LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử phát triển và bộ của con người. Hoạt động của ngân hàng có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế và xã hội. Điều này xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng – điểm khác biệt xa với các doanh nghiệp kinh tế khác: ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Có thể nói rằng, tín dụng là hoạt động quan trọng có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng lu
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôn gắn liền với hoạt động này. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, người ta chẳng có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ sử sử dụng những phương pháp nhằm làm giảm thiểu rui ro tín dụng xuống mức có thể chấp nhận được.
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Nó giúp cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung đạt hiệu quả cao hơn. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì những lí do đó nên em lựa chọn đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam” để nghiên cứu. Đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Phần 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Phần 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Để hoàn thành được đề án này, em xin chân thành cảm ơn Th.s Phan Thị Hạnh đã hướng dẫn tận tình cho em.
PHẦN 1QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NHTM
1.1. Khái quát về rủi ro trong hoạt động của NHTM
1.1.1. Khái niệm rủi ro
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa tiền tệ. Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro phức tạp luôn đi sát các lĩnh vực hoạt động của mỗi ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do: cùng với sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa, nguồn tiền của các ngân hàng đang có thay đổi mạnh mẽ. Nguồn tiền gửi của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm hơn với lãi suất. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống.
Rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
1.1.2. Phân loại
Có nhiều cách để phân loại rủi ro khác nhau:
*Phân chia rủi ro theo các loại tài sản thì rủi ro gồm:
- Rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ
- Rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán
- Rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác
*Phân chia rủi ro theo tính chất nghiệp vụ tín dụng ngân hàng thì có thể thấy các loại rủi ro sau đây:
- Rủi ro nguồn vốn: rủi ro tín dụng, rủi ro tồn đọng vốn
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro hối đoái
- Rủi ro thanh khoản
Ngoài ra, còn có các rủi ro khác như: khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hỏa hoạn, lỗi công nghệ...
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm và bản chất.
Khái niệm:
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/ QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Bản chất:
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng phải thực hiện các hoạt đọng phân tích khách hàng sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung, ngân hàng sẽ chỉ cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, trong các khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro bởi vì không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Và khi tổn thất dưới mức tỉ lệ tổn thất dự kiến thì ngân hàng coi đó là thành công trong quản lý.
1.2.2. Nguyên nhân.
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại những đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất.
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân từ nhiều phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường bên ngoài.
*Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng.
Trước hết phải nói đén các ngân hàng còn thiều một chính sách tín dụng nhất quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, danh mục vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn… Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản như dưới đây:
- Ngân hàng không đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng.
- Sự nới lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao nhãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều, hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay.
*Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng.
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
-Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
-Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được o dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
-Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ta, thói quen ghi chép đầy đủ chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực.
-Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà nước chịu.
*Nguyên nhân khách quan.
-Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây ra tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
-Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu
-Sự tấn công của hàng nhập lậu. Với hàng trăm km bở biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả vẫn tràn lan tại các thành phố lơn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
-Rủi ro môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quản của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chạm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập.
-Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu;…
-Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên và đã được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin.
-Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.2.3. Hậu quả.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu, hoạt đọng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Đi liền với nó là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Rủi ro tín dụng là khách quan, là không thể tránh khỏi. Rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược kinh doanh. Có rât snhieeuf lý do khiến người ta phải quan tâm đến vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sở dĩ như vậy là do rủi ro nếu không được dự kiến trước sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng bất lợi cho cả ngân hàng lẫn người gửi tiền vào ngân hàng.
Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được thì ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Trường hợp không đủ nguồn vốn để trả lại cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mát khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. Vì hoạt động của ngân hàng có tính xã hội hóa cao nên dù chỉ có một ngân hàng có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng không được ứng cứu kịp thời của ngân hàng trung ương thì có thể gây ra “phản ứng dây chuyền”, đe dọa đến cả hệ thống ngân hàng.
Rủi ro tín dụng tăng lên làm chi phí của ngân hàng tăng cao ngoài dự kiến, thu nhập giảm sút, phần nộp vào ngân sách nhà nước giảm. Việc tích lũy để đầu tư đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ gặp nhiều khó khăn về kinh phí. Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xóa nợ; ngoài một phần ngân sách Nhà nước cấp bù thì phần chủ yếu do ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên thu nhập bị giảm.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cao khiến cho uy tín trong nước và uy tín quốc tế của ngân hàng bị giảm sút. Điều này cũng gây tâm lý hoang mang, dao động cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng.
Có thể nói, rủi ro tín dụng là rất nguy hiểm nếu vượt ra ngoài dự kiến. Nó có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể quản lý cẩn thận loại rủi ro này.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại
1.2.1. Dấu hiệu nhận biết.
Việc kinh doanh khó có thể thất bại qua một qua một đêm, do vậy mà sự thất bại đó thường có một vài dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý chúng. Nhưng cần chú ý là các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá trình chư không hẳn là một thời điểm, do vậy, cán bộ tín dụng phải nhận biết chúng một cách có hệ thống.
Chúng ta có thể xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
* Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm:
- Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
- Khó khăn trong thanh toán lương.
- Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi.
- Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản.
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau.
- Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
- Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.
* Các hoạt động cho vay:
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
- Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
- Thường xuyên yêu cầu nhân hàng cho đáo hạn.
- Yêu cầu các khoản vay vượt quá dự kiến.
* Phương thức tài chính:
- Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: Thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả (factoring).
- Giảm các khoản phải trả tăng các khoản phải thu.
- Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:
+ Được hoạch định bởi Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm.
+ Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật.
+ Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, của chủ nợ.
+ Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên.
+ Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém; xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương vị trí then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý: bao gồm các mối quan hệ tranh chấp giữa Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành với các cổ đông khác, chính quyền địa phương, nhân viên, người cho vay, khách hàng chính.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng rất hiện đại, phương tiện giapo thông đắt tiền, Ban Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh.
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm dịch vụ ra quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế; tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc về vấn đề kĩ thuật và thương mại, biểu hiện:
- Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất,; thay đổi thị hiếu; cập nhật kĩ thuật mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: Đặc biệt chú ý sự tác động của các chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động, môi trường.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
Nhóm 5:Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán:
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu về tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy;
+ Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên.
+ Khả năng tiền mặt giảm.
+ Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có.
+ Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp.
+ Những thay đổi về lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán.
+ Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán
+ Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ được kéo dài.
+ Hoạt động lỗ.
+ Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ.
+ Không hạch toán đúng tài sản cố định.
+ Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình.
+ Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng.
+ Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản.
+ Phân bố nợ không thích hợp.
+ Lệ thuộc vào sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận.
+ ...
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt thường cán bộ tín dụng cũng có thể nhận biết được như:
+ Những vấn đề về đạo đức, thậm chí dáng vẻ của nhà kinh doanh cũng biểu hiện dấu hiệu gì đó.
+ Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh cũng là một dấu hiệu
+ Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
Trong tất cả các dấu hiệu đó dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa hơn nhất là chậm thanh toán khoản cho vay.
1.2.2. Đo lường.
Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa và đánh giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biệ pháp quản lý hiệu quả.
* Lượng hóa rủi ro tín dụng
Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức đọ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến:
* Mô hình chất lượng 6 C:
Tư cách người vay (Character)
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xất kinh doanh của khách hàng hay không, đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin tù nhiều nguồn khác như từ: trung tâm phòng ngừa rủi ro, tù ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,...
Năng lực của người vay ( Capacity )
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia . Đòi hỏi người đi vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự .
Thu nhập của người đi vay (Cash)
Trước hết , phải xác định được nguồn trả nợ cua người đi vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập từ bán thanh lý tài sản hoặc từ phát hành chứng khoán ,..
Bảo đảm tiền vay (Collateral)
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngânhàng .
Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng , nhằm thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ .
Kiểm soát (Control)
Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi cua luật pháp có liên quan va quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không ? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không ?
* Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor:
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody Standard & Poor là những dịch vụ tốt nhất.
Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng khoán (khaonr cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay).
Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhận nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại có lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này.
Mô hình xếp hạng của công ty Moody và standard & Poor
Nguồn Xếp hạng Tình trạng
Standard & Poor
Aaa Chất lượng cao, rủi ro thấp nhất*
Aa Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
Baa Chất lượng trung bình*
Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ
B Chất lượng dưới trung bình
Caa Chất lượng kém
Ca Mang tính đầu cơ,có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
Moody
AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
AA Chất lượng cao*
A Chất lượng trung bình*
BBB Chất lượng trung bình*
BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ
B Chất lượng dưới trung bình
CCC Chất lượng kém
CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
*Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0.6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại, khi trị số Z càng thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ zếp khách hàng vào nhóm nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
*Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng của Hoa Kỳ:
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm
1. Nghề nghiệp của người vay
-Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh 10
-Công nhân có kinh nghiệm 8
-Nhân viên văn phòng 7
-Sinh viên 5
-Công nhân không có kinh nghiệm 4
-Công nhân bán thất nghiệp 2
2. Trạng thái nhà ở
-Nhà riêng 6
-Nhà thuê hay căn hộ 4
-Sống cùng bạn hay người thân 2
3. Xếp hạng tín dụng
-Tốt 10
-Trung bình 5
-Không có hồ sơ 2
-Tồi 0
4. Kinh nghiệm nghề nghiệp
-Nhiều hơn 1 năm 5
-Từ 1 năm trở xuống 2
5. Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
-Nhiều hơn 1 năm 2
-Từ 1 năm trở xuống 1
6. Điện thoại cố định
-Có 2
-Không có 0
7. Số người sống cùng (phụ thuộc)
-Không 3
-Một 3
-Hai 4
-Ba 4
-Nhiều hơn ba 3
8. Các điều khoản tại ngân hàng
-Cả tài khoản tiết kiệm và phat hành Sec 4
-Chỉ tài khoản tiết kiệm 3
-Chỉ tài khản phát hành Sec 2
-Không có 0
Khách hàng có điểm cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng thao mô hình điểm như sau:
Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng
29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD
31 – 33 điểm Cho vay đến 1000 USD
34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD
37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD
38 – 40 điểm Cho vay đến 5000 USD
41 – 43 điểm Cho vay đến 8000 USD
1.2.3. Kiểm soát.
Rủi ro tín dụng không thể loại trừ hoàn toàn mà các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát, quản lý để hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Phần này sẽ đề cập một số nguyên tắc mà các ngân hàng thương mại trên thế giới đã và đang thực hiện để kiểm soát rủi ro.
1.2.3.1. Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ người vay
Trước hết, phải đảm bảo tín nhiệm trong quan hệ vay trả. Nguyên tắc này có thể được kiểm chứng qua thực tế và có quá trình quan hệ vay trả theo đúng các quy định của tín dụng và sự cam kết. Tuy nhiên, để thiết lập những quan hệ tín dụng đầu tiên thì nguyên tắc này vẫn phải được đảm bảo. Song nó còn được nhìn nhận và đánh giá ở những tiêu thức khác như: phẩm chất đạo đức kinh doanh; tính trung thực, nghiêm túc trong các quan hệ kinh tế; tính nghiêm túc trong việc chấp hành các luật lệ của Nhà nước.
Thứ hai: phải đảm bảo nguyên tắc người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ cam kết đối với các khoản vay.
Thứ ba: phải đảm bảo nguyên tắc xây dựng được các phương án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay.
1.2.3.2. Hiệu quả và chất lượng tín dụng trên cơ sở hiệu quả sản xuất kinh doanh của người vay vốn.
Điều này có nghĩa rằng: hạn chế rủi ro tín dụng cũng đồng nghĩa với hạn chế, giảm thiểu những rủi ro tổn thất trong sản xuất và kinh doanh. Một khi nguwoif vay vốn hoạt đọng sản xuất kinh donh khoong có hiệu quả, sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi, tình trạng mất vốn do thua lỗ...sẽ là những nguyên nhân trực tiếp sẽ làm cho các khoản tín dụng không được thực hiện đúng hạn. trong trường hợp người vay vốn bị páh sản thì tình trạng mất vốn của ngân hàng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Do đó ngân hàng có thu được vốn và lãi tiền vay hay không là phụ thuộc chủ yếu vào người vay vốn sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không.
1.2.3.3. Mở rộng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng.
Việc mở rộng hoạt đọng kinh doanh tín dụng là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Song chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của các ngân hàng. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết vay tiền, ngân hàng thu được gốc và lãi vay đúng hạn. Như trên đã đề cập,trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là của người vay. Do đó, khi ngân hàng đã quyết định và khoản cho vay được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay đúng hơn phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay.Vì vậy, việc phân tích, đánh giá năng lực tài chính và khả năng sản xuất kinh doanh của người vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng là đặc biệt quan trọng để quyết định chất lượng vốn tín dụng. Mọi sự hiểu biết của ngân hàng về những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà người vay vốn định đầu tư sẽ tạo thêm cho người vay cơ sở chắc chắn hơn để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay.
1.2.3.4. Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro.
Có thể nói, phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng, nhất là nhứng ngân hàng nhỏ, năng lực tài chính hạn chế. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và cộng đồng tài trợ. Nó được biểu hiện duwois hình thức mỗi ngân hàng không nên tập chung vốn quá nhiều cho một người vay. Những ngân hàng lớn cần huy động nhiều ngân hàng tham gia tài trợ và cùng quane lý vốn cho vay, hạn chế cho vay các lĩnh vực có tỷ lệ rủi ro cao. Khi nền kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi các ngân hàng càng phải hợp tác và liên kết chặt chẽ để hỗ trợ nhau và tăng cường khả năng cùng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế. Đồng thời sư hợp tác, liên kết đó cũng chính là sự phân tán rủi ro, tránh tập trung rủi ro lớn vào một ngân hàng. Do vậy, phân tán rủi ro vừa là yêu cầu quan trọng của mỗi ngân hàng thương mại, vừa là xu thế hội nhập và hợp tác trong thị trư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21371.doc