Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương (SGB) chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương (SGB) chi nhánh Hà Nội: ... Ebook Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương (SGB) chi nhánh Hà Nội

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương (SGB) chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Xin được mở đầu bài luận văn này bằng lời của Walter Wriston- cựu chủ tịch & CEO của Citibank/Citicorp: “Thực tế là các chuyên viên ngân hàng đang ở trong một nghành kinh doanh về quản lý rủi ro. Nói một cách trực tiếp và đơn giản, đó chính là công việc của ngân hàng”. Câu nói này thực sự thúc đẩy em tìm hiểu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng, và từ đó hiểu thêm về quản lý rủi ro trong ngân hàng thương mại. Theo tổng kết gần đây nhất của tạp chí The Mc Kinsey rủi ro tín dụng chiếm tới 60% trong tổng số các loại rủi ro của các ngân hàng thương mại châu Á. Do hạn chế về nội dung trình bày, luận văn của em chỉ đi sâu vào nghiên cứu về quản lý rủi ro tín dụng. Về mặt lý luận, tín dụng bao hàm cả huy động vốn và sử dụng vốn (chủ yếu là cho vay). Vì thế rủi ro tín dụng cũng bao hàm cả rủi ro trong hoạt động huy động vốn lẫn cho vay. Tuy nhiên rủi ro trong huy động vốn rất ít, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong rủi ro tín dụng. Thông thường các ngân hàng thương mại nhắc đến rủi ro tín dụng đều ngầm hiểu là rủi ro trong cho vay. Và quản lý rủi ro tín dụng là quản lý rủi ro cho vay. Dưới đây em cũng xin phép dùng cụm từ rủi ro tín dụng với ý nghĩa giống như quan điểm của đa số các ngân hàng thương mại hiện nay. Sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tình hình hoạt động thực tế tại Sài Gòn Công thương Ngân hàng chi nhánh Hà Nội, em đã chọn đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng tại Sài Gòn Công thương Ngân hàng chi nhánh Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp. Kết cấu của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sài Gòn Công Thương ngân hàng chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý rủi ro tại Sài Gòn Công Thương ngân hàng chi nhánh Hà Nội. CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành của ngân hàng thương mại gắn với đòi hỏi thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Vì vậy, nó tồn tại trong nền kinh tế như một phần không thể thiếu. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và sử dụng vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Nó kinh doanh một hàng hoá hết sức đặc biệt đó là tiền. Ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và an toàn vốn. Theo luật tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán” Khái niệm “hoạt động ngân hàng” được luật Ngân hàng Nhà nước định nghĩa như sau:“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thương xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng cung ứng các dịch vụ thanh toán.” 1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 1.2.1. Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong ngân hàng: Là hoạt động tạo nguồn vốn để ngân hàng thực hiện các hoạt động khác. Theo nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm cụ thể hoá việc thi hành luật các tổ chức tín dụng, NHTM được huy động vốn dưới hình thức sau: - Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam chấp thuận. - Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài. - Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước. - Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Sau khi huy động vốn ngân hàng thương mại trích ra một phần nguồn vốn không sử dụng gọi là dự trữ theo một tỷ lệ nhất định được quy định bởi Ngân hàng nhà nước. Ngoài việc mua sắm các tài sản có khác như: xây dựng trụ sở làm việc, mua sắm trang thiết bị, phương tiện vận chuyển..., ngân hàng tiến hành hai hoạt động kinh doanh thường xuyên của ngân hàng là cho vay và đầu tư. Trong đó cho vay là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất. 1.2.2.1. Cấp tín dụng Cho vay trực tiếp (loans) Ngân hàng thương mại cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới hình thức sau: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Chiết khấu (Discount) Đây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp mà ngân hàng thương mại sẽ mua lại các chứng từ có giá trị trước khi các giấy tờ đó đến hạn thanh toán với một số tiền nhỏ hơn giá trị thanh toán của chứng từ khi đến hạn. Chênh lệch giữa hai số này chính là lợi tức chiết khấu mà ngân hàng được hưởng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này bao gồm: hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu vav các chứng từ có giá khác. Cho thuê tài chính (Financial leasing) Là loại hình cho vay trung, dài hạn được thực hiện thông qua công ty cho thuê tài chính do NHTM thành lập và tổ chức hoạt động theo Nghị định của Chính phủ. Theo đó các ngân hàng thương mại đứng ra mua máy móc, thiết bị, thiết bị, tài sản, bất động sản theo yêu cầu của khách hàng và nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn sử dụng trong hợp đồng và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn cho thuê, bên thuê được quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Thấu chi Là hình thức cấp tín dụng cho phép khách hàng sử dụng vượt quá số dư trong phạm vi hạn mức tín dụng đã thoả thuận trong thời gian nhất định trên tài khoản vãng lai hay tài khoản sử dụng thẻ tín dụng của khách hàng. Kỹ thuật này giúp khách hàng sử dụng vốn linh hoạt và tiện lợi. Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh và có uy tín. Bảo lãnh NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM. Các hình thức khác: như đồng tài trợ, cho vay hợp vốn, cho vay liên kết, bao thanh toán,... 1.2.2.2. Đầu tư Trong nghiệp vụ này ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như: Góp vốn mua cổ phần các công ty, xí nghiệp, việc góp vốn mua cổ phần chỉ được thực hiện bằng nguồn vốn của ngân hàng. Đầu tư chứng khoán... 1.2.3. Hoạt động khác Thanh toán Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt như nhanh chóng, thuận tiện, chính xác, tiết kiệm thời gian ngày càng chinh phục nhiều khách hàng gửi tiền để thanh toán qua ngân hàng. Tham gia thị trường tiền tệ Tổ chức tín dụng được tham gia thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước tổ chức, bao gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Kinh doanh ngoại hối và vàng Tổ chức tín dụng được kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép Nghiệp vụ uỷ thác và đại lý NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện một số hoạt động khác như: tư vấn tài chính, bảo quản hộ tài sản… 1.3. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là những sự cố xảy ta ngoài dự kiến của ngân hàng có khả năng gây tổn thất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy rủi ro ở đây bao hàm những sự cố xảy ra ngoài dự kiến có thể gây tổn thất hoặc không gây tổn thất nhưng gây nên những bất lợi cho hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên trong nghĩa hẹp và trong quản lý điều hành thì rủi ro trong hoạt động ngân hàng được quan tâm ở khía cạnh tổn thất. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có một số rủi ro được liệt kê như sau: Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là rủi ro thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại rủi ro của ngân hàng. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Loại rủi ro này phổ biến tới mức khi xảy ra tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến người ta đã coi đó là một thành công trong quản lý. Rủi ro thị trường: Sự không chắc chắn bắt nguồn từ những thay đổi về giá cả trên thị trường như lãi suất, tỷ giá hối đoái… Rủi ro lãi suất: Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn tới tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng Rủi ro ngoại hối: Phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ kh tỷ giá hối đoái biến động. Rủi ro giá cả: Đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một ngân hàng có thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản đến cổ phiếu và trái phiếu… Rủi ro thanh khoản Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Rủi ro hoạt động Bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Các ví dụ về rủi ro hoạt động như quản trị tồi các quy trình quản lý tín dụng, cán bộ tham ô, thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp xảy ra thảm hoạ… Rủi ro khác: rủi ro về pháp lý, uy tín: Là những nguy cơ do thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc do cán bộ tín ngân hàng cố tình vi phạm nhằm chuộc lợi cá nhân, không những làm cho ngân hàng bị tổn thất về vật chất mà còn tổn thất cả về uy tín của ngân hàng. 2. RỦI RO TÍN DỤNG 2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Khái niệm rủi ro tín dụng trong nghĩa hẹp là rủi ro trong cho vay phát sinh khi ngân hàng cho khách hàng vay mà không thu được gốc và lãi đúng hạn, hoặc chỉ thu được một phần gốc và lãi, hoặc không thu được cả gốc và lãi của khoản vay đó. Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong toàn bộ dư nợ cho vay của ngân hàng và gắn liền với khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng xét cả về mặt số lượng và thời hạn nợ. Rủi ro tín dụng được thể hiện ở các nội dung: nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn được phân thành các loại: - Nợ cần chú ý (nợ nhóm 2): bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại. - Theo quốc tế nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) là khoản nợ đến hạn thanh toán nhưng khách hàng không trả được nợ, có thể tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Ở Việt Nam là các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. - Theo quốc tế nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) là nợ có khả năng tổn thất cao. Ở Việt Nam là các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. - Theo quốc tế nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) là khoản nợ không có khả năng thu hồi. Ở Việt Nam theo quy định là ác khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Trong đó nợ nhóm 3, nhóm 4, và nhóm 5 theo quy định 493/2005/QĐ-NHNN được gọi chung là nợ xấu. Quy định này cũng cho biết “Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn ghi trong hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại. 2.2. Các dấu hiệu của rủi ro tín dụng Việc xây dựng hệ thống đánh giá những dấu hiệu ban đầu, những dấu hiệu bên trong hay bên ngoài, tạo điều kiện cho người cho vay ở vị trí có thể đưa ra hành động giảm thiểu những tổn hại. Việc nhận biết những dấu hiệu này không chỉ được thực hiện tại một thời điểm nào đó mà cần phải trong cả quá trình cho vay của ngân hàng. Một hoặc nhiều dấu hiệu sau sẽ ám chỉ khó khăn tài chính của khách hàng. - Khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính - Khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng kiểm tra cơ sở SXKD. - Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút. Hàng tồn kho tăng lên quá mức, doanh số bán giảm sút cùng các khoản công nợ gia tăng, điều đó làm cho khả năng thanh toán giảm sút. - Khó khăn khi giải thích mục đích khoản vay. - Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn : Các trường hợp hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn thoả thuận đều coi như các dấu hiệu cơ bản của rủi ro. - Sự thay đổi nhà quản lý, hoặc sự thay đổi tổ chức hoạt động đều được coi như dấu hiệu đáng xem xét. - Khách hàng không kể ra được chính xác và đầy đủ thông tin tài chính, đặc biệt là những thông tin về những món nợ ghi trong danh mục - Doanh nghiệp luôn có những quyết định tức thì và luôn luôn vội vã trong hoạt động sản xuất kinh doanh, - Doanh nghiệp bị các chủ nợ khác xem là "chậm trả" (Phát sinh nợ nần dây dưa) - Sự biến mất hay xuống giá tài sản thế chấp, cầm cố,bảo lãnh. - Thái độ thù nghịch đối với các chủ nợ khác. - Doanh nghiệp mua bán trước khi thu xếp nguồn tài chính. - Những khoản chi trội thường xuyên trong tài khoản kinh doanh (Phát hành séc quá số dư). 2.3. Nguyên nhân rủi ro Các nguyên nhân khách quan Nguyên nhân bất khả kháng: Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai như bão lụt, hạn hán, hoả hoạn, động đất, sóng thần...Những thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật một nghành công nghiệp có thể làm phá sản cả cơ đồ của một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ Thông tin không cân xứng. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ Nợ và Có - chuyển vốn từ người gửi tiền sang người đi vay tiền - Toàn bộ giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ dẫn đến "Sự lựa chọn đối nghịch" và "rủi ro đạo đức". Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng rất rõ rệt tới lợi nhuận của người đi vay, do vậy ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng chi trả của doanh nghiệp. Nguyên nhân do chính sách của Nhà nước Chính phủ sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, tiền tệ, thu nhập, kinh tế đối ngoại... cùng các công cụ của hệ thống chính sách này tác động vào tổng sản phẩm quốc dân, việc làm, lạm phát, tỷ giá hối đoái... Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, gây nên rủi ro, đe doạ sự an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Môi trường pháp lý: Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh doanh bao gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có liên quan. Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nguyên nhân từ phía người vay Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Nhìn chung với các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững tình hình tài chính và khả năng chi trả của khách hàng cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Với các đối tượng khách hàng khác nhau thì nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng có thể khác nhau do đặc tính, mục đích của từng khoản vay và nguồn sử dụng để trả nợ. Tuy nhiên ngay cả những dự án, phương án sản xuất kinh doanh được đánh giá tốt cũng mang lại những rủi ro cho ngân hàng vì những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng. Nguyên nhân do bản thân ngân hàng Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận ngắn hạn nên khi cho vay đã quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Cán bộ ngân hàng không chấp hành đúng qui trình cho vay, như không thẩm định đầy đủ chính xác về khách hàng trước khi cho vay, cho vay không có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo , cho vay vượt tỷ lệ an toàn, quyết định cho vay thiếu thông tin sát thực. Thiếu sự giám sát tín dụng - một phần vì thiếu kiến thức về hoạt động của người vay. Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh, như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn rồi vay ké. Nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng Trường hợp bảo đảm bằng tài sản: Do sự biến động giá trị tài sản bảo đảm theo chiều hướng bất lợi (phụ thuộc vào đặc tính của tài sản và thị trường giao dịch các tài sản này); hoặc do ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để xử lý chúng (do người vay vi phạm hợp đồng về việc bảo quản duy trì tài sản, do đặc tính của tài sản hoặc do thiếu các cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản) Trường hợp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh): Người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho người vay tín dụng khi nguời này không có khả năng trả nợ (có thể là cố ý hoặc bản thân người bảo lãnh cũng gặp khó khăn về tài chính không có khả năng trả nợ thay) 2.4. Quản lý rủi ro tín dụng Trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro là không thể tránh khỏi. Chúng ta phải thừa nhận một tỷ lệ rủi ro nhất định như một thực tế hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là làm sao kiềm chế được tỷ lệ này ở mức có thể chấp nhận được. Vì vậy, quản lý rủi ro nói chung mà đặc biệt là quản lý rủi ro tín dụng luôn là một đề tài mà các nhà quản trị ngân hàng nghiên cứu và không ngừng hoàn thiện. Rủi ro tín dụng có thể lường trước được một phần qua việc thực hiện phân tích tín dụng và sử dụng mô hình điểm tín dụng nhằm xếp loại khách hàng làm cơ sở ra quyết định cho vay. Để có thể quản lý tốt, định kỳ 6 tháng hoặc một năm ngân hàng tiến hành phân loại nợ và đánh giá tình hình thực tế các khoản vay dựa trên một số chỉ tiêu định lượng như : Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ, Tỷ lệ nợ khó đòi/ nợ quá hạn, Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ. Đánh giá rủi ro tín dụng qua việc thực hiện phân tích tín dụng Để đánh giá mức rủi ro tín dụng trong các quyết định cho vay và đầu tư, ngân hàng cần có các phương pháp nhằm xác định ý muốn và khả năng trả nợ của khách hàng, phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Điều này phụ thuộc vào khối lượng thông tin về khách hàng mà các ngân hàng có thể thu thập được. Nói chung, quá trình phân tích tín dụng bao gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa đối với việc đánh giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, việc sưu tầm và lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai. Đo lường rủi ro tín dụng bằng các mô hình điểm tín dụng Việc đánh giá rủi ro tín dụng thông qua quá trình thực hiện phân tích tín dụng giúp cho ngân hàng xác định được mức độ rủi ro cao hay thấp của từng khách hàng xin vay, của từng khoản vay. Ngoài ra ngân hàng còn có thể sử dụng các mô hình phản ánh về mặt số lượng của rủi ro tín dụng (các mô hình điểm tín dụng) để đo lường rủi ro tín dụng. Các mô hình điểm tín dụng thường sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay để tính toán xác suất của rủi ro tín dụng hoặc để phân loại khách hàng trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định. Bằng việc lựa chọn và kết hợp các đặc điểm tài chính và kinh doanh của người vay, các tổ chức tín dụng có căn cứ chính xác hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn các đơn xin vay; Tính toán chính xác hơn mức dự trữ cần thiết cho các rủi ro tín dụng dự tính. Đánh giá mức độ rủi ro tín dụng qua một số chỉ tiêu định lượng Mức độ rủi ro tín dụng được đánh giá qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ; Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ, Tỷ lệ nợ khó đòi/nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng được chuyển thành nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ được tính theo công thức : Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn Tổng dư nợ x 100 Tỷ lệ nợ quá hạn gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao tức là càng nhiều khoản nợ chưa thanh toán đúng hạn, như vậy tức là mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng sẽ càng lớn. Ngựơc lại nếu tỷ lệ này thấp cho thấy nhiều khoản nợ được thanh toán đúng hạn, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng thấp. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản : ngân hàng sẽ phải gia tăng chi phí để tìm nguồn vốn mới chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Ngoài ra, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao sẽ khiến quỹ dự phòng tổn thất của ngân hàng tăng lên. Đồng tiền nằm trong quỹ là đồng tiền ‘chết’, đồng tiền không sinh lời. Như vậy, thực sự quỹ dự phòng rủi ro tăng lên cũng đồng nghĩa với việc mất đi phần lợi nhuận mà tiền đó có thể sẽ tạo ra. Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ Nợ khó đòi hay nợ có khả năng mất vốn được quy định phân loại vào nợ nhóm 5 như đã trình bày ở phần trên. Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ được tính theo công thức : Tỷ lệ khó đòi/tổng dư nợ = Nợ khó đòi Tổng dư nợ x 100 Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta hình dung về quy mô của các khoản vay có khả năng mất vốn. Tỷ lệ nợ khó đòi càng cao cho thấy càng nhiều khoản nợ quá hạn khó có khả năng thu hồi. Rủi ro mang đến cho ngân hàng lúc này là các khoản vay đã cấp cho khách hàng không thu được gốc và lãi nhưng vẫn phải trả gốc và lãi cho khoản tiền huy động. Như vậy đã không tăng doanh thu lại còn làm tăng chi phí ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Mổt khác khi không thu được nợ vòng quay vốn tín dụng giảm làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Tỷ lệ nợ khó đòi / Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ quá hạn được tính bởi công thức : Tỷ lệ khó đòi/nợ quá hạn = Nợ khó đòi Tổng dư nợ x 100 Tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ quá hạn chỉ ra cơ cấu của các khoản nợ khó đòi trong tổng số nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ này cao thì cho thấy phần lớn các khoản nợ quá hạn có chất lượng kém, khả năng thu hồi không cao. Chất lượng tín dụng kém làm giảm uy tín của ngân hàng. Trái lại, nếu tỷ lệ này thấp kỳ vọng thu hồi nợ từ các khoản quá hạn là khả quan. 2.5. Biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro Như đầu tiên đã nói, trong quản lý điều hành chúng ta quan tâm đến rủi ro ở khía cạnh tổn thất. Do vậy các biện pháp phòng ngừa rủi ro và các biện pháp xử lý khi rủi ro tức là những biện pháp phòng ngừa và xử lý tổn thất. 2.5.1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý : Chính sách tín dụng của một NHTM là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một NHTM, nhằm 3 mục tiêu chủ yếu là: lợi nhuận cao, sự an toàn và sự lành mạnh. Đây là cơ sở để quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn để ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín dụng phải được thay đổi theo từng thời kỳ nhằm phản ánh thực tế và phải luôn được duy trì như một "công cụ kiểm tra". Giảm thiểu rủi ro bằng cách thực hiện tốt việc phân tích tín dụng và đo lường mức độ rủi ro của mỗi khoản vay (như đã trình bày ở trên) trước khi ra các quyết định cho vay. Thực hiện tốt các hình thức bảo đảm tín dụng Việc đưa ra các yêu cầu về bảo đảm tín dụng và thực hiện bảo đảm tín dụng đầy đủ cũng giúp đạt được mục tiêu giảm thiểu rủi ro vì các bảo đảm có thể được sử dụng như một nguồn thu nợ thứ cấp trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ theo quy định. Thực hiện tốt việc giám sát tín dụng. Cán bộ tín dụng của ngân hàng cần thường xuyên thực hiện giám sát các hành vi của người vay, mục đích sử dụng tiền vay, quá trình hoạt động kinh doanh, quá trình trả nợ và giám sát các bảo đảm tín dụng nhằm tránh tình trạng người vay vi phạm các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Việc phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề, những khoản nợ có nhiều khả năng không thu hồi được là biện pháp hữu hiệu góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Phân tán rủi ro - Không nên tập trung cho vay một vài lĩnh vực , khu vực: Khi ngân hàng tập trung cho vay một vài lĩnh vực, khu vực kinh tế ngân hàng sẽ chịu ảnh hởng của các yếu tố, khuynh hướng vận động của các khu vực đó (về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội). - NHTM không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc vài khách hàng: Cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả, bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHTM. - Cho vay hợp vốn. Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh của một nhóm ngân hàng (từ 2 ngân hàng trở lên) cho một dự án, do một NHTM làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng . Việc ngân hàng cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà một ngân hàng khó có đủ khả năng cho vay, khó xác định mức rủi ro, mạo hiểm hoặc có mức độ mạo hiểm cao nhằm san sẻ rủi ro giữa các ngân hàng cùng tham gia tài trợ. - Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Điểm mấu chốt của lý thuyết đầu tư hiện đại là: lợi dụng lợi thế về quy mô hoạt động, các tổ chức tài chính có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và do đó giảm đáng kể mức rủi ro tín dụng khi sự biến động thu nhập từ mỗi khoản mục đầu tư có mối liên quan với nhau. Trên cơ sở số liệu về mức thu nhập định kỳ từ mỗi khoản mục đầu tư trong danh mục đầu tư (gồm cổ phiếu, trái phiếu và các khoản cho vay), ngân hàng có thể tính mức thu nhập bình quân và sự biến động thu nhập cho từng công cụ nợ cũng như cho cả danh mục đầu tư. 2.5.2. Biện pháp xử lý rủi ro Tuỳ thuộc vào sự nghiêm trọng của tình hình ngân hàng có thể có những cách xử lý khác nhau. Nhìn chung việc xử lý có thể được phân thành hai nhóm: các biện pháp khai thác và các biện pháp thanh lý Một là, Biện pháp khai thác Với những trường hợp không quá nghiêm trọng NH có thể sử dụng các biện pháp thuộc loại này nhằm điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Có thể sử dụng một hoặc kết hợp một số các biện pháp sau đây để cứu lấy người vay và khôi phục sức mạnh tài chính của họ: Tư vấn cho khách hàng nhằm khôi phục tình hình tài chính Nhân viên ngân hàng có thể cho lời khuyên về nhiều chủ đề như việc bán hàng, thu đòi các khoản nợ, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất,...Những trường hợp cần thiết ngân hàng có thể mời chuyên gia để cho lời khuyên và tư vấn Gia hạn nợ: Gia hạn nợ là việc thương lượng giữa khách hàng và ngân hàng về việc xin lùi thời hạn trả nợ của doanh nghiệp trong một thời gian nào đó. Về mặt tài chính, gia hạn nợ sẽ giúp cho khách hàng tránh được những sự kiện tụng, dẫn đến giảm bớt các chi phí cho hoạt động pháp lý. Mặt khác, còn giúp doanh nghiệp duy trì uy tín trong hoạt động kinh doanh của họ. Việc áp dụng biện pháp này có thể giúp cho ngân hàng thu hồi đầy đủ khoản tín dụng sau này, khi khách hàng có những cơ hội tốt để khôi phục lại các hoạt động kinh doanh để có điều kiện trả nợ. Việc gia hạn trả nợ này phải có sự thỏa thuận tự nguyện giữa người vay và các ngân hàng cho vay. Hai là Biện pháp thanh lý Nếu ngân hàng thấy rõ là việc áp dụng các biện pháp khai thác không mang lại kết quả, ngân hàng có thể áp dụng những biện pháp cứng rắn hơn để xử lý một khoản cho vay đã trở thành nợ khó đòi nhằm tự bảo vệ quyền lợi của mình. Tiến hành xử lý các tài sản bảo đảm Với các khoản cho vay có bảo đảm, ngân hàng có quyền sử dụng các bảo đảm tín dụng đó nhằm thỏa mãn yêu cầu thu đòi đầy đủ khoản tín dụng trong trường hợp người vay không thực hiện việc trả nợ theo quy định. Yêu cầu cơ quan pháp luật can thiệp Trường hợp ngân hàng không thu hồi đủ khoản tín dụng đã cấp từ việc sử dụng các bảo đảm tín dụng, hoặc đối với những khoản cho vay không có bảo đảm ngân hàng có thể đề nghị tòa án phán quyết cho phép ngân hàng quyền thu thêm từ các tài sản khác của người vay. Hoặc ngân hàng cũng có thể sử dụng quyền cao nhất của một chủ nợ không được người vay thực hiện thanh toán nợ theo đúng thỏa thuận là yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG NGÂN HÀNG CHI NHÁNH HÀ NỘI 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SÀI GÒN CÔNG._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37271.doc
Tài liệu liên quan