh nghiệp thu hồi nợ, hoặc hỗ trợ doanh nghiệp chuyển hướng hoạt động để thu hồi nợ,… Đối với các dự án có khó khăn tạm thời: có thể cùng đơn vị tìm hướng tháo gỡ khó khăn, giúp doanh nghiệp phục hồi và trả nợ. Đối với các dự án có rủi ro đạo đức của chủ đầu tư như chủ đầu tư chây ỳ không trả nợ, không trung thực trong báo cáo tình hình dự án: kiên trì, bám sát đơn vị, sử dụng các nguồn thông tin, thu thập tình hình hoạt động, đồng thời có thể nhờ các cơ quan chức năng, cơ quan có liên quan giúp đỡ trong việc thu hồi nợ. Nếu đơn vị kiên quyết không trả nợ, thực hiện các biện pháp mạnh như thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay, khởi kiện để thu hồi nợ. Đổi mới phương pháp phân loại nợ. Việc theo dõi nợ vay của Sở Giao dịch I hiện nay hoàn toàn do các cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Sở Giao dịch I nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực hiện dự án. Định kỳ, Sở Giao dịch I sẽ tiến hành rà soát phân loại nợ vay trên cơ sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Hiện nay các dự án được phân loại thành nhóm: Nợ bình thường, nợ có khó khăn tạm thời, nợ khó thu, nợ không có khả năng thu. Việc phân loại nợ chủ yếu dựa vào kết quả thực hiện việc thu nợ gốc và lãi của dự án nên có trường hợp chưa đánh giá đúng thực chất của khoản nợ. Ví dụ có những trường hợp do nguyên nhân khách quan không phải do khó khăn về tài chính của đơn vị hoặc ý thức trả nợ của doanh nghiệp, doanh nghiệp vay vốn chậm trả nợ một số ngày so với kỳ hạn, khi đó khoản vay cũng được xếp vào nhóm nợ có khó khăn tạm thời. Để nâng cao hiệu quả của công tác phân loại nợ, cần bổ sung tiêu chí phân loại nợ căn cứ vào các dấu hiệu rủi ro của khoản vay. Như doanh nghiệp có những dấu hiệu khó khăn về tài chính hoặc dấu hiệu không tốt từ dự án có khả năng ảnh hưởng đến việc trả nợ (như dự án chậm đi vào hoạt động trong thời gian dài) nhưng chủ đầu tư sử dụng tạm thời các nguồn khác để trả nợ thì dự án vẫn được xếp vào nhóm dự án có dư nợ bình thường. Để công tác phân loại nợ là cơ sở để phòng ngừa rủi ro, công tác phân loại nợ cần: Căn cứ vào công tác thu thập, phân tích, xử lý các thông tin thu được về các dấu hiệu cảnh báo sớm (báo cáo tài chính của doanh nghiệp, hoạt động của tài khoản tại ngân hàng, các dấu hiệu chung) để qua đó thấy được thực chất hoạt động của khách hàng đang bình thường hay có khó khăn; Căn cứ vào ý thức trả nợ của khách hàng, đánh giá vị thế của Sở Giao dịch I để có thể phân loại được dự án có thể có rủi ro về đạo đức của khách hàng vay vốn. Bên cạnh đó, để nâng cao tính chính xác của việc phân loại nợ, công tác phân loại nợ cần phải thường xuyên được thẩm định lại bởi bộ phận chuyên trách. Qua đó có thể thấy được những sai lầm của cán bộ, có được sự phân tích khách quan hơn và phân loại nợ chính xác. Giám sát chặt chẽ hơn tài sản bảo đảm tiền vay. Khác với hoạt động của các ngân hàng thương mại, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng diễn ra thường xuyên, liên tục và có những quy định, biện pháp giám sát chặt chẽ luồng tiền của doanh nghiệp, hoạt động cho vay đầu tư của Nhà nước tại NHPT Việt Nam chỉ thực hiện cho vay vốn đầu tư dự án, nguồn vốn ngắn hạn có đối tượng được hưởng ưu đãi riêng, nên việc kiểm soát luồng tiền thu chi của doanh nghiệp trong cả đời dự án là rất khó khăn. Do vậy, tài sản bảo đảm cho khoản vay giúp nâng cao ý thức trả nợ của chủ đầu tư và làm giảm rủi ro tín dụng của ngân hàng. Việc thẩm định tài sản bảo đảm thường xuyên nhằm đảm bảo cho khoản thu nợ, tránh tình trạng chủ đầu tư quản lý, sử dụng tài sản bảo đảm sai mục đích; hoặc chây ỳ trong trả nợ. Tăng cường vai trò công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Trong những năm gần đây, công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đầu tư xây dựng sử dụng vốn Nhà nước được Chính phủ quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hệ thống NHPTVN nói chung và Sở Giao dịch I nói riêng cũng đã được tăng cường nhằm chấn chỉnh những sai sót, hoàn thiện công tác cho vay đầu tư, đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro do quá trình cho vay đầu tư tại ngân hàng gây ra như các lỗi thực hiện chưa chuẩn xác theo quy trình, quy chế; những sai sót trong phân tích dữ liệu,... Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ có thể đúc kết được những sai sót, vướng mắc trong quá trình xử lý nghiệp vụ, những thiếu hụt trong chính sách quản lý, từ đó có những đề xuất hoàn thiện, tăng cường công tác quản lý rủi ro trong cho vay đầu tư. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được thực hiện thường xuyên, liên tục tại tất cả các khâu trong cho vay đầu tư như thẩm định, giải ngân, theo dõi thu hồi nợ vay, xử lý nợ, ... Hiện nay, công tác kiểm tra nội bộ tại Sở Giao dịch I còn yếu do cán bộ làm công tác kiểm tra chưa được chuyên môn hoá trong từng mảng nghiệp vụ, chưa tinh thông các nghiệp vụ được giao kiểm tra; công tác kiểm tra còn mang tính thói quen, mới tập trung vào các nghiệp vụ đã xảy ra, chưa có đánh giá, chưa kiến nghị được các hướng xử lý mang tính tích cực hơn. Để công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phát huy được hết hiệu quả, lợi ích trong quản lý rủi ro tín dụng cho vay đầu tư cần thực hiện một số biện pháp sau: Hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn về công tác kiểm tra: quy trình, nội dung kiểm tra; xác định rõ trách nhiệm của cán bộ kiểm tra. Xây dựng được các phiếu ghi nội dung kiểm tra cụ thể đối với từng bước trong cho vay đầu tư, qua đó tránh được những thiếu sót nội dung trong việc kiểm tra. Tập trung tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nội bộ; đưa công tác kiểm tra nội bộ đi vào thực chấp và có chiều sâu, thực sự trở thành nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch I. Nội dung kiểm tra, kiểm soát phải được chuẩn hoá theo đúng quy định của Nhà nước và NHPTVN. Kết quả kiểm tra phải đảm bảo tính khách quan, độc lập. Tổ chức đúc rút kinh nghiệm công tác cho vay đầu tư có được từ quá trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ để phát huy những mặt tích cực, khắc phục và trách những xử lý tiêu cực trong nghiệp vụ cho vay. Cán bộ tín dụng phải nghiêm túc chỉnh sửa những sai lầm trong nghiệp vụ. Đồng thời, phải thường xuyên giám sát quá trình khắc phục, chấn chỉnh những sai sót của cán bộ tín dụng. Qua kiểm tra, cần chú trọng phát hiện những điểm bất hợp lý trong các quy chế, quy định nghiệp vụ đã được ban hành, kiến nghị với các cơ quan cấp trên để hoàn thiện hệ thống văn bản. Cán bộ kiểm tra phải được chuyên môn hoá, được chọn lọc từ những cán bộ tín dụng giỏi, có kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời, phải không ngừng tập huấn, đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra để cập nhật, nghiên cứu một cách chuẩn xác các văn bản mới được ban hành; cập nhật các vấn đề phát sinh mới trong xử lý nghiệp vụ, trong hoạt động kinh tế xã hội có liên quan. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng. Con người luôn luôn đóng vai trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Trong thời gian qua, nhằm phát huy nhân tố con người, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến các qui định của Chính phủ và Hội đồng quản lý được thực hiện thường xuyên, liên tục tại Sở. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ cũng được chú trọng, các lớp đào tạo, đào tạo lại, cán bộ gửi học các lớp đào tạo dài ngày được tổ chức thường xuyên hơn. Tuy nhiên, cần phát huy hơn nữa nhân tố con nguời đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Sở: Thu hút cán bộ giỏi và sử dụng cán bộ hiệu quả. Trong tình hình nền kinh tế đang hội nhập, các Ngân hàng nước ngoài được phép thành lập ngân hàng con tại Việt Nam, các ngân hàng trong nước cũng đang thực hiện các chính sách mở rộng quy mô và mạng lưới hoạt động, do vậy cạnh tranh trong thu hút người tài đang ngày càng gay gắt hơn. Nằm trên địa bàn Hà Nội, là một trong những trung tâm tài chính của đất nước, nguồn nhân lực giỏi của Sở Giao dịch I trong những năm qua cũng đã bị ảnh hưởng bởi tình hình trên. Do vậy, thu hút người tài và sử dụng cán bộ hiệu quả cũng đang là vấn đề được NHPTVN đặt ra. Một số giải pháp nên được quan tâm hiện nay là: Một là, cần phải đánh giá được khả năng của cán bộ và sử dụng đúng người đúng việc, nó đòi hỏi người lãnh đạo phải có cái nhìn toàn diện, khách quan và đánh giá cán bộ thông qua nhiều tiêu chí khác nhau. Hai là, xác định nhu cầu cơ bản của người cán bộ. Các nhu cầu đó chủ yếu được phân thành: nhu cầu về điều kiện làm việc, nhu cầu về lương bổng và quyền lợi cá nhân, nhu cầu về cơ hội thăng tiến. Nó đòi hỏi ngân hàng phải nâng cao môi trường làm việc, tăng cường tính cạnh tranh lành mạnh, hoàn thiện hệ thống lương, thưởng và phân bổ quyền lợi trên cơ sở hiệu quả công việc, gắn với chức trách và nhóm công việc cụ thể, giải quyết hài hoà lợi ích cán bộ với kết quả công việc; giao việc theo năng lực, đãi ngộ theo cống hiến. Thông qua đó gắn bó người cán bộ với cơ quan, thúc đẩy người cán bộ phải tự hoàn thiện mình, nâng cao hiệu quả công việc, ổn định và phát triển nguồn nhân lực, xây dựng được đội ngũ cán bộ nòng cốt. Tiếp tục nâng cao chất lượng cán bộ thông qua đào tạo và đào tạo lại. Hoạt động tín dụng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề, đồng thời luôn gắn chặt với sự biến động của nền kinh tế, đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức, thông tin. Trong quản lý rủi ro tín dụng, kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn luôn được coi trọng, là yếu tố định tính có thể bù đắp được những thiếu sót của các phương pháp phân tích, của các yếu tố định lượng. Vì vậy, chính sách đạo tạo, bồi dường nguồn nhân lực cần đặt lên vị trí then chốt và thực hiện thật sự bài bản, có chiến lược rõ ràng và kiên định. Công tác đào tạo phải linh hoạt phù hợp với từng mục tiêu cụ thể, từng đối tượng cụ thể. Đồng thời, ứng dụng nhiều mô hình đào tạo khác nhau: đào tạo bên ngoài, đào tạo nội bộ, tự đào tạo,… với nhiều hình thức khác nhau: cử đi học, mời giáo viên thỉnh giảng, tự nghiên cứu và báo cáo, nói chuyện và thảo luận chuyên đề,… Đối với cán bộ mới, thông qua các lớp “tiền viên chức”, cán bộ mới phải được trang bị đầy đủ các kiến thức về quy định của Nhà nước, của ngành về soạn thảo công văn, văn bản; về cơ cấu tổ chức, các hoạt động của ngành, quy trình luân chuyển chứng từ, … Thông qua đó, cán bộ mới có được nhận biết tổng quan về chức năng, nhiệm vụ, về hoạt động của ngành. Bên cạnh đó, cần phải có đào tạo chuyên sâu hơn về các nghiệp vụ chính của ngành để cán bộ có thể tiếp cận được với thực tế công việc. Định kỳ cần tổ chức các buổi học nghiệp vụ để cập nhật những hướng dẫn nghiệp vụ mới của Nhà nước, của ngành, thống nhất phương thức thực hiện, tổng kết các vướng mắc trong quá trình thực hiện, có đề xuất lên cấp trên để có hướng xử lý. Tuỳ vào nghiệp vụ được giao, kinh nghiệm công tác, qua thực tế công tác, kết quả hoàn thành nghiệp vụ được giao, thấy được những điểm yếu, điểm mạnh chung trong nghiệp vụ của cán bộ,cần phân loại các nhóm đối tượng đào tạo riêng biệt. Trên cơ sở phân loại cán bộ, công tác tổ chức đào tạo phải được thực hiện theo chuyên đề, phục vụ cho từng đối tượng cán bộ nghiệp vụ cụ thể. Có chính sách khuyến khích cán bộ trong việc tự đào tạo nâng cao kiến thức nghiệp vụ, kiến thức thị trường như: tạo điều kiện về thời gian, tăng cường hệ thống thông tin, xây dựng những trang thông tin nội ngành, thường xuyên cập nhật hệ thống tài liệu tham khảo, tổ chức thi cán bộ giỏi, ... Đồng thời có các chính sách khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với các cán bộ có thành tích cao trong học tập. Tăng cường phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước trong công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Qua đó giúp cho cán bộ được đào tạo lại một cách bài bản, đồng thời học hỏi được các kỹ năng mới. Bên cạnh đó, cần xây dựng và nâng cao năng lực lực đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm tại chỗ. Đây là đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm làm việc thực tế tại Sở, có khả năng tổng hợp và truyền đạt lại những kinh nghiệm đó. Đội ngũ giảng viên tại cơ sở có thể giúp cho các cán bộ đặc biệt là cán bộ mới có được cách thức áp dụng những kiến thức lý thuyết, kiến thức từ xã hội áp dụng vào thực tế công việc hiệu quả nhất. Xây dựng phong cách làm việc khoa học. Nền kinh tế nước ta đang phát triển mạnh mẽ, hội nhập cùng thế giới, do vậy cần xây dựng đội ngũ cán bộ với tác phong làm việc khoa học, hiện đại, loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả, không thiết thực. Cần tăng cường các biện pháp giáo dục cán bộ, công chức về tinh thần trách nhiệm, ý thức làm việc, phong cách làm việc công nghiệp. Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý hệ thống thông tin tín dụng. Nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển với tốc độ nhanh chóng, đa dạng như hiện nay, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra đối với hoạt động tín dụng là công tác thu thập và xử lý thông tin để phòng ngừa rủi ro. Để xây dựng hệ thống thông tin tốt trước tiên cần phải nâng cao chất lượng thông tin đầu vào. Cần thu thập thông tin đầy đủ, chính xác về khách hàng, về thị trường: Thu thập thông tin khách hàng là một khâu rất quan trọng trong hoạt động tín dụng, trong quản lý rủi ro tín dụng. Thông tin khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho vay của ngân hàng, đến chất lượng quản lý theo dõi dự án, đến việc quản lý và xử lý các khoản vay có vấn đề. Hiện nay, việc khai thác thông tin khách hàng vẫn chủ yếu do khách hàng cung cấp thông qua các báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh,… Tuy nhiên, những thông tin này sẽ bị sai lệch khi khách hàng gặp khó khăn và không có thiện chí cung cấp cho ngân hàng, hoặc chỉ cung cấp những thông tin có lợi cho doanh nghiệp. Do vậy, cán bộ tín dụng cần phải mở rộng nguồn thu thập thông tin, để có được những thông tin đa chiều. Thu thập thông tin về thị trường để giúp ngân hàng có thể dự đoán được tình hình cung cầu, giá cả sản phẩm trong từng thời kỳ, trong từng địa bàn; thông qua sự biến động của thị trường có thể phân tích được những ảnh hưởng của nó đối với hoạt động của doanh nghiệp vay vốn. Bên cạnh việc thu thập thông tin, việc xử lý thông tin cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trên cơ sở những thông tin thu thập được, cán bộ tín dụng cần phải phân tích, đánh giá những tác động đối với khoản vay, trên cơ sở đó đề ra hướng xử lý cần thiết. Để hoạt động thu thập thông tin đạt hiệu quả cao, bên cạnh những nỗ lực của từng cá nhân cán bộ tín dụng, cần phải có quá trình thu thập thông tin chung của toàn ngân hàng. Nó giúp cho việc thu thập thông tin được rộng hơn, tổng hợp hơn, và tiết kiệm được thời gian. Thông qua hệ thống thông tin của Sở Giao dịch I, cần phải thu thập được các thông tin dự báo sự phát triển của các ngành , lĩnh vực, xu hướng diễn biến của thị trường, suất đầu tư, tỷ suất lợi nhuận bình quân của từng ngành,… Đồng thời, cần từng bước hiện đại hoá công nghệ thông tin, trang bị đầy đủ và nâng cấp các thiết bị về mạng, truyền thông phục vụ công tác thu thập và xử lý thông tin, đảm bảo thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời, đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao hơn. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. Cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước là một nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tài chính công, chịu sự điều hành của nhiều cấp cơ quan quản lý Nhà nước. Quá trình vận hành tại các Sở Giao dịch, chi nhánh NHPTVN có thể cho thấy được những khiếm khuyết, những bước cần điều chỉnh. Những đề xuất từ các Chi nhánh sẽ giúp cho chính sách cho vay đầu tư dần hoàn thiện, qua đó cũng giúp cho công tác quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư tại các Chi nhánh quả hơn. Trên cơ sở nghiên cứu đề tài, xin đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư của Nhà nước tại Sở Giao dịch I nói riêng và các Chi nhánh NHPTVN nói chung như sau: Đối với NHPTVN. - Hoàn thiện đồng bộ hệ thống các Quy chế, Quy trình nghiệp vụ quản lý cho vay đầu tư của Nhà nước. NHPTVN cần nghiên cứu xây dựng quy trình nghiệp vụ khoa học theo phương châm tránh gây phiền hà cho khách hàng, như: - Chủ dự án chỉ phải liên hệ với một đầu mối duy nhất, không phải đi lại nhiều lần và qua nhiều Phòng, Ban tại Chi nhánh và Quỹ TW. - Tổ chức quy trình nghiệp vụ khoa học, có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng thẩm định với các phòng nghiệp vụ để đảm bảo tính chính xác và khách quan của các chỉ tiêu đánh giá về tính khả thi của dự án đầu tư và năng lực vay vốn của chủ dự án. - Thực hiện tốt công tác công khai quy trình nghiệp vụ để khách hàng năm rõ thủ tục và các bước công việc khi giao dịch tại hệ thống NHPTVN. - Tích cực tìm hiểu và học hỏi từ các mô hình tài chính phát triển tương tự ở các nước trên thế giới và trong khu vực, từ đó nắm bắt được kinh nghiệm và vận dụng thực tiễn trong hoạt động của mình. Bên cạnh đó, cần tăng cường phân cấp cho Chi nhánh NHPT trong việc thẩm định, quyết định cho vay. Cùng với sự trưởng thành của NHPTVN, năng lực chỉ đạo về chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ các Chi nhánh NHPT đã được nâng cao thêm một bước. Vì vây, việc đẩy mạnh phân cấp cho Chi nhánh NHPT trong việc thẩm định, quyết định cho vay sẽ tạo điều kiện cho các Chủ đầu tư tiếp cận nhanh và xử lý cơ hội kinh doanh được thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thời gian và thủ tục đầu tư. Đẩy mạnh phân cấp nhưng không có nghĩa là phân cấp tràn lan. Phân cấp cần gắn liền với năng lực và khả năng huy động vốn của từng Chi nhánh NHPT và phải đảm bảo có sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Trung ương, phải thực hiện nghiêm túc các quy chế và quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản của Nhà nước và của đội ngũ cán bộ trong hệ thống NHPTVN. - Cần xây dựng hệ thống công cụ hỗ trợ cho công tác quản lý rủi ro trong cho vay đầu tư. NHPT Việt Nam cần sớm nghiên cứu, ban hành hệ thống chấm điểm và cếp hạng doanh nghiệp. Hiện nay, rất nhiều ngân hang thương mại Việt Nam đã áp dụng hệ thống này, sẽ là cơ sở để NHPT Việt Nam tham khảo và lựa chọn hệ thống phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình. Nó là cơ sở để NHPT Việt Nam có thể áp dụng phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. - Tăng cường công tác hỗ trợ xử lý nợ và thu hồi nợ với các Chi nhánh. Cần phân định rõ trách nhiệm trong công tác thu hồi và xử lý nợ vay đối với từng cấp (cơ quan Quỹ TW và các Chi nhánh Quỹ HTPT các tỉnh, TP) + Thường xuyên rà soát toàn bộ kế hoạch thu nợ của từng dự án, để giao đúng, giao đủ kế hoạch thu nợ cho các Chi nhánh NHPTVN. + Đối với các dự án có nguồn trả nợ từ Ngân sách Trung ương, cần chủ động làm việc với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải để bố trí bổ sung nguồn trả nợ đủ cho NHPTVN theo hợp đồng tín dụng. + Theo dõi chặt chẽ tình hình nợ quá hạn, lãi treo, nên tổ chức các đoàn đốc thu tại các Chi nhánh NHPTVN có nợ tồn đọng nhiều hoặc mới phát sinh mà Chi nhánh NHPTVN chưa có biện pháp xử lý hiệu quả. + Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp xử lý nợ vay vốn đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ. + Cần sớm tiến hành xây dựng quy chế, quy trình về xử lý nợ vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước; xây dựng chế tài xử lý trách nhiệm trả nợ vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với các chủ đầu tư chây ỳ, cố tình chiếm dụng vốn của Nhà nước. + Nghiên cứu áp dụng thí điểm hình thức thu hồi nợ thông qua Công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính đối với một số dự án. + Cần xây dựng cơ chế gắn chặt hơn kết quả thu hồi nợ vay với quỹ lương được hưởng của từng Chi nhánh. Tăng cường chức năng cho Trung tâm xử lý nợ. Hiện nay, Trung tâm xử lý nợ của NHPT Việt Nam được thành lập chỉ với chức năng chính là xử lý nợ các dự án đúng quy định của Nhà nước. Như vậy, Trung tâm này mới chỉ thực hiện chức năng xử lý các khoản nợ đã bị rủi ro. Trong thời gian tới, cần phải tăng cường thêm chức năng dự báo sớm các dấu hiệu rủi ro có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan ban ngành liên quan. Tăng cường chế tài trong quản lý cho vay đầu tư. Đặc điểm cho vay đầu tư là chỉ cho vay đối với tài sản cố định của dự án, nên thông thường sau khi vay đầu tư tài sản cố định ban đầu tại NHPT Việt Nam, các doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ với NHPT trong thời gian dài sau đó, nhưng lại tiếp tục phải đặt quan hệ với các ngân hàng thương mại để thực hiện vay vốn lưu động; đồng thời cho vay đầu tư tại NHPT có nhiều ưu đãi về lãi suất (lãi suất nợ trong hạn thấp hơn so với bình quân chung trên thị trường, lãi suất nợ quá hạn chỉ bằng 150% lãi suất trong hạn tính cho khoản nợ vay chuyển quá hạn), thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, số vốn vay lớn. Do những đặc điểm trên, nên sau khi vay vốn xong, chủ đầu tư thường có tư tưởng chây ỳ không thực hiện trả nợ đặc biệt là các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, để hoạt động cho vay đầu tư hiệu quả đảm bảo thu hồi được nợ, Nhà nước bên cạnh những ưu đãi cần phải có những chế tài mạnh để đảm bảo ràng buộc tránh hiện tượng chây ỳ của chủ đầu tư: + Áp dụng lãi suất phạt cao hoặc lãi suất phạt trên toàn bộ số dư nợ gốc nếu chủ đầu tư chây ỳ không trả nợ trong một khoảng thời gian. Với chế tài như trên sẽ đảm bảo bên cạnh việc tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiếp xúc được nguồn vốn ưu đãi để đầu tư dự án sẽ phải tính toán cụ thể và nghiêm túc trả nợ. + Có những quy định cụ thể trong việc yêu cầu các cấp, các ngành, chính quyền địa phương có liên quan có những hỗ trợ, can thiệp để giúp đỡ NHPT trong việc thu nợ. - Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp và linh hoạt hơn Về đối tượng ưu đãi, với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Chính phủ nên tập trung vào những đối tượng thực sự đem lại hiệu quả về mặt tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Để đạt được mục đích này, Chính phủ nên tập trung ưu tiên cho các đối tượng thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành kỹ thuật công nghệ cao, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu và các dự án sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc đối tượng cần được khuyến khích đầu tư. Các dự án mang tính xã hội nhiều hơn tính kinh tế nên chuyển sang cho ngân sách thực hiện cho đúng với chức năng của nó. Việc qui định các đối tượng ưu đãi cần có sự ổn định tương đối trong một thời gian dài để các doanh nghiệp có định hướng chính xác trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư. Tự do hoá lãi suất tuân theo quy luật thị trường: Từ bài học kinh nghiệm của các nước, trong thời gian tới cần thay đổi chính sách lãi suất cho vay. Cho vay với điều kiện ưu đãi so với ngân hàng thương mại không nhất thiết là cho vay với lãi suất quá thấp, hoặc thấp hơn ngân hàng thương mại. Điều kiện ưu đãi có thể là không đỏi hỏi tài sản cầm cố hoặc thế chấp, tư vấn miễn phí, đào tạo miễn phí. Lựa chọn này được xây dựng trên cơ sở cho phép NHPT Việt Nam được quyền xác định mức lãi suất phù hợp với từng khách hàng. Với mục tiêu là cho vay đối tượng chính sách song để tồn tại và phát triển cần phải thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay đầu tư tuân theo quy luật thị trường nhằm xoá bỏ những rủi ro tiềm ẩn để người cho vay, người vay không còn ỷ lại vào Nhà nước dẫn đến giảm cấp bù ngân sách hàng năm, tạo điều kiện cho NHPT Việt Nam mở rộng cho vay, khuyến khích nhiều đối tượng sử dụng vốn có hiệu quả. KẾT LUẬN Phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn của công cuộc phát triển nền kinh tế Việt Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập là một chủ trương đúng đắn của chính phủ nhằm đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch I – NHPT Việt nam trong những năm qua đã được chú trọng. Để hoạt động quản lý rủi ro tín dụng đạt hiệu quả, công tác nghiên cứu rủi ro tín dụng và đề ra các giải pháp phòng ngừa, hạn chế là việc làm cấp bách, cần thiết. Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề cập tới những vấn đề sau: 1. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng trong cho vay đầu tư: đưa ra khái niệm về cho vay đầu tư qua NHPT Việt Nam, khái niệm về rủi ro tín dụng, đặc điểm của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như các biện pháp nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng; khái niệm, nội dung, quy trình quản lý rủi ro tín dụng và kinh nghiệm về vấn đề rủi ro tín dụng ở một số nước trên thế giới. 2. Tác giả nghiên cứu thực trạng về hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam, thông qua số liệu tài chính qua nhiều năm có so sánh đã đưa ra được những nhận xét xác thực, phù hợp với thực tế hoạt động của Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam và từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tác giả sử dụng các phương pháp phân tích tài chính để phân tích tình hình tín dụng, rủi ro tín dụng cũng như nguyên nhân dẫn đến rủi ro của Sở Giao dịch I qua các năm để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Kết quả nghiên cứu sẽ là tư liệu có ích để Sở Giao dịch I xây dựng các cơ chế phù hợp để hạn chế, phòng ngừa quản lý rủi ro. Tuy nhiên, việc quản lý rủi ro tín dụng đối với Sở Giao dịch I – NHPT Việt Nam là một vấn đề mang tính đặc thù; trong phạm vi của một bản luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp để bản luận văn được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC .3 Khái niệm tín dụng đầu tư của Nhà nước: 3 Cho vay đầu tư của Nhà nước: 4 Khái niệm 4 Vai trò của cho vay đầu tư của Nhà nước. 4 RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC .8 Khái niệm, phân loại rủi ro tín dụng. 8 Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. 10 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC . 15 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng. 15 Nội dung quản lý rủi ro tín dụng. 15 Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý. 15 Thiết lập chính sách quản lý tín dụng. 16 Quy trình quản lý tín dụng. 16 Đánh giá, phân loại các khoản vay. 16 Quản lý nợ có vấn đề 16 Các tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng. 19 Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng. 21 Các nhân tố tác động tới quản lý rủi ro tín dụng. 27 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN 30 KHÁI QUÁT SỞ GIAO DỊCH I – NHPT VIỆT NAM. 30 Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam 30 Cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch I – NHPTVN. 32 Kết quả một số hoạt động của Sở Giao dịch I – NHPTVN. 34 HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC TẠI SỞ GIAO DỊCH I 35 Tình hình chung. 35 Phân loại tín dụng theo khối, ngành kinh tế. 38 Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo. 40 CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NHPT VIỆT NAM. 41 Thiết lập cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng. 41 Chính sách cho vay đầu tư của Nhà nước .42 Thiết lập các Quy trình nghiệp vụ. 46 Quy trình thẩm định dự án đầu tư. 46 Quy trình tín dụng .48 Quy trình xử lý rủi ro. 49 Phân loại nợ và trích lập rủi ro. 50 Công tác kiểm tra, kiểm soát. 52 ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I – NHPT. 54 Những mặt tích cực trong công tác quản lý rủi ro tín dụng. 54 Hạn chế và nguyên nhân. 56 Hạn chế. 56 Nguyên nhân. 59 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CHO VAY ĐẦU TƯ 66 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHPT VIỆT NAM. 66 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG. 68 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định. 68 Tăng cường công tác quản lý, theo dõi nợ vay. 72 Đẩy mạnh công tác thu hồi và xử lý nợ vay. 73 Đổi mới phương pháp phân loại nợ. 75 Giám sát chặt chẽ hơn tài sản bảo đảm tiền vay. 76 Tăng cường vai trò công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ. 76 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng.78 Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý hệ thống thông tin tín dụng. 81 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 83 Đối với NHPTVN. 83 Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan ban ngành liên quan. 85 KẾT LUẬN 88 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-32.doc
  • docLA2032.doc
Tài liệu liên quan